Thời Hạn 1001 Đêm Của Tử Thần

Chương 7

Nhật Ký của Thiên Thần Saint Agnes: Manfred đã ngồi trên đỉnh tháp của Lâu đài Litton suốt hơn ba trăm đêm. Giờ đây, trông hắn có phần ngớ ngẩn, không còn xảo quyệt và mưu mô như trước. Có lẽ vì thời hạn một nghìn lẻ một đêm sắp đến hồi kết.

Nếu hắn cứ mãi ngây ngô thế này thì cũng không tệ, ít nhất ta thích điều đó. Khi hắn ngốc nghếch, sẽ chẳng còn tâm trí đâu mà bắt nạt ta nữa.



Xuân đến, hương hoa hồng tràn ngập khu vườn. Hạ qua, những cơn mưa lách tách trên mặt hồ. Thu sang, lá vàng trải đầy bậc thềm. Đông tới, tuyết phủ trắng mái ngói cao.

Câu chuyện của Olivia thay đổi theo thời gian: từ cá bốn màu thành Alibaba, rồi thành Sinbad, thành Aladdin…

Thời gian lặng lẽ trôi qua. Những vết khắc trên tường cũng ngày một ít đi. Áo choàng đen của ta như lá cờ trên đỉnh tháp Lâu đài Litton, quanh năm phấp phới trong gió. Còn lưỡi hái của ta, đã hơn một năm qua chẳng hề được dùng đến. Nếu tình trạng này cứ tiếp tục, có lẽ ta sẽ trở thành tử thần đầu tiên bị Thượng Đế cho nghỉ việc.

Có đôi lúc, ta thật sự muốn nhờ Agnes gửi một lá thư đến Thượng Đế, cầu xin Ngài cho ta trở về phương Đông xa xôi, tiếp tục những tháng ngày đọc sách triết học của mình. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, ta lại thôi. Các tiểu thư phương Đông quá nhát gan. Nếu nhìn thấy ta, họ không chỉ không dám trò chuyện, mà còn ngất xỉu với dáng điệu uyển chuyển như cành liễu đung đưa hay cánh hoa rơi.

Còn nếu chẳng may gặp được một hai cô không ngất, thì mười phần đến chín họ là phù thủy. Tay cầm kiếm đào mộc, họ sẽ muốn chém ta thành từng mảnh.

Một lần, mấy cô phù thủy tưởng rằng ta đã giấu linh hồn mình trong một chiếc ghế dài kiểu phương Đông. Ta cầm lưỡi hái, rời khỏi nơi ấy thật xa, mà vẫn nghe rõ âm thanh của những thanh kiếm đào mộc chém tới tấp vào chiếc ghế đáng thương.

“Thượng Đế ơi, xin hãy cứu lấy chiếc ghế ấy, và tha thứ cho họ.”

Khi ta kể những chuyện này với Agnes, nàng luôn lắc đầu không tin. Nàng chỉ bảo:

“Hừ, chắc ngươi luyến tiếc cô gái ấy chứ gì!”

Câu nói ấy khiến ta bối rối. Sau khi ngẫm nghĩ rất lâu, ta đành thừa nhận rằng, quả thật ta có chút không nỡ rời xa Olivia. Nhưng chỉ một chút thôi, thực sự chỉ một chút.

Con người, một khi đã quen với lối sống mới, rất khó để quay trở lại như trước. Giống như ta đã quen với những ngày có Olivia bên cạnh, thì không muốn quay lại cầm lưỡi hái, lang thang với những cuốn sách triết học như trước nữa.

Thôi thì, cứ để mọi chuyện như vậy, cho đến khi đêm thứ một nghìn lẻ một đến…

Đêm ấy, khi ta đến gặp Olivia, nàng hỏi: “Sao trông ngươi có vẻ rầu rĩ thế kia?”

“Thật sao? Ta không nghĩ vậy.” Ta trả lời qua loa, lòng như để ở nơi khác.

“Nhìn kìa, nhìn kìa!” Olivia giơ chiếc gương mang theo ép sát vào mặt ta.

Không thể từ chối sự cứng đầu của nàng, ta đành nhìn vào chiếc gương rồi thở dài nói: “Tiểu thư, chẳng hay nàng có thể ngừng mang theo những chiếc đĩa chưa rửa sạch bên mình được không?”

Olivia sửng sốt. Nàng cầm chiếc đĩa còn dính phô mai lên soi. Khuôn mặt nàng thoáng đỏ, rồi nàng bối rối nói: “Chờ ta một chút! Hình như ta đã để quên gương trên bàn ăn rồi.”

Ta có thể tưởng tượng cảnh Olivia ngồi bên bàn ăn, vô tư chải tóc, trong khi “Lão Công Tước Lợn Rừng” trố mắt kinh ngạc. Nàng là một kẻ ngây ngô đến không bận tâm bất kỳ điều gì.

Khi Olivia xoay người định rời đi, ta nắm tay nàng lại.

“Cứ ở đây ngắm sao cùng ta. Gương ở nhà ta có rất nhiều, ta tự soi được,” ta nói: “Nếu nàng quay về, sẽ không ra được đâu.”

Olivia nghiêng đầu nhìn ta đầy vẻ khó hiểu: “Chẳng phải chàng thường ngủ dưới hầm rượu, bên cạnh thùng brandy sao?”

Ta lặng người, không biết trả lời thế nào. Đúng vậy, tử thần như ta làm gì có nhà. Chúng ta chỉ là những kẻ lang thang giữa sự sống và cái chết, xuất hiện ở nơi nào có nhiều xác chết nhất.