Những vạt nắng hanh hao đầu tiên tản trên bầu trời ẩm ướt của Thái Thục suốt những ngày mưa tầm tã. Từng sợi nắng luồn lên mái lọng chằng chịt dây tua rua đang rủ xuống, ánh lên một sắc bàng bạc nhợt nhạt, rơi xuống bàn tay gầy xanh đang miết lên thành xe ngựa của Tống Nhã Uyên. Y chống một tay, nâng cằm mình lên, lắng nghe tiếng chim rả rích, tiếng bánh xe lọc cọc nghiến vụn đất đá, tiếng gọi nhau í ới của thương phu và những tiếng thì thầm to nhỏ của đám dân nghèo.
Y khép hờ mi mắt, vươn mình ra ngoài cửa sổ, để nắng phai màu đượm lên da y từng làn nước mát phưng phức hương cỏ. Y cứ ngồi như thế, mảnh rèm cửa chưa bao giờ rủ xuống, phu xe vẫn miệt mài đánh xe, chầm chậm đi dưới con phố lác đác người.
Nữ phụ ngồi bên lề đường, tay bưng một cái rổ xáo, mặt thị xanh ngoét xanh ngoeo, mà mắt thị vẫn sáng loa lóa. Thị nói, cái thứ giọng Thái Thục ngây ngây như kẻ say: “Mấy ngày nay ký sổ gạo xong, còn được tra tên mình trên bảng công khai phát lương mỗi ngày nữa chứ. Ta có biết chữ đâu, nhìn thấy chữ như mấy con giun đang bò ấy, nhưng mà cũng thấy vui đáo để. Thấy cái tên mình trên bảng cũng hay hay.”
“Năm ngoái ta đi nhận phát gạo mà chen lấn xô đẩy, còn bị đám sai nha đánh cho một trận nữa chứ, về nhà còn nằm ốm liệt giường mất mấy ngày. Trong nhà đã bốn miệng ăn, lại chỉ mình ta gánh vác, ta ốm một trận, cả nhà liền đói rạc ra.” Nữ phụ mặc chiếc áo màu chàm, ngồi tệt dưới đất nhìn từng đoàn xe lương đi qua: “Đấy, từ ngày Vạn Chu phát chẩn, cấm có thấy ngày nào đói. Ngươi nói xem, Vạn Chu chẳng là phật sống thì là gì.”
Thương phu bán bánh bao bên cạnh thấy rôm rả cũng chen vào nói vài ba câu tán róc: “Ông trời thương chúng ta, nên mới sinh ra những người như người của Vạn Chu đấy. Cứ để đám quan liêu phát chẩn, có mà dân chúng đói rã họng, chết rạp như cỏ, bọn chúng cũng chẳng để ý đâu.”
“Ngươi nói phải. Đấy ngươi xem, người giữ sổ của Ngân Phường vừa chết cái, Vạn Chu vẫn cứ ngày ngày phát gạo đều đều cho dân. Hoàng đế thì có biết đấy là đâu đâu.”
“Ta nói chứ. Năm nay may mà lũ không lớn, chứ cứ như năm ngoái lũ ngập tận vào vùng trũng phía Nam thì có mà chết cả lũ. Rồi cứ để người của bọn quan nha phát gạo như trước, thì người đã chết lại càng chết nhiều hơn.”
Nữ phụ buông rổ rau xuống, quay lên nhìn thương phu bán bánh bao bên cạnh, thở dài một hơi: “Tam nương bên cạnh nhà ta, năm ngoái con trai mới lên năm, cũng khổ nỗi vào năm đói. Trong nhà chẳng có gì, đến một cọng rau cũng không có, nói gì đến gạo. Ngân Phường kêu phát chẩn, Tam nương cầm phiếu đến nhận gạo, lại bảo ghi sai tên, không chịu sửa. Nàng ta đánh trống kêu oan, bị nhốt trong ngục năm ngày liền, đến lúc về nhà thì thằng con đã chết đói rồi còn đâu. Đến giờ ta nghĩ lại vẫn còn thấy thương tâm đây.”
Thương phu bánh bao không nói gì, chỉ lẳng lặng nhìn vòm trời đã cao và rộng thêm, mây đen đã tản đem thứ sắc xanh nhàn nhạt hiện ra, và kéo thêm ánh nắng sáng lòa soi lên đầu đám dân đen. Bọn họ lại ngước về cái bảng phát chẩn viết hai chữ Vạn Chu, ánh mắt đều đã ngấn lệ, không nói thành lời.
Tống Nhã Uyên khẽ đổi tay, y cúi xuống nhìn chiếc bánh xe ngựa vẫn quay quay đều, nghiến lên đất đá, lục cục lục cục. Y vươn tay ra đỡ lấy chút nắng, bàn tay xanh xao khẽ mở ra lại nắm vào. Y khẽ cười, ánh mắt đặt lên lớp lớp người người phía trước, lại dừng lại trên tấm lưng cao lớn đằng xa, đứng giữa đám quân lính nghiêm trang lại tựa như một chiếc cây cổ thụ tỏa bóng.
Tống Nhã Uyên khẽ phất tay, phu xe kéo dây cương. Ngựa dừng lại. Y chống tay lên thanh gỗ cửa sổ, đặt ánh mắt nhìn lên bóng lưng của Lăng Tiêu Dã. Hắn không nhìn thấy y, chỉ có y ngồi trong xe ngựa lén lút vọng ánh mắt về phía hắn. Trộm nhìn mái tóc hắn phất phơ trong gió, trộm nhìn sống mũi cao cao in chênh chếch ánh nắng nhàn nhạt, trộm nhìn khóe miệng đang khẽ rủ, và bờ vai rộng lớn đỡ lấy từng cánh hoa quế nhẹ rơi xuống.
Hắn đứng giữa đám đông, nhưng chẳng hề trộn lẫn, tấm lưng cứ thẳng tắp mãi thôi. Tống Nhã Uyên khẽ cười. Y bỗng thấy người phía trước thật cao lớn, thật vững chãi, thật đẹp, cũng thật xa. Y tựa đầu lên vách xe, ánh mắt vẫn đặt lên hắn và bàn tay khẽ đưa lên chạm vào gáy mình. Chiếc gáy cứ nóng hổi, cứ hồng lên.
Y thở một hơi dài, buông tấm mành xuống, khẽ nhắm mắt.
“Đi thôi.” Y nói, giọng thật nhẹ nhàng.
Phu xe kéo cương ngựa, con ngựa đạp móng mấy cái, rồi chầm chậm bước đi.
Lăng Tiêu Dã thấy nhột nhột trên vai, liền vươn tay phủi mấy bông hoa quế. Hắn ngước nhìn dưới chân mình, rồi lại cúi xuống nhặt lấy một bông. Hắn quay ra, chỉ thấy bóng xe ngựa phía xa đã thấp thoáng trong dòng người lác đác. Lăng Tiêu Dã nhét bông hoa quế vào l*иg ngực, đưa đao cho Mộ Hải, trầm giọng hỏi: “Dân chúng phản ứng thế nào?”
“Vạn Chu giờ thành phật sống rồi.” Sơ Kiến xen vào, trên tay nó lỉnh kỉnh một chồng sách to sù sụ. Nó đặt lên xe ngựa, rồi cười cười chạy về phía Lăng Tiêu Dã, lanh lảnh nói: “Công tử không biết đâu nha. Giờ ra đường một thước đất là mười người khen Vạn Chu rồi đấy.”
Mộ Hải bưng nốt chiếc hòm gụ đặt lên xe, rồi quay sang gõ lên đầu Sơ Kiến một cái.
“Sao huynh đánh ta?” Nó ôm đầu, hai má trề xuống, lườm lườm Mộ Hải.
“Phiền phức nên đánh đấy.”
“Huynh học Đinh Lân chứ gì.”
Mộ Hải bước qua nó, không thèm đáp, để lại gương mặt ê chề của Sơ Kiến cùng hai má phùng lên. Nó quay lưng lại, nhảy phóc lên xe ngựa, khi đi còn cố giẫm chân bình bịch.
Mộ Hải quay ra nhìn nó, thản nhiên nói: “Nó bị chiều hư rồi đấy.”
Lăng Tiêu Dã chỉ cười, ngón tay miết miết lên chiếc nhẫn ban chỉ, giọng nghiêm lại: “Thời gian tới triều đình sẽ cử đoàn khâm sai xuống Thái Thục. Phía Đinh Lân tiến độ thế nào?”
“Đắp đê, dựng nhà cho dân cũng xong hết rồi.” Mộ Hải quay ra vén cành cây hoa quế đang chắn trước mặt, mới nói tiếp: “Nhưng gần hai tháng nay các huynh đệ trong quân làm việc vất vả, chưa được nghỉ ngơi, bây giờ lại phải luân phiên canh gác sổ kho Ngân Phường và kho lương Thịnh Phố. Một số người đang tỏ ra bất mãn rồi.”
“Bọn họ nói thế nào?” Lăng Tiêu Dã vươn tay che ánh nắng trước mặt.
“Cũng không nói gì nhiều, chỉ là trong lúc làm việc, hay nghỉ ngơi thì bàn tán với nhau như vậy. Nhưng nếu cứ để lâu thì sẽ khiến lòng quân bạo động, lúc ấy không tránh được hậu họa.”
Lăng Tiêu Dã cúi xuống, nhìn chằm chằm chiếc nhẫn ban chỉ đã mòn đi rồi. Gần hai tháng nay, đến chính hắn cũng không được nghỉ ngơi. Ban ngày đều phải điều quân đi đắp đê, hắn cũng lội xuống bới cống, vác gạch, kéo xe, cũng lội bùn gánh đất như bọn họ. Vạn Chu chưa chuyển lương, Thường Ngộ Xuân mỗi lần chia lương để nấu cho từng bữa đều phải đau đầu, no bữa này nhưng lại sợ bữa sau đói. Quân không ăn no, không làm được việc. Bọn họ ăn rau, hắn cũng ăn rau. Vật tư không đủ để dựng trại tạm cư cho dân, quân ngủ chiếu cứng chăn mỏng, hắn ban đêm cũng tựa vách chịu gió. Lều chỉ huy trống không ai nằm, hắn sợ nằm xuống, một mắt nhìn lại mười miệng ra.
Hắn đã hiểu, biết cầm kiếm thôi chưa đủ, hắn phải biết cách lo được cho miệng ăn của mình, và miệng ăn của cả quân doanh. Hắn không thể để quân đói, cũng không được phép để cho bản thân đói nữa.
Lăng Tiêu Dã trầm ngâm chốc lát, rồi khẽ nói: “Ngươi sắp xếp lại thời gian làm việc cho họ, giãn cách nhưng cũng không được để khoảng trống quá lâu, tránh để bọn họ rảnh rỗi sinh nông nổi. Lương mỗi ngày kêu Thường Ngộ Xuân chi thêm một đấu, ban đêm canh báo nghỉ sớm hơn nửa canh. Vẫn phải để bọn họ làm việc, chỉ là công việc và thời gian nhẹ nhàng hơn trước thôi. Ngươi điều thêm người ở trại tạm cư đến sổ kho canh gác, hai canh thay ca một lần, không để nửa ngày một ca như trước nữa. Giờ Cấm quân phải đảm bảo an toàn cho cả kho và sổ của Ngân Phường và Thịnh Phố. Ngươi kêu Sơ Kiến ghi chép lại toàn bộ thông tin của những người đảm nhận việc phân phát ở kho lương, người giữ sổ trong sổ kho, tránh để kẻ gian đột nhập. Người ra kẻ vào cũng phải lục soát kỹ.”
“Vâng, ta hiểu rồi.” Mộ Hải quay sang nhìn cây hoa quế: “Công tử, cây hoa quế này có đem tặng cho Điện hạ nữa không?”
Lăng Tiêu Dã nhìn cây hoa quế đã cao hơn đầu hắn, hoa trắng từng chùm e thẹn nép trong cành xum xuê lá xanh thẫm. Hắn đưa tay vuốt ve, chỉ còn nhớ mái tóc của y bay bay trong gió khẽ chạm lên thớ vải trên áo hắn. Hắn cười một tiếng thật nhẹ, khẽ bảo: “Không tặng nữa. Người ta không nhận đâu.”
—
Tống Nhã Uyên xuống xe ngựa, vừa bước vào đã nhìn thấy hai gương mặt lấm lét của Thu Uy Trì và La Đổng Minh ngồi ngây người ra. Y đi đến, đôi chân rảo bước, ánh mắt từ từ rủ xuống, rồi lại rân rấn. Y vươn tay áo, chấm khóe mắt khô khốc. Tống Nhã Uyên bước vào đến sảnh chính, liền lảo đảo.
Y hô lên thật lớn: “Ối giời, ta nghe tin mà không tin vào tai mình. Sao chuyện này có thể xảy ra được cơ chứ? Hai vị đại nhân nói ta nghe xem, chuyện gì đang xảy ra?”
La Đổng Minh đang buồn, nên cũng quên cả chạy ra hành lễ với Tống Nhã Uyên. Thu Uy Trì liếc Tống Nhã Uyên một cái, rồi đứng dậy.
“Điện hạ ghé chơi, chúng thần tiếp đãi không chu đáo rồi. Mong Điện hạ trách phạt.”
“Cái này giờ không quan trọng.” Y ngồi xuống, bàn tay xoa xoa lên thái dương mình: “Ta mới nhận tin ở Trường Đô xuống đây. Nghe nói Cảnh đại nhân tố cáo Công Bộ làm ăn thất trách, tham ô bòn rút của dân, ta nghe xong mà cảm thấy nhân sinh của ta đã đảo lộn. Ta ở Thái Thục gần hai tháng nay rồi, nào có thấy Công Bộ bòn rút của dân đồng nào. Ta nói có đúng không?” Y ngừng lại, nhìn vẻ mặt xám xịt của Thu Uy Trì và La Đổng Minh, không ai nói gì.
Y lại nói: “Đấy chứ, ta ra đường là thấy Công Bộ ghi bảng lương phát sổ gạo rõ ràng, thấy dân chúng bàn tán sôi nổi, ai nấy cũng đều mặt mày hớn hở, lại nghe người ta nói Công Bộ còn cho dân ký tên khi phát sổ gạo nữa. Những điều này rành rành ta đều nhìn thấy, sao Công Bộ có thể tham nhũng của dân như lời Cảnh đại nhân tố cáo được chứ?”
La Đổng Minh thở dài một ngơi, quay sang nói với y: “Điện hạ có điều không biết. Những việc Điện hạ thấy đều là Vạn Chu làm hết. Việc sổ sách bị khơi ra, chúng ta cũng lực bất tòng tâm. Ta xưa nay cũng chỉ là làm theo những gì bên trên điều xuống thôi, cũng chẳng hay biết gì cả. Ta cũng nào có biết tên Tam Thứ đó trước khi chết đã đem sổ sách dâng cho Ngự sử đài đâu chứ.”
Thu Uy Trì liền quay ngoắt ra, mắng: “La Đổng Minh, ngươi là có ý gì. Giờ người phủ hết mọi thứ, cái gì mà bên trên điều xuống chỉ là nghe theo. Ngươi cũng giỏi nghe theo quá cơ.”
“Hai vị đại nhân bình tĩnh, có gì cứ từ từ nói.” Tống Nhã Uyên nhấp một ngụm trà, rồi thong thả tiếp lời: “Chuyện về Vạn Chu ta cũng nghe nói qua. Ta nói thật với hai vị đại nhân, tuy ta chẳng hiểu gì về chuyện triều chính, xưa nay cùng lắm là chạy đến Hộ Bộ để đòi tiền mua rượu, cũng chẳng giao lưu với ai cả. Nhưng ta hiểu một điều thế này này, các vị, cây cao bóng cả chưa chắc đã che mát cho các vị cả đời. Ta thấy đến lúc các vị nên tìm gốc cây khác mà dựa, bóng cây khác mà ngồi.”
Thu Uy Trì liền mắt đỏ đôm đốp, quay sang nhìn Tống Nhã Uyên chằm chằm. Công Bộ xưa nay là gốc rễ củng cố quyền lực cho dòng họ Thu. Thế nào là đổi cây cao bóng cả khác, hắn đã tự là một cây cao bóng cả rồi. Thu Uy Trì gằn giọng nói: “Điện hạ, Công Bộ chúng ta xưa nay làm ăn minh bạch. Hoàng thượng lại chỉ dựa vào một tấu sớ mà kết tội cả Công Bộ, chẳng phải là quá hoang đường sao? Truy xét Công Bộ khác gì bới tung cả một triều cương đang đi vào trật tự cơ chứ.”
“Thu đại nhân.” Y nghiêng đầu, khẽ cười: “Đại nhân cũng biết rồi đấy, sắp tới triều đình sẽ cử đoàn khâm sai đến đây tra xét. Công Bộ bị quy tội cũng chỉ là chuyện sớm muốn, có điều ta chỉ lo cho con cừu Vạn Chu, khi không cũng bị sói ăn thịt. Vạn Chu cũng là vì muốn giúp Công Bộ, nếu mà lần này đoàn khâm sai đến muốn điều tra cả Vạn Chu, ta sợ rằng Vạn Chu sẽ không ngồi không đâu. Ta là một người ngoài cuộc, nên thấy rất rõ đấy nhé.”
La Đổng Minh suy sụp, quay ra nhìn Thu Uy Trì mếu máo nói: “Đại nhân, giờ chúng ta phải làm gì bây giờ?”
Thu Uy Trì chưa kịp nói, Tống Nhã Uyên đã tiếp lời: “Giờ Công Bộ bị tra xét, hai vị cũng đâu tránh được liên lụy, có khi còn bị tống vào ngục để tra khảo ấy chứ.”
Gương mặt của Thu Uy Trì và La Đổng Minh lại càng hoang mang. Y nhíu mày lại, cất giọng đầy lo lắng như thể đang bàn chuyện sinh tử: “Ta nói thật lòng nhé, chuyện này ta lo lắm. Lo cho Công Bộ thì ít, mà lo cho hai vị đại nhân thì nhiều. Chúng ta cũng là chỗ quen biết, cũng xem như tri kỷ tâm giao. Giờ hai vị lâm vào cảnh này, lòng ta thương tâm vô cùng.”
Y cúi xuống, kéo vạt áo, chấm nước mắt không rơi, rồi ngước lên nhìn một kẻ đầu đã bắt đầu cúi, một kẻ khóe môi đã giật giật. Y nói: “Các vị xem, giờ đoàn khâm sai tới, việc gì cũng sẽ bị bới ra. Mà khâm sai ấy à, đâu phải chỉ hỏi mỗi chuyện giấy tờ thôi đâu. Họ còn hỏi đến cả miệng người nữa đấy, mà miệng của ai, miệng của dân chúng chứ của ai. Giấy tờ có thể xào nấu, chứ miệng dân chúng thì ai dám đè ra để bóp méo cơ chứ.”
Y thở dài một hơi, lại tiếp tục: “Ta biết hai vị đều là người cẩn trọng, trung hậu. Chỉ là… có lẽ bị kẻ khác dắt mũi, ai mà có ngờ tên Tam Thứ đó lại lén tuồn sổ sách ra ngoài chứ, có đúng không? Ai mà ngờ Vạn Chu lại vì muốn giữ danh cho Công Bộ mà đi điều chỉnh sổ sách, sửa sổ thu chi để đỡ đòn cho cả Công Bộ đâu chứ? Đó, thế nên ta mới nói, hai vị nên tính sớm. Chứ lỡ khâm sai hỏi, mà lại có người khai trước rồi, thì ai là kẻ đầu tiên bị quy trách nhiệm, các vị biết rõ hơn ta mà.”
La Đổng Minh run run, miệng lắp bắp: “Điện hạ… ý người là…”
Tống Nhã Uyên chép miệng một cái, làm bộ như lỡ lời: “Không, không, ta đâu có ý gì đâu. Ta chỉ nghĩ, nếu khâm sai hỏi tới, mà có người chịu khai trước, chẳng hạn như ai đó bị bắt trước, thì người ấy sẽ có cơ hội giữ được mạng hơn ấy. Còn nếu ai im lặng tới phút chót thì chắc chắn sẽ bị quy là chủ mưu đó nha.”
Hai kẻ ngồi đối diện y, chỉ biết ngồi đần mặt ra. Tống Nhã Uyên lại chớp chớp mắt, lời ra tràn đầy thiện ý: “Còn Vạn Chu ấy à, tuy là người tốt, nhưng giờ bị đẩy ra giữa gió, ai cũng sẽ muốn dồn trách nhiệm sang hắn. Nếu hắn bị hỏi đến mức không thể chịu nổi nữa, mà nói ra điều gì đó, có phải là sẽ liên lụy rất nhiều người không cơ chứ. Nên ta mới thấy, biết đâu hai vị nói trước vài câu, chẳng những tự bảo toàn, mà con giúp giữ được thể diện cho Công Bộ, tránh cho Vạn Chu thêm một vết thương chí tử. Có khi lại được ban khen vì thành thật khai báo, lại còn được giữ chức ấy chứ. Phụ hoàng ta xưa này rộng lòng lắm đấy nha.”
La Đổng Minh quay ra nhìn Thu Uy Trì, ánh mắt dao động. Hắn run tay, nói khẽ: “Đại nhân… hay là…”
Thu Uy Trì chưa đáp, Tống Nhã Uyên đã nhẹ giọng nói thêm: “Ta là kẻ ngoài cuộc, mà còn thấy rõ được thế cờ. Triều đình này chẳng thiếu người làm việc, nhưng thiếu nhất là người nói thật đấy. Ai nói thật, thì còn chỗ đứng. Thôi, hai vị suy nghĩ cho kỹ. Ta nghe tin nên cũng đến thăm hai vị thôi, chẳng có ý khuyên răn gì đâu.”
Y mỉm cười, rồi bước ra ngoài. Ánh nắng vênh vao đổ lên bả vai y, rơi trên nụ cười càng ngày càng đậm dần của Tống Nhã Uyên. Y bước lên xe ngựa, đã thấy Tɧẩʍ ɖυật Vân đang ngồi nhai hạt óc chó, A Nhĩ cuộn tròn một ổ, ngủ li bì. Từ lúc bị bắt nhốt vô ngục, nó hay sợ hãi, lúc nào cũng lim dim, chỉ có ngủ suốt thôi. Tống Nhã Uyên cứ sợ nó bị thế nào, nên ngày ngày mời đại phu, mà bắt mạch xong rồi, cũng chẳng khám ra được bệnh gì. Y chỉ biết nhìn Tɧẩʍ ɖυật Vân, thở dài một cái, rồi tiễn đại phu đi.
Tống Nhã Uyên vươn tay xoa nhẹ tóc nó, khẽ bảo như lời thì thầm từ dĩ vãng xa xưa: “Chắc nó phải sợ lắm.”
Tống Nhã Uyên mỉm cười. Chẳng biết năm tám tuổi, có ai vuốt tóc y rồi nói với y rằng: chắc con phải sợ lắm, không nữa. Y chẳng còn nhớ nổi nó đau như thế nào rồi.
Tɧẩʍ ɖυật Vân thả mấy quả óc chó xuống, thở dài một hơi: “Cũng tại ta hết. Không nên để nó vào sổ kho làm gì.”
Tống Nhã Uyên quay ra, khẽ phất tay một cái, xe ngựa lọc cọc chạy đi. Y kéo chiếc chăn mỏng, đắp lên chân mình, rồi tựa vào vách xe. Bàn tay lại vén tấm mành lên, nhìn bầu trời trên cao tầng tầng mây vảy cá, đôi cánh chim chao đảo liệng nghiêng nghiêng. Khoảng không ngoài kia bao la như vậy, nhưng y không nhìn thấy tấm lưng của Lăng Tiêu Dã đâu nữa.
Tɧẩʍ ɖυật Vân nhìn nửa góc mặt của Tống Nhã Uyên chìm trong nắng, mái tóc phất phơ phảng theo gió, cuốn vào những khấc ngón tay xanh xao của y.
“Người đã nói chuyện với bọn họ rồi?” Hắn nói, giọng thật nhẹ như sợ đánh động đến không gian của y vậy.
“Bọn họ lung lay thì chính là quân cờ mở miệng để bảo vệ Vạn Chu không bị dồn vào đường cùng. Vãn Huyền, sắp rồi, chúng ta sắp có được Ngân Phường và Thịnh Phố rồi.”
Tɧẩʍ ɖυật Vân gật đầu, nhưng y không nhìn thấy, y đặt mắt mãi lên bầu trời cao vời vợi, rồi khẽ vươn tay mình ra ngoài, để gió cuốn lấy từng đốt ngón tay y. Y nói, giọng thật nhẹ như chiếc lông vũ bay trong trời thu: “Bao nhiêu năm nay ta gầy dựng Vạn Chu, từng mất tất cả, rồi lại có được. Hắn nói với ta, sao ta phải liều mạng như vậy. Nhưng hắn căn bản đâu có hiểu ta, ta không liều mạng sao có thể khiến những người đã liều mạng vì ta an yên mà ra đi được chứ. Bao nhiêu người đã vì Vạn Chu mà phơi thân trên sa mạc rồi, bao nhiêu đoàn lữ hành của Vạn Chu đi qua sa mạc Trắng đều đã không trở lại.”
Y buông thõng bàn tay mình xuống, đầu nghiêng nghiêng chỉ biết lấy thanh chắn gỗ trên bậu cửa làm điểm tựa. Y nhìn vào đôi tay của mình: “Tay ta đã nhuốm đầy máu tanh. Họ gọi ta là gia đình, nhưng ta chỉ biết nhắm mắt nhìn họ vì ta mà đâm đầu vào chỗ chết. Ta không muốn sa mạc nữa. Ta không muốn một người nào của Vạn Chu phải chết trên vùng đất ấy nữa. Chúng ta phải có được Ngân Phường và Thịnh Phố. Chỉ có như vậy, Vạn Chu mới có thể vươn về Quách Nam, Thục Đông và Hoằng Tây. Chúng ta sẽ không cần phải đi qua sa mạc để buôn bán nữa, sẽ không một ai phải chết nữa.”
Giọng y cứ nhỏ dần, tan vào góc nắng cuối trời. Tɧẩʍ ɖυật Vân cũng tựa đầu lên song cửa sổ, ánh mắt nhìn ra ngoài. Tiếng xe ngựa cứ lọc cọc, còn trí nghĩ của họ cứ vất vưởng những nơi xa xăm.
Tɧẩʍ ɖυật Vân vươn tay để nắng khẽ chạm lên tay hắn, hắn hỏi: “Chúng ta đi đâu đây?”
“Về nhà.” Tiếng y nhẹ nhàng lăn trên những vạt nắng mới, thơm ngậy mùi hoa cỏ tốt tươi.