Đêm tàn tiệc tan, bầu trời Trường Đô phủ ánh đêm đen kịt, thỉnh thoảng vài tiếng cú nháo nhác vọng lên. Tống Nhã Uyên rời đi, Lăng Tiêu Dã cũng đẩy chốn cung đình ẫm ĩ ra phía xa, đem đôi vai tịch mịch hòa vào tuyết lạc đang rơi lất phất. Hắn bước đi trong ngõ nhỏ, men theo bức tường vàng son đẫm tuyết đêm, tiếng bước chân rẽ gió khẽ nôn nao.
Trăng ngà vọng lên lưng Lăng Tiêu Dã, soi sáng cái gót móng guốc. Tống Nhã Uyên từ đằng sau đạp lên lưng hắn một phát điếng người, Lăng Tiêu Dã lảo đảo chúi về phía trước, cả người đâm sầm sập lên tường. Hắn nôn khan rồi khốn đốn đứng dậy nhìn ánh mắt đỏ ngầu của y quắc trong đêm đặc. Loại người này đúng thật là thù cũ hận mới đều khắc sâu, chỉ cần có cơ hội là ra tay dứt khoát.
Tống Nhã Uyên bước thêm vài bước, rồi lấy đà xồ về phía hắn như chó vồ mồi, ghìm chặt Lăng Tiêu Dã lên bức tường ẩm ướt. Y khóa chặt hắn trong tay, ánh mắt căm hờn, đằng đằng sát khí, thâu hắn lại trong con ngươi đen nháy; khác hoàn toàn với vẻ ngoài ngả ngớn, phóng túng ban nãy của y. Tống Nhã Uyên bóp chặt cổ Lăng Tiêu Dã dí sát tường, hơi thở ngậm men say của y mong manh vờn quanh chóp mũi của hắn, đậm nhạt cuốn lấy hương hoa quế.
"Trả cho ta."
Lăng Tiêu Dã không phản kháng, nhướng mày nhìn chằm chằm lên cái gáy đã phủ kín tóc của y.
"Ta nói trả cho ta." Tống Nhã Uyên lặp lại một lần nữa, rít từng tiếng qua kẽ răng, đem cơn giận dữ phả vào hơi thở nóng hổi ngập men rượu cay nồng.
"Ý của Điện hạ là cái này sao?" Hắn đưa một tay túm lấy bả vai đang căng cứng của y, tay còn lại từ từ kéo bông hoa đuôi chó đã bị dẫm nát tơi bời từ thắt lưng đưa lên trước mặt Tống Nhã Uyên.
Tống Nhã Uyên siết chặt tay trên cổ hắn, ánh mắt vằn đỏ lóe lên từng tia lửa hận như chó hoang bị dồn vào chân tường.
"Trả cho ta."
Lăng Tiêu Dã nghiêng người sát lại, hơi thở nặng nề mang theo mùi rượu quế khẽ vờn bên tai y: "Điện hạ để ta cắn trả người một cái, ta có thể suy nghĩ lại."
Tống Nhã Uyên túm chặt lấy bả vai của Lăng Tiêu Dã, rồi hung hăng cắn xuống, như một con chó điên lên cơn hoang dại. Qua lớp vải thô, Lăng Tiêu Dã cảm nhận rõ sự nóng bỏng từ chiếc răng nanh đâm xuyên qua, máu từ vết cắn trào ra, hòa với hơi thở nóng hổi của Tống Nhã Uyên. Tiếng vải thô bị xé toạc, sự ẩm ướt rơi rớt lên làn da nâu bóng loáng, ngấm vào sự hoang hoải của Lăng Tiêu Dã. Tống Nhã Uyên giữ một tay còn lại của hắn, nanh nhọn như lưỡi đao cắm vào tận xương, mùi máu tanh hòa vào hơi thở hoang dại của hai con thú, sẵn sàng cắn xé lẫn nhau.
Lăng Tiêu Dã không chống cự, lặng lẽ ngấu nghiến cơn ê nhói nơi cầu vai. Hắn vươn một tay nắm chặt thắt lưng y, khiến y đau đớn mà run lẩy bẩy. Tay còn lại hắn luồn qua tóc, túm lấy cái gáy của y, rồi mạnh mẽ miết lên, dường như muốn đem những ngón tay căng thẳng như từng sợi dây thừng siết nát cái gáy bé nhỏ của y.
Sức nóng phừng phực phủ kín cái gáy y, Tống Nhã Uyên liền ngẩng đầu lên, cánh tay mạnh mẽ hất tung bàn tay của hắn trên gáy mình, rồi đấm thêm một chưởng kinh người lên ngực hắn. Y thở hổn hển, máu tươi tràn ra từ cánh môi nhạt màu, rớt xuống cần cổ trắng ngần. Ánh trăng bàng bạc in trên bả vai trơ trọi của Tống Nhã Uyên, từng vệt sáng yếu ớt nhuộm lên làn da nhợt nhạt.
Y gằn giọng, tiếng như nứt vỡ, ấm ức và căm hờn: "Ta đã nói đừng có đυ.ng vào người ta."
Rồi y cúi xuống, ôm lấy thắt eo đang đau nhói mà thở dốc. Cú đá của con ngựa kia đâu phải như roi vυ't chỉ bỏng mông nhất thời. Eo của y đã tím thâm một mảng, y ốm sốt liệt giường suốt ba ngày liền, thuốc không thể uống, cháo cũng không thể ăn. Hàng đêm phải ôm lấy vết bầm tím ở bụng mà quằn quại đau đớn.
Ánh mắt Lăng Tiêu Dã mơ hồ, hắn nhìn thân thể gầy gò của y ôm chặt lấy bụng mình, chênh vênh giữa trời đông ám tuyết, và lạc lõng giữa ánh trăng bàng bạc. Chẳng biết phải nói gì lúc này, hắn chậm rãi tiến đến, bàn tay còn chưa đặt lên vai y đã bị y hất văng. Tống Nhã Uyên gầm lên: "Cút. Đừng chạm vào người ta."
Hắn dừng chân, bóng lao đao đổ lên chiếc bóng của y, hắn cất giọng trầm khàn: "Ta... Điện hạ, người không sao..."
Lời hắn còn chưa buông hết khỏi môi, Tống Nhã Uyên rướn người, nhanh như cắt bóp chặt lấy cổ hắn, lần nữa ghì hắn lên tường bám rêu ẩm. Nhưng ngón tay gầy guộc đâm sâu vào cổ hắn, mặt Lăng Tiêu Dã liền đỏ lên gay gắt. Y trút cơn cuồng nộ vào từng tiếng gầm gừ: "Lần cuối cùng ta nhắc nhở ngươi. Đừng có chạm vào người ta. Muốn cắn ta sao? Mười cái mạng quèn của ngươi cũng không xứng."
Lăng Tiêu Dã nhìn chằm chằm vào ánh mắt bi phẫn của Tống Nhã Uyên, giọng hắn thấp hẳn: "Điện hạ, ngựa của ta đá người đau lắm phải không?"
Y chớp mắt, để trăng đêm in trên cái siết tay đang lỏng dần của y. Rồi y buông Lăng Tiêu Dã ra, chệnh choạng lùi ra xa vài bước. Giọng mệt mỏi: "Đồ của ta, ngươi cứ giữ lại. Chẳng may ngươi có nhớ ta, thì đem ra mà ngắm."
Tống Nhã Uyên định xoay người rời đi, bỗng cảm thấy cánh tay mình bị một lực mạnh mẽ giữ chặt lấy, rồi lại buông ra ngay lập tức như chạm vào lửa. Ánh mắt xám lạnh của Lăng Tiêu Dã như mũi tên sắc nhọn xuyên qua, dính chặt vào người y. Hắn dịu dàng cài bông hoa đuôi chó vào vành tai y, lại nhẹ nhàng vuốt mấy sợi tóc mai đang lất phất trước gió.
"Ta sẽ giữ đồ của Điện hạ thật kỹ. Nhớ người, ta sẽ đem ra ngắm"
Tống Nhã Uyên đẩy hắn ra, chân rảo bước đi trong tuyết lạnh. Lăng Tiêu Dã đứng lặng yên, ánh mắt xuyên qua màn đêm mờ mịt, dõi theo tấm lưng phủ ánh bạc xỉn của y xa dần trong bóng tối Trường Đô. Không gian chỉ còn thoang thoảng mùi hoa quế nhàn nhạt phủ lẫn hơi men đã lợt lạt.
—
Lăng Tiêu Dã khoác chiến bào giáp bạc, ánh thép lạnh lùng soi rọi dưới vầng dương mới nhú. Hắn khẽ huýt một tiếng dài, Hắc Dạ Vân Hành tung vó, bóng đen như vệt mây sượt ngang bầu trời. Chiến mã chậm rãi tiến lại phía Lăng Tiêu Dã, cúi đầu khẽ rúc vào cánh tay rắn chắc từng thớ cơ của hắn.
Mộ Hải dắt ngựa đến bên cạnh Lăng Tiêu Dã, ánh mắt lướt qua bờ vai của hắn: "Công tử, vết thương trên vai... lại xảy ra chuyện gì nữa? Người lại đi đâu đánh nhau sao?"
Lăng Tiêu Dã siết chặt vai mình, vết thương chạm vào thớ vải thô cứng, nhói lên từng cơn đau rát. Ánh mắt đêm đó của Tống Nhã Uyên nhìn hắn, vừa căm hờn lại có chút tủi thân, khiến hắn vừa hoang mang vừa thấy tội lỗi. Hắn luôn tự nhắc nhở chính mình Trường Đô chẳng phải chốn dung thân, người Trường Đô cũng đừng kết tri kỷ. Một khắc lạc dòng sẽ khiến hắn trở thành đích đến của vạn mũi tên xé gió.
Gió quét qua, quét tan cái nóng rực ở lòng bàn tay hắn mỗi khi chạm lên gáy Tống Nhã Uyên, để lại một tiếng nhàn nhạt của hắn trầm trầm: "Không có gì. Gặp lại bạn cũ, ôn chút chuyện thôi."
Mộ Hải cau mày, trong mắt xẹt qua một tia khó hiểu: "Ở Trường Đô... người có bạn cũ sao?"
Lăng Tiêu Dã không đáp. Hắn nghiêng đầu, ánh mắt chậm rãi trượt xuống bàn tay mình, nơi vết cắn nhàn nhạt vẫn còn hằn trên mu bàn tay, đầu ngón tay hơi sưng lên: "Đinh Lân, Sơ Kiến đâu?"
Mộ Hải thu lại suy nghĩ ngổn ngang, cúi đầu đáp: "Bọn họ theo gia nô trong phủ, lo vận chuyển lễ vật do thánh thượng ban xuống."
Lăng Tiêu Dã khẽ nhíu mày, chậm rãi cất lời: "Cha ta có gửi thư không?"
Mộ Hải gật đầu, rồi rút phong thư đưa cho Lăng Tiêu Dã. Hắn nhận thư, chẳng vội mở ra, nhét vào ngực áo, rồi mạnh mẽ phi thân lên lưng Hắc Dạ Vân Hành. Mộ Hải theo sau, hai thân ảnh sóng bước rẽ qua tầng mây mù, lặng lẽ bước vào vùng trời của những kẻ từng áo giáp xông pha, nay lẩn khuất trong sương mờ nhân thế.
Trong quân doanh ầm ĩ tiếng chửi rủa, lại nghe thêm tiếng chén đĩa đánh cành cạch vào nhau, tiếng đập bàn ầm ầm. Khắp không gian men rượu cay xè phảng phất, mùi mồ hôi ảm đạm vất vít vào những thanh xà ngang lỏng lẻo, tiếng xúc xắc lăn dài lọc cọc.
"Lão Ích, cược bao nhiêu?"
Ích Từ hừ lạnh một tiếng, ngả nghiêng trên ghế trúc, tay nhàn nhã bóc lạc thả vào miệng, nhai nhóp nhép. Bộ râu xồm xoàm che khuất nửa khuôn mặt, ánh mắt lười biếng, da thì đen bóng loáng như hun dưới gió cát biên ải, trông vừa thô tục lại có chút bất cần.
"Ta không cược. Ngươi chơi ăn gian."
"Lão già này, cái thói ngang ngược ngươi học ở đâu ra đấy?" Kình Nguyên thân hình vạm vỡ như con cá kình trên biển, giơ tay vả đôm đốp lên cái bụng tròn lẳn như trống trận, lại nhe răng vàng khè mà hướng về phía Ích Từ.
Ích Từ ném mấy cái vỏ lạc xuống bàn, gằn giọng nói: "Đếch biết! Lão tử không chơi nữa! Lát còn phải đến Thường Xuân Cung trồng đào cho Huệ Phi. Mà mẹ nó chứ, cái chó má gì cũng đến tay Cấm Quân. Năm ngoái thánh thượng mở hội thao trong cung, làm sụp mấy mái nhà ở Thiên Hương Các. Ngói vỡ còn chưa kịp nhuốm rêu, Cấm Quân còn đang chày mặt ra cuốc đất, người của Công Bộ đã cắp chúng ta như cắp gà lôi đi xếp gạch. Ta còn chưa nói đến đâu đấy. Thế mà bà nó, đến người của Tượng Giám cũng sai như con bắt đi xách nước tắm cho voi, dân cày cấy mùa nào cấm có thấy thiếu người của Cấm Quân bao giờ, đều như vắt chanh. Mẹ kiếp, khác gì chó giữ nhà mà bị trói mõm, rồng mắc cạn cũng chỉ bằng con giun."
Kình Nguyên thất sắc, nhanh tay bịt miệng lão Ích, gằn giọng: "Ngươi bớt cái miệng lại đi! Lời này mà lọt đến tai thánh thượng, Cấm Quân mảnh giáp che thân cũng chẳng còn, chỉ có nước nhai rễ cỏ mà sống."
Ích Từ kéo bàn tay thô ráp như cái rọ mõm của Kình Nguyên ra khỏi miệng mình: "Cấm Quân bao năm nay bị người ta chèn ép, thở cũng không xong. Ngươi nghĩ ta còn biết sợ cái chó gì nữa? Chữ sợ viết như thế nào ta quên bà nó rồi. Mấy năm qua sống chui rúc luồn cúi, làm trâu làm ngựa cho đám quan văn, còn chưa đủ nhục nhã à? Lão tử đã ngấy đến phát điên rồi đây này."
Lão đập mạnh tay xuống bàn, cất giọng cầm gừ: "Cấm Quân ngày trước binh hùng tướng mạnh, mẹ nó, giờ thì không khác gì con chó, suốt ngày cun cút vẫy đuôi."
Kình Nguyên lặng người trên ghế, bàn tay vô thức vươn ra, khẽ chạm vào chuôi long đao đã lặng câm trong vỏ. Gió thoảng qua đập vào lòng gã lạnh lẽo như sắt vụn bỏ quên nơi góc tối. Gã chỉ là một anh hùng đã hết thời bỏ quên hồn mình trong những chiến tích cũ năm xưa. Huynh đệ của gã bải hoải vùi mình trong men rượu cay, quăng chí làm trai vào đáy chén.
Kình Nguyên khe khẽ cất giọng hoang hoải: "Ta nào lại không biết? Nhưng mà ngươi cũng biết rồi đấy, Cấm quân giờ có ra hồn gì nữa đâu. Ngươi có vùng lên thì cũng làm được gì?"
Ích Từ khẽ trầm ngâm, lát sau mới nhàn nhạt cất tiếng: "Mấy hôm trước ta nghe huynh đệ trong doanh xầm xì bàn tán, Nhị công tử Bắc Mạc vừa đặt chân tới Trường Đô, liền được thánh thượng ban cho ấn Đô đốc đấy."
Kình Nguyên nhếch môi cười nhạt, ánh mắt đượm vẻ giễu cợt mà u hoài: "Ngươi không biết đấy thôi. Hắn ở Bắc Mạc cũng trấn giữ một trong tam đại doanh hùng binh đấy, cái chức Đô đốc quèn này có là gì. Cấm quân của chúng ta tung hoành ngang dọc thì đã chả nói, nhưng giờ ngươi nhìn xem, chúng ta có khác gì lũ lính chạy tạp dịch đâu. Cái chức Đô đốc mà hắn được phong, nhìn thì tưởng trọng trách oai phong lắm, nhưng có khác gì mảnh ngói vỡ lẫn trong gương báu đâu. Hoàng thượng phong cho hắn chức này, chẳng phải để hắn gầy dựng lại Cấm quân đâu mà. Người làm vậy chính là để trói buộc hắn đấy, cho hắn một cái danh hào nhoáng, nhưng lại chính là sợi dây siết lấy tự do của hắn. Ngươi nghĩ mà xem, lính của Bắc Mạc nào chịu nổi cái l*иg Trường Đô này."
Tiếng bàn tán lặng dần, chỉ còn hơi rượu nồng vương vấn trong không gian, phủ lên một bóng người cao lớn lặng lẽ bước vào. Lăng Tiêu Dã chắp tay sau lưng, đem ánh mắt u ám quét qua hai người Kình Nguyên và Ích Từ.
Kình Nguyên và Ích Từ thất kinh, vội vàng đứng dậy, cúi mình hành lễ.
"Hai vị là Kình Nguyên và Ích Từ?" Lăng Tiêu Dã cất giọng bình thản. Ánh chiều vẩn vào cơn tĩnh lặng lại đẩy lên một tầng áp lực khó thở.
Kình Nguyên và Ích Từ lặng lẽ trao đổi ánh mắt, rồi chậm rãi bước lên, cúi mình giới thiệu.
Lăng Tiêu Dã lãnh đạm ngồi trên ghế đối diện, vươn tay cầm chén rượu, đưa đến chóp mũi. Hắn trầm ngâm một lúc rồi khóe miệng khẽ nhếch, buông lời nhẹ tễnh: "Hổ Cốt Hồng... hương đậm, hậu vị cay. Rượu này không dễ tìm ở Trường Đô đâu. Xem ra hai người rất biết cách tìm chút dư vị giữa những ngày tẻ nhạt. "
Ích Từ và Kình Nguyên lặng người, không ai dám cất một lời.
"Cấm quân hiện nay là do hai vị quản lý phải không?" Hắn nói.
Kình Nguyên vội cúi đầu, giọng mang theo vài phần cung kính, vài phần dè dặt: "Bẩm Đô Đốc, Cấm Quân nhiều năm không có người thống lĩnh, huynh đệ trong quân chỉ tạm thời để hạ quan điều phối công việc thường ngày. Chỉ là mong giữ cho đội ngũ không tan rã."
Lăng Tiêu Dã gật đầu, ánh mắt trầm mặc nhìn vào đáy chén rượu, hắn khẽ nói: "Ta nghe nói những năm gần đây Cấm quân việc gì cũng làm, từ cày ruộng, giã gạo đến khuân vác kho lương, đánh xe tế cống. Cả chăn voi, dọn phân ngựa, tạp dịch lặt vặt, các ngươi cũng đều từng làm rồi đúng không? Thực sự thì ta nghe xong, cũng không biết Cấm quân có còn là lính hay không nữa."
Lăng Tiêu Dã đặt chén rượu xuống bàn, giọng không nặng không nhẹ: "Giờ ta tiếp quản một đội quân như vậy, không biết hai vị có cảm nhận gì không?"
Kình Nguyên cúi đầu, bàn tay siết chặt. Bấy lâu nay Cấm Quân nhẫn nhục chịu đựng, sống kiếp chó giữ cửa, chủ sai đâu đánh đó, gã không tự biết nhục sao? Lời này nếu thốt ra từ miệng huynh đệ đồng sinh cộng tử, gã có thể cắn răng chịu đựng. Đằng này, một kẻ từ Bắc Mạc xa xôi, chân còn chưa đứng vững ở Trường Đô, đã vênh váo cậy sủng, hất hàm xem thường bọn gã. Ngọn lửa căm phẫn trong lòng gã như đống cho tàn muốn bùng lên, nhưng bao năm cúi đầu quen rồi, hận nuốt hay không nuốt cũng đều hóa lặng im, không dám thốt một lời.
"Ta đang nói chuyện với hai vị cơ mà." Lăng Tiêu Dã ghìm giọng.
Kình Nguyên ngẩng đầu nhìn hắn, lặng lẽ cất lời: "Cấm quân chúng ta cũng chỉ là trôi theo dòng nước mà thôi. Chủ bảo làm gì, chúng ta cũng không dám trái."
Lăng Tiêu Dã nhìn Kình Nguyên một lúc, rồi mới cất lời: "Chủ bảo làm gì, các ngươi đều làm. Đúng, đó là bổn phận của lính. Nhưng làm lính không phải là để quỳ gối cúi đầu. Các ngươi như vậy chính là tự để mình bị quên lãng. Ta nói các ngươi nghe, cùng đứng chung một bầu trời, người đứng cao kẻ quỳ thấp, là bởi vì chí khí khác nhau. Các ngươi đã từng là thanh kiếm của Đại Khánh cơ mà, giờ lại tự biến mình thành cái quốc trồng rau cho triều đình là sao? Chuyện này các ngươi phải trách ai đây, là do thời thế thay đổi, do triều đình, hay do chính các ngươi đây?"
Kình Nguyên siết chặt tay, nín lặng. Gã đã từng nghĩ đến, từng đau đáu, từng uất nghẹn. Nhưng những năm dài chịu nhục đã mài mòn sự phản kháng nơi gã rồi.
Lăng Tiêu Dã đứng vậy, đi vài bước trong phòng, đem tiếng trầm vang phủ kín không gian: "Người ta nói, Cấm quân giờ chỉ còn là thân cây mục nát. Nhưng ta nói, chưa chắc, chỉ cần các ngươi còn thở, còn nhớ mình là lính, thì ta còn cứu được. Nhưng có một điều các ngươi phải nhớ lấy - đừng đợi ta dựng cầu lát đá cho các ngươi đi. Ai muốn bước, phải tự mình mà bước. Kẻ nào chỉ muốn nhắm mắt cho qua ngày đoạn tháng, thì có thể rời khỏi Cấm quân ngay hôm nay."
Hắn dừng lại, ánh mắt trông về phía bắc xa xôi, từng đàn ưng sải cánh rộng, mang theo mộng của hắn cuốn tới chốn xa vời. Hắn cất giọng âm vang: "Ta từ Bắc Mạc về đây không phải để làm quan, mà để làm việc. Trong vòng ba tháng, nếu Cấm quân vẫn là đám ô hợp nhàn cư, ta sẽ trả lại ấn tín. Nhưng nếu các ngươi muốn đứng lên cùng ta, ta sẽ trả lại cho các ngươi thứ mà các ngươi từng có. Chỉ cần các ngươi đồng lòng, Cấm quân sẽ không còn là quân canh kho, quân gánh gạo nữa."
Cả Kình Nguyên và Ích Từ toàn thân bất giác run lên, chậm rãi ngẩng đầu, nhìn về bóng hình trước mặt như kẻ lữ hành lạc lối bỗng thấy ánh dương nơi chân trời. Họ lần đầu tiên thấy có người thật lòng muốn dựng lại điều mà họ tưởng đã mất đi mãi mãi. Bóng người trước mặt chẳng phải một viên quan mới nhậm chức, mà là một ngọn lửa giữa gió đông, nếu có thể bùng lên sẽ không chỉ đốt sáng một mình.
Ánh chiều tà in lên những nếp hành lang gỗ trải dài thành từng vệt loang lổ. Một vài binh sĩ mới chạy tạp dịch về, trên người áo giáp xộc xệch, mặt mũi mệt mỏi, ngồi tựa lưng và cột nhà, hờ hững nhai lương khô, miệng méo xệch ngáp ngắn ngáp dài.
Chẳng ai quan tâm trong sảnh chính kia đang có chuyện gì xảy ra. Bao nhiêu năm nay, quan mới tới rồi lại đi. Đô đốc cũng chỉ là một cái danh hão. Họ quen rồi. Quen sống như cái bóng trong góc hoàng cung, quen với ánh mắt coi thường, quen cả cái cảm giác mặc giáp mà như mặc áo vải.
Lăng Tiêu Dã chậm rãi bước ra ngoài, ánh mắt quét qua doanh trại như một bãi chiến trường chưa kịp dọn. Kình Nguyên và Ích Từ lặng lẽ theo sau, ánh mắt trầm ổn nhìn về phía trước mặt. Mộ Hải đứng cạnh bên, chằm chằm nhìn đám lính bết bát.
Lăng Tiêu Dã đi đến giữa sân, hắn không nói gì, chỉ ngẩng đầu, thổi một tiếng còi dài. Tiếng còi vọng lên như roi quất vào đá, đập xuống những hạt tuyết lưa thưa. Khắp doanh trại, binh sĩ ngẩng đầu nháo nhác, rồi đứng dậy lao nhao, tiếng rì rầm rọi vào bầu không.
"Ai thổi còi thế?"
"Còi hiệu gì? Có chuyện gì sao?"
Một đám binh sĩ lom khom, lúi cúi, lục tục dồn dập kéo về sân chính. Một đoàn người, kẻ lười nhác chùng chân chống eo, kẻ còn ngập trong men say lảo đảo, kẻ cúi gập người thở hổn hển chẳng nên hơi. Không ai bảo họ phải đứng thành hàng, đội ngũ Cấm quân như những con rắn ngoằn ngoèo, đem ánh mắt ngơ ngác nhìn về cái bóng cao lớn đang đứng giữa sân.
Lăng Tiêu Dã lặng lẽ cất tiếng: "Ta là Lăng Tiêu Dã. Ngày hôm nay ta không ra lệnh. Ta chỉ hỏi: Các ngươi có còn nhớ mình là lính hay không?"
Khoảng lặng thinh vụt lên. Chẳng ai nói nửa lời. Một vài binh sĩ cúi mặt, đôi tiếng cười nhạt xen lẫn xấu hổ.
Lăng Tiêu Dã bước từng bước về phía họ, giọng chậm rãi: "Ta từng là lính. Mười hai tuổi, cha ta quăng ta vào tiền tuyến, chưa từng một lần cho ta cầm binh, nhưng vận lương, chuyển giáp khí, ta đều phải làm. Nhưng ta không bao giờ quên mình là lính, làm lính để chiến đấu. Nhưng giờ các ngươi nhìn các ngươi xem, một chút tác phong của người lính cũng không có. Uể oải, rệu rã, chưa một ai từng hỏi xem mình là lính là là phu tạp dịch?"
Không khí nặng như chì, có người cắn răng, có người thở gấp, có người mắt lại khinh khỉnh, có kẻ mắt dần đỏ lên.
Tạ Khướt trong hàng ngũ bước ra, gằn giọng: "Nếu giờ làm lại từ đầu, Đô đốc có dẫn chúng ta đi đánh trận thật không?"
Lăng Tiêu Dã quay lại nhìn hắn: "Dẫn các ngươi đi đánh trận? Không. Thứ các ngươi cần chính là lấy lại tư cách làm người lính trước đã. Bắt đầu từ việc đứng cho thẳng, bước cho đều, cầm đao cho chắc. Trong vòng ba tháng ta không cần các ngươi thắng trận. Ta chỉ cần các ngươi ngẩng đầu."
Hắn xoay người liếc nhìn từng binh sĩ một, rồi nói tiếp: "Ai còn muốn tiếp tục là lính, thì ngày mai giờ Mão có mặt tại thao trường. Ai không muốn, bây giờ ngay lập tức rời khỏi doanh trại. Nếu các ngươi đã có can đảm ở lại, thì từ giờ mọi tác phong phải cho xứng với cái tên Cấm quân."
Gió quần quật, quất tuyết tan tác trên không, ám áng tà dương nhàn nhạt lên những gương mặt tần ngần. Chẳng ai lên tiếng, cũng chẳng ai rời đi. Thế nhưng, một quân đội đã khom lưng suốt bao năm như thế, làm sao chỉ vì một lời nói, một câu khích lệ mà có thể lập tức rũ sạch bụi bặm tìm lại ánh hào quang? Ý chí có thể sôi sục trong chốc lát, nhưng dây xích trói buộc trong suốt những năm dài tháng rộng, nào dễ bứt ra trong một sớm một chiều!