Kiều Hòa

Chương 5: Đột Nhiên Thay Đổi

Đó là lần duy nhất tôi từng đến ký túc xá. Sau lần ấy, tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện nhờ thầy dạy Chính trị giúp tôi ôn tập nữa. Một nơi ngột ngạt như vậy, tôi không muốn quay lại thêm lần nào.

Những ngày ôn tập bình lặng nhưng nặng nề cứ thế trôi qua.

Rồi một ngày, Kiều điên thật r.

Hôm đó là tiết Ngữ văn. Kiều ban đầu ngồi cười ngơ ngẩn, làm cả lớp đang chìm đắm trong bài vở bị đánh thức. Chúng tôi không hiểu chuyện gì xảy ra, tất cả đều quay lại nhìn anh ấy, bao gồm cả cô giáo Ngữ văn trẻ tuổi.

Kiều nhếch miệng cười, một nụ cười trông kỳ quặc đến buồn cười.

Anh vốn chẳng phải kiểu người hài hước hay thích bày trò. Kiều lúc nào cũng nghiêm túc, nên khi anh bỗng dưng cười như thế, tất cả chúng tôi càng tò mò hơn: Cậu ấy cười cái gì vậy? Không lý do gì mà cười sao?

Ngay cả cô giáo cũng không nhịn được mà dùng thước gõ lên bàn, nhắc nhở Kiều phải yên lặng.

Nhưng ngay khoảnh khắc đó, Kiều, với vẻ mặt thất thần, đột nhiên lao lên bục giảng, giật lấy viên phấn từ tay cô giáo. Anh nắm chặt viên phấn trắng, bước qua bước lại, rồi vội vàng vẽ lên bảng đen một chuỗi những đường nét quái lạ như bùa chú.

Nhìn không rõ, nhưng thoáng đâu đó dường như có hai bóng hình: bóng bên trái hung hăng, bóng bên phải hoảng loạn.

Có lẽ tôi đã nhìn nhầm. Những nét phấn trắng loạn xạ, chằng chịt, không đầu không đuôi, trông giống như một bức tranh trừu tượng phương Tây, chẳng ai đoán ra được Kiều đang vẽ cái gì.

Cả lớp chết lặng nhìn vào những gì anh vừa vẽ. Cô giáo Ngữ văn đẩy chiếc kính dày của mình lên, vẻ mặt cũng đầy bối rối.

Rồi ngay sau đó, Kiều bất ngờ lao khỏi lớp học, vừa chạy vừa cười điên dại, tay chân múa may loạn xạ, nước dãi chảy dài bên khóe miệng, trông như một người điên vừa thoát khỏi trại tâm thần.

Hình ảnh đó khiến chúng tôi hoảng sợ thật sự.

Một học sinh ưu tú, luôn được xem là ngôi sao trong học tập, bỗng nhiên trở nên như vậy, thật sự khiến người khác không khỏi bàng hoàng.

Người đuổi theo đầu tiên là Lưu Tư Hành, sau đó đến tôi, rồi cô giáo Ngữ văn, cuối cùng là cả lớp lũ lượt kéo nhau chạy ra ngoài.

Tôi và Lưu Tư Hành chạy song song, vừa chạy vừa gọi tên Kiều. Một góc áo xanh lướt qua tay vịn cầu thang, và bóng Kiều biến mất sau khúc cua, nhưng tiếng cười của anh vẫn vang vọng.

Anh đang cười… và cũng đang chạy trốn…

Đột nhiên, tiếng cười dừng lại. Tim tôi thắt lại, chân bước từ chậm thành nhanh, từ nhanh chuyển thành nhảy hai bậc một.

Không lâu sau, tôi thấy Kiều nằm dưới cầu thang.

Anh, chàng trai luôn nhẹ nhàng, điềm tĩnh, giờ đang co giật trên sàn, máu chảy ròng ròng từ trán, nhuộm đỏ cả mặt. Máu rỉ xuống dọc theo mắt, sống mũi và má, khiến anh trông vô cùng thảm thương. Đôi mắt đen láy của Kiều khẽ mở, vô hồn, không chút cảm xúc.

Anh nằm đó bất động, như một con búp bê không còn sinh khí.

Nếu không phải tận mắt thấy l*иg ngực anh vẫn khẽ phập phồng, tôi chắc chắn đã nghĩ rằng Kiều… đã chết.

Tôi định ngồi xuống lay anh, nhưng những người chạy phía sau đã lao đến, vây kín xung quanh Kiều.

“Tránh ra! Gọi xe cứu thương!”

Tiếng cô giáo dạy Ngữ văn vang lên, đánh thức tất cả mọi người. Đám đông chen chúc, xô đẩy nhau, nhưng cũng nhanh chóng dãn ra nhường chỗ để Kiều có thể thở.

Cô giáo nhẹ nhàng nâng đầu Kiều lên, nghiêng sang một bên, rồi cởi lỏng cổ áo anh, giúp anh dễ thở hơn.

Đôi mắt Kiều lúc mở, lúc khép, như muốn tỉnh táo nhưng không thể. Cuối cùng, anh đành mệt mỏi nhắm nghiền mắt lại.

Tiếng còi cứu thương vang lên inh ỏi, cũng đúng lúc giờ học kết thúc. Tôi cố kiễng chân, chen vào đám đông để nhìn Kiều, nhưng người xem quá đông, tôi không thể len vào.

Kiều, từ sau cú ngã cầu thang hôm ấy, tôi không còn gặp lại anh ở trường nữa.

Người duy nhất tôi thấy, là mẹ anh, bà liên tục lui tới trường trong tình trạng tiều tụy, xử lý đủ mọi chuyện.

Cuối năm lớp 11, tôi lần đầu tiên hiểu rõ một điều sâu sắc và ám ảnh cả cuộc đời mình. Tôi nhận ra một từ gọi là xâm hại tìиɧ ɖu͙©.

Chuyện thầy dạy Chính trị xâm hại Kiều từng gây xôn xao cả thành phố.

Trước khi đến trường, mẹ Kiều, bà Chu, đã quyết tâm công khai chuyện này qua báo chí, sau đó trình báo với cảnh sát.

Thầy dạy Chính trị là con nhà tư sản nhỏ. Khi xưa không học hành gì tử tế, gia đình bỏ tiền cho đi du học vài năm rồi dựa vào quan hệ để về nước làm phó chủ nhiệm. Khi bị dồn vào đường cùng, hắn liền lợi dụng gia thế, thuê luật sư nổi tiếng để phản tố, kiện ngược gia đình bà Chu tội vu khống.

Việc bị xâm hại, quả thực rất khó tìm chứng cứ. Chứng cứ trước đây từng có, chính là đoạn video mà thầy dùng để uy hϊếp Kiều. Ban đầu, Kiều vì bị khống chế bởi đoạn video đó mà phải cắn răng chịu đựng. Đến khi bị ngã đập đầu nhập viện, Kiều quyết định buông xuôi tất cả, khai nhận mọi chuyện, hy vọng cảnh sát có thể tìm thấy đoạn video làm bằng chứng.

Nhưng đoạn video ấy… cảnh sát không tìm được.

Bây giờ chỉ còn một cậu thiếu niên lúc tỉnh táo lúc mơ hồ đứng ra làm chứng. Một cậu thiếu niên không có bất kỳ hậu thuẫn nào, làm sao để kêu oan?

Tuyệt vọng giống như bị bóp nghẹt trong vũng lầy, không cách nào thoát ra.

Những nạn nhân như Kiều, anh không phải là người đầu tiên, cũng chẳng phải là người cuối cùng.

Sau khi sự việc của Kiều bị phanh phui, một số tin đồn bắt đầu rò rỉ trong trường. Nghe nói trong lớp của thầy dạy Chính trị cũng có vài nam sinh từng bị xâm hại.

Lúc mẹ Kiều đang cố nắm lấy tia hy vọng mong manh cuối cùng, cha mẹ của những đứa trẻ ấy lại không dám công khai chống đối. Vì thầy đã âm thầm dùng tiền để xoa dịu, bồi thường hậu quả cho họ.

Các bậc cha mẹ cảm thấy chuyện này thật nhục nhã, không muốn làm ầm lên. Họ nghĩ: Dù gì cũng đã được đền bù một khoản lớn, vậy là ổn rồi. Đằng nào khoản tiền kiện tụng cũng chẳng nhiều hơn số này. Chi bằng giữ lại danh dự cho con, lại có tiền bồi thường, một mũi tên trúng hai đích.

Rất nhanh sau đó, những đứa trẻ từng bị gã ác quỷ dày vò đã lần lượt chuyển trường.

Trước đó, mẹ Kiều đã dốc cạn gia sản để khởi kiện. Bà không muốn chấp nhận kiểu hòa giải bẩn thỉu kia! Không muốn trở thành “kẻ tiếp tay” tàn nhẫn chà đạp chính con mình! Không muốn cam chịu trước việc cảnh sát không tìm thấy đoạn video! Bà đã cố gắng tìm đến các phóng viên, cố gắng làm lớn chuyện.

Nhưng kết quả vẫn không như mong đợi. Cảnh sát điều tra không có kết quả, vụ án rơi vào bế tắc.

Thậm chí mẹ Kiều còn suýt bị kiện ngược.

Như một tia sáng cuối đường hầm, không lâu sau, một trong những nam sinh đã chuyển trường lén trở về, trao tận tay bà Chu một quyển nhật ký. Cậu bé đó có thói quen viết nhật ký từ nhỏ, trong đó ghi lại chi tiết những tổn thương mà thầy đã gây ra cho mình.

Cầm quyển nhật ký, mẹ Kiều lập tức khởi kiện lại trước thời hạn hiệu lực.

Vì nạn nhân là nam, tòa chỉ kết tội cố ý gây thương tích, tuyên án phó chủ nhiệm 2 năm mấy tháng tù giam và bồi thường hơn chục triệu đồng mỗi người. Chỉ vậy mà thôi.

Nửa năm sau khi bản án được tuyên, nam sinh chuyển trường đã tự sát.

Dân tình, ai nấy đều than thở.

Giai đoạn trước kỳ thi đại học, khi Kiều đã rời trường, tôi thường ngồi chống cằm, vẽ mấy vòng tròn vô nghĩa lên nháp. Vẽ một hồi, không hiểu sao tôi lại viết tên Kiều lên đó.

Nhìn quanh lớp, tôi chột dạ xoáy đen cái tên ấy, xoáy mãi cho đến khi nó biến mất hoàn toàn dưới nét bút, tôi mới dừng lại.

Lê Tiếu Tiếu, bạn cùng lớp 301, đã được bố mẹ đưa ra nước ngoài.

Hai người họ, cặp đôi đẹp đẽ từng được biết đến, không còn xuất hiện trước mắt mọi người nữa.

Thời gian như bóng câu qua cửa, tôi giờ đã là sinh viên đại học, còn Kiều vẫn như ba năm trước: lúc điên loạn, lúc tỉnh táo.

Tôi ở khoảng cách gần, quan sát người đàn ông này, một người chìm trong thế giới an toàn của chính mình. Kiều luôn giữ khư khư bức phác họa trừu tượng kia, ánh mắt đầy cảnh giác nhìn tôi.

Tôi cố gắng tỏ ra thiện chí, nhẹ nhàng đối diện với ánh mắt anh. Tôi tin rằng, dù là điên hay dại, bản năng cảm nhận của con người vẫn không mất đi. Dù rằng, cứ cách một thời gian, Kiều lại quên mất tôi là ai.

Dưới mái tóc mềm mại màu đen, ẩn giấu đôi mắt màu hổ phách. Ánh mắt ấy vừa có chút tò mò, lại có chút e dè. Mỗi khi anh khẽ nhúc nhích, những lọn tóc lại chạm qua đôi mày rậm, chạm qua hàng mi cong.

Kiều như đang cố nhận ra tôi.

Người từng là ngôi sao sáng chói, giờ đây ở ngay trước mắt tôi. Anh cuối cùng cũng nhìn thẳng vào tôi, nhưng lòng tôi lại phức tạp đến thế, đau đớn đến thế.

Những đả kích và tổn thương trong quá khứ là sự sụp đổ khổng lồ đối với một người từng tràn đầy hoài bão như Kiều. Những dày vò trong lòng anh, tôi không thể hiểu hết, nhưng cũng có thể phần nào đồng cảm.

Mũi tôi cay xè, dùng ngón tay chạm khóe mắt, rồi tiện thể bóp sống mũi để cố kìm nước mắt.

Đột nhiên, một tờ giấy thơm mùi thanh mát xuất hiện trước mặt. Đó là bàn tay lớn của Kiều đang cầm tờ khăn giấy.

Tôi ngẩng đầu kinh ngạc, tưởng rằng anh đã tỉnh táo. Nhưng ánh mắt vô hồn của Kiều vẫn như cũ.

Lòng tôi nghẹn lại. Tôi cúi đầu, nhận lấy khăn giấy rồi xì mũi. Anh đột nhiên bật cười, ngây ngô nhìn tôi:

“Chào cậu.”

“Ừ, chào cậu.”

Tôi đáp lại, vẫn bình thản như mọi lần.

Kiều đưa ngón trỏ lên môi, ra hiệu giữ bí mật, rồi cúi người vẽ nguệch ngoạc lên bàn. Ban đầu, mỗi lần vẽ, anh đều liếc tôi một cái. Thấy tôi không nhìn trộm, Kiều dần thả lỏng, lưng cũng ngồi thẳng lên.

Tôi nhẹ nhàng lật giở vài quyển sách trên bàn anh, im lặng ngồi cạnh.

Vẽ xong, Kiều hấp tấp nhét bức tranh vào ngăn kéo, nhét xong lại ngẩn ra, không biết phải làm gì, cuối cùng chỉ ngồi thừ người.

Tôi gọi anh: “Kiều?”

Anh không phản ứng, ngồi ngay ngắn, đôi mắt thẫn thờ nhìn vào rèm cửa đen.

Tôi quay người ra cửa, gọi với ra ngoài: “Dì ơi, cắt tóc cho Kiều nhé?”

“Được, chờ chút!”

Không bao lâu sau, “kẹt kẹt” một tiếng, cánh cửa gỗ sậm màu bị đẩy ra. Người phụ nữ khoác chiếc tạp dề đã bạc màu, trong tay cầm một chiếc khăn xanh để cắt tóc và một cây kéo đen nhỏ, bước chân rón rén tiến lại gần chúng tôi.

Khi đối diện với Kiều, tôi và dì Châu đều rất cẩn thận, ngay cả tiếng bước chân cũng tự nhiên nhẹ đi.

Trước đây, tôi gọi bà là mẹ Kiều, nhưng qua những năm qua lại, chúng tôi trở nên thân thiết hơn, bà bảo tôi gọi bà là dì.

“Con đến là tốt rồi, dì một mình cắt tóc cho nó, không làm nổi. Nó không thích cắt tóc, tiếng kéo nó ghét lắm, lúc nào cũng động đậy lung tung,” dì Châu cười trách, tiện tay đưa cho tôi chiếc khăn xanh.

Kiều dường như đã lấy lại chút ý thức, anh nhíu mày nhìn cây kéo đen trong tay bà, khẽ nâng tay lên không trung, các ngón tay hơi xòe ra, động tác từ chối rõ ràng, ánh mắt lướt qua tôi và mẹ anh.

Dì Châu khẽ chỉnh lại chiếc tạp dề trên eo, đỡ ghế rồi mệt mỏi ngồi xuống ngang tầm mắt Kiều. Ánh mắt bà nghiêm túc: “Nếu cắt tóc xong, dì sẽ để Tiểu Tần dẫn con ra công viên đi dạo, như mọi khi, được không?”

Kiều nghiêng đầu một chút, mái tóc phía trước cũng lệch sang bên phải, lộ ra khuôn mặt thanh tú vốn có. Trông anh có vẻ bối rối, dường như không nghe được lời dì Châu nói.

Bà kiên nhẫn lặp lại vài lần, cuối cùng anh mới ngập ngừng gật đầu.

Rèm cửa dày nặng từ từ được kéo ra, những món đồ trong phòng cuối cùng cũng được ánh sáng chiếu rọi. Bàn ghế, sàn nhà… màu sắc của chúng nhạt đi đôi chút khi ánh sáng tràn vào, hay nói đúng hơn là chúng sáng lên. Nhưng Kiều lại nhắm chặt mắt, lắc đầu… rồi tiếp tục lắc đầu.

“Không có ánh sáng, làm sao cắt tóc được?”

Tôi bảo anh, và chắc anh đã nghe. Điều đó làm tôi cảm thấy thật nhẹ nhõm.

Tôi mở chiếc khăn xanh, cẩn thận choàng qua đầu Kiều, vòng qua cổ anh. Tấm khăn xanh che kín đôi chân dài của anh, tôi tỉ mỉ chỉnh lại những nếp nhăn trên khăn, anh thì vẫn nhíu mày, dùng đầu ngón tay nhọn đâm vào tấm vải, rõ ràng là rất khó chịu.

Dì Châu thận trọng cầm kéo, từ từ cắt tỉa tóc cho anh, còn tôi thì đặt tay lên hai cánh tay Kiều, giữ chặt để phòng ngừa bất trắc. Tôi sợ rằng tâm trạng anh sẽ bất ngờ biến đổi, trở nên kích động hoặc quậy phá, có thể tự làm mình bị thương.

Những chuyện như thế này, không phải chưa từng xảy ra.

“Cạch… cạch…” Những sợi tóc đen mượt nhẹ nhàng rơi xuống, trán của Kiều dần lộ ra trong không khí, thật trắng, trắng như nước suối trong lành, trắng như những đám mây trên trời. Nhưng phía trên lông mày bên trái của anh có một vết sẹo mờ, đó là dấu tích để lại từ lần anh phát bệnh đầu tiên, ngã từ cầu thang trường học xuống.

Trong không khí, những sợi tóc nhỏ li ti bay lơ lửng, những hạt bụi li ti trong ánh nắng nhảy múa hỗn loạn. “Cạch… cạch…” Tiếng kéo cắt tóc như đang nhảy múa theo chúng.

Chúng tôi cùng nhau giúp Kiều cắt tóc, dấu ấn thời gian từ từ tô màu cho ký ức. Trong lúc cười nói nhẹ nhàng, tôi bất ngờ nghe thấy Kiều thì thầm một tiếng: “Ba.”

Chớp mắt, nụ cười trên môi tôi và dì Châu đông cứng lại.

“Ba…”

Tiếp đó, chàng thanh niên với nụ cười ngốc nghếch quay đầu hỏi dì Châu: “Chào mẹ, ba con đâu rồi?”

Vai gầy guộc của bà chợt khựng lại, rồi sụp xuống. Bà im lặng, bàn tay cầm kéo khẽ run rẩy, đến mức những hạt bụi xung quanh bà cũng như cùng run lên. Chúng nhảy múa không ngừng, rồi đậu trên mái tóc điểm bạc hoặc trên chiếc áo bạc màu của bà.

Hồi lâu sau, người phụ nữ từng trải qua bao sóng gió ấy mới trả lời anh: “Ba con đi làm xa rồi.”

Tôi từ từ nâng tay, nhẹ nhàng xoa lưng dì Châu. Trông bà như già đi, nhưng sống lưng lại vẫn thẳng, thẳng như trụ cột trong những ngôi nhà lớn.

Kiều không có ba… Không, anh có ba, chỉ là ông không còn nữa…

Khi chú còn sống, gia đình Kiều vẫn thuộc diện no đủ. Nhưng từ khi trụ cột gia đình ngã xuống, nhà Kiều rơi thẳng vào cảnh nghèo khó.

Chú từng là một công nhân xây dựng, làm việc dưới quyền một ông chủ thầu. Sau này, chú bị tai nạn lao động và mất mạng. Khi ấy, có mấy công nhân khác cũng rơi xuống từ trên cao, một người sống sót nhưng liệt nửa người, còn lại đều chết ngay tại chỗ. Vì chú Kiều mất do tai nạn lao động, dì Châu nhận được một khoản tiền bồi thường không nhiều. Bà đã dùng số tiền đó để kiện tụng, sau khi được bồi thường vài chục triệu nữa, bà sống tằn tiện từng ngày, giờ lại làm thêm việc dọn dẹp nhà cửa để miễn cưỡng nuôi dưỡng Kiều đang thần trí không ổn định.

Mỗi khi đi làm, dì Châu sẽ khóa cửa nhốt Kiều ở nhà. Bà không yên tâm nên đã lắp camera trong nhà để quan sát anh. Nếu có chuyện gì gấp, bà cũng có thể nhanh chóng chạy về.

Chuyện Kiều mắc bệnh tâm thần, bà luôn giấu nhẹm với họ hàng ở quê. Một mình bà vừa làm cha vừa làm mẹ.

Vào dịp hè hoặc đông, nếu tôi đến thăm, bà sẽ đưa chìa khóa nhà cho tôi, nhờ tôi chăm sóc Kiều. Mỗi lần như thế, bà đều cố nhét tiền cảm ơn, nhưng tôi kiên quyết giữ vững nguyên tắc của mình, chưa bao giờ nhận.

Dì Châu luôn nói đi nói lại rằng tôi và Lưu Tư Hành là những đứa trẻ tốt, là những đứa trẻ ngoan nhất trên đời.

Lưu Tư Hành không phải người địa phương, học lực không tốt, đại học học ở đây. Cậu ta thường đến thăm Kiều vào năm học, còn nghỉ hè và đông thì phải về quê ở miền Bắc. Vì vậy, chúng tôi luôn tránh mặt nhau, việc thay phiên nhau thăm nom Kiều kéo dài từ sau kỳ thi đại học đến tận bây giờ, chưa từng gián đoạn.

Nhờ vào sự chăm sóc từ tôi và Lưu Tư Hành, dì Châu mới đỡ được phần nào gánh nặng.

Những người bạn học khác, ban đầu cũng đến thăm, nhưng rồi dần dần mỗi người một ngả, số lần đến thăm cũng ngày càng ít đi.