Ngày đó từ phủ Trưởng Công chúa đi ra, Mai Hạc Đình liền nhiễm phong hàn.
Không có chỗ để về, Hình bộ lại đặc biệt quan tâm tới diễn biến vụ án về Hoa Miêu Tân nên hắn buộc phải ở lại Đại Lý Tự. Bận rộn không có thời gian chữa trị cộng với việc không dùng thuốc, chưa tới hai ngày sau giọng nói của hắn đã khàn đặc, mà trong tay vẫn còn rất nhiều việc cần được xử lý.
Giống như muốn lấp đầy khoảng trống, không muốn để sót bất kỳ khe hở nào để rảnh rang suy nghĩ.
Trong lúc xét xử vụ án Hoa Miêu Tân, hắn không quên truy lùng tất cả những kẻ dám bịa đặt về Trưởng Công chúa không có hài tử nối dõi nên mới bị bỏ rơi, có thân quen cũng giáng chức đúng theo luật lệ của triều đình.
Thường ngày Mai Thiếu Khanh làm việc trung quy trung củ (*), hiếm khi nào lại dùng thủ đoạn độc ác như thế. Trước cửa nha môn, bao nhiêu kẻ đeo gông xiềng quỳ dưới nền đất, tiếng kêu rên thảm thiết khiến người qua đường phải ngó lại nhìn qua.
Dần dần mọi người mới hiểu, hóa ra Trưởng Công chúa và Mai phò mã hòa ly không hề giống như lời đồn.
Đồng liêu ở Đại Lý Tự đã từng tận mắt trải nghiệm nên không ai dám nói lung tung nữa. Đại Lý Tự khanh Thôi Cẩm Y giúp Mai Hạc Đình đè ép lời đồn ‘tra tấn’ đang lưu truyền bên ngoài xuống, còn quan tâm đến chuyện hắn có chỗ để ở hay không, nếu cần thì hắn ta có thể hỗ trợ.
Mai Hạc Đình uyển chuyển từ chối.
Cũng không hẳn vì ngượng ngùng, chỉ là ở Lạc Dương, ngoại trừ phủ đệ ở Vĩnh Hưng phường kia thì không còn chỗ nào để làm trạch viện nữa cả.
Bề ngoài, Mai Hạc Đình vẫn bình tĩnh như trước, hiệu suất xử lý công việc rất cao, giống như lại biến thành vị Mai Thiếu Khanh trước kia, không vì bất kỳ chuyện gì mà thay lòng đổi dạ.
Chỉ có Khương Cẩn biết mọi việc đã không còn như xưa.
Sau ngày hôm đó, hắn ta từng theo chân công tử qua phủ Công chúa vài lần nhưng lần nào cũng như lần nào, chỉ đến trước cửa là đã bị cự tuyệt.
Trưởng Công chúa đã thật sự hạ quyết tâm.
Mỗi lần thất bại trở về, Khương Cẩn đều cảm giác vẻ lo lắng trong mắt công tử càng sâu thêm một tầng.
Thế nhưng kén tằm tự trói lấy mình.
Không ai khuyên nổi.
Ánh mắt Mai Hạc Đình càng trầm tĩnh, trong lòng Khương Cẩn lại càng hoảng hốt.
Cái loại áp lực không tiếng động này giống như trong đáy mắt hắn có hai ngọn núi lớn, trên đỉnh núi là Lôi Công (*) đè nặng, trong tay Lôi Công còn có binh khí là cây gậy phong lôi, mỗi lần Lôi Công đập cây gậy xuống là ngọn núi kia lại lún sâu hơn một tấc.
Nếu có một ngày ngọn núi hoàn toàn chìm vào vực sâu… mí mắt phải của Khương Cẩn càng giật mạnh, hắn ta luôn cảm thấy sắp xảy ra chuyện lớn.
…
Khác với đầm nước đọng bên này, bên chỗ Tuyên Minh Châu có được sự thanh tịnh hiếm hoi, cuộc sống trôi qua rất thoải mái.
Không có việc gì sẽ đi tìm Dương nương tử uống một chén rượu hoặc gọi gánh hát đến nghe vài bài. Lúc nhớ ra sẽ hỏi thăm xem vết thương ở chân Trương Giáp Niên như thế nào rồi.
Có vài kẻ có mắt như mù, dùng sức không nhỏ, đá một cước mà khiến người ta rạn xương. Tuyên Minh Châu nhìn đứa nhỏ tội nghiệp kia, nếu không phải được đưa đến chỗ nàng thì chắc y đã chết từ lâu rồi.
Hạ nhân trong bếp nhận được lệnh của Trưởng Công chúa, phối hợp đủ dưỡng chất trong ba bữa ăn cho tiểu lang quân mới vào phủ, không bao lâu đã trắng trẻo, béo tốt hơn hẳn.
Không hiểu sao trong lòng Tuyên Minh Châu lại nảy sinh một loại cảm giác vui vẻ, sung sướиɠ như nuôi dưỡng thỏ trắng, ngược lại có chút mới mẻ.
Chỉ là Bảo Nha rất nhớ phụ thân, đứa nhỏ gục đầu lên đùi mẫu thân, hỏi nhỏ:
“Khi nào thì phụ thân làm xong việc? Tổ mẫu cho người tặng con một pho tượng đất, Mai Đại lại ngốc nghếch như thế, chơi không vui tí nào, con chỉ muốn phụ thân chơi với con thôi.”
Đâu phải Mai Dự ngốc nghếch hay gì, vị công tử này nổi danh là người thông minh, hoạt bát, chỉ sợ còn bỏ xa phụ thân tận mấy con phố, chẳng qua Bảo Nha chỉ thích ở gần phụ thân con bé mà thôi.
Tuyên Minh Châu có chút không đành lòng, nàng nhẹ nhàng ôm Bảo Nha vào trong lòng, trong mắt hiện lên tầng ánh sáng ấm áp:
“Phụ thân bận rộn, hôm nay nương cùng Bảo Nha chơi tượng đất nhé? Chờ phụ thân… trở về, con bắt phụ thân dẫn con đi cưỡi ngựa, bù đắp cho con sau được không.”
“Ai da, con đã trưởng thành rồi, không tiện cưỡi ngựa dạo chơi nữa.”
Bảo Nha xoa xoa lòng bàn tay nhỏ bé ngượng ngùng, trong mắt lại hiện lên chút ánh sáng nóng lòng muốn thử nghiệm, chắc hẳn trong đầu đang suy nghĩ đến việc mình nên cưỡi A Gia tuần tra hòn non bộ nào rồi.
Tuyên Minh Châu càng yêu thương con bé hơn, nàng đưa tay sờ mái tóc mềm mại của tiểu cô nương.
Do dự một hồi muốn mở miệng rồi lại thôi.
Vẫn không thể hạ quyết tâm nói cho con bé biết sự thật rằng phụ mẫu của nó đã hòa ly.
Nhưng chuyện này… sớm hay muộn, nàng nhất định phải tự mình nói cho Bảo Nha biết.
Nàng không biết mình còn có thể sống bao lâu nữa, nếu như nàng cứ cố tình giấu diếm Bảo Nha cho đến tận khi qua đời, chờ đến một ngày nào đó khi Bảo Nha biết được chân tướng, liệu mọi việc có giống như năm đó khi nàng nghe lén được cuộc đối thoại giữa phụ hoàng và mẫu hậu, đau lòng phát hiện việc phụ mẫu ân ái là lời nói dối lớn nhất từ khi sinh ra tới nay?
Nàng không muốn hài nhi của mình phải trưởng thành trong nỗi thất vọng tràn trề chỉ có mình con bé chịu đựng, sau đó lại tự ép buộc bản thân tìm kiếm một vị hôn phu, nối tiếp con đường cũ của nàng.
Nàng muốn dùng hết khả năng của mình để giúp Bảo Nha hiểu rõ, phụ mẫu con bé đã hòa ly không có nghĩa là trên đời này không có đoạn tình cảm thuần khiết chân thành.
Tương lai còn có vô số diên phi ngư dược (*), cảnh đẹp khắp núi non sông nước và cả đủ loại cảm xúc yêu hận.
Tình thế trước mắt chỉ là bước đệm rất nhỏ, không phải là kết cục trời sập đất lún.
Còn có: “Bảo Nha, mẫu thân thật sự rất yêu con.”
“Dạ!” Mai Bảo Nha nghe xong liền tiến lên, hôn ‘chụt’ một cái lên mặt mẫu thân, lớn tiếng đáp: “Nữ nhi biết mà, nữ nhi cũng yêu mẫu thân nhất nhất nhất nhất trên đời!”
Tuyên Minh Châu ôm chặt con bé, trong lòng tràn ngập niềm vui mừng.
Dỗ Bảo Nha chơi đến giữa trưa, sau khi dùng cơm xong, bà vυ' ôm tiểu thư vào viện ngủ trưa.
Tuyên Minh Châu đứng ở cạnh cửa nhìn hồi lâu, cho đến khi tiểu hài tử của nàng biến mất sau khung cửa tròn, nàng mới thu hồi tầm mắt, cho gọi Hoằng Nhi vào.
Có nô tỳ lên tiếng trả lời, mang theo một khay đựng cẩm phục mãng kim đi vào.
Trên long án là một đôi lư hương chạm khắc thiềm thừ (*) hai bên, trầm hương được đốt sẵn, Hoằng Nhi kính cẩn đặt khay lên bàn.
Triều phục của Thái tử có tên là chu minh bào, được dùng bằng loại tơ lụa thượng hạng nhất, bên hông đeo bội kiếm, đây chính là thể chế cao nhất của Đế Vương.
Nhưng vào năm Tuyên Minh Châu cập kê, phụ hoàng tặng nàng bộ kim mãng y này còn xa hoa hơn nhiều so với Thái tử.
Cẩm phục rộng rãi, tạo hình cổ vuông, cửu huyền kim lân tựa như cự mãng đang dạo chơi trên tầng mây, đưa tay khẽ vuốt, phương pháp thêu thùa độc đáo của Tả Xuân phường tạo cảm giác mới lạ trên từng đầu ngón tay.
Ánh mắt Tuyên Minh Châu mờ mịt trong giây lát, không biết là đang nói với ai: “Nhớ không, ta từng mặc bộ y phục này, theo phụ hoàng tiếp kiến vạn quốc đến triều.”
Năm đó sứ giả Tân La vừa trông thấy đã kinh ngạc không thôi, cực kỳ khâm phục trước kỹ thuật thêu thùa tinh xảo của Trung Nguyên, trong lúc xúc động đã nhất thời lỡ lời, nguyện lấy năm thành để đổi lấy kiện mãng y này.
Sứ giả Thổ Phiên lấy danh nghĩa thần phục, muốn cầu cưới Trưởng Công chúa Đại Tấn, Tấn Minh đế nghe xong chỉ cười một cái.
Vị quân chủ Bắc phạt Hung Nô và bốn quận Tây Bình chợt đứng lên, vẻ mặt ngạo mạn uy nghiêm, nói với người thần phục dưới chân:
“Đây chính là những thứ độc nhất vô nhị của Đại Tấn ta - Tấn quốc Trưởng Công chúa và kim mãng bào của Trưởng Công chúa. Mãng bào này, mười thành cũng không đổi, ái nữ của trẫm, vạn quốc chớ cầu!”
Lúc ấy, chuyện may mắn nhất của các thần tử phò tá Thái tử chính là: Trưởng Công chúa không phải là nam nhi.
Khi một người cúi đầu quá lâu, càng sống càng hèn mọn, càng ngày càng hẹp hòi, liền quên mất thanh thiên nhật nguyệt trên cao kia vốn là thứ có thể với tới dễ dàng đến vậy.
Tuyên Minh Châu khoác lên mình kim mãng y, đeo đai lưng vào, nàng đứng trước gương, lẳng lặng nhìn diện mạo thanh nhã ung dung kia.
Hoằng Nhi và Trừng Nhi nhìn Trưởng Công chúa đứng trước gương, hốc mắt lập tức nóng lên, quỳ xuống đất khấu đầu: “Trưởng Công chúa điện hạ thiên tuế, thiên tuế, thiên thiên tuế!”
“Nên làm chút chuyện đứng đắn thôi.” Ánh mắt Tuyên Minh Châu đột nhiên trở nên thông suốt: “Báo một tiếng cho Bắc nha quân đi.”
Trước đó, nàng đã gọi Mai Dự tới Minh Cao Uyển một chuyến.
Khi Mai Dự nhìn thấy mẫu thân mặc trang phục rực rỡ như thân vương, hô hấp hơi ngưng trệ, theo bản năng muốn quỳ lạy.
Bộ lễ phục này chỉ được dùng trong Thượng Dương cung, chính miệng Tấn Minh đế đã nói: “Nhìn thấy bộ y phục này cũng giống như gặp trẫm!” Hắn ta nghe nói sau khi mẫu thân xuất giá liền cất bộ y phục lại trong cung, hứa hẹn cả đời này sẽ không mặc nữa. Không ngờ hắn ta vẫn còn cơ hội được tận mắt nhìn thấy.
Cũng may Mai Dự chấn định tinh thần rất nhanh, vững vàng đứng phía dưới, chỉ là âm thanh có chút run rẩy: “Dự Nhi bái kiến mẫu thân.”
Tuyên Minh Châu nói: “Quỳ xuống.”
Mai Dự không hề do dự, ngoan ngoãn quỳ xuống. Tuyên Minh Châu nhìn xuống chàng thiếu niên chưa trưởng thành này, ánh mắt vừa mang theo sự kỳ vọng vô tận, vừa ẩn chứa rất nhiều sự luyến tiếc không nỡ.
Nàng gọi một tiếng: “Dự Nhi.”
“Vi nương muốn con lập lời thề, cả đời dốc toàn lực bảo vệ Bảo Nha, không để con bé chịu chút thương tổn hay ủy khuất nào. Con có nguyện ý không?”
Mai Dự có chút kinh ngạc ngẩng đầu, mặc dù không biết vì sao hôm nay mẫu thân lại trịnh trọng như thế nhưng hắn ta vẫn giơ ngón tay lên trời, lập lời thề.
Cuối cùng còn thêm vào một câu: “Nếu Mai Dự vi phạm lời thề, con sẽ bị trời tru đất diệt, muôn đời không được siêu sinh!”
Tuyên Minh Châu đột nhiên quay mặt đi, một giọt nước mắt rơi xuống chỗ tối nơi không có người khác nhìn thấy.
Nàng cúi người nâng trưởng tử đứng lên, vuốt ve đầu hắn ta, hồi lâu mới lên tiếng:
“Con đừng trách mẫu thân thiên vị, Bảo Nha là tâm can của mẫu thân, còn con và Hành Nhi là xương sườn trước ngực mẫu thân, không phải còn cần che chở hơn sao?”
“Dự Nhi, tương lai con sẽ là niềm hy vọng của Mai thị, ta chờ đợi con lớn lên thành tài, rồi lại luyến tiếc một mình con phải đối mặt với mưa gió, phụ thân vốn nghiêm khắc với con từ nhỏ… Thôi, không nói nữa, hài tử ngoan, đừng trách nương.”
“Mẫu thân!”
Trong lòng Mai Dự nảy sinh loại cảm giác không rõ, một lần nữa vén áo bào quỳ xuống, nói: “Quân thân tại thượng, có việc thì thần tử sẽ tận lực đến cùng, đây vốn là chuyện thiên kinh địa nghĩa (*). Lời nói của mẫu thân khiến nhi tử vô cùng lo sợ, để nhi tử có đường sống là có ý gì? Một lòng Mai Dự hiếu kính song thân, yêu thương đệ muội, đâu cần phải lập lời thề nguyện lớn như thế?”
Hắn ta ngẩng đầu, ánh mắt kiên định mà hết sức chân thành: “Hài nhi cầu mẫu thân cho con một câu trả lời chính xác, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Nếu hài nhi có thể giải quyết được vấn đề, dù có phải xông pha khói lửa cũng không từ, mẫu thân đừng tưởng rằng con còn nhỏ tuổi mà chê cười, con có thể chịu được mưa gió!”
Lời nói kiên định, chắc chắn, mơ hồ có ba phần phong thái của phụ thân.
Tuyên Minh Châu lại phảng phất trông thấy bóng dáng chàng Thám Hoa Lang năm đó sau tấm ngự bình phong, dáng vẻ ứng đối ung dung, tiêu sái như nước.
Thiếu niên ngày đó so với thiếu niên ngày hôm nay, ít hơn vài phần ngây ngô, nhiều hơn vài phần thanh cao, kiêu ngạo.
Cuối cùng đã trở thành dĩ vãng.
Nàng yên lặng một lúc lâu mới gật đầu, khom lưng kéo trưởng tử lại, nói Dự Nhi đừng sợ, nhẹ nhàng nói một câu bên tai hắn ta.
Mai Dự kinh hãi không thôi.
Tuyên Minh Châu thở dài một tiếng, đặt trách nhiệm nặng nề như vậy trên vai chàng thiếu niên mới 13 tuổi, nàng thật sự rất hổ thẹn.
“Dự Nhi.” Nàng đặt tay lên vai trưởng tử, dặn dò hắn ta: “Sau này con phải học hỏi phụ thân con nhiều hơn một chút, sau khi lập gia thất phải yêu thương thê tử của con hơn.”
Mai Dự khó khăn lắm mới tìm lại được giọng nói của mình: “Phụ thân… có biết không?”
Tuyên Minh Châu lắc đầu, cười nhạt xua tay, ý bảo nàng không thèm để ý.
Hai hàng nước mắt từ trên mặt Mai Dự chảy xuống.
Sau đó, hắn ta lại mãnh liệt lau đi dòng nước mắt, khom người quỳ xuống đất: “Hài nhi đã nhớ kỹ trong lòng!”
Sáng sớm hôm sau, sau khi Mai Dự hộ tống tổ mẫu chuẩn bị về Dương Châu, Tuyên Minh Châu mặc mãng phục, ngồi lên kiện liễu đi tới sở nha Tư Thiên Đài ngoài cửa hoàng thành.
Trước mặt là Quan Tinh Lâu cao ba trượng ba thước do Tư Thiên Đài xây dựng.
Phía sau là cột Thiên Xu cao tới 108 thước, được thu thập từ đồng thiếc khắp thiên hạ từ 50 năm trước do Tấn Minh Đế ra lệnh hoàn thành.
Tia nắng mặt trời mênh mông chiếu thẳng xuống cột Thiên Xu tạo thành một tầng ánh sáng hòa cùng với kim mãng rực rỡ trên người Chiêu Nhạc Trưởng Công chúa.
Tuyên Minh Châu tỏ rõ thái độ thù địch, híp mắt xoay tròn chiếc nhẫn trên ngón tay.
Từ xa, đô úy Lâm của cấm quân Bắc Nha cố ý dẫn bách kỵ đi tới, móng sắt đạp trên nền đất tạo nên tiếng động rền vang.
Người có thể vào được Tư Thiên Giám, không phải là văn sĩ có lai lịch thì cũng là người Hoàng gia. Ai nhìn thấy thế trận này còn tưởng rằng có thần thánh phương nào giáng thế đến diệt khẩu bọn họ ấy chứ!
Không ai biết giám đài nho nhỏ này đã đắc tội cao nhân phương nào, tất cả đều lo sợ ở lì trong đại môn.
Lâm đô úy xuống ngựa, lập tức quỳ đầu gối trái xuống, hai tay nâng lên trình ngư phù cho Trưởng Công chúa.
“Kỵ quân tam doanh của Bắc Nha, Hổ Báo và Thôi Giáp đều phụng mệnh Trưởng Công chúa điện hạ. Tất cả chỉ tuân theo mệnh lệnh của điện hạ.”
Người nó khẽ gật đầu, dưới ánh nắng rực rỡ phản chiếu trên bộ y phục, nàng nhàn nhã ngáp một cái: “Đập đi.”
Trưởng Công chúa dẫn người đập phá Tư Thiên Đài.
Từ khi Tấn triều lập quốc đến nay vốn luôn tôn sùng quân quyền thần thụ, mặc dù sự tồn tại của Tư Thiên Đài không thu hút sự chú ý của Loan Đài Phượng Các nhưng nói rộng ra thì đây cũng là nơi khởi đầu vận mệnh của một triều đại.
Nào ngờ Quan Tinh Lâu đã được xây dựng hơn trăm năm đã biến thành phế tích ngay dưới móng sắt của đám quân Bắc doanh.
“Trưởng công chúa điện hạ bớt giận, chuyện nào cũng có thể giải quyết được, chỉ riêng chuyện phạm thiên mệnh này tuyệt đối không thể được, không thể phá được!”
Trong Tư Thiên Đài chỉ toàn vang lên tiếng gào khóc thảm thiết.
“Thiên mệnh là không thể được sao?” Trưởng Công chúa khẽ mỉm cười, trong mắt không có chút bụi mù nào.
Năm đó không phải nàng cũng từng năn nỉ đám nô tài kia ư, nàng nói đó là cây đào của Hoàng Hậu nương nương, không thể chặt được, nào có ai nghe lời nàng? Nàng ngẩng đầu nhìn bầu trời xanh thẳm: “Ta chính là thiên mệnh.”
“Nghe nói Hoa Miêu mới chết? Trùng hợp ghê, chắc hắn biết nếu rơi vào tay bổn cung thì cuộc sống sau này sẽ không được tốt, sớm đi đầu thai rồi.”
“Trưởng Công chúa nói năng cho cẩn thận!”
Giữa một đám Khâm Thiên quan đang khóc lóc kêu gào, một quan viên râu dài, mặc y phục màu đỏ sẫm chợt bước ra, đây chính là phó quan Tư Thiên Giám - Phương Cao Thu.
Khuôn mặt lão ta rất có chính khí, trợn mắt gân cổ: “Tư Thiên Đài định lịch pháp, tiên đoán thiên mệnh, nhiều năm qua đã dốc lòng dốc sức vì quốc triều khí vận. Giờ Trưởng Công chúa tùy ý làm bậy như này là không để Hoàng Đế bệ hạ vào mắt, hay là không để giang sơn Tấn triều vào mắt? Nếu không thu tay, ắt sẽ rước họa vào thân!”
Đám cấm vệ quân đứng canh bên ngoài đã tụ tập vô số dân chúng vây quanh, lúc nghe được lời trần thuật khẳng khái này, bọn họ không nhịn được nhỏ giọng nghị luận bàn tán.
Có ông lão lớn tuổi ngẩng đầu, lo lắng lên tiếng: “Tinh Lâu đã đổ, ông trời nổi cơn thịnh nợ, chỉ sợ sẽ chọc giận tiên nhân trên trời.”
“Làm càn!” Phương Cao Thu quát to một tiếng, chỉ đợi Trưởng Công chúa ra lệnh, lão ta sẽ tiến lên trói kẻ không biết tốt xấu kia lại.
Tuyên Minh Châu lại lắc đầu, nàng quay sang nhìn Phương Cao Thu, chậm rãi nói: “Hiện giờ Tư Thiên Đài còn thuộc quyền quản lý của ngươi nữa sao? Bảo sao vẫn còn có người to gan như thế.”
Nàng nhẹ giọng cười, mang theo ý tứ đùa cợt: “Chỉ là bổn cung không hiểu, thu tiền hối lộ trong hậu cung, mượn thiên tượng nói hươu nói vượn, sao các ngươi không sợ tiên nhân nổi giận vậy? Cấu kết tạo bè phái, lợi dụng sát tinh* hại người khác, vậy mà các ngươi còn dám nói đến hai chữ ‘vận mệnh’? Hôm nay hang ổ bị phá hủy, các ngươi còn hiên ngang lẫm liệt đứng lên muốn đòi lại đại nghĩa, quả thật rất mới mẻ.”
Bộ y phục trang nghiêm càng tôn lên khuôn mặt phù dung tựa liễu, vòng eo nhỏ nhắn phong tình được buộc chặt, lộ ra một loại cảm giác mỹ lệ, oai hùng rất khó phân biệt.
Nàng đứng ở nơi nào là nơi đó sẽ biến thành khung cảnh hữu tình.
Ngay sau khi nàng dứt lời, mái hiên cuối cùng của Quan Tinh Lâu cũng rơi xuống đất.
Sắc mặt Phương Cao Thu trắng bệch.
Thấy đám thổ phỉ giống như quân binh này chẳng những không có ý tứ thu tay mà còn tính toán phá hủy nốt ba gian phòng trong nha môn, lão ta chỉ thầm kêu khổ, chờ mong Hoàng Đế bệ hạ nhận được tin sẽ nhanh chóng phái Vũ Lâm quân tới cứu nạn.
Dân chúng ở bên ngoài tụ tập càng nhiều hơn. Động tĩnh lớn như vậy, đề đốc Cửu Môn đã sớm chạy tới, hắn ta dừng chân trong đám người, ánh mắt thâm thúy chăm chú nhìn nữ tử đứng trên quảng đài.
Ngàn vạn tu mi cũng không bằng lúc Công chúa nổi giận.
Phủ Doãn Kinh Triệu nghe tin đã tự mình lĩnh hai đội tiêu binh, lúc nhìn thấy làn khói bay vυ't lên trời, tâm can tỳ phế của lão cũng run loạn lên một trận.
Đợi đến khi Ngôn Hoài tham gia cùng đám người, nhàn nhã xem náo nhiệt, lão đã sắp khóc đến nơi rồi.
“Ngôn thế tử, Ngôn tướng quân, Ngôn đốc tư! Ngài đã đến đây rồi thì mau vào khuyên nhủ điện hạ một chút, đến tột cùng Trưởng Công chúa gặp chuyện gì vậy, phụng lệnh của ai? Nếu còn tiếp tục thì bầu trời Tấn triều sẽ sụp đổ mất!”
Ngôn Hoài vô tội xòe tay ra: “Đại nhân cũng thấy mà, tuy rằng dưới trướng ta và ngươi đều có binh vệ nhưng tất cả chỉ là cẩm y vệ, Bắc nha quân có thực lực gì cơ chứ? Đó là cấm quân cao nhất của thượng kinh đấy.”
“Ta còn trẻ, lá gan cũng nhỏ.”
Nói xong hắn ta còn phụ họa thêm vài câu, rụt cổ sợ hãi: “Ngài to gan thì ngài cứ ngăn lại thử xem.”
“Cầu thế tử đừng lừa ta.” Đảo ngược tình thế ở Thiên Cương, bình định Nam Cương không chút nao núng mà hắn ta còn không biết xấu hổ nói bản thân nhát gan!
Nước mắt Kinh Triệu Doãn thật sự sắp rơi xuống đến nơi, đã là người lớn cả rồi mà hiện giờ, lão chỉ thiếu điều giậm chân ăn vạ ngay tại chỗ thôi.
“Ai mà chẳng biết thế tử có giao tình với vị điện hạ kia chứ, quân ‘dưới trướng’ của ngài ở đâu, không có tai mắt nào sao? Ngài không nhận được chút tin tức nào về điện hạ à?”
Ngôn Hoài mỉm cười, hếch cằm về phía đại điện chứa cột Thiên Xu lặng lẽ đứng đó: “Đại nhân nhìn thấy gì?”
Kinh Triệu Doãn nương theo ánh mắt của hắn ta nhìn lại, khóc không thành tiếng trả lời: “Ta thấy Trưởng Công chúa phá hủy Tư Thiên Đài, thấy cái đầu ông lão kia khó mà giữ được…”
Ngôn Hoài lắc đầu, mặt mày sắc bén hơi giãn ra, nói nhỏ:
“Ta nhìn thấy cả Đại Tấn, nhìn thấy kim mãng bào của Tấn Quốc Trưởng Công chúa.”
Hôm nay Mai phu nhân mới trở về Dương Châu, Mai Hạc Đình không tiện hồi phủ Công chúa nên hắn chỉ đành chờ ở ngoài Minh Đức môn để gặp mặt Mai Dự.
Tùy tùng hộ tống Mai phu nhân trở về Giang Nam là do hắn đích thân chọn lựa, bảo đảm dọc theo đường đi không có chút ngôn ngữ tạp nham, ô uế nào được lọt vào tai mẫu thân.
Hiện giờ hắn thân cô thế cô, giấy không gói được lửa, tạm thời chỉ có thể quan tâm tới thân thể mẫu thân, trước tiên đưa bà về Dương Châu an toàn đã.
Mai phu nhân cũng được coi là một người có phúc khí, nhi tử đã bị trục xuất khỏi phủ Công chúa mà người làm mẫu thân như bà vẫn chưa hay biết gì, thoải mái ở phủ Công chúa thêm một đoạn thời gian, ngày nào cũng vui vẻ chơi đùa với tôn nữ.
Thỉnh thoảng bà cũng có chút u sầu, xem ra công vụ của Hạc Nhi quá bận rộn, mấy ngày không thấy mặt hắn đâu.
Bên ngoài trường đình, trước khi Mai phu nhân lên xe còn không quên dặn dò nhi tử: “Hôm nay lúc rời phủ không gặp mặt điện hạ, chắc là cơ thể điện hạ không được khỏe, Hạc Nhi không thể chỉ lo mỗi công vụ mà cũng phải quan tâm đến thê tử của mình, bầu bạn với Trưởng Công chúa nhiều hơn mới được.”
Tâm địa Nhạc Thị vốn thật thà thiện lương, mỗi lần tới kinh thành hay rời đi đều có Trưởng Công chúa ra tận cửa nghênh đón, năm nay lúc rời phủ lại không thấy nàng lộ diện nhưng bà cũng không đào sâu suy nghĩ.
Mai Hạc Đình nghe thấy lời này, nỗi băn khoăn, lo âu trong lòng càng tăng thêm vài phần, chỉ là hắn không dám thất thố trước mặt mẫu thân, chỉ bèn thấp giọng nói:
“Nhi tử đã hiểu! Mẫu thân cứ lên xe trước đã, dọc đường nhớ cẩn thận.”
Hắn đưa mắt nhìn xe ngựa dần dần đi xa rồi mới quay đầu nhìn về phía Mai Dự bên cạnh.
Dọc đường đi, đứa nhỏ này đặc biệt trầm mặc ít nói, có chút khác thường.
“Mọi chuyện ở Quốc Tử Giám vẫn ổn chứ?” Mai Hạc Đình suy nghĩ, bình tĩnh hỏi: “Sách luận kinh sử còn có chỗ nào không hiểu sao?”
Thái độ của hắn đối với trưởng tử và ấu nữ vốn bất đồng, thay đổi hoàn toàn sang một vị phụ thân nghiêm khắc. Việc này vốn chẳng liên quan gì đến thân sinh hay không thân sinh, nam tử trong Mai thị phải tiếp nhận sự quản giáo khắt khe là thế, từ nhỏ hắn cũng từng như vậy.
Mai Dự nói ‘không’ nhưng trong lòng rất hy vọng phụ thân hỏi thêm một tiếng - còn chuyện trong phủ thì sao?
Cho dù mẫu thân muốn hắn ta giấu chuyện kia ở trong lòng, ai cũng không thể nói, thế nhưng hắn ta vẫn hy vọng phụ thân có thể quan tâm hỏi thêm một câu, dù chỉ là một câu cũng được.
Mai Hạc Đình thấy Mai Dự ỉu xìu không có hứng thú nói chuyện, trong lòng âm thầm suy đoán chắc thiếu niên ở độ tuổi này mới nảy sinh tâm tính phản nghịch, không tiện giáo huấn nên không nói nữa.
Mai Hạc Đình và Mai Dự lập tức lên xe ngựa trở về thành, đến phường Vĩnh Đạt mới tách ra, một mình hắn trở về Đại Lý Tự.
Vừa trở về liền nghe nói chuyện Tư Thiên Đài đã bị phá hủy.
Mai Hạc Đình đột nhiên ngước mắt lên, nhìn chằm chằm Khương Cẩn: “Lặp lại lần nữa.”
“Công tử à, Trưởng Công chúa mang quân Bắc Nha phá hủy Quan Tinh lâu, phá hủy Tư Thiên Đài rồi!” Sắc mặt Khương Cẩn tràn ngập sự hoảng sợ: “Ngài có chủ ý gì không, phải làm sao mới được đây?”
Mai Hạc Đình mím chặt đôi môi mỏng, đột nhiên nhớ tới tiểu triện đào hoa dưới lòng bàn tay của Hoa Miêu, rồi hắn chợt nhớ tới dưới tàng cây hoa đào sụp đổ trong mộng của nàng và cả thân ảnh hiu quạnh bất lực kia.
Hắn biết nàng gây náo loạn ở Tư Thiên Đài là vì cái gì.
Nhưng không ngờ nàng lại dùng phương thức chấn động này.
Hoàng thất tự ý điều lệnh cấm quân, phá hủy nha bộ vốn không phải chuyện đùa.
Bàn tay Mai Hạc Đình đang run rẩy, bỗng dưng ống tay áo quét mạnh lên mặt bàn, công văn vốn bày biện ngay ngắn xưa nay bị hắn ném xuống đầy đất.
Chỉ để lại một cây bút lông, nghiên mực và một tờ giấy: “Mài mực cho ta.”
Khương Cẩn vô cùng khó hiểu: “Công tử, đã đến nước này rồi…”
“Mài mực.”
Hắn vén ống tay áo lên cao, ổn định cổ tay run rẩy, cũng ổn định tâm tình trong lòng, trong mắt là một mảnh tĩnh mịch bình lặng.
Đợi đến khi tin tức truyền tới ngự tiền, ngoài kia đã náo loạn như lúc Nhất Phật xuất thế, Nhị Phật thăng thiên.
Hoàng Đế nghe tin ngã ngồi xuống ngự tọa, hiếm khi nào hoảng loạn như thế, gặng hỏi Hoàng Phúc Toàn: “Chuyện lớn bực này mà sao trước đó Hoàng cô cô không đề cập qua cho trẫm hay?”
(*) Trung quy trung củ: là một thành ngữ của Trung Quốc, ý chỉ người làm việc phù hợp quy củ, không có gì đặc biệt, thậm chí còn tương đối cứng nhắc, câu nệ, mang hàm nghĩa xấu. (Nguồn: rungthanthoai)
(*) Lôi Công: là một nhân vật trong thần thoại Trung Quốc với vai trò Thần Sét. (Nguồn: wikipedia)
(*) Diên phi ngư dược: là hai ý trong hai câu thơ “Diên phi lệ thiên/Ngư dược vu uyên” (có nghĩa diều hâu nhẹ nhàng bay vυ't lên trời, con cá thoải mái nhảy nhót dưới vực sâu) trong bài thơ Hạn lộc 3 của Khổng Tử. (Nguồn: thivien)
(*) Thiềm thừ: là linh vật phong thủy có ý nghĩa chiêu tài và trừ tà, có hình dạng một con cóc ba chân, ngậm một đồng tiền trong miệng để thu hút tài lộc và mang lại may mắn. (Nguồn: thedeli)
(*) Thiên kinh địa nghĩa: có tính bất di bất dịch, là những nguyên tắc được coi là khuôn phép. (Nguồn: vietdic)
(*) Sát tinh: là những chòm sao có thể xâm phạm và gây tổn hại đến cát tinh (sao tốt), phá hoại vận mệnh. (Nguồn: choiphongthuy)