Ra khỏi cửa Tây, xe ngựa của Trâm Anh liền đổi thành xe tứ giá rộng rãi có thêm đệm mềm.
Dù sao thì Lâu Huyền Sơn cách nội thành xa xôi, Đỗ chưởng quỹ không ngừng đẩy nhanh tốc độ, tới được chân núi cũng là lúc sắc trời tối sầm lại.
Ban đêm đi đường núi có chút nguy hiểm, Đỗ chưởng quỹ dẫn người đốt l*иg đèn bốn phía quanh xe ngựa, tuyệt đối không để tiểu nương tử chịu chút tổn thương. Chỉ là xe ngựa không thể lên núi, đi quan đạo lại phải vòng xa, cuối cùng chỉ có thể đổi thành bốn người khiêng kiệu trúc, người Ngô gọi là ‘trúc yếm’, hộ tống tiểu nương tử tới hành cung.
Khác với sự lo lắng của Phó Tắc An, Đỗ chưởng quỹ không để bụng tiểu nương tử muốn đi đâu mà ông chỉ lo lắng tiểu nương tử đi trên đường có phải chịu khổ sở, khó chịu gì hay không.
“Chỉ trách Đỗ mỗ chuẩn bị không chu đáo, ngọc thể tiểu nương tử kiều quý, xuất hành qua loa thế này lỡ vô ý làm tổn thương tiểu nương tử, ta còn mặt mũi nào nhìn mặt chủ nhân dưới suối vàng nữa?”
Nhắc tới Đường phu nhân đã qua đời, Đỗ chưởng quỹ lại bất giác nghẹn họng.
Trâm Anh chỉ cảm thấy chua xót trong lòng, vội nói: “Đỗ bá bá đừng nói như thế, là ta tự ý làm mọi việc không báo trước, để mọi người phải lao lực vì ta nhiều như vậy.”
Bên cạnh Đỗ chưởng quỹ là một nữ tử hơn hai mươi tuổi, bà chải kiểu tóc của phụ nhân, dung mạo xinh đẹp. Đây chính là Nhậm thị - thê tử của Đỗ chưởng quỹ, bà hay tin cũng chạy tới đây, nghe thấy vậy bèn trợn trắng mắt, sảng khoái nói:
“Được rồi, ở trước mặt tiểu nương tử còn khóc lóc sướt mướt cái gì, không ngại mất mặt sao. Cái này có tính là gì chứ, tiểu nương tử không sợ tối là được rồi đúng không? Lát nữa vυ' già tự mình giơ đuốc dẫn đường cho tiểu nương tử, tiểu nhị của chúng ta là người cẩn trọng, dương khí cũng cường tráng, tuyệt sẽ không để tà ác quấy phá thân thể tiểu nương tử. Huống chi trăng tròn còn treo trên đỉnh đầu, tiểu nương tử đừng sợ, sẽ không có việc gì đâu.”
Vị Nhậm nương tử này xuất thân từ thế tộc nghèo túng, nghèo túng tới nỗi bà ít khi được tận mắt chứng kiến một đại gia tộc giàu có quyền quý nào. Từ nhỏ bà đã phải làm lụng cày cuốc nuôi gia đình, sau này dòng đời xô đẩy bị ép phải đi buôn bán.
Mà thương nhân làm ăn buôn bán luôn bị người học hành đàng hoàng khinh thường, thế nhưng đến bát cơm bỏ bụng cũng không có, ai còn có khí lực để ý tới mặt mũi tôn quý của sĩ nhân nữa chứ? Khi Nhậm nương tử chưa học hết bảng chữ, bà đã loay hoay học tính toán chi tiêu. Mà hiện tại, tuy bà vẫn không học nổi mấy chữ nhưng bà đã là đại tẩu cừ khôi nơi thương hội, biết hết đạo lý đối nhân xử thế, miệng lưỡi sắc bén.
Đỗ chưởng quỹ đã hơn bốn mươi tuổi, ở ngoài uy phong quyết đoán như vậy, giờ lại bị nương tử quở trách một trận, ông có hơi ngượng ngùng không dám cao giọng.
Ông lầu bầu: “Ai khóc cơ chứ… Ta chỉ muốn dọa đám hạ nhân không được phép lơi là mà thôi…”
Nhậm nương tử lại trợn mắt, còn cứng miệng nữa.
Sáng nay lúc nghe được gã sai vặt truyền lời tới, là ai vội vàng đón xe chạy tới Tây thành, cũng không biết là ai vừa nhìn thấy tiểu nương tử liền bối rối che giấu đôi mắt đỏ bừng, bả vai cứng ngắc, nói không ra lời vậy.
Lúc ấy Nhậm nương tử thật sự bị dọa sợ, bà gả cho lão Đỗ nhiều năm như thế nhưng chưa bao giờ thấy ông thất thố, còn tưởng rằng tiểu nương tử gặp chuyện gì không hay.
Kết quả Đỗ Phòng Phong kéo bà qua một bên, giọng nói khàn khàn, mơ hồ có chút khó xử, nói với bà rằng: “Vừa rồi tiểu nương tử hành đại lễ, nói với ta một câu ‘Xin lỗi’, xin lỗi vì đã phụ lòng chăm sóc của ta suốt những năm qua… A Nhậm nàng nói xem, tiểu nương tử là, là…”
Ông nói không nổi nữa nhưng Nhậm thị đã hiểu được ý tứ của phu quân.
– Tiểu nương tử được nuôi dưỡng trong tử ©υиɠ kim điện, có Đường thị chống lưng, có người tôn quý nhất thiên hạ sủng ái, nếu nàng được sống thư thái tự tại thì nàng sẽ không bao giờ phải nói ra tiếng ‘xin lỗi’ kia.
Nhậm thị lên kinh muộn, trước đây chưa từng có cơ hội gặp mặt Phó tiểu nương tử.
Khi rèm xe vừa được vén lên, lần đầu tiên bà nhìn thấy tiểu nữ nương trắng như tuyết, tinh xảo như ngọc mài kia, liền hiểu được vì sao lão Đỗ lại đau lòng như thế.
Ánh mắt tiểu nữ nương này quá đỗi ngoan ngoãn.
Nghe nàng mềm mại gọi mình một tiếng ‘Đỗ bá mẫu’, cho dù Nhậm thị chẳng lớn hơn nàng là bao nhưng trái tim cũng nhất thời mềm nhũn thành một vũng nước, hận không thể yêu thương nàng nhiều hơn.
“Đỗ bá bá, Đỗ bá mẫu, ta không yếu ớt chút nào.”
Dưới chân núi, Trâm Anh nghe phu thê Đỗ chưởng quỹ cãi nhau vì chuyện của nàng, khóe môi nàng khẽ nhếch lên, lập tức lại đè xuống. Dưới ánh trắng, đôi mắt của nàng càng thêm nổi bật tỏa sáng, lặp lại lời tuyên thệ một lần nữa: “Ta không hề yếu ớt, thật đó.”
Nàng có thể ngồi kiệu trúc, xóc nảy cũng không sợ, đêm tối cũng không sợ.
Bởi vì hết thảy không phải là người nào thao túng tâm lý nàng cả mà là chính nàng, là Phó Trâm Anh chủ động lựa chọn.
Kiếp trước, trước khi chết nàng không cam lòng bao nhiêu thì hiện tại sẽ càng thêm quý trọng cơ hội không dễ có được này, sẽ cố gắng thoát khỏi bản thể mềm yếu vô dụng kia.
Đỗ chưởng quỹ và Nhậm nương tử thấy rõ sự nghiêm túc trong mắt Trâm Anh, tia sáng rạng rỡ cố chấp kia vẫn còn lây nhiễm chút tính khí trẻ con chưa tiêu tan hết, phá lệ làm người ta động lòng.
Từ lúc bắt đầu gặp mặt, nàng chưa từng oán giận người phụ lòng nàng, nhất quyết khẳng định là nàng phụ lòng người.
Tiểu nương tử tốt đẹp như vậy, có ai lại không đau lòng chứ.
Nhậm nương tử nhịn không được khẽ vuốt tóc mai Trâm Anh, ôn nhu nói: “Vậy chúng ta lên núi nhé.”
Đúng như lời Nhậm nương tử nói, tuy đường núi đi tới hành cung có chút quanh co nhưng cũng may con đường được lát đá rất bằng phẳng, lực tay của đám hạ nhân nâng kiệu trúc cũng ổn định.
Trâm Anh ngồi im trong kiệu trúc mềm mại, nàng nhìn cỏ cây bên ngoài, chỉ cảm thấy vô cùng thú vị.
Thế nhưng trong lòng nàng vẫn còn băn khoăn, lập tức quay đầu hỏi: “Xuân Cẩn tỷ tỷ, tỷ có mệt không?” Nàng lại nói với Đỗ chưởng quỹ cầm bó lửa dẫn đường đi trước: “Bá bá cứ chậm một chút, dưới chân tối đen, cẩn thận bị ngã.”
“Tiểu nương tử tự chăm sóc bản thân cho tốt là được.” Bàn tay Nhậm nương tử vốn đặt bên cạnh kiệu trúc bỗng nhiên vươn lên, khẽ ‘a’ một tiếng: “Sao trên hành cung lại có ánh đèn sáng thế kia?”
Đỗ chưởng quỹ ngẩng đầu nhìn hành lang bảo điện nguy nga trên đỉnh núi: “Có phải lão ma ma ở lại đó thắp đèn sáng hay không…”
Trong lúc nói chuyện, xung quanh bỗng nhiên nổi lên trận gió, có hạ nhân ngửi hơi nước liền đoán được phần nào: “Chưởng quỹ, sợ là trời sắp mưa rồi.”
Sau đó, một tiếng sấm rền chấn động vang vọng khắp núi rừng.
“Mau mau, tìm đồ che mưa và vải dầu đến đây!”
Đỗ chưởng quỹ nhíu mày thầm mắng ông trời, sớm không mưa, muộn không mưa, đúng lúc bọn họ đến được sườn núi thì trời đổ mưa. Bọn họ không sợ thứ gì khác, chỉ sợ đèn đuốc không chống lại được nước, nếu đuốc bị dập tắt thì bọn họ lên núi như thế nào?
Nếu bảo tiểu nương tử dầm mưa dầm gió, đây chính là tội lỗi rất lớn.
Sợ cái gì là cái đó tới ngay, trong khoảnh khắc mây đen che khuất ánh trăng, tiếng sấm dồn dập đổ tới.
Không gian xung quanh chợt rung chuyển dồn dập như nhịp trống, cảm tưởng như sắp có một đợt thủy triều ập đến dãy núi này vậy.
Ngay cả Trâm Anh ngồi trên kiệu cũng cảm giác được mặt đất hơi rung động, nàng rụt vai lại, thầm nghĩ chẳng lẽ là mưa đá sao. Nhưng vì sao mưa đá lại tạo nên động đất?
Rất nhanh, nàng liền biết rõ nguyên nhân. Ngay trước mắt, hai hàng lửa thẳng tắp như hai con rồng dài nhanh chóng bơi xuống từ đỉnh núi, uốn lượn vòng quanh rồi đứng dọc hai bên đường, dừng lại ngay trước kiệu trúc.
Người cầm đuốc đều là quân sĩ mang giày sắt, mặc giáp đen, dù chỉ chạy bình thường thì cũng nhịp nhàng như đang hành quân, khí thế dũng mãnh khiến đất trời rung chuyển.
Tiểu nhị nâng kiệu phía trước bên trái khẽ run rẩy khi chứng kiến cảnh tượng trước mắt.
Thân thể Trâm Anh cũng lắc lư theo.
Sau một khắc, bốn vị Hắc giáp vệ bước ra khỏi hàng, không nói lời nào tiếp nhận kiệu trúc.
“Chúng ta phụng mệnh Đại Tư Mã xuống đón nữ quân lên núi.”
Giọng nói thô ráp của nam nhi vang lên, mưa gió chưa tới nhưng Trâm Anh đã cảm nhận sâu sắc tư vị bị lệ khí bao phủ là như thế nào.
Trước sau trái phải là bốn quân sĩ cường tráng, lực lưỡng, còn nàng chỉ là tiểu cô nương nhỏ nhoi ngồi trong kiệu, trông chẳng khác nào ổ sói đói đang rình mò một con thỏ trắng mềm mại.
Trâm Anh chợt nhớ ra sáng nay vị Đại Tư Mã bí ẩn kia đã vào cung, vì lời từ chối của nàng mà không thể gặp mặt. Vốn tưởng rằng việc chúc mừng sinh thần nàng chỉ là cái cớ, việc này nên dừng lại ở đây mới phải…
Nhưng nàng lại quên mất, hành cung Lâu Huyền Sơn được chia ra làm đôi nửa, một nửa thuộc nhà họ Đường, một nửa khác thuộc nhà họ Vệ.
Ngoại trừ người nhà họ Vệ, ai còn dám tới đây đốt đèn trong điện?
“Tiểu nương tử chớ nên hoảng hốt, chắc là Đại Tư Mã… cũng có ý tốt mà thôi.” Đỗ chưởng quỹ có chút giật mình, lập tức tỉnh táo suy ngẫm lại. Mặc dù đã gần mười năm ông chưa gặp lại lang quân Vệ gia nhưng năm đó tình nghĩa giữa tiên Hoàng Hậu và chủ nhân vốn rất tốt, rồi khi Vệ công tử theo chân Phó cô gia học hành như thế nào, chuyện xưa vẫn còn hiện rõ mồn một trước mắt.
Giúp đỡ trong lúc mưa gió, hẳn không phải là ác ý.
Chỉ sợ nữ hài tử chưa từng gặp qua loại chuyện này, Đỗ chưởng quỹ vội vàng lên tiếng trấn an vài câu, chắp tay tạ lễ với bốn vị quân sĩ: “Vậy làm phiền các vị rồi.”
Trâm Anh không có nhiều hiểu biết về việc này nhưng lại rất tin tưởng vào Đỗ chưởng quỹ.
Nàng nghe lời, lặng lẽ buông lòng bàn tay đang nắm chặt ra.
Mưa to như hạt đậu lập tức rơi xuống, kiệu trúc khẽ lắc lư theo từng bước chân của quân sĩ, mãi mà người nàng vẫn chưa dính nước.
Trâm Anh ngẩng đầu lên mới thấy rõ, hóa ra trong tay quân sĩ không chỉ có đuốc lửa chiếu sáng mà còn có từng đoạn vải dầu che trên nóc kiệu trúc, dường như bọn họ đang xây dựng một túp lều dài dẫn thẳng lên tận đỉnh núi.
Trên đỉnh đầu vang lên âm thanh xào xạc không ngừng nhưng không một giọt mưa nào rơi xuống người nàng.
Khung cảnh hoành tráng nhường này… Trâm Anh chỉ thấy khi Hoàng Đế xuất hành du ngoạn mà thôi.
Vải dầu gặp nước tỏa ra mùi tùng xanh ẩm ướt rất riêng biệt, tiểu nữ nương hít sâu một hơi, trợn tròn mắt, nhìn bầu trời liên tục trút xuống từng trận mưa lớn. Mà ngọn đuốc dựng đứng hai bên sườn núi vẫn tỏa sáng rực rỡ trên cao, áng mây đen trên đầu chẳng thể nào áp chế được.
Trong lòng của nàng bỗng nhiên xuất hiện cảm giác an toàn vô cùng quái lạ.
Có lẽ lúc trước nàng đã nghĩ lầm rồi, có lẽ vị Đại Tư Mã kia không đáng sợ như thế.
Hắn nguyện ý hao tổn công sức sai người tới đón nàng, vừa che mưa vừa khiêng kiệu, có phải điều này chứng tỏ hắn không chuyển dời sự căm hận đối với Dữu thị lên người nàng đúng không?
Đợi lát nữa đến được hành cung, nàng phải gặp mặt cảm tạ hắn mới được.
Chỉ sợ lúc lên tới đỉnh núi đã muộn, quấy rầy vị Đại Tư Mã quan cao chức trọng kia khiến người ta không thích. Nhưng không đi lại có vẻ hơi thất lễ…
Thiếu nữ mười lăm tuổi thoát khỏi l*иg giam giờ phải tự mình đối mặt với hết thảy mọi việc, ngay cả đạo lý đối nhân xử thế học được trong sách vở cũng chẳng có đất dụng võ, tận sâu bên trong chỉ là sự ngây ngô, non nớt mà thôi.
Trong khi nàng vẫn còn đang rối rắm không biết nên hành xử thế nào thì Nhậm nương tử đi theo phía sau khẽ chạm vào cánh tay Đỗ chưởng quỹ, thì thầm: “Đây chẳng phải là Vệ Thập Lục…”
Chữ ‘Lục’ kia còn chưa nói hết, Đỗ chưởng quỹ lập tức vươn tay che miệng bà, trong lòng khẽ run lên: “Bà cô tổ của ta ơi, danh hiệu kia đâu thể dùng tùy tiện như vậy được!”
Nhậm nương tử gỡ tay ông xuống, lo lắng nhìn thân ảnh mềm mại trước mắt, hạ giọng trong tiếng mưa rơi: “Ta chỉ muốn nói hôm nay… là ngày mười sáu nhỉ…”
Đỗ chưởng quỹ nghe vậy bèn trầm mặc hồi lâu, vuốt râu buồn bực nói: “Tin đồn cũng chưa chắc là thật.”
Lực tay quân sĩ nâng kiệu vững vàng như đúc sắt, một đường lên núi chẳng khác gì như đang đi trên đất bằng, Trâm Anh không thấy xóc nảy chút nào. Rất nhanh kiệu trúc đã lên tới đỉnh núi, đi qua cổng chào cao chót vót, tiến vào hành cung.
Mưa vẫn không ngừng rơi, trong bóng đêm mông lung không thấy rõ toàn cảnh hành cung. Ngón tay Trâm Anh bám chặt lấy ghế trúc, hơi nghiêng người sang, chỉ thấy mái hiên cong cong nơi đầu hồi dần lướt qua tầm mắt, từng dãy hành lang dài dần hiện ra.
Đèn l*иg bát giác bị mưa hắt vào, nhẹ nhàng lay động dưới vòm mái cong cong, tạo cảm giác vừa hoa lệ vừa mông lung.
Đây chính là nơi mẫu thân và Vệ nương nương từng ở cùng nhau.
Nàng lưu luyến thu hồi tầm mắt, nói lời cảm tạ với bốn vị quân sĩ, ý bảo nàng có thể xuống kiệu tự mình đi.
Không ngờ bốn người kia nhất quyết không buông tay vì sứ mệnh vẫn chưa được hoàn thành. Bọn họ nâng kiệu trúc tiến vào đông điện, đi qua bậc thềm lát đá, đặt kiệu ngay trước mái hiên chính điện.
Khổ cho nàng phải đắn đo suy nghĩ mãi suốt cả chặng đường, người ta đã đưa nàng tới tận cửa rồi đây.
Trâm Anh chậm rãi bước xuống kiệu trúc, lặng im không một tiếng động bước qua hành lang dài làm bằng gỗ sam.
Dọc đường đi, bàn chân nàng chẳng dính chút nước nào.
Nàng ngước mắt lên nhìn, hai cánh cửa gỗ khắc hoa hải đường được mở ra ngay lập tức.
Ánh sáng trong điện dần hiện lên rõ ràng hơn.
Cả trong lẫn ngoài đều yên lặng không một tiếng động.
“Vị này là tiểu nương tử của Đường phu nhân.”
Ngoại trừ Hắc giáp vệ đứng gác ngoài cửa, còn có một vị nam tử độ tuổi trung niên mặc bộ y phục bằng vải trúc bước ra nghênh đón, cũng phá vỡ sự yên lặng vốn có.
Thấy vị tiểu nương tử mặc y phục trắng như tuyết, bên ngoài khoác áo choàng Quan Âm, khí tức thanh tao, nhẹ nhàng. Ánh mắt văn sĩ mặc áo vải mờ mịt trong giây lát, chợt nhớ lại hồi ức về một vị cố nhân.
Ông ấy không dám nhìn lâu nữa, gật đầu nói: “Tướng quân đang chờ bên trong, mời Phó nương tử vào.”
Đã nhiều năm rồi Trâm Anh không tiếp xúc với nam giới nhưng nàng không hề sợ hãi. Nàng nhẹ nhàng hành lễ, trầm ngâm nói: “Ban ngày không thể gặp mặt Đại Tư Mã ở trong cung, theo lý, A Phó nên tới cảm tạ Đại Tư Mã. Có thể cho ta chút thời gian tắm rửa, thay y phục rồi tới bái kiến được không?”
Nàng được ma ma dạy dỗ rằng trước khi gặp mặt người tôn quý phải tắm rửa sạch sẽ, thay y phục gọn gàng, một thân phong trần gặp mặt người khác như này rất thất lễ.
Văn sĩ mặc áo vải híp mắt cười, nếp nhăn ở đuôi mắt lộ ra vẻ từ ái: “Không sao cả.”
Vậy… cũng được, coi như khách nghe theo chủ đi. Trâm Anh suy nghĩ xong bèn cởϊ áσ choàng giao cho Xuân Cẩn, phủi nhẹ hai tay áo, gấp gọn lại rồi mới bước vào trong điện.
Đỗ chưởng quỹ muốn đi theo đã bị văn sĩ giơ tay ngăn lại, cười ha hả nhìn ông: “Đỗ chưởng quỹ, đã nhiều năm không gặp mặt, ngươi vẫn khỏe chứ?”
Đỗ Phòng Phong bị ép đứng ở ngoài, không còn nhìn thấy bóng người sau tấm bình phong đâu, trong lòng càng thêm sốt ruột lo lắng, nào có tâm tình hàn huyên với người này nữa. Ông gọi thẳng tên đối phương, hỏi chuyện: “Từ Thật, không sao chứ?”
Dường như biết ông đang băn khoăn điều gì, nụ cười trên gương mặt Từ Thật chợt biến mất.
“Không sao.”
Đỗ chưởng quỹ nhìn thật sâu vào mắt ông ấy, không nói thêm câu gì, khoanh tay lẳng lặng đứng chờ ngoài hành lang.
Trâm Anh vừa mới bước chân vào trong điện đã cảm nhận một làn gió ấm vô cùng kỳ quái. Nàng dừng bước cách tấm bình phong, lên tiếng:
“A Phó bái kiến Đại Tư Mã, đêm hôm đến tận đây, mong đại nhân chớ trách tội.”
“Vào đi.” Một giọng nói vang lên.
Trâm Anh do dự một chút, cất bước vòng qua tấm bình phong sơn thủy.
Nàng hạ thấp tầm mắt theo đúng lễ phép, cũng chưa từng ngẩng đầu nhìn loạn. Chi tiết đầu tiên mà nàng để ý tới là bốn tòa đỉnh đồng trấn giữ bốn góc gian phòng.
Than củi cháy hừng hực trong đỉnh đồng kia.
Giờ đang là thời tiết giữa hè, vậy mà vẫn có người đốt than trong phòng ư?
Trâm Anh chợt quên mất lễ nghĩa, nhịn không được bèn ngẩng đầu lên, đối diện với nam nhân kia.
Trong phòng bày một chiếc giường hành quân, vị Đại Tư Mã ngồi trên đó, một phần mái tóc xõa xuống như thác nước, một phần được búi trâm gỗ, mày kiếm sắc bén, cằm gầy mà môi mỏng. Vẻ ngoài không giống võ tướng nhưng lại tuấn dật xuất trần không thể diễn tả được.
Chỉ là không biết bởi vì màu tóc của hắn quá đen hay là màu da quá trắng, tôn lên khuôn mặt trắng trẻo ma mị, ngay cả lông mi của hắn cũng mang đến ảo giác như phủ một tầng sương mù.
Thế nhưng tất cả đều không thay đổi được điểm kỳ quái nhất: trên người nam nhân này đang quấn một chiếc áo lông chồn màu đen.
Mặc áo lông chồn giữa mùa hè.
Trước đây, Trâm Anh chỉ từng đọc qua trong sử sách về dáng vẻ uy phong lẫm liệt của một vị đại tướng.
Nhưng người trước mắt vừa không phong lưu vừa không phóng đãng, đôi giày đen vững vàng đặt trên mặt đất thể hiện rõ khí thế nhạc trĩ uyên đình*. Đôi mắt kia nhẹ nhàng chớp một cái khiến Trâm Anh lập tức liên tưởng đến khe tuyết đóng băng dưới ngọn núi Vạn Nhận.
Nàng ngẩn người hồi lâu, hoàn toàn quên mất lễ nghĩa phải vấn an như nào, phải cảm tạ như nào.
Chỉ có đôi môi đỏ mọng vô thức khẽ nhếch lên, con ngươi nhìn thẳng vào hắn.
Trong gian phòng ấm áp, ánh mắt nam nhân vẫn lạnh lẽo như cũ. Hắn nhíu mày, để mặc tiểu cô nương nhìn mình.
Nhìn nhau một lúc lâu, đáy mắt nam nhân chậm rãi hiện lên một tia ấm áp, tầng sương mù dần tan, hóa thành một vũng nước ngưng tụ ở đuôi mắt rét lạnh.
“A nô…” Hắn khẽ thở dài: “Đã trưởng thành rồi.”
A nô là tục ngữ Nam Triều, chỉ có trưởng bối trong nhà mới dùng cách gọi thân mật với tiểu bối như thế.
Trong nháy mắt, trái tim Trâm Anh bỗng dưng thắt chặt lại.
Nàng sống hai đời nhưng không có cơ hội được nghe được phụ mẫu gọi nàng như thế. Lão nhân Phó gia sẽ chẳng bao giờ gọi nàng như vậy, Đế Hậu lại càng vô tâm hơn.
Tất cả sự đề phòng, bất an, do dự lập tức tiêu tán, thay vào đó là một loại uất ức khó hiểu.
Nàng nhìn nam tử tuấn tú trước mắt, phảng phất như thể hắn vừa mới bước ra từ trong trang sách. Không biết là thân hay lạ, nàng ấp úng mãi một chữ ‘Ngươi’, không nói nổi được một câu hoàn chỉnh.
Nam nhân không đợi được đến lúc tiểu cô nương mở miệng gọi mình, hắn khẽ nhíu mày, nhẫn nại tự giới thiệu bản thân: “Ta là Vệ Du.” Dừng lại một chút, hắn bổ sung thêm: “Du trong mong ước.”
(*) Nhạc trĩ uyên đình: nghĩa là ‘nghiêm như núi đứng, thẳm như vực sâu’, tức là ngọn núi cao thẳng, đứng sừng sững, vực thẳm sâu đến mức nước trong vực không chảy đi đâu được nữa.