Quyển 1 - Chương 1: Bãi sậy xanh rờn, đao tay tuyết trắngVua Hán say A Kiều, xây cung vàng khoá chặt
Tiếng ho động trời xanh, vui bảo là tiếng nhạc
Nuông quá làm thương hết, ghen nhiều khiến tình tan
Trường Môn một bước ngang, xe không buồn ghé tới
Mưa nào ngược lên trời, nước đổ rồi khó hốt
Tình chàng và ý thϊếp, chia hai ngả đông tây
Đoá phù dung xưa rồi, nay thành cỏ đứt rễ
Sắc mê người có thể, được bao sâu, bao lâu…
(Thϊếp mệnh bạc – Lý Bạch)[1]
[1] Bản dịch toàn bộ thơ và phú trong truyện thuộc về người dịch.
Vào khoảnh khắc đó, y hờ hững xoay người bỏ đi, mặc câu thề nguyền thời ấu thơ sẽ xây lầu vàng cho nàng dần trở nên hoang lạnh rồi tan tành đổ vỡ.
Vào ngày hôm đó, định mệnh xô đẩy nàng tình cờ gặp lại người thầy – người bạn tốt ngày trước, để trong lòng lại ngân lên niềm hy vọng mới.
Vào tháng đó, y ngắm nhìn khuôn mặt bầu bĩnh đáng yêu của nàng, để chợt nhận ra có cố gắng bao nhiêu cũng là vô vọng, nhưng khi nàng ngẩng đầu nhìn lên thì y lại thật lòng tin vào nụ cười trong sáng ấy.
Vào năm đó, nàng vẫn lẩn quẩn trong chốn hồng trần, muốn né tránh nhưng cuối cùng vẫn không thoát khỏi số phận vốn thuộc về mình, vĩnh viễn chẳng thể quay về như thuở ban đầu. Cuộc đời này của chúng ta… Khi tóc đã bạc, hãy nhắm mắt lại hồi tưởng về cuộc đời, tất cả buồn, vui, tan, hợp sẽ hiện lên rõ ràng như mới ngày hôm qua, sẽ thấy hằng hà sa số nhân duyên mà chúng ta đã bỏ lỡ chỉ bởi vì như con chim một lần bị bắn tên nên mãi sợ cành cong. Nào phải không yêu chàng, nhưng sao mãi chẳng thể khiến trái tim tin vào tình yêu của chàng. Thời gian như nước trôi qua cầu, có thể làm dịu đi nỗi đau nhưng làm sao bắt được một con tim từng bị tổn thương không đề phòng người ngày đó đã từng phụ bạc?
Chuyện đời khi gieo “nhân” có ai lường được “quả” ngày sau. Quyền uy đế vương trên thế gian nào miễn cưỡng được nhịp đập trái tim. Chẳng thể nói nên lời nỗi hối hận khôn cùng, hối hận đã tàn nhẫn đẩy nàng rời xa vòng tay, hối hận đã để qua đi những ngày tháng nhan sắc rạng ngời.
Tiết Thanh minh năm 2007, một năm sau ngày mẹ mất, Hàn Nhạn Thanh một mình đến chùa Viên Giác trên núi Li Sơn thắp nén nhang trước vong linh của mẹ.
Sau khi cha nàng bỏ rơi hai mẹ con, mẹ một lòng một dạ tìm đến với đức Phật để lãng quên những yêu hận khó phân. Người có niềm tin vào đức Phật, coi trọng tứ đại giai không[2], nếu còn vương vấn chốn hồng trần thì sao có thể đến được cõi Phật? Vì thế, sau khi nuôi dưỡng con gái trưởng thành, mẹ nàng đã rời bỏ thế giới này. Khi nhìn thấy nụ cười trên khuôn mặt mẹ trước lúc từ trần, trong lòng nàng mờ mịt không hiểu, phải chăng cái chết với bà chính là một sự giải thoát?
[2] Trong giáo lý nhà Phật, cụm từ “tứ đại giai không” có nghĩa là thân xác con người do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) hợp thành, đến khi hết duyên thì nó tan rã, tất cả chỉ là hư không.
Sau khi mẹ mất, Hàn Nhạn Thanh đã thắp một ngọn đèn thờ ở chùa Viên Giác theo đúng tâm nguyện của bà, hàng năm cứ đến ngày rằm và tiết Thanh minh đều đến lễ chùa. Mỗi lần nhìn ánh đèn hiu hắt trên bàn thờ, nàng đều cảm giác như mẹ đang lặng lẽ trở về ngắm nhìn đứa con gái mà bà để lại nơi trần thế. Ánh mắt của mẹ vẫn hiền từ, đầy ưu tư, lặng lẽ ngắm nàng như trong suốt gần hai mươi năm qua, từ khi nàng còn là đứa trẻ sơ sinh bé bỏng đến lúc lớn lên trở thành một nữ học viên cảnh sát đầy mạnh mẽ. Vậy mà đến hôm nay, khi nàng đã thật sự trưởng thành, đạt được ước mơ thuở nhỏ là trở thành nữ cảnh sát thì mẹ lại không còn nữa. Nàng cứ như vậy quỳ trong tiền đường của chùa, cảm giác thật lạnh lẽo.
Mẹ ở chỗ này, chắc cũng lạnh lắm.
Nàng dần không nhớ được khuôn mặt của cha, nhưng vẫn luôn nhớ mẹ thỉnh thoảng trốn vào một góc vắng, khe khẽ ngâm nga khúc hát bi ai của cuộc đời. Trong bài hát đó có câu “Chỉ thấy ai cười vui với người đẹp lầu vàng, lòng lãng quên những thương đau thuở nghèo hèn, để cuối cùng bỏ rơi người vợ buổi gian nan.” Khi còn rất nhỏ, nàng ngây thơ, không hiểu được những buồn đau trong lòng bà nên đã hỏi, “Mẹ ơi, người đẹp lầu vàng nghĩa là gì?”
Mẹ nàng lặng người, suy nghĩ một lúc mới từ từ kể lại, “Ngày xửa ngày xưa, triều nhà Hán có một vị hoàng đế tên là Hán Vũ Đế, hoàng hậu đầu tiên của ông tên là Trần A Kiều. Họ cùng lớn lên, thân thiết với nhau. Hán Vũ Đế từng hứa với người chị họ rằng: Nếu có một ngày ta lấy được Trần A Kiều làm vợ, ta sẽ xây lầu vàng cho nàng ở.”
Nàng chép miệng, lấy làm lạ, “Hai người là chị em họ[3], chẳng phải là không được kết hôn sao?”
[3] Sử chép, Trần A Kiều là con gái của Trưởng công chúa Quán Đào Lưu Phiếu – chị gái của vua Hán Cảnh Đế. Vua Hán Cảnh Đế là phụ thân của Hán Vũ Đế, vì vậy Trần A Kiều xét theo quan hệ huyết thống là chị họ của Hán Vũ Đế.
“Việc này…”, mẹ nàng lặng người một lát, “Triều Hán không tính đến.”
“Ồ”, Hàn Nhạn Thanh cũng không để tâm, cúi đầu hỏi tiếp, “Chuyện xưa mở đầu thật đẹp. Hơn nữa chẳng phải Trần A Kiều là hoàng hậu của Hán Vũ Đế sao? Thế nào mà cuối cùng lại mang tiếng trở thành hồ ly tinh cướp chồng người chứ?”
“Bởi vì…”, giọng mẹ đau thương, “Bà hoàng hậu họ Trần này có hậu vận rất buồn thảm. Khi người chồng vốn là em họ của nàng lên làm hoàng đế thì đã phế nàng, lập người con gái họ Vệ làm hoàng hậu, bỏ mặc nàng một mình đằng đẵng trong cung Trường Môn đau khổ đợi ông ta suốt hơn hai mươi năm. Cho đến khi chết, Hán Vũ Đế cũng không hề tới gặp nàng.”
“Thϊếp tóc xoà trên trán, trước cửa hái hoa chơi
Chàng cưỡi ngựa trúc đến, vòng quanh ghẹo đẹp đôi.”[4]
“Hoa phù dung thuở trước, Cỏ đoạn trường hôm nay.”[5]
[4] Đây là đoạn trích trong bài ‘Trường Can hành (Bài ca ngõ Trường Can)’ của Lý Bạch. Trường Can là tên một con ngõ cổ, nay thuộc phía nam thành phố Nam Kinh, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc.
[5] Chính là câu thơ “Đoá phù dung xưa rồi, nay thành cỏ đứt rễ” trong bài Thϊếp bạc mệnh của Lý Bạch.
Người đẹp lầu vàng cái gì chứ, tất cả đều là giả dối, cuối cùng chẳng qua cũng chỉ là lãnh cung Trường Môn, nơi chứng kiến những tháng ngày cuối đời buồn thảm của người phụ nữ đã từng ôm mộng ước.
Chuyện xảy ra đã hai nghìn năm nhưng khi nghe kể lại, nàng vẫn cảm nhận thấy nỗi bi thương của người xưa. Đàn ông trên đời thường phụ bạc, vô tình nhất ấy là bậc đế vương. Khi mẹ chết, cha nàng cũng không hề đến nhìn mặt. Tuy nàng oán hận nghĩ rằng: Cho dù cha có đến nàng cũng không chịu cho ông tới vái trước linh cữu của mẹ, nhưng việc ông từ đầu tới cuối không tới vẫn khiến nàng thấy đau khổ trong lòng. Cha thật sự không hề nhớ đến mẹ con nàng, vậy cũng chẳng sao, người làm cha đã vô tình thì người làm con là nàng cũng sẽ quên lãng. Cõi đời này vốn không có ai vì mất ai mà không sống nổi.
Nàng vái lạy mẹ xong, vừa đứng dậy quay người định bước đi thì bỗng giật mình. Không biết từ khi nào, một vị hoà thượng mặc áo cà sa, đầu tóc bạc trắng đã đứng cách sau nàng mấy bước, đang chắp tay trước ngực, lên tiếng, “Chào nữ thí chủ.”
Ánh mắt hoà thượng từng trải, dáng vẻ tiên phong đạo cốt[6], chỉ là nàng hoàn toàn không hay biết ông ta đã tiến vào điện từ khi nào. Đã đứng ở đây chắc là sư trụ trì của chùa, nàng nghĩ rồi đáp lời, “Chào Đại sư.”
[6] Tiên phong đạo cốt: Phong cách của người tu tiên.
“Lão nạp là Thiên Mi”, hoà thượng trả lời hiền hoà, “Trông thấy tướng mạo của nữ thí chủ rất kỳ lạ, nhưng với tu hành của mình thì lão nạp nhìn không thấu, thế nên cầu nữ thí chủ rút giùm cho một quẻ.”
Chùa Viên Giác dùng cách này kiếm tiền từ khi nào vậy? Nàng thầm kinh ngạc, lắc đầu đáp, “Tôi không tin quẻ bói.”
“Điều này đâu phụ thuộc vào chúng ta chứ”, đại sư Thiên Mi vẫn điềm đạm, “Thí chủ tin hay không tin thì số trời cũng đã định.”
Nàng không lay chuyển được hoà thượng, bất đắc dĩ cũng đành chọn lấy một quẻ thẻ ở sát thành ống, mở ra nhìn thì thấy là một bài thơ thất ngôn:
“Cháu con Cao Tổ thuộc chi đầu,
Tâm hồn đạm bạc lòng thanh cao.
Xây đài trùng điệp ba nghìn dặm,
Dùng hết cát xong mới đến tiền.”
Tên quẻ là bốn chữ lớn: Kim ốc tàng Kiều[7].
[7] Kim ốc tàng Kiều: Lầu vàng cất người đẹp. Nhắc tới câu chuyện của Hán Vũ Đế và Trần A Kiều như lời nhân vật kể bên trên, nay đã trở thành điển tích.
Nàng nhíu mày không hiểu, “Quẻ này cát hung thế nào?”
Thiên Mi tỏ vẻ quái lạ, xem thật kỹ rồi thở dài, “Quẻ này thật là kỳ lạ, nằm ngoài khả năng giải thích của lão nạp. Không phải là quẻ hung, cũng không phải quẻ cát, số phận sau này của thí chủ ra sao thì chắc chỉ có bản thân thí chủ mới quyết định được. Nhưng thí chủ đi lần này nhất định sẽ gặp kỳ ngộ.”
Hàn Nhạn Thanh bật cười, càng cảm thấy hoà thượng này đang lừa dối liền hỏi cho qua chuyện, “Giải thích quẻ hết bao nhiêu tiền?” Thiên Mi lắc đầu chắp tay đáp, “Bần tăng chẳng qua chỉ tò mò về số phận của thí chủ chứ không có ý định trục lợi. Thí chủ đi lần này cần phải cẩn trọng.”
Ông ta nhìn theo hút Hàn Nhạn Thanh xuống núi rồi xoay người lại chắp tay lạy Phật tổ trong Đại Hùng bảo điện, “Số phận đã được U Minh định trước. Ý trời rất kỳ diệu, đâu phải có thể dễ dàng tiết lộ. Chỉ là…”, ông ta than một tiếng, “Hy vọng bọn họ sẽ không phải hối hận.”
Hàn Nhạn Thanh vừa xuống Li Sơn thì nghe tiếng chuông điện thoại di động reo vang. Quý Đan Tạp gọi tới, giọng háo hức: “Nhạn Thanh, chúng ta đã được giao nhiệm vụ đầu tiên, đó là đóng giả thư ký để bảo vệ giám đốc của một công ty đã lên sàn chứng khoán của thành phố này, hình như ông ta tên là Mạc Ung Niên, có thích không?”
Mặc dù trong trường cảnh sát, nàng và Tạp Tạp cũng chịu mức huấn luyện không hề dễ hơn các nam sinh, nhưng không thể phủ nhận rằng các nữ cảnh sát luôn bị coi thường. Hai người đều mới vào nghề, nếu không phải lần này nhất định phải sử dụng nữ cảnh sát thì có lẽ các nàng còn phải ở lại đội rèn luyện thêm mấy tháng nữa mới có thể được giao nhiệm vụ.
“Cấp trên yên tâm giao cho hai chúng ta sao?”, nàng hỏi.
“Không đâu”, giọng Tạp Tạp hơi bực bội, “Họ đã chỉ định đội trưởng, chúng ta chỉ là đầu sai thôi.”
“Không nên nản chí, một ngày nào đó bọn họ sẽ biết tay tiểu thư Tạp Tạp của chúng ta”, nàng trêu chọc, “Tớ sẽ về ngay.”
Nàng đâu biết rằng, bọn họ không đợi được đến ngày đó. Ngay trong Tuần lễ vàng chào mừng ngày mồng một tháng Năm, đài truyền hình Tây An đưa tin, “Rạng sáng ngày hai mươi chín tháng Tư, một chiếc xe con hiệu Audi đang chạy bỗng phát nổ, hai nam hai nữ trên xe, không ai sống sót. Chủ xe là Mạc Ung Niên, giám đốc điều hành Công ty X. Cảnh sát địa phương đã tiến hành điều tra, cho biết vụ nổ lần này nghi là do…”
Vụ thảm án bất ngờ đã mang điềm gở đến cho Tuần lễ vàng, tuy nhiên bốn người trên xe đã không còn chứng kiến được điều này, câu chuyện của bọn họ lại nổi lên huy hoàng ở một thế giới khác…
Thϊếp tóc xoà trên trán, trước cửa hái hoa chơi
Chàng cưỡi ngựa trúc đến, vòng quanh ghẹo đẹp đôi
Trường Can cùng chung xóm, còn bé chẳng quan hoài
Mười bốn nên chồng vợ, ngượng ngùng lắm chàng ơi
Quay tường đầu rúc gối, gọi ngàn lần kệ thôi
Mười lăm thì trổ dáng, nguyện muôn kiếp không rời
Giữ lòng tin son sắt, ngại chi vọng phu đài?
Mười sáu chàng đi tận, Cù Đường Diễm Dự rồi
Năm tháng không được gặp, vượn kêu buồn thấu trời
Dấu chân lưu trước cửa, rêu xanh đã phủ dài
Nhiều đến không quét nổi, thu thêm lá vàng rơi
Tháng Tám bươm bướm đến, vườn Tây bay cặp đôi
Cám cảnh đau lòng thϊếp, buồn dâng ngập mắt môi
Đến Tam Ba nhớ nhé, sớm biên thư báo nhà
Đón chàng dầu xa mấy, cũng đến Trường Phong Sa.
A Kiều trong tuyệt vọng, lệ đẫm hoa phù dung
Hoa phù dung hay biết, đưa nàng vượt Trường Môn
Lau sậy kêu xào xạc, nhạn về gáy râm ran
Cùng đường gặp sư phụ, buồn đau ẩn non ngàn
Tay ngọc sao trà búp, tinh xảo thêu áo quần
Ca khúc ca tạp kỹ, các bạn cũ hân hoan
Thân mang nhiều tài nghệ, chuyện bếp núc sao đang
Nên duyên nhờ mộng đẹp, trẻ í ới gọi vang
Nguyện sống đời dân dã, chẳng làm vợ đế vương
Luôn như chim liền cánh, giục ngựa đến biên cương.
(Thủ thi[1])
[1] Thủ thi: Bài thơ mở đầu.
L*иg ngực đau buốt khiến Hàn Nhạn Thanh dần dần từ mơ hồ tỉnh lại, thấy bốn bề chìm trong màn đêm tĩnh mịch, hồi sau quen mắt mới nhìn rõ cảnh vật xung quanh. Dọc theo con sông chầm chậm chảy xuôi là bến sông ngập cát. Tiết trời áng chừng đang là cuối thu, từng vạt lớn lau sậy khô xáp dập dờn theo gió khiến hai bên bờ như một vùng biển trắng.
Cảm giác vô cùng đau đớn, nàng hận không chết ngay đi được. Cúi đầu nhìn xuống thấy cả một mảng máu lớn đã nhuộm thẫm áo gấm, do quá lâu nên đã chuyển thành màu đen xỉn. Vì nàng đang nằm sấp trong vùng bờ sông nước cạn, dòng chảy tràn qua phần nửa gương mặt chìm dưới nước và vết thương khiến máu chầm chầm chảy xuôi theo dòng nước, càng loang xa càng nhạt dần.
Một cơn gió lạnh buốt thổi quét qua mặt sông. Hàn Nhạn Thanh gắng gượng đứng lên, xiêm y đoan trang hoa mỹ sũng nước dán chặt vào người cực kỳ khó chịu. Nàng cầm vạt áo lên xem thì hình như là của triều Hán, chất vải rất sang trọng. Ai có thể nói cho nàng biết rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Không gian hoang vắng không một bóng người, chỉ có mấy con chim rừng không biết tên bay vυ't qua sông rít lên những tiếng chói tai.
Không ai có thể trả lời.
Vết thương sâu toác ra như vậy chỉ có thể do đao, mà phải là đại đao tạo thành. Hàn Nhạn Thanh nghĩ như vậy rồi bất giác soi mặt mình trên dòng sông. Sóng nước lấp loáng phản chiếu một gương mặt mơ hồ, nhợt nhạt, cây trâm phượng lỏng lẻo bên vành tóc, búi tóc xộc xệch, tuy vậy vẫn không thể che lấp vẻ xinh đẹp và kiêu ngạo. Mặc dù mặt mày giống nàng như đúc nhưng rõ ràng lại không phải.
Hàn Nhạn Thanh chợt thấy ớn lạnh, nhớ lại cảnh Đại sư Thiên Mi của chùa Viên Giác đầu tóc bạc trắng, chắp tay trước ngực, nói giọng trang nghiêm: “Thí chủ đi lần này nhất định sẽ có kỳ ngộ, cần phải cẩn trọng.”
Chẳng lẽ “kỳ ngộ” mà Đại sư Thiên Mi nói lại là tình huống này? Thể xác của nàng đã mất đi trong tai nạn xe hơi của ngàn năm sau, linh hồn thì thoát ra nhập vào thân thể một người phụ nữ của ngàn năm trước. Nếu vậy thì thẻ xăm “Kim ốc tàng Kiều” phải giải thích thế nào đây? Nàng cũng không rảnh để suy nghĩ thêm, những giọt máu tươi đỏ thẫm đổ loang trên áo quần đang làm nàng kiệt sức. Vết thương của nàng vốn nghiêm trọng, lại bị ngâm nước lâu, nếu không tìm nơi chữa trị thì chắc chắn nàng sẽ mất máu quá nhiều mà chết. Huống hồ, nàng nhíu mày, vết thương như vậy chắc chắn là do có người đuổi gϊếŧ… Hàn Nhạn Thanh cười bất đắc dĩ, thầm nghĩ có lẽ từ đáy lòng mình đã thừa nhận sự thật không thể giải thích này.
Dù là như thế thì thân phận của người phụ nữ mà mình nhập vào là gì?
Nàng xử lý sơ qua vết thương rồi xuôi theo dòng nước, xuyên qua những bãi lau sậy lớn, đi về phía thượng du với hy vọng có thể tìm được một nhà dân nào đó. Đi được một lúc thì nghe phía sau có tiếng động lạ, rồi cả bầy chim rừng xáo xác bay vụt lên, nhìn hơi choáng ngợp. Nàng cười khổ một tiếng rồi cẩn thận ẩn mình trong đám sậy phất phơ, lát sau đã nghe được tiếng bước chân rậm rịch.
Nàng cau mày, thầm hiểu nhiều khả năng toán người này là điều bất lợi với mình, cho dù họ có lòng tốt đi tìm thì mình, một linh hồn hoàn toàn khác cũng làm sao có thể gặp họ? Quả nhiên, chỉ lát sau, nàng đã thấy một toán người áo đen tay cầm đao kích, vừa giơ cao đuốc tìm kiếm tung tích vừa đi tới bên này, “Lão đại, chúng ta đã phát hiện dấu vết phế hậu lúc ở bờ sông trước đây khoảng hai tuần hương, sau đó thì không thấy gì nữa, có phải phế hậu đã đi về hướng khác hay không?”
Hàn Nhạn Thanh giật mình, phế hậu, chẳng phải đang nói nàng sao? Xem ra lai lịch của nàng thật sự không đơn giản. Nhưng trong lịch sử có biết bao hoàng hậu bị phế, vậy nàng là người nào chứ? Thê thảm hơn là dù có chuyện hoang đường đó thì thật sự cũng không còn cách gì, nhìn theo trang phục thì chắc đang là triều Hán…, triều Hán… Nàng nhớ tới thẻ xăm kia, bỗng nhiên thở dài, lòng dâng lên một dự cảm không lành.
Trên bãi đất trống, tên thủ lĩnh có khuôn mặt vuông vức của bọn áo đen phất tay, “Hướng khác đã chia người tìm rồi, ngươi lo lắng cái gì? Nếu một phụ nữ được nuông chiều từ nhỏ có thể trốn thoát được thiên la địa võng như thế này thì chúng ta còn mặt mũi nào làm việc cho chủ nhân… Lục soát cẩn thận, tuyệt đối không thể để ả sống mà thoát ra.”
Càng lúc càng thấy lạnh, Hàn Nhạn Thanh khẽ run lên. Nàng thật sự chưa bao giờ thấy mình phải chịu khổ ải như vậy, không chỉ vì thân phận hư hư thực thực khiến cho bản thân nàng cũng muốn chết đi, mà còn vì vừa tỉnh dậy đã rơi vào tình thế quẫn bách trọng thương bị đuổi gϊếŧ. Nàng nhìn lại cánh tay mảnh mai thon dài được chăm sóc kỹ càng. Thật sự không phải là đôi tay thích hợp để đánh nhau, nhưng vì muốn giữ lại mạng sống, cũng chỉ có thể nỗ lực thử dùng chúng một lần. Hàn Nhạn Thanh là một nữ cảnh sát nên dĩ nhiên cách chạy trốn sẽ không giống với một hoàng hậu cành vàng lá ngọc. À không đúng, nàng nhanh chóng cải chính, là “phế hậu.” Không biết người đó đã chạy trốn kiểu gì mà lại trưng ra nhiều dấu vết thế kia. Nhưng chính vì vậy mà toán người áo đen đang đuổi gϊếŧ theo nàng buộc phải phân tán lực lượng, chia ra tìm kiếm, điều đó cũng đã tạo cơ hội cho nàng. Nàng nín thở, cầu nguyện mình may mắn. Vào lúc đó, một tên áo đen tiến đến gần, nàng dùng niết tự quyết, dồn hết sức chọc mạnh những ngón tay vào động mạch cổ của hắn.
Đây là một đòn cận chiến sát thủ của cảnh sát. Người áo đen nghĩ đang truy tìm một phụ nữ yếu ớt trói gà không chặt, song đối mặt với hắn lại là một nữ cảnh sát đã lăn lộn ba năm trong ngành. Nếu như không phải bây giờ đã gần như kiệt sức, lại còn phải chú ý che giấu động tĩnh, thì chỉ với một đòn này nàng đã có thể lấy mạng hắn. Song cũng vì hoàn cảnh khó khăn đó mà Hàn Nhạn Thanh lại xuất ra toàn bộ tiềm lực khiến đối phương không kịp kêu lên một tiếng đã gục xuống.
Sau một đòn đắc thủ, Hàn Nhạn Thanh cảm thấy trước mắt hoa lên, đầu choáng váng, l*иg ngực lại đau rát. Nàng biết đây là khoảnh khắc mấu chốt quyết định sinh tử, gắng sức tiếp lấy thanh đao của đối phương đang rơi xuống, sau đó vò rối mái tóc, cẩn thận lột y phục của người áo đen thay vào rồi xuống tay độc ác, bảo đảm trong thời gian ngắn hắn sẽ không tỉnh lại. Tiếp đó nàng bới lấy một chút bùn lầy xoa lên tay, không dám xoa quá nhiều lên mặt, sợ giấu đầu hở đuôi. May là giữa đêm khuya, bầu trời không một ánh sao nên không bị phát hiện. Làm xong mọi việc thì vừa lúc có người ở gần gọi với, “Có tung tích nào không vậy?”
Hàn Nhạn Thanh ậm ừ mấy tiếng, bên kia kinh ngạc hỏi lại, “Tiểu La, làm sao thế?”
Nàng phất tay ý bảo không có gì, mấy người kia liếc thấy bóng dáng lờ mờ thì yên lòng đi qua. Hàn Nhạn Thanh lục lọi trong ngực đối phương, lấy ra ba xâu tiền cùng một vật đánh lửa. Nàng cầm lấy vật đánh lửa, nhìn đám lau sậy bên cạnh nghĩ đến tình cảnh khốn đốn hiện giờ cùng sự truy sát vô cùng vô tận ngày sau, đành nghiến răng trở lại, nhanh chóng đem bộ y phục của mình mặc qua loa trên người Tiểu La, rồi lại đem cây trâm phượng hoàng có tua cài vào tóc hắn, thầm niệm một câu xin lỗi rồi đánh lửa châm vào đám lau sậy. Khi lửa đã bốc cao, nàng đột nhiên thét lên một tiếng chói tai, luồn trong bóng đêm theo đường ban nãy tới mà chạy.
“Cháy rồi!”, đám người áo đen hoảng loạn kêu lên.
“Mới rồi nghe thấy tiếng thét của phụ nữ, hay là phế hậu?”
Đang ngày mùa thu, đất trời khô ráo, lại được gió thu giúp thế nên cả bãi sậy bốc cháy bừng bừng, ánh lửa sáng ngời. Đến lúc đám người áo đen dập tắt lửa thì chỉ thấy một thi thể bị đốt cháy trụi không cách nào nhận dạng, trên đó còn sót lại mấy mảnh vải gấm và một chiếc trâm cài đầu hình phượng hoàng.
“Lão đại, có cần mang thi thể về kiểm tra không?”
Người áo đen cầm cái trâm cài đầu hình phượng hoàng lên nhìn qua rồi cau mày, “Việc truy sát lần này vốn là hành động lén lút, không thể để lộ ra ngoài thì sao có thể đem thi thể về Trường An chứ. Đào một cái hố chôn đi cho xong. Rút thôi.”
Hắn chắp tay xoay người, nhìn về hướng Trường An thở dài, “Quận chúa của phủ Đường Ấp hầu nổi danh khắp kinh thành năm đó giờ lại rơi vào kết cục như vậy. ‘Kim ốc tàng Kiều’, hừ.”Quyển 1 - Chương 2: Nhà Hán có nữ nhân tên A KiềuÁnh đèn dầu bập bùng, ấm áp chiếu lên khung cửa sổ. Nhạn Thanh mơ màng tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trong một căn phòng trúc bài trí đơn giản nhưng trang nhã, đầu óc nàng dần tỉnh táo lại.
“Cô nương, tỉnh rồi à?”
Một người phụ nữ có khuôn mặt hiền hậu, mặc y phục thô màu trắng xuất hiện trước cửa sổ, ôn tồn hỏi. Nét mặt bà lộ vẻ phong sương, nhìn thấy từng nếp nhăn.
Theo lễ giáo của nhà Hán thì cách búi tóc của phụ nữ có chồng và thiếu nữ chưa lập gia đình hoàn toàn khác nhau. Lúc Hàn Nhạn Thanh tỉnh lại hôm trước thì kiểu búi tóc đúng là phụ nữ đã có chồng, nhưng qua mấy ngày bị đuổi gϊếŧ và chạy trốn thì mái tóc đã rối tung. Người phụ nữ thấy khí chất nàng tươi tắn không giống người đã xuất giá nên mới gọi nàng là cô nương. Hàn Nhạn Thanh cũng không muốn phủ nhận, gắng gượng nhỏm dậy, cảm kích, “Đa tạ ân cứu mạng của đại nương.”
“Đừng!” Đại nương vội vàng cản lại, “Cô nương còn mang vết thương trên người, cứ nằm nghỉ đi đã. Hơn nữa, cũng không phải là ta cứu cô.”
“Tiêu tiên sinh ra ngoài hái thuốc đã cứu cô nương đấy, nhưng chủ tớ tiên sinh chăm sóc cô nương bất tiện nên mời ta từ dưới chân núi tới. Phu gia[1] của ta họ Thân, “Bà dừng lại một chút, thấy vẻ mặt yếu ớt của Nhạn Thanh thì biết ý, “Cô nương đã tỉnh lại rồi, để ta đi lấy chén cháo cho cô nương.”
[1] Phu gia: Từ cổ chỉ người chồng.
Hàn Nhạn Thanh khẽ gật đầu, “Đa tạ!”
Thân đại nương đẩy cửa đi ra ngoài, phòng trúc lại trở nên yên tĩnh. Chung quanh không một bóng người nhưng nàng lại nghe thấy một giọng phụ nữ ôn nhu pha chút kiêu ngạo, hỏi vẻ kỳ lạ.
“Ngươi chính là phương pháp thay đổi hiện trạng mà Sở Phục nói ư?”
“Ai đó?”, Hàn Nhạn Thanh giật bắn mình theo bản năng rồi nhìn quanh bốn phía. Thân đại nương ở bên ngoài hỏi vọng vào, “Cô nương không sao chứ?”
“Ta là Trần A Kiều”, cô gái kia nói.
Hàn Nhạn Thanh sững người, thanh âm này tựa hồ truyền đến từ trong ý thức của mình, mà thân thể này lại chính là của hoàng hậu bị phế. Nàng vẫn chưa hỏi Thân đại nương xem hiện tại ai là hoàng đế, nhưng tới giờ, Nhạn Thanh lắc đầu, đã không cần phải hỏi nữa. Thật ra thì cũng có thể đoán được, dĩ nhiên, vị hoàng hậu bị phế nổi tiếng nhất triều Hán chính là người này. Lưu Triệt[2], khóe mắt nàng hơi nheo lại, thật đúng là một nhân vật phiền phức.
[2] Lưu Triệt: Tên thật của Hán Vũ Đế.
“Cô nương?”
Nàng hoàn hồn lại, nhìn thấy vẻ mặt lo lắng của Thân đại nương thì cười yếu ớt, “Tôi không sao.”
Thân đại nương lo lắng nhìn nàng rồi giục, “Cô nương ăn cháo rồi nghỉ ngơi, để ta đi gọi Tiêu tiên sinh.”
Nhạn Thanh gật đầu, nhìn Thân đại nương vén rèm rời đi.
“Ngươi… có ý gì?”
Nàng hỏi Trần A Kiều ở trong đầu.
Sau một lúc trầm mặc mới truyền đến thanh âm hơi đượm vẻ bi thiết của Trần A Kiều, “Sau khi ta đến cung Cam Tuyền thì Triệt Nhi đối với ta rất lãnh đạm, ta rất buồn khổ, Sở Phục nói làm một lễ cúng tế thì có thể sẽ thay đổi được tình hình.”
“Thế cho nên ta mới ở nơi này?”, Hàn Nhạn Thanh lạnh nhạt, “Trước kia khi nghe nói Hán Vũ Đế lấy tội danh Vu cổ[3] phế truất Trần hoàng hậu ta còn cho là y vu oan giá họa, gán tội cho người, nào ngờ thật sự có chuyện này.”
[3] Vu cổ: Con sâu độc do các thầy cúng người miền núi nuôi, theo truyền thuyết thì khi muốn hại một ai đó, các thầy cúng có thể thả nó vào người bị hại và hạ lệnh cho nó cắn xé thân thể người đó.
“Ngươi…”, A Kiều bị chạm vào nỗi đau, thở hồng hộc.
“Ta thì sao? Chẳng hiểu vì đâu lại đến chốn này, vừa tới đã bị đuổi gϊếŧ, ngươi còn hy vọng ta sẽ nói năng ôn tồn nhỏ nhẹ ư?”
“Ta là hoàng hậu, sao ngươi dám ăn nói như vậy?”
“Đáng tiếc”, Hàn Nhạn Thanh bĩu môi, “Bây giờ không phải nữa rồi.”
Nói đến đây nàng chợt cảm thấy một nỗi đau đớn thấu xương, bởi vì nàng và Trần A Kiều dùng chung một thân thể nên khi A Kiều đau đớn thì nàng cũng phải gánh chịu. Nhạn Thanh bất đắc dĩ an ủi, “Ngươi không nên đau lòng, không phải là ngươi sai.”
Rất lâu sau mới lại nghe thanh âm yếu ớt của Trần A Kiều, “Ta và Triệt Nhi từ nhỏ lớn lên cùng nhau. Triệt Nhi nói rằng sau khi lớn lên y sẽ xây lầu vàng tặng cho ta, để ta trở thành người phụ nữ hạnh phúc nhất trong thiên hạ. Lời nói hãy còn văng vẳng bên tai mà ta và y lại đi đến nước này. Y dẫn Vệ Tử Phu về, ta rất tức giận. Triệt Nhi nói y là hoàng đế, không thể nào vĩnh viễn chỉ có một mình ta, muốn ta học cách khoan dung, nhưng nỗi đau khổ của ta y lại không nhìn thấy.”
Trần A Kiều là một phụ nữ luôn có địa vị cao sang, vốn không thể nào kể lể than khóc thống thiết với người khác. Nhưng hiện giờ bị thương quá nặng, lại ở cùng Hàn Nhạn Thanh trong một trạng thái kỳ diệu nên vô tình dấy lên một cảm giác lệ thuộc, có thể thoải mái nói ra hết những u oán trong lòng.
Hàn Nhạn Thanh lẳng lặng lắng nghe tiếng lòng của Trần A Kiều, dần nhớ lại lúc nàng còn bé, cha thường về nhà rất muộn, mẹ nàng thức trắng đêm đợi chờ đau khổ. Khi đó mẹ ngồi bên giường, nhẹ nhàng vuốt ve mái tóc nàng, dịu dàng nói: “Nhạn Nhi, Nhạn Nhi, con nhìn xem đàn ông trong thiên hạ đều bạc bẽo, chỉ biết đến ‘Kim ốc tàng Kiều’, phong lưu sung sướиɠ, có khi nào nhớ tới vợ con ở nhà mỏi mắt đợi chờ đâu.”
Rất lâu, rất lâu sau, nàng vẫn nhớ như in ánh mắt trộn lẫn quyến luyến, u oán, hoài niệm của mẹ nàng khi đó.
Người đời dùng điển tích “Kim ốc tàng Kiều” để chỉ đàn ông ngoài sủng ái tình nhân mà quên mất xuất xứ ban đầu của “Kim ốc tàng Kiều” là kể về người vợ cả của một vị hoàng đế.
“A Kiều, không cần phải đau lòng. Nếu như… ngay cả ngươi cũng không tin bản thân mình thì trách chi cả thế giới này ruồng bỏ ngươi.”
“Ngươi nói không sai. Ngươi chỉ… sinh ra muộn hơn hai ngàn năm.”
Hàn Nhạn Thanh âu sầu:
“Vua Hán chuộng A Kiều, xây cung vàng khóa chặt
Tiếng ho động trời xanh, vui bảo là tiếng nhạc
Nuông quá làm thương hết, ghen nhiều khiến tình tan
Trường Môn một bước ngang, xe không buồn ghé tới
Mưa nào ngược lên trời, nước đổ rồi khó hốt
Tình chàng và ý thϊếp, chia hai ngả đông tây
Xưa là đóa phù dung, nay thành cỏ đứt rễ
Sắc mê người có thể, được bao sâu, bao lâu…”
“Xưa là đóa phù dung, nay thành cỏ đứt rễ…”, Trần A Kiều cứ lẩm bẩm nhắc lại mấy chữ, giọng buồn bã ai oán. Hàn Nhạn Thanh có thể nghe thấy rõ linh hồn nàng ta đang than khóc.
Nàng thở dài, cùng lắm cũng chỉ có thể trách Trần A Kiều yêu quá tuyệt đối, quá thuần túy mà cách yêu lại quá mãnh liệt, quá quật cường. Nàng ta ôm lấy một cõi mộng được dệt nên bởi những lời thề nguyền đẹp đẽ mà không nhận ra đâu là mộng đâu là thực. Cho đến khi hiện thực bày ra trước mặt vẫn không thể tin, ngẩn ngơ không tỉnh lại. Người kia là phu quân của nàng ta nhưng cũng là hoàng đế của Đại Hán. Nàng ta không thể đồng nhất hai thân phận đó làm một, còn y thì đã đi quá xa trên con đường của mình, mãi mãi nàng ta không thể nào theo kịp. Y chán ghét, phiền não nhưng nàng ta lại không chịu chiều theo ý, thêm nữa là y không thể để cho bên ngoại lớn mạnh, nên cuối cùng mới dẫn tới tình cảnh này, dù có ngàn vạn lời cũng chẳng thể nói ra.
“Cô nương!”, từ ngoài cửa truyền vào một giọng đàn ông trầm thấp, rồi một thiếu niên có gương mặt tuấn tú, mặc y phục màu xanh ngọc ôm hòm thuốc vén rèm bước vào trước. Theo sau là một người áo trắng, ánh sáng từ ngoài cửa hắt vào hơi mờ nhạt nên nhìn không rõ dung nhan. Chỉ cảm giác hắn mặc bộ đồ trắng trông rất thoát trần, tựa như đang mỉm cười nhưng ánh mắt lại vô cùng thanh lạnh.
“Tiểu nữ là Hàn Nhạn Thanh.” Nàng ở trên giường gắng gượng thi lễ, “Đa tạ ân cứu giúp của tiên sinh.”
“Hàn cô nương không cần khách khí”, Tiêu Phương đưa tay ngăn lại, “Đức của người thầy thuốc là cứu người, không cần phải nói tạ ơn.”
“Cô nương bị ngoại thương nghiêm trọng, lại còn bị ngâm trong nước lâu. Cũng may cô nương đã từng dùng cỏ Thương Phỉ đắp vào, nếu không tình hình e là không ổn. Ta mời Thân đại nương đến băng bó vết thương cho cô, cũng đã bắt mạch kê đơn, uống thuốc ngày hai lần vào buổi sáng và tối, dùng Bạch Chiết đắp lên vết thương. Như vậy chắc không đáng ngại lắm.”
Nàng miễn cưỡng khom người, “Đa tạ tiên sinh.”
Nàng mới đến, trên người cũng không có tiền bạc trang sức gì, cho dù có thì với thân phận mẫn cảm của mình nàng cũng không thể tùy tiện đưa ra nên đành giả bộ như đang khốn đốn. Lại nghe tiếng Tiêu Phương nói, “Đại nương, Hàn cô nương đã tỉnh rồi, bà về đi. Tiểu Hổ Tử đang ở nhà chờ chăm sóc đấy.”
“Vậy thì tốt rồi.” Thân đại nương đáp, “Tiêu tiên sinh, phàm có chuyện gì cứ bảo Lộng Triều tới gọi, ta sẽ lập tức tới ngay. Nếu không nhờ Tiêu tiên sinh thì Tiểu Hổ Tử đã chết từ lâu rồi. Với ân tình này, Tiêu tiên sinh bảo chúng ta làm trâu làm ngựa đều được. Hơn nữa hai thầy trò các vị ở trên núi cũng bất tiện.”
Thiếu niên mặc y phục màu xanh ngọc liền hừ một tiếng, ánh mắt lóe lên cho thấy đang tức giận.
Tiêu Phương vỗ vỗ trán, “Lộng Triều, đệ chăm sóc ta rất tốt, đại nương không có ý nói đệ.”
Người thiếu niên lúc này mới đổi giận thành vui, tâm tư quả thật đơn giản, rõ ràng chỉ như một đứa bé mới lên bảy, tám tuổi.
Y thuật của Tiêu Phương đúng là không tầm thường, Hàn Nhạn Thanh mới uống một thang thuốc đã cảm thấy miệng vết thương dần dần se lại, tinh thần cũng khá hơn.
Trong chiếc sân nhỏ trước căn nhà lá ba gian có hàng rào trúc bao quanh, Hàn Nhạn Thanh ngồi dưới tán cây nhìn người thiếu niên buộc tóc bằng dây vải trắng đang quay lưng về phía mình phơi thuốc, mùi hương thoang thoảng bay khắp khoảng sân.
“Lộng Triều”, Hàn Nhạn Thanh bắt chuyện, “Ngươi theo Tiêu tiên sinh được bao năm rồi?”
Lộng Triều xoay người lại, gương mặt tuấn tú không hề có vẻ vui mừng, hỏi ngược lại, “Thương thế của ngươi cũng đỡ rồi, khi nào sẽ rời đi?”
Sau mấy ngày sống chung dưới một mái nhà, Hàn Nhạn Thanh cũng dần dần hiểu tính Lộng Triều nên không tức giận mà chỉ làm bộ đáng thương, “Không cho ta ở thêm một thời gian nữa được sao?”
Lộng Triều liền lộ vẻ chán ghét, đáp lại theo bản năng, “Không được.”
Một người đàn ông mặc áo trắng đẩy cửa bước ra từ mé trái nhà, gọi theo đúng khuôn phép, “Hàn cô nương, xin mời vào nói chuyện.”
Hàn Nhạn Thanh cười duyên dáng, không trêu chọc Lộng Triều nữa, đứng dậy đi vào.
Trong căn nhà tranh trang nhã, trừ kệ thuộc bằng gỗ mộc chứa rất nhiều loại thuốc ra thì chỉ có mấy chiếc bàn. Tiêu Phương ngồi trước bàn, điềm đạm, “Mời Hàn cô nương ngồi.”
Đây không phải là lần đầu tiên trong mấy ngày qua Hàn Nhạn Thanh nhìn thẳng vào gương mặt hắn nhưng nàng vẫn cảm thấy hơi ngỡ ngàng.
Cuộc sống ở hai ngàn năm sau coi trọng vật chất và hư vinh phù phiếm nên đàn ông thời đó cũng mất đi phong độ tao nhã. Có lẽ chỉ ở núi rừng cổ đại mới sinh ra được một người đàn ông đẹp như ngọc trước mặt! Nàng thầm thở dài nhưng không biết rằng một thoáng ánh mắt lưu chuyển đó của mình khi lọt vào mắt Tiêu Phương lại sáng tựa sao trời.
“Hàn cô nương”, Tiêu Phương cầm chén trà lên nhấp một ngụm rồi lên tiếng gọi khiến nàng bừng tỉnh.
Mặt không đổi sắc, hắn quan sát vẻ mặt nàng đang nhìn chén trà trong tay hắn, “Cô nương thích trà ư?”
“À”, Nhạn Thanh hơi giật mình, “Đúng vậy, tôi cũng thích uống từ nhỏ.”
“Thế à?” Tiêu Phương thầm ngạc nhiên nhưng không để lộ ra mắt, “Thế cũng thật là kỳ lạ, trà là một loại đạo mà nữ giới chẳng mấy yêu thích.”
Hắn gọi với ra ngoài, “Lộng Triều, pha thêm một chén trà nữa.”
Ngoài sân vang lên tiếng bước chân nặng nề, chỉ lát sau Lộng Triều đã vén rèn mang trà vào, đặt phịch xuống trước mặt Hàn Nhạn Thanh, buông thõng một câu: “Trà đây!”
Hàn Nhạn Thanh buột miệng cười, đúng là một đứa trẻ thú vị.
“Lộng Triều!”, Tiêu Phương sầm mặt giáo huấn.
Lộng Triều “hừ” một tiếng, nhưng vừa thấy sắc mặt của Tiêu Phương thì miễn cưỡng cúi đầu lí nhí, “Nhạn Thanh tỷ tỷ, thật xin lỗi.” Hắn cũng không chờ Hàn Nhạn Thanh đáp lễ, cứ thế tự động rời đi, trong chớp mắt đã bay lên trên cây nhãn trong vườn, di chuyển nhanh như cắt, thân pháp biến ảo phiêu diêu quỷ mị.
“Xin lỗi Hàn cô nương”, Tiêu Phương nói giọng áy náy, “Lộng Triều còn nhỏ. Nó không vui vì cuộc sống của hai người chúng ta bị quấy rầy nên mới bực bội như vậy.”
“Còn nhỏ…?”, Hàn Nhạn Thanh mắng thầm, rốt cuộc thì cũng là người nhà bênh nhau mà thôi. Vào thời đó mười ba mười bốn tuổi đã lập gia thất, Lộng Triều dù không lớn lắm nhưng cũng đã hơn mười tám tuổi rồi.
“Tại sao vậy?”, Hàn Nhạn Thanh thản nhiên hỏi, giả bộ như nghe không ra ý tiễn khách mập mờ trong câu nói của Tiêu Phương, “Tiên sinh gọi tôi tới đây có việc gì?”
Nàng nâng chén trà lên, thấy bên trong đen như mực, chẳng thấy nổi một lá trà, bất giác nghi ngờ Lộng Triều nhìn nàng không vừa mắt nên tăng thêm liều lượng, pha chế riêng để nàng khó uống. Lại liếc sang chén trà trong tay Tiêu Phương, thấy nước trà cũng đen như mực giống hệt của mình, hóa ra nguyên nhân chỉ bởi vì phương pháp chế biến trà thời Hán còn lạc hậu.
Hàn Nhạn Thanh thở dài, mới hiểu tại sao vừa rồi nàng nói thích uống trà từ nhỏ thì Tiêu Phương hơi có vẻ ngạc nhiên, chắc hẳn là trà thời này rất khó uống.
Nàng nâng chén trà lên môi. Khẽ nhấp một ngụm, nước trà còn chưa vào đến họng nàng đã vội nhíu mày.
Tiêu Phương liếc sang, “Không có chuyện gì, chỉ là mấy ngày trước ta bắt mạch cho cô nương, phát hiện ra cô nương đã có mang được nửa tháng rồi.”
“Ọe!” Nàng sặc sụa phun ngụm trà ra ngoài, cảm thấy trong lòng mừng rỡ như điên, sau một lát rồi mới nhận ra đây là cảm giác của Trần A Kiều. Có lẽ trong nháy mắt Tiêu Phương nói ra hai chữ đó, Trần A Kiều vẫn ngủ say ở trong đáy lòng nàng suốt mấy ngày qua liền bất chợt tỉnh lại. Lúc này nàng cũng không cách nào ngăn nổi dòng nước mắt ấm áp giàn giụa trên mặt, nó thật nóng, thật ấm áp, thật… Nàng cố đến mấy vẫn trở tay không kịp.
“Thật vậy không? Có thật vậy không?”, Trần A Kiều vui mừng hỏi liến thoắng.
Trong thời điểm này, Hàn Nhạn Thanh bỗng trở thành một kẻ bàng quan, ẩn nấp trong lòng mình dùng ánh mắt tỉnh táo đánh giá sự việc đã phát triển quá xa.
Tiêu Phương thấy “Hàn Nhạn Thanh” trước giờ luôn cư xử vô cùng lý trí đột nhiên biến thành xúc động như thế thì thoáng lấy làm kỳ quặc, nhưng rồi cũng cho là nàng hay tin mang thai nên vui mừng quá độ. Dù sao thì ở thời đại này, toàn bộ giá trị của nữ giới đều thể hiện thông qua việc sinh con nối dõi.
Chẳng lẽ không thấy ngày trước vì không có con cái mà ngay cả Trần hoàng hậu quyền lực nhất kinh thành cũng không thể tránh khỏi kết quả bị trục xuất khỏi Trường Môn.
“A Kiều, A Kiều!”, Hàn Nhạn Thanh khẽ gọi.
“Cái gì?”
“Người phải nhớ rằng ngươi đã không còn là hoàng hậu nữa rồi.”
A Kiều dần dần bĩnh tĩnh tại, đau thương ập tới lại làm nhòa đi niềm vui sướиɠ như điên của nàng ta, “Chỉ là… Nhạn Thanh, ngươi nghe thấy rồi đó, ta đã có con với Triệt Nhi. Triệt Nhi biết chuyện nhất định sẽ rất vui, y và ta mong đợi đứa bé này quá lâu rồi.”
“Vậy sao? Ngươi định thế nào? Trở lại Vị Ương cung nói cho y biết rằng ngươi đã có con chung với y ư? Hãy tỉnh lại đi!” Đến nước này thì dù biết mình rất tàn nhẫn nàng vẫn phải nói, “Bao nhiêu năm dùng hết mọi cách mà không thể mang thai, thế mà bỗng nhiên hôm nay lại có, ở đây không phải có gì kỳ lạ sao? Ngươi… có tin không?”
Lưu Triệt và A Kiều là đôi vợ chồng son trẻ, ân ái mặn nồng nhưng rốt cuộc vẫn không có con. Lưu Triệt là một vị quân chủ tài cao trí lớn nên dù không muốn cũng không thể để cho Trần gia vốn đã có thế lực lớn tiếp tục phát triển thêm nữa. Trần A Kiều có thân thế hiển hách là con gái của Trưởng công chúa Quán Đào và Đường Ấp hầu, được Đậu thái hậu và Hán Cảnh Đế sủng ái. Một A Kiều như vậy mà sinh được hoàng tử thì y phải lấy gì để phong thưởng đây?
Vì vậy, không cần biết A Kiều có khả năng hay không nhưng nàng ta nhất định không thể có con.
Trần A Kiều đau đớn xé lòng, một mực lẩm bẩm phủ nhận là không thể nào, không thể nào, nhưng giọng điệu cứ thấp dần xuống. Lần cuối cùng nàng ta ở bên Triệt Nhi, Triệt Nhi nói rằng hai người đã kết thúc.
Y nói, “Trẫm đã quyết ý phế nàng.”
Sau khi y bỏ đi, nàng ta cảm thấy hoảng sợ, cố gắng nhủ mình đừng khóc nhưng nước mắt cứ chảy ròng ròng, nàng ta cuồng loạn đập phá hết mọi vật trong tầm mắt, miệng nhạt nhẽo vô vị, ăn chút gì cũng nôn ra hết.
“Nhạn Thanh”, nàng ta khẽ thở dài, “Ngươi bảo làm người sống ở trên đời còn có thể tin tưởng được cái gì nữa?”
“A Kiều, ngươi nghe ta. Ta và ngươi sẽ cùng nhau đứng lên. Một ngày nào đó, y sẽ hối hận. Ngươi không được bỏ cuộc. Không một ai làm tổn thương người mình yêu thương mà cứ như thế không có chuyện gì xảy ra như vậy được.”
Nàng dần dần hồi phục tinh thần, phát hiện ra mình đang nằm trong lòng Tiêu Phương. Hắn mặc bộ y phục màu trắng, toát ra một loại mùi hương dễ chịu, vẻ mặt lo lắng, đôi môi mấp máy nói gì đó không rõ.
Nàng cười yếu ớt, khẽ giọng: “Mệt quá.”
“Mạch của cô gấp và nhanh, dường như bị kích động rất mạnh, sao thế?”, hắn hỏi dồn.
Nhạn Thanh nhắm mắt, “Xin hãy thu nhận tôi!”
Hắn hơi sững lại, dường như không thể tin nổi rồi mới bình tĩnh hỏi, “Cô nói sao?”
“Tôi không có tiền, lại đang mang thai, tiên sinh nhẫn tâm đuổi tôi đi, tôi không có nhà để về, phải lưu lạc trên đường, sẽ bị đánh bị cướp hoặc từ từ chết đói.”
“…”
“Tiên sinh nhẫn tâm như vậy sao?”
“…”
Tiêu Phương vẫn im lặng. Hàn Nhạn Thanh đột nhiên cảm thấy rất an tâm, chìm vào giấc ngủ miên man.Quyển 1 - Chương 3: Nhìn lại nửa cuộc đời phồn hoaHàn Nhạn Thanh thấy lại bản thân mình thuở còn bé, cũng cặp mắt, đôi mày ấy, đang cười vui chạy trốn trong dãy hành lang dài dằng dặc. Một phu nhân có gương mặt xinh đẹp kiểu cổ điển từ đầu kia hành lang đi tới, cử chỉ ưu nhã, vẻ mặt nhu hòa.
“A Kiều, con không được bướng bỉnh như vậy.”
A Kiều?
Phải rồi, nàng chợt hiểu cô bé mặc y phục thời Hán bằng tơ lụa tôn quý kia không phải là mình mà là Trần A Kiều khi còn nhỏ.
Năm đó là năm Tiền Nguyên thứ năm[1] triều Hán Cảnh Đế.
[1] Trong thời gian làm vua hai mươi ba năm, Hán Cảnh Đế đã đặt ra các niên hiệu: Tiền Nguyên (156-150 TCN), Trung Nguyên (149-144 TCN) và Hậu Nguyên (143-141 TCN).
Tiểu A Kiều nũng nịu: “Mẫu thân, cung Trường Nhạc thật là buồn chán, con sang Ngự hoa viên chơi được không?”
Trưởng công chúa Quán Đào mỉm cười gật đầu. A Kiều cất tiếng hoan hô rồi chạy biến đi như làn khói, chỉ nghe mẫu thân ở phía sau dặn với theo: “Khoan đã, con dẫn mấy cung nữ đi theo cho an toàn.”
Lâu đài, đình, các trong Ngự hoa viên đều tinh xảo trang nhã. Tiểu A Kiều đang chui luồn qua một hòn giả sơn thì chợt nghe thấy tiếng khóc nho nhỏ thoảng theo làn gió. Nàng ta lần theo tiếng khóc đi tìm, vòng qua mấy hòn giả sơn thì thấy một cậu bé mặc áo quần tôn quý đang quay lưng về phía mình khóc rấm rứt. A Kiều không nhìn thấy mặt cậu bé, chỉ nhận thấy thân hình của cậu thật nhỏ, thật nhỏ.
“Ngươi là ai?”
Cậu bé hoảng hốt, cuống quýt lau nước mắt, quay đầu lại nhìn nàng ta. Hàn Nhạn Thanh thấy khuôn mặt cậu ta rất trắng trẻo, đôi tròng mắt đen láy.
“Thế còn ngươi là ai?” Tiểu A Kiều mỉm cười, thấy rõ là cậu bé đang cố ra vẻ cứng cỏi để che giấu sự bối rối. “Ta là A Kiều”, A Kiều trả lời, giọng nói ngây thơ trong trẻo.
“Ồ!” Cậu bé khẽ kêu lên, hiển nhiên đã biết cái tên đó ở trong cung Vị Ương này có ý nghĩa gì, đứng dậy định vòng qua A Kiều rời đi.
“Người còn chưa nói cho ta biết người là ai mà.” A Kiều túm lấy tay không cho cậu bé vượt qua. Nàng ta lớn tuổi hơn nên dù cậu bé có cố gắng đến đỏ mặt tía tai cũng không thể nào giãy ra được. Giằng co một hồi lâu, A Kiều bực mình buông tay ra, “Không nói thì thôi.” Nói xong nàng ta quay ngoắt đi.
Cậu bé đứng sau lưng nàng ta hơi chần chừ, cuối cùng nói giọng yếu xìu, “Ta là Triệt Nhi.”
Hàn Nhạn Thanh suýt nữa ngã ngửa ra. Đây chính là Hán Vũ Đế vang danh thiên cổ, võ công hiển hách đó sao? Rõ ràng chỉ là một cậu bé yếu đuối, đáng yêu và kỳ quặc mà thôi!
“Triệt Nhi, hứ… chính là hoàng tử mà Cao Tổ báo mộng ban cho tên Trệ[2] đó hả?”, A Kiều chợt thốt lên. Khuôn mặt Lưu Triệt lúc xanh lúc trắng, quay đầu bước đi phăm phăm.
[2] Trệ: Theo sách ‘Hán Vũ cố sự’ có ghi lại, mẹ của Lưu Triệt là Vương phu nhân khi có thai Lưu Triệt được Hán Cao Tổ báo mộng lấy tên là Trệ vì thế khi sinh ra được đặt tên là Lưu Trệ. Đến năm lên bảy tuổi thì được Hán Cảnh Đế đổi tên thành Lưu Triệt. Chữ “Trệ” còn có nghĩa là loài heo, người Trung Hoa cổ đại cho rằng heo là loài vật rất thông minh nên lấy để đặt tên cho người.
“Này, Triệt Nhi”, A Kiều đuổi theo, “Triệt Nhi, người làm sao vậy?” Nàng ta không rõ tại sao tiểu biểu đệ[3] lại tức giận, chỉ muốn hắn chơi đùa với nàng ta nên đuổi theo. Lưu Triệt đang đi phía trước đột nhiên dừng lại khiến nàng ta nhất thời không hãm kịp, đυ.ng trúng vào lưng, cậu bé vốn gầy yếu nên bị xô loạng choạng.
[3] Thời xưa, biểu huynh, biểu đệ, biểu muội, biểu tỷ lần lượt để chỉ anh họ, em trai họ, chị họ, em gái họ bên ngoại. Còn đường huynh, đường đệ, đường tỷ, đường muội lần lượt chỉ anh họ, em trai họ, chị họ, em gái họ bên nội.
“Chuyện gì thế này?” Trần A Kiều nhìn qua đầu Lưu Triệt ra phía ngoài thì thấy có một đội nghi trượng đang đi qua hành lang quanh co dưới chân hòn giả sơn. Hán Cảnh Đế, cữu cữu[4] của nàng ta, ngồi trên ngự liễn[5] ở chính giữa đoàn.
[4] Cữu cữu: Cậu, em của mẹ.
[5] Ngự liễn: Xe của vua.
A Kiều hiểu ra liền cúi đầu xuống. Trên khuôn mặt trẻ thơ của Lưu Triệt hiện rõ vẻ ngưỡng mộ lẫn u oán, nghe thấy A Kiều ở sau lưng mình ngây thơ hét gọi, “Hoàng đế cữu cữu, Hoàng đế cữu cữu.”
Cách đó không xa, Cảnh Đế Lưu Khải quay đầu nhìn sang, thấy hai đứa trẻ thì kinh ngạc rồi cười vẻ khoan dung. A Kiều dắt tay cậu bé chạy tới, các cung nữ vội vàng nhường lối. Hán Cảnh Đế ôm lấy A Kiều, hiền từ hỏi nàng ta mấy câu.
Cậu bé đứng một góc, cực kỳ lúng túng. Cậu vốn rất ít khi gặp riêng phụ hoàng trong khoảng cách gần như vậy nên không biết mở miệng thế nào. A Kiều rúc vào trong lòng cữu cữu của mình, cố gắng quay đầu lại gọi, “Triệt Nhi, tới đây đi.”
Cậu bé kinh ngạc nhìn nàng ta, thấy trên gương mặt nàng ta nụ cười xán lạn. Tựa hồ đến giờ cậu mới phát hiện đây rõ ràng không phải là cô bé đang được hưởng ân sủng lớn lao trong cung đình, mà thật sự là một người con gái xinh đẹp như ngọc, lung linh rạng rỡ như trăng rằm.
Tiểu Lưu Triệt đầy khao khát nhìn về phía Hán Cảnh Đế khiến ông hơi kinh ngạc nhưng vẫn khẽ gật đầu. Liền đó, Lưu Triệt rất vui sướиɠ leo lên ngự liễn rồi cả đoàn tiếp tục đi theo hành lang về hướng cung Trường Nhạc. Tiến vào cung Trường Nhạc, Trưởng công chúa Quán Đào kinh ngạc nhìn A Kiều dắt tay một cậu bé thanh tú bẽn lẽn theo đệ đệ của mình bước vào.
“Đây là hoàng tử của Vương phu nhân, tên Triệt”, thị nữ bên cạnh nhỏ giọng báo.
“Ừ”, bà khẽ gật đầu, không biết đang nghĩ điều gì.
Hán Cảnh Đế thỉnh an mẫu thân xong, đang nấn ná thì có người đến tấu trình việc quân cơ nên liền rời đi.
“Triệt Nhi, lại đây!” Công chúa Quán Đào cầm chén trà, thản nhiên nói.
Tiểu Lưu Triệt lặng lẽ bước tới, thi lễ theo đúng phép tắc trong cung, khẽ thưa, “Cô cô!”
“Mẫu thân”, A Kiều liền vụt tới: “Triệt Nhi rất tốt”, nàng ta ngước nhìn mẫu thân vẻ ngây thơ nói, “Mẫu thân không được làm khó hắn.”
Quán Đào lấy làm kinh ngạc liếc nhìn con gái, cố ý hỏi Lưu Triệt vài câu về chuyện sinh hoạt rồi phất tay áo bảo cậu lui ra.
“Quán Đào nghĩ thế nào?” Đậu thái hậu đang ôm cháu gái yêu A Kiều ngồi ghế trên cao, tựa như tình cờ hỏi.
“Không có gì”, Quán Đào trả lời mẫu thân, “Con chỉ muốn tính toán một chút cho A Kiều.”
A Kiều nghe nhắc đến tên mình liền ló đầu ra khỏi lòng bà ngoại, nhìn mẫu thân vẻ nghi hoặc.
Năm Tiền Nguyên thứ sáu triều Hán Cảnh Đế.
Thời gian thấm thoắt thoi đưa, mới đó đã qua một năm. A Kiều vẫn là một cô bé hồn nhiên còn Lưu Triệt đã dần bắt đầu hiểu chuyện, hai đứa trẻ càng ngày càng quấn quýt với nhau. Một hôm, A Kiều đang chơi đùa với Lưu Triệt trong điện Linh Tâm của Vương phu nhân thì Trưởng công chúa Quán Đào tới tìm con gái. Vương phu nhân lật đật ra nghênh đón.
Lưu Triệt bước tới hành lễ, Trưởng công chúa Quán Đào đỡ cậu bé dậy. Bà nhìn con gái mình vẻ trìu mến, bỗng nhiên nổi ý đùa giỡn bèn hỏi, “Triệt Nhi đã muốn lấy vợ chưa?”, cũng không để ý tới Lưu Triệt sau khi giật bắn mình đang lộ vẻ cực kỳ bối rối, tiện tay chỉ vào một thiếu nữ xinh đẹp trong nhóm thị nữ đứng cạnh Vương phu nhân, “Cô ta có được không?”
Lưu Triệt lắc đầu, “Không được.”
Quán Đào chỉ thêm mười mấy thị nữ nữa nhưng Lưu Triệt đều lắc đầu. “Vậy thì…” Quán Đào đi vài bước trong điện rồi bỗng nhiên chỉ vào A Kiều đang phì cười theo dõi, “A Kiều của ta có được không?”
Lưu Triệt ngẩn người, kín đáo liếc nhìn mẫu thân, thấy bà khẽ gật đầu ra hiệu bèn cười nói, “Được! Nếu là A Kiều thì ta muốn xây nhà vàng cho nàng ở.”
A Kiều đỏ mặt, xẵng giọng, “Ngươi nói cái gì đó?”, nói xong nàng ta chạy tót ra khỏi điện Linh Tâm, vờ như không nghe thấy một tràng cười rộ lên ở phía sau.
Vào tháng Giêng năm Tiền Nguyên thứ bảy triều Hán Cảnh Đế, Thái tử Lưu Vinh bị phế làm Lâm Giang vương. Tháng Tư, Hán Cảnh Đế lập Vương phu nhân làm hoàng hậu, lập Lưu Triệt làm thái tử.
Tháng Ba năm Trung Nguyên thứ hai triều Hán Cảnh Đế, Lâm Giang vương Lưu Vinh bị bức tử do xâm phạm thái miếu.
Tháng Giêng năm Trung Nguyên thứ ba triều Hán Cảnh Đế, hoàng hậu bị phế Bạc thị qua đời.
Tháng Tư năm Trung Nguyên thứ bảy triều Hán Cảnh Đế, Lương vương chết, được truy phong tên thụy là Hiếu Vương.
Thời gian cứ trôi qua hết năm này đến năm khác, người đời cũng lớn lên rồi già đi như bóng câu qua cửa. Ngoảnh đi ngoảnh lại, A Kiều cũng đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp. Nhân dịp đoàn ngựa xe của chủ nhân Đường Ấp đi ngang rợp đất kinh thành, Hán Cảnh Đế mỉm cười khen ngợi, “Cháu gái A Kiều của trẫm là thiếu nữ xinh đẹp nhất Đại Hán.” Nhưng lòng nàng ta vẫn như hồi còn nhỏ chỉ thích có một người, đó chính là Triệt Nhi của nàng ta.
Mùa xuân năm Trung Nguyên thứ chín triều Hán Cảnh Đế, Thái tử Lưu Triệt dùng nghi lễ long trọng nhất thành thân với Quận chúa Đường Ấp Trần A Kiều.
Trong phòng tân hôn, bàn tay Lưu Triệt vén tấm mạng cô dâu thêu mây ngũ sắc lên, nụ cười rạng rỡ của A Kiều từ từ hiện ra xinh đẹp át cả hoa sen.
“Triệt Nhi, lễ nghi phiền phức quá”, A Kiều than phiền, kéo tay y qua, “Chàng không vui à?”
“Kiều Kiều”, Lưu Triệt bật cười, “Nàng không thể hoàn thành lễ nghi theo đúng quy định được sao?”
“Ôi chao, chàng đâu phải là người ngoài”, A Kiều duyên dáng nói rồi uống rượu hợp cẩn.
Lưu Triệt phất tay, “Các ngươi lui xuống đi.”
“Dạ!” Một đám nô tỳ khom người lui ra. A Kiều lúc này mới ý thức được rằng trong cung đã không còn một ai, khuôn mặt dần dần rực hồng trước cặp mắt nóng bỏng của Lưu Triệt. “Chàng nhìn cái gì vậy?”, nàng ta xẵng giọng.
“Nhìn nàng đấy.”
“Thϊếp có gì đẹp mà nhìn chứ, nhìn bao nhiêu năm như vậy vẫn chưa đủ sao?” Khuôn mặt nàng ta đỏ ửng lên như trái đào chín mọng, rạng ngời như ánh bình mình. Lưu Triệt càng lúc càng cảm thấy ý loạn tình mê, khẽ âu yếm khuôn mặt mềm mại của nàng ta, lơ đãng, “Không giống, khi đó nàng còn chưa phải là vợ ta.”
“Dẻo miệng!” Giọng A Kiều thấp dần. Sau khi tấm trướng được buông ra, chỉ thấy thấp thoáng bóng dáng Lưu Triệt ôm lấy A Kiều từ từ ngả xuống.
Hàn Nhạn Thanh đứng ở đằng xa, nhìn điện Tiêu Phong chạm vàng dát ngọc, vui vẻ ngập tràn. Trong thời khắc này còn có thêm cảnh tượng như hoa thêu trên gấm, lửa cháy thêm dầu là bữa tiệc tân hôn tình ý dạt dào khiến lòng nàng ngược lại phủ đầy bằng tuyết.
“Triệt Nhi!”, trong màn truyền ra tiếng A Kiều rêи ɾỉ.
Vào thế kỷ XXI, ở phương Tây, khi một đôi nam nữ kết làm vợ chồng, mục sư sẽ hỏi như thế này: “Con có nguyện ý buồn vui sống chết cùng cô ấy, yêu thương cô ấy, tôn trọng cô ấy, an ủi cô ấy, bảo vệ cô ấy, hai người cùng xây một gia đình hạnh phúc trọn đời không?”
Nàng nghĩ, Trần A Kiều chắc chắn sẽ nguyện ý, chỉ là nàng ta lại gặp phải Lưu Triệt mà thôi.
“A Kiều, sau này ta muốn trở thành một vị hoàng đế anh minh vĩ đại, đánh bại Hung Nô, muốn tạo nên một Đại Hán hưng thịnh để sau này truyền lại cho con cái chúng ta.”
“Ừm”, Trần A Kiều cúi đầu đáp, có lẽ quá mệt, có lẽ quá xấu hổ, cơ hồ nghe không thấy thanh âm.
Hàn Nhạn Thanh ở sau cây cột của cung điện trống trải, khuôn mặt ửng đỏ.
Khi Lưu Triệt nói ra những lời này thì vẫn còn chân thật. Lúc cặp nến long phượng cháy trắng đêm trong điện Tiêu Phòng, nào ai có thể đoán trước được cái kết cục của câu chuyện Kim ốc tàng Kiều vào mười năm sau lại bi thảm như vậy?
Thời gian vẫn trôi đi như nước chảy mây bay, đến tháng Giêng năm Hậu Nguyên thứ nhất triều Hán Cảnh Đế thì Điều hầu Chu Á Phu bị hạ ngục rồi chết.
Tháng Giêng năm Hậu Nguyên thứ ba triều Hán Cảnh Đế, Cảnh Đế băng hà, Lưu Triệt là thái tử lên ngôi kế vị, tôn Đậu thái hậu làm Thái hoàng thái hậu, Vương hoàng hậu làm Hoàng thái hậu, lập Thái tử phi Trần A Kiều làm Trung Cung hoàng hậu, ở tại điện Tiêu Phòng. Vợ chồng đều đang tuổi thanh xuân, ân ái mặn nồng, về sau thì lấy niên hiệu là Kiến Nguyên.
Năm Kiến Nguyên thứ hai, vị đế vương trẻ tuổi đến phủ đệ của tỷ tỷ là Bình Dương công chúa Kỳ Trường thì gặp Vệ Tử Phu dịu dàng xinh đẹp, mở màn cho cuộc tranh chấp giữa Đế và Hậu sau này.
A Kiều hận, A Kiều oán. Tình nghĩa ân ái nhiều năm như vậy, cuối cùng Triệt Nhi của nàng ta lại có thể quay đầu đi yêu cô gái khác. Điều này sao nàng ta chịu nổi? Tính cách cương liệt thà làm ngọc nát còn hơn ngói lành khiến nàng ta chỉ ôm lấy chuyện xưa mà không còn chia sẻ vui buồn với Triệt Nhi, ân ái mặn nồng giữa hai vợ chồng càng lúc càng xa. Người đàn ông nàng ta yêu nhiều năm như vậy quay lưng lại không chịu nhìn nàng ta, chẳng lẽ không thấy dưới ánh mắt si oán của nàng ta là một tình yêu say đắm. Thoáng chốc đã tới năm Kiến Nguyên thứ năm. Vào năm đó, tình duyên của Trần A Kiều và Lưu Triệt rốt cuộc đi tới hồi kết thúc.
Từ điện Tuyên Thất kín đáo truyền ra tin tức rằng bệ hạ đã quyết ý phế Hoàng hậu. A Kiều nghe được thì cả đêm nước mắt tuôn rơi, cuối cùng nói, “Mời bệ hạ tới đây.” Thật ra nàng ta không biết y có tới hay không, cũng không hiểu mình có hy vọng y tới hay không. Chuyện đã tới nước này, thật ra thì đã từ lâu nàng ta có gặp y cũng như không.
“Người thật đã quyết định… phải phế thϊếp sao?” Cuối cùng, nàng ta không thể kiên cường được nữa, vừa ngập ngừng hỏi vừa dựa lưng vào chiếc cột trống trải trong cung, vì không như thế thì không thể đứng vững.
Lưu Triệt quay lưng về phía nàng ta, phất tay thản nhiên, “Sau này trẫm sẽ cho người chăm sóc nàng thật tốt, nàng hãy trân trọng.”
“Tại sao?” A Kiều nhìn chằm chằm vào lưng phu quân của mình. Y đứng đó, bộ y phục rộng rãi, hoa văn tỉ mỉ, không chút dao động.
Nàng ta nhớ lại chuyện trong hành lang dài dặc của cung Vị Ương năm đó, nàng ta vui vẻ chạy xuyên qua hành lang, chui luồn qua hòn giả sơn ở Ngự hoa viên rồi thấy một câu bé đang khóc rấm rứt, đâu ngờ rằng cậu bé đó đã trở thành một vị quân chủ hùng tài đại lược nhưng âm trầm tàn ác, chỉ có nàng ta vẫn là cô bé ngây thơ.
“Chuyện đã tới nước này, hỏi lý do còn có tác dụng gì?”
Lưu Triệt từ từ bước ra khỏi cung Cam Tuyền, phía sau truyền đến tiếng gọi xé lòng của A Kiều.
“Triệt Nhi…”
Y thoáng ngừng lại, nhưng cuối cùng vẫn không quay đầu.
A Kiều bắt đầu đập phá đồ đạc. Cung Cam Tuyền lặng ngắt, chỉ còn nghe thấy tiếng đồ sứ vỡ vụn trong trẻo như cứa vào lòng mỗi người.
Ba ngày sau, thánh chỉ tới cung Cam Tuyền.
“Hoàng hậu Trần thị, mê hoặc bằng Vu cổ, không thể tiếp tục thừa thượng mệnh[6]. Hoàng thượng ra lệnh, bãi lui về cung Trường Môn.”
[6] Thừa thượng mệnh: Vâng theo mệnh trên mà hành sự với kẻ dưới.Quyển 1 - Chương 4: Năm nay bao tuổi để bái sư?Hàn Nhạn Thanh cầm một cuốn trúc giản[1] ngồi tựa vào cửa sổ của gian nhà cắt thuốc. Ánh mặt trời ấm áp buổi xế chiều xuyên qua song cửa chiếu lên người nàng khiến nàng như một cô gái xinh đẹp huyền ảo bước ra từ bức họa cổ thời Tây Hán.
[1] Trúc giản: Người xưa thường viết chữ lên những thẻ tre rồi kết chúng lại thàng sách, gọi là “trúc giản.”
Từ lúc hôn mê hôm đó, dường như nàng đã trải qua một giấc mộng thật dài. Trong mộng, nàng theo A Kiều trải nghiệm lại một lần tất cả mọi chuyện cùng Lưu Triệt từ thuở còn niên thiếu. Có một điều rất lạ không thể hiểu nổi là nàng lại có chung mọi cảm giác vui buồn sướиɠ khổ giống như A Kiều, hệt như trước giờ hai người chỉ là một, chỉ vì một nguyên nhân gì đó từ thuở Hồng Hoang mới bị tách ra. Nếu có ai nói chuyện như vậy trước khi nàng tới Hán triều thì nhất định nàng sẽ cười bảo hắn điên. Nhưng cho đến nửa tháng sau, nàng vẫn không thể nào phân định được, thực ra mình vừa trải qua một giấc mộng mà trong đó bản thân biến thành Trần A Kiều, hay là nguyên bản nàng vốn đã là Trần A Kiều từ trước, còn Hàn Nhạn Thanh kia mới chính là cảnh mộng, giống như giấc mộng Trang Chu hóa bướm[2] trong truyền thuyết?
[2] Trang Chu hóa bướm là một điển tích quen thuộc của văn học cổ Trung Quốc. Chuyện kể rằng có lần Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm vui vẻ bay lượn, mà không biết mình là Chu nữa, rồi bỗng tỉnh dậy, ngạc nhiên thấy mình là Chu. Không biết phải mình là Chu nằm mộng thấy hóa bướm hay là bướm mộng thấy hóa Chu.
“Hàn phu nhân!”, Thân đại nương đẩy cửa bưng thuốc vào, “Đây là thuốc dưỡng thai Tiêu tiên sinh kê cho phu nhân.” Mấy ngày nay, bà không yên lòng về thầy trò Tiêu Phương nên thường xuyên ghé thăm, nhân tiện chăm sóc cho Nhạn Thanh còn yếu ớt.
Nàng lập tức chau mày, tưởng tượng ra mùi thuốc đắng ngắt, nhăn nhó, “Không uống có được không?”
“Như vậy sao được?” Thân đại nương bật cười khuyên nhủ, “Tiên sinh nói phu nhân mang thai thời kỳ đầu lại bị thương mệt nhọc, cơ thể người mẹ bị hao tổn, nếu không cẩn thận điều dưỡng thì rất có thể không giữ được thai.” Bà quay đi, lau lệ rơi bên khóe mắt, ánh mắt tràn ngập đau thương, “Phu nhân có biết rằng ta từng có con gái cũng đi lấy chồng vào trạc tuổi như phu nhân nhưng vì khó sinh mà mẹ con đều mất.”
“Đại nương”, Hàn Nhạn Thanh cũng động lòng thương tâm, dịu dàng khuyên nhủ, “Con gái đại nương ở trên trời cũng không muốn thấy đại nương đau khổ vì cô ấy như vậy. Tôi uống là được rồi chứ gì.” Nàng bưng chén thuốc lên một hơi uống hết, thấy trong mắt Thân đại nương thoáng lộ nét cười.
“Đứa bé ngốc!” Bà vuốt ve sửa lại lọn tóc đen rối bời bên mai Nhạn Thanh, “Mặc dù cô không nói ra nhưng đại nương quan sát qua lời nói khí chất cũng biết cô không là con nhà bình thường. Thật ra thì, người sống trên đời có thể giúp được người khác chút gì đó cũng là có phúc.”
Hàn Nhạn Thanh nghe giọng nói chân thành âu yếm của Thân đại nương thì đôi mắt đỏ hoe, bật khóc nức nở, “Đại nương!”, rồi sà vào trong lòng bà. Mấy ngày nay nàng lưu lạc tha hương, trong lòng mơ hồ hiểu rằng chỉ sợ cả đời này sẽ không trở về được nữa, bàng hoàng không biết nương tựa vào đâu. Không có Đan Tạp và sư huynh ở bên, tương lai mờ mịt nên càng nảy sinh cảm giác muốn dựa dẫm vào Thân đại nương như ỷ lại vào một người thân.
Thân đại nương mỉm cười, vỗ vỗ vào hai má của nàng, từ tốn bảo, “Hàn phu nhân, nếu cô không chê thì ta gọi cô là Nhạn Nhi nhé.”
Nàng ngẩn người, vội cúi đầu giấu nước mắt. Thân đại nương vội hỏi, “Sao vậy?”
“Không sao!” Nàng chậm rãi nói, giọng thương cảm, “Mẫu thân con… cũng gọi con như vậy.” Nàng nũng nịu ngả vào lòng Thân đại nương, “Đại nương, con nhận đại nương làm nghĩa mẫu nhé.”
“Được mà.” Thân đại nương vui mừng đáp, “Chỉ e là thiệt thòi cho cô.”
“Nghĩa mẫu.” Hàn Nhạn Thanh nhớ tới mẫu thân mất sớm của mình, nước mắt giàn giụa. Nàng úp mặt vào người Thân đại nương, thầm hứa với lòng, lần này nhất định phải bảo vệ mẫu thân của mình.
Tiễn nghĩa mẫu đi, nàng lặng lẽ xoay người bước vào, cảm thấy ánh mặt trời thật ấm áp. Dưới tán lá sum suê của cây nhãn cổ kính nhất trong đình viện thoáng thấy bóng của Lộng Triều mặc áo màu xanh ngọc đi ra, Hàn Nhạn Thanh cười khẽ, dần dần cũng không thấy lạ lẫm. Tiêu Phương và Lộng Triều sống nương tựa lẫn nhau như vậy cũng là một điều may mắn. Nàng chợt nhớ tới Tạp Tạp. Hiện giờ nàng sống trong một gian nhà tranh trên ngọn núi không biết tên, bên ngoài đế đô Trường An của nước Tây Hán cổ, chẳng biết đến thời gian. Còn Tạp Tạp thì sao? Tạp Tạp ở nơi đâu, có phải cũng xuyên không[3] đến một thời cổ đại khác như mình? Có ai ở bên cạnh cậu hay không? Còn có thể mỉm cười vô tư lự như trước nữa hay không? Có biết tớ rất nhớ, rất nhớ cậu không?
[3] Xuyên không: Ý chỉ quá trình nhân vật vượt thời gian, không gian tới một địa điểm, một thời đại khác. Có thể xảy ra hiện tượng xuyên không linh hồn. (Linh hồn nhập vào một nhân vật khác trong thời đại khác), xuyên không thân thể (Cả thân thể và linh hồn cùng tới một thời đại khác). Trong truyện này các nhân vật đã xuyên không từ thời hiện đại trở về quá khứ.
Mấy ngày nay, nàng dần dần học cách nhận biết chữ viết trong phương thuốc trên cuốn trúc giản của Tiêu Phương. Thời kỳ đầu Tây Hán, một trong bốn phát minh nổi tiếng của Trung Quốc là giấy mực còn chưa xuất hiện, các nhà văn vẫn quen khắc văn thơ của mình lên thẻ trúc. Một cuốn trúc giản nặng cả cân, rất cồng kềnh, hơn nữa còn sử dụng chữ Tiểu Triện rồng bay phượng múa từ đời Tần lưu truyền lại. Nàng phải cố hết sức mà xem, cuối cùng quyết định học lại từ đầu, tránh để một nữ thạc sĩ biến thành kẻ nửa mù chữ làm mất mặt nền giáo dục hiện đại. Cũng may khi còn bé, mẹ từng ép nàng học thư pháp một thời gian ngắn, mặc dù kiên trì không được bao lâu nhưng nhìn chung cũng biết thế nào là đề bút[4]. Đương nhiên, cũng có thể hình dung ra được Trần A Kiều và Tiêu Phương khó khăn thế nào khi muốn đọc chữ viết của nàng. Thậm chí một lần Lộng Triều tới nhìn một hồi, chỉ buông thõng một từ “Xấu!”, rồi chạy biến khiến nàng tức tối thề nhất định phải luyện viết chữ thật đẹp mới thôi.
[4] Đề bút: Chỉ việc viết lách.
Cũng trong thời gian này, nàng quan sát một cách khách quan, thấy Tiêu Phương làm việc đúng mực khoan dung, cao thâm khó lường, tất không phải là nhân vật đơn giản. Từ trước tới giờ nàng vẫn hứng thú đối với Trung y, nhưng môn học này vào thời hiện đại đã bị suy thoái nhiều, hôm nay gặp Tiêu Phương nên tất nhiên hy vọng có thể học được một chút mới không tiếc nuối.
Hàn Nhạn Thanh vào thư phòng của Tiêu Phương, huơ tay trước mặt hắn gọi, “Tiêu Phương!”
Tiêu Phương bất đắc dĩ ngẩng đầu lên khỏi cuốn sách hỏi lại, “Đại tiểu thư có chuyện gì?” Mấy ngày qua, coi như hắn cũng biết sợ Hàn Nhạn Thanh, chưa từng gặp phải một cô gái nào “hoạt bát”, từ mà hắn thầm lựa chọn trong lòng, như vậy.
“Tiêu Phương tiên sinh, tiên sinh bảo tôi bây giờ bao nhiêu tuổi?”
Hắn cau mày, “Bản thân cô cũng không biết mình bao nhiêu tuổi ư?”
“Tôi…” Hàn Nhạn Thanh định nói lại thôi, câu đã lên đến miệng lại nuốt xuống, suy nghĩ một chút rồi gợi chuyện, “Nghe nói Trung y có thể đoán tuổi người từ xương cốt, hình thể và da dẻ với sai lệch rất ít. Có phải đúng vậy hay không?”
“Ừm.” Hắn gật đầu, cầm lấy một cuốn trúc giản khác, “Cô thật sự biết không ít.”
“Tôi cũng nghiên cứu một chút về y thuật.” Nàng cười khanh khách hỏi tiếp, “Tiên sinh bảo tôi hiện giờ bao nhiêu tuồi?”
Tiêu Phương chịu hết nổi, đành phải nhìn kỹ nàng một chút rồi đáp, “Hai mươi ba, hai mươi bốn gì đó.”
Hàn Nhạn Thanh chợt thấy lòng nguội lạnh, khe khẽ hỏi, “Tiên sinh chắc chắn chứ?”
“Tất nhiên. Nhưng sao?”
Nàng cúi đầu nhìn xuống mũi giày thêu của mình, một lúc lâu sau Tiêu Phương mới nghe thấy nàng nói một câu thật nhỏ, “Không có chuyện gì.” Hắn muốn hỏi thêm nhưng Hàn Nhạn Thanh đã xoay người bỏ đi.
Bây giờ là năm Nguyên Quang thứ năm, Hàn Nhạn Thanh nhẩm tính trong lòng, Trần A Kiều năm nay hai mươi chín tuổi. Hàn Nhạn Thanh trước khi xuyên không mới vừa tròn hai mươi, nhưng theo suy đoán của thầy thuốc Tiêu Phương thì nàng đang cùng Trần A Kiều đồng sở hữu một thân thể ước chừng hai mươi ba tuổi.
Nàng chưa bao giờ đọc được trong tiểu thuyết tình huống xuyên không phức tạp khó giải thích như thế. Đây rốt cuộc là họa hay là phúc. Hàn Nhạn Thanh chẳng thể nào hiểu nổi.
Trong núi rừng chẳng có năm tháng, thời gian một tháng chớp mắt đã len lén vụt qua ngón tay.
Một ngày kia, Hàn Nhạn Thanh đang luyện chữ trong gian nhà cắt thuốc chợt nghe thấy tiếng cười lạnh lùng chói tai từ đằng xa, rất nhanh đã đến trước cửa. Nàng dừng lại, chau mày nhìn ra ngoài thì thấy một người đàn ông mặc y phục màu hồng phấn đứng trước cửa gằn giọng, “Tiêu Dung Nam, Sở Phi Hiên lại đến tìm ngươi, ra đây đi!” Tuổi người này chưa cao, thân hình gầy gò, mắt tựa hoa đào lộ ra vẻ âm trầm tà mị, nét cười như có như không, trong giây lát liếc qua nhà thuốc thì dừng lại ở chỗ Hàn Nhạn Thanh. Hàn Nhạn Thanh giật mình rét lạnh, cảm thấy ánh mắt của người này tựa như băng tuyết.
“Lại là ngươi”, Lộng Triều từ tán nhãn nhô đầu ra, cau mày, “Phiền phức!”
Sở Phi Hiên cười lạnh không lên tiếng, vung song chưởng bổ về phía cây nhãn. Lộng Triều phất tay áo màu xanh ngọc, tức thì từ tán lá bay vọt ra, mau lẹ đá xuống đỉnh đầu Sở Phi Hiên, trong chớp mắt đã vang lên thanh âm hai bên giao thủ. Hai bóng người cuốn lấy nhau, động tác giao đấu nhanh như sấm giăng chớp giật. Bỗng nghe Lộng Triều “hự” khẽ một tiếng, loạng choạng lùi lại hai, ba bước. Người kia dừng tay, nhếch miệng cười vẻ giễu cợt, lại trầm giọng quát, “Tiêu Dung Nam, ra đi!”, nói xong giơ bàn tay lên làm bộ dọa dẫm, “Nếu không ra, ta sẽ làm thịt tiểu tử này.”
Lộng Triều ngồi dưới đất, tay trái che ngực, máu tươi chảy dọc theo kẽ ngón tay nhỏ xuống từng giọt, hiển nhiên đã bị thương nhưng trong mắt vẫn đầy ngạo khí, gắng gượng định đứng lên. Bỗng nghe thấy từ gian nhà thuốc bên trái vang lên tiếng than nhẹ, một bóng áo trắng chậm rãi đi ra, phất ống tay áo rộng một cái liền hóa giải thế chưởng rồi thở dài, “Sở Phi Hiên, cuối cùng ngươi vẫn cứ tìm ra.”
“Tiêu Phương!”, Sở Phi Hiên giọng đầy oán trách, “Ngươi vô tình vô nghĩa, khoanh tay không cứu tỷ tỷ ta, dù có trốn tới chân trời góc biển thì ta cũng không bỏ qua cho ngươi. Chịu chết đi.” Song chưởng giao thoa, bóng chưởng ngợp trời, cho thấy lúc vừa rồi động thủ với Lộng Triều, hắn đã không dùng toàn lực. Tiêu Phương từ trong bóng chưởng rợp trời đó bước ra, rất thong dong, sắc mặt ngưng trọng, rút từ bên hông ra một thanh tế kiếm[5] mỏng manh trắng như ngọc, búng tay một cái rồi dùng một chiêu cực nhanh đánh về phía Sở Phi Hiên.
[5] Tế kiếm: Loại kiếm dài, hẹp và mảnh.
Dưới thế công sắc bén của Tiêu Phương, Sở Phi Hiên liên tiếp thối lui nhưng chưởng thế không hề rối loạn, thỉnh thoảng lại liều mạng đánh ra một chiêu lưỡng bại câu thương[6], dù không mong lấy được mạng đối phương nhưng cũng có tác dụng bức lui. Hai bên giằng co suốt nửa canh giờ, Sở Phi Hiên dần dần không nhịn được, hét lên một tiếng rồi tay trái lén lút búng ra thứ gì đó. Trong bóng chưởng đột nhiên vang lên một tiếng kêu nhẹ, không biết là của ai. Thân ảnh màu trắng Tiêu Phương như nước luồn qua bóng chưởng, một kiếm đâm vào vai Sở Phi Hiên. Lộng Triều nhìn rõ ràng một kiếm này, mặt lộ vẻ vui mừng.
[6] Lưỡng bại câu thương: Ý của câu thành ngữ này là chỉ trong cuộc giành giật, cả hai bên đều bị tổn thương, chẳng bên nào được lợi cả.
Nhất thời, hai người đều đứng yên, sau đó Tiêu Phương rút kiếm ra, không nhìn Sở Phi Hiên, thản nhiên nói, “Ngươi đi đi!” Sở Phi Hiên nghi ngờ, nhìn hắn một hồi lâu rồi hậm hực, “Ngươi không gϊếŧ ta nhưng sau này ta vẫn sẽ tới gϊếŧ ngươi.” Hắn nói xong không đợi Tiêu Phương trả lời, quay đầu một mạch bỏ đi.
“Tiêu ca ca!” Lộng Triều mếu máo, từ trước tới giờ hắn vẫn học theo tính cách can trường của Tiêu Phương nhưng hiện giờ ngực trái bị Sở Phi Hiên đánh một chưởng, thực sự rất muốn dựa vào vị ca ca này. Vậy mà Hàn Nhạn Thanh lại ngăn cản hắn, hắn bực mình gắt lên với nàng, “Làm cái gì vậy?”
“Ngươi không thấy tiên sinh cũng bị thương sao?” Hàn Nhạn Thanh vội la lên, đỡ lấy Tiêu Phương. Tiêu Phương đang đứng vững vàng, đột nhiên cảm giác được có người đỡ thì nhũn ra, suýt nữa ngã nhào vào Hàn Nhạn Thanh, mặt mày tái nhợt. Hàn Nhạn Thanh cảm giác thân thể hắn lạnh toát thì càng khẩn trương, quát lên với Lộng Triều, “Còn không qua đây dìu!” Lộng Triều lúc này mới như tỉnh cơn mê, luống cuống đỡ lấy, lẩm bẩm, “Tiêu ca ca!”, trên mặt vẫn hiện rõ vẻ không thể tin.
“Tiêu Phương?”, Hàn Nhạn Thanh lay khẽ, “Tiên sinh nghe tôi nói không?” Nàng trông thấy Tiêu Phương khẽ gật đầu thì mới cảm thấy nhẹ nhõm một chút.
“Tiêu ca ca lạnh quá”, Lộng Triều cuống quýt, định đặt Tiêu Phương xuống, “Để ta đi tìm chậu than cho Tiêu ca ca.”
“Quay lại!”, Hàn Nhạn Thanh gọi giật giọng. Nàng trông thấy cặp mắt đen nhánh của Lộng Triều thoáng hiện vẻ sợ hãi thì lại mềm lòng, “Tiêu ca ca của ngươi không phải lạnh bình thường. Tiêu Phương, rốt cuộc tiên sinh đã xảy ra chuyện gì?”
Tiêu Phương thở ra một hơi, cười yếu ớt, “Vô dụng, nếu đã trúng ‘Băng tàm cổ’[7], trong vòng một canh giờ mà không dẫn xuất được con tằm độc đã nhập vào cơ thể ra ngoài thì khó có thể cứu chữa.”
[7] Băng tằm cổ: Độc tằm băng.
Cổ độc? Hàn Nhạn Thanh khẽ cau mày, bất giác ghê tởm vì nhớ lại nguyên nhân người phụ nữ mà linh hồn của mình xuyên không vào bị trục xuất, đột nhiên nhớ ra rằng bây giờ không phải là lúc để so đo liền vội hỏi, “Làm thế nào để dẫn xuất con tằm độc đáng ghét kia?”
“Phải có người luyện cùng môn nội công với người bị trúng độc giúp ép tằm độc đến huyệt Quan Nguyên ở cổ tay, sau đó cần có người dùng dao cắt mạch máu, bắt lấy tằm độc đúng vào khoảnh khắc nó thoát ra ngoài cơ thể.” Tiêu Phương bình thản, hàn khí càng lúc càng phát mạnh, phủ lên trên mặt hắn một tầng sương tuyết mỏng. Lộng Triều ôm lấy hắn, vành mắt đã đỏ hoe. Hắn cười một tiếng trấn an rồi nhăn mặt, “Lộng Triều miễn cưỡng cũng chỉ có thể giúp ta ép độc, nhưng gần đây cũng không có đại phu nào biết dùng dao, huống chi tìm mạch bắt tằm độc cần ra dao tuyệt đối bình tĩnh chính xác. Nếu người trúng cổ độc không phải là ta thì có lẽ ta có thể làm được, cũng đã hết hơn nửa canh giờ rồi, chắc không còn kịp nữa.”
“Ai nói không kịp nữa?” Hàn Nhạn Thanh mỉm cười, liếc nhìn Lộng Triều đang vừa kỳ vọng vừa pha chút vẻ không dám tin, “Tôi sẽ ra tay.”
“Tiên sinh không cần nhìn tôi như vậy… Tôi biết dùng dao mà.” Hàn Nhạn Thanh thấy Tiêu Phương đang nhìn mình với ánh mắt rõ ràng cho là mình hàm hồ, thẹn quá hóa giận, “Dù sao thì tiên sinh cũng sẽ chết, coi như là còn nước còn tát đi. Dao nhỏ để ở đâu?”
Hàn Nhạn Thanh đỡ Tiêu Phương vào trong gian nhà cỏ, quay đầu nhìn lại thấy trước ngực Lộng Triều in dấu chưởng màu đỏ sậm thì thương xót, “Cẩn thận một chút.”
Lộng Triều gật đầu, ngồi xuống phía sau, áp hai lòng bàn tay lên lưng Tiêu Phương. Hàn Nhạn Thanh cúi người chăm chú nhìn thì thấy quả thật là vùng da thịt gần vết thương của hắn cứ rung động tựa như có vật gì đó đang bơi trong máu, chậm rãi di chuyển theo mạch về huyệt Quan Nguyên nơi cổ tay trái. Hàn Nhạn Thanh hít sâu một hơi, từ từ cầm dao phẫu thuật lên, tập trung tinh thần chăm chú nhìn vào, đúng lúc tằm độc bơi vào huyệt Nguyên Quan thì bình tĩnh, không một chút run tay đưa dao cắt chính xác trúng vào mạch máu. Máu tươi phun vọt ra, lẫn trong đó có một con tằm độc cực nhỏ. Nó chỉ vừa kịp uốn lượn trên không, chưa kịp trở lại mạch máu đã bị Hàn Nhạn Thanh dùng tay trái chụp được.
“Xong rồi!” Hàn Nhạn Than bình thản ném con tằm độc xuống đất gí cho chết đi. Nàng rửa tay thật kỹ rồi quay đầu nhìn lại thì thấy Tiêu Phương và Lộng Triều đã bắt đầu thu công, lại nghe tiếng Tiêu Phương gắng gượng, “Chắc được rồi. Đa tạ ơn cứu mạng của phu nhân.”
“Không cần khách sáo”, Hàn Nhạn Thanh cười khả ái, “Trước kia tiên sinh cứu Nhạn Thanh nên bây giờ Nhạn Thanh mới có cơ hội cứu tiên sinh. Xét ra thì cũng là tiên sinh tự tích phúc cho mình.”
“Tích phúc?” Tiêu Phương cười tự giễu, thoáng vẻ đau đớn, “Nếu thật là tích phúc thì tại sao lại không thể cứu được người thân của mình chứ?”
Nét mặt của hắn có vẻ hơi khác lạ khiến Hàn Nhạn Thanh không nén được tò mò, “Sở Phi Hiên vừa rồi là ai vậy?”
“Tiểu đệ của một cố nhân thôi.” Tiêu Phương nói lảng đi, “Ngày sau cô có gặp thì nên tránh xa ra.” Ánh mắt hắn trầm xuống, “Sở gia vốn là thế gia Vu cổ, đừng nên tùy tiện trêu chọc.”
“Tiên sinh đã nói như thế, Nhạn Thanh sẽ nhớ kỹ.” Nàng nghiêm túc đáp lời rồi bỗng nhiên quỳ xuống, trang trọng nói, “Nhạn Thanh thấy tiên sinh y kiếm song tuyệt nên rất khâm phục, muốn bái lạy làm môn đệ tiên sinh, mong tiên sinh toại nguyện cho.”
Tiêu Phương đương nhiên không ngờ nàng lại hành động như thế, ngẩn người một lúc mới trả lời, “Mặc dù phu nhân thiên tính thông minh nhưng Tiêu Phương phiêu bạt chân trời góc bể nên không thích hợp nhận nữ đệ tử. Hơn nữa…”, hắn đắn đo, “phu nhân đang mang thai, lưu lạc bên ngoài tất sẽ khiến phu quân của mình vô cùng lo lắng, phu nhân nên sớm trở về nhà thì hơn.”
“Phu quân?”, Hàn Nhạn Thanh cười nhạt, “Tiên sinh thấy tôi lưu lạc bên ngoài hơn một tháng rồi mà đã có ai đến tìm chưa? Nhạn Thanh đã vứt bỏ nhà chồng, cũng không có mặt mũi nào trở về nhà mẹ đẻ nữa. Khẩn cầu tiên sinh toại nguyện cho Nhạn Thanh.”
“Ồ.” Tiêu Phương khẽ thở dài một tiếng. Hôm đó nhìn thấy vết thương trên người Hàn Nhạn Thanh thì hắn cũng đã thoáng suy đoán được lai lịch thân phận của nàng, hôm nay nghe chính miệng nàng chứng thực thì không nén nổi lòng thương xót, chỉ là có chút khó xử. “Nói về tuổi tác thì Tiêu Phương cũng không lớn hơn phu nhân bao nhiêu, nếu có danh phận thầy trò thì e là xấu hổ.”
“Tiên sinh nói vậy sai rồi”, Hàn Nhạn Thanh phản bác, “Nhạn Thanh dù bất tài nhưng cũng biết tri thức có trước sau, nghề nghiệp có chuyên môn. Tiên sinh tài cao hơn người, vậy có thể làm thầy Nhạn Thanh, cần gì câu nệ tuổi tác?”
Tiêu Phương không biết trả lời ra sao, đành cười xòa, “Phu nhân đã nói như vậy thì coi như ta nghĩ quá xa rồi.”
Hàn Nhạn Thanh nhanh nhảu: “Sư phụ cũng như nghĩa mẫu, cứ gọi tôi là Nhạn Nhi đi.”
“Nhưng…”, Tiêu Phương lại ngần ngừ.
“Tiên sinh tính phải chuyển nhà, đúng không?” Hàn Nhạn Thanh cười vẻ thấu hiểu, trông thấy vẻ mặt kỳ quái của Lộng Triều thì càng đắc ý, gật đầu giải thích, “Tiên sinh và Sở Phi Hiên là cừu thù, vừa rồi Sở Phu Hiên đã dùng Băng tàm cổ ám toán tiên sinh nhưng không biết có thành công hay không, bản thân lại bị trọng thương nên không thể làm gì khác hơn là bỏ đi. Sau này hắn phát hiện thiếu một con trùng cổ thì sẽ biết rằng tiên sinh đã trúng chiêu, vì thế nên khi thương thế của hắn đỡ hơn một chút nhất định sẽ tìm tiên sinh báo thù. Vậy nên tiên sinh tính sẽ chuyển nhà để tránh họa có đúng không?”
Nàng quay đầu lại, nhìn sắc mặt bình thản của Tiêu Phương thì hiểu rằng mình đã đoán đúng, liền vọt tới hỏi, “Thân thủ tiên sinh được đánh giá thế nào ở trong giang hồ?”
Tiêu Phương cười xòa, “Không tệ.”
“Cái này…” Hàn Nhạn Thanh nhíu mày, không hiểu không tệ nghĩa là tốt xấu ở mức nào, bèn nhướng mày hỏi, “Có thể so được với Du hiệp[8] Quách Giải chứ?”
[8] Du hiệp: Hiệp sĩ, hiệp khách, là những người có võ công hành tẩu trong giang hồ.
“Giải ca ca?”, Lộng Triều bên cạnh sáng mắt lên.
Nàng cười rạng rỡ, “Mọi người biết hắn à?”
Tiêu Phương gật đầu, “Hắn là sư điệt[9] của ta.”
[9] Sư điệt: Cháu.
“Tìm đúng chỗ rồi”, Hàn Nhạn Thanh nghĩ thầm. Quách Giải là du hiệp nổi danh nhất vào thời kỳ đầu triều Hán. Trong Sử ký Tư Mã Chiêu có viết “Du hiệp dùng võ vi phạm lệnh cấm.” Cho đến trước khi Hán Vũ Đế hạ lệnh áp chế du hiệp, đã từng có một thời đại văn hóa du hiệp vô cùng rạng rỡ. Lý Bạch đã viết trong bài Hiệp khách hành:
“Mười bước gϊếŧ xong kẻ
Trời đất chẳng dung tình
Việc xong thời rũ áo
Cần chi tiếng với danh.”
Hàn Nhạn Thanh nhanh chóng bình tĩnh lại, hỏi tiếp, “Nếu như Quách Giải so chiêu với tiên sinh, đại khái…?” Nàng hỏi vì biết tính cách đặc biệt của vị sư thúc Tiêu Phương này là không thích hơn thua, biết đâu công phu lại kém xa người sư điệt chuyên cần phấn đấu thì mình bái sư sẽ không đáng giá lắm.
Lộng Triều ngạo nghễ nói, “Ba mươi chiêu.”
“Hả?”
Tiêu Phương mỉm cười giải thích, “Ý của Lộng Triều là A Giải so với ta thì ước chừng có thể cầm cự được khoảng ba mươi chiêu.”
“À.” Hàn Nhạn Thanh gật gù, vui vẻ, “Quyết định vậy đi, tôi nhất định muốn bái tiên sinh là sư phụ.” Cho dù không học được công phu gì thì cũng có thể nói là sư muội của Du hiệp Quách Giải ấy chứ.
“Tiên sinh sống ở đây là quy ẩn lánh đời sao?”
“Đúng mà cũng không đúng.” Tiêu Phương thản nhiên, “Ngày trước ta có một bằng hữu chết thảm, ta chôn cất nàng ở dưới chân núi, tâm trí hoàn toàn nguội lạnh nên cất nhà trên núi để ở, nhân thể cũng lánh đời luôn.”
“Vẫn nghe nói rằng ‘tiểu ẩn’ là ẩn dật ở nơi hoang dã, ‘trung ẩn’ là ẩn dật tại thôn quê, ‘đại ẩn’ là ẩn ở trong triều đình…”, Hàn Nhạn Thanh suy nghĩ một chút, mỉm cười nói tiếp, “Cảnh giới của tiên sinh ước chừng ở giữa tiểu ẩn và trung ẩn rồi.”
“Tiểu ẩn là ẩn dật nơi hoang dã, trung ẩn là ẩn dật tại thôn quê, đại ẩn là ẩn ở trong triều đình”, Tiêu Phương lặp lại một lần, cảm thấy cũng trơn tru thuận miệng liền tán đồng, “Cô nói cũng có lý.”
“Nếu như tiên sinh cũng cảm thấy có lý thì chi bằng làm như vậy đi.” Ánh mắt Hàn Nhạn Thanh sáng lên, khuyên nhủ, “Chúng ta chuyển đến thôn dưới chân núi được không?” Tiêu Phương nhất định phải chuyển nhà, nàng muốn bái sư thì dĩ nhiên phải đi theo, nhưng thật sự lại không nỡ rời xa nghĩa mẫu vừa mới nhận, vì thế dốc lòng cổ vũ Tiêu Phương dọn tới ở cùng bà.
“Tiên sinh thử nghĩ xem, Sở Phi Hiên quay lại tìm mà không gặp thì nhất định nghĩ rằng người đã trốn đến tận chân trời góc biển, nhất định không ngờ được người lại ở trong một thôn trang nhỏ ngay dưới chân núi. Hơn nữa chúng ta dọn đến ở cùng với người trong thôn, sinh hoạt hàng ngày cũng thuận tiện hơn. Gần thôn nhất định sẽ có chợ, cũng coi như là trung ẩn, ẩn dật nơi thành thị rồi. Quan trọng nhất là…” Nàng dừng lại, thấy Tiêu Phương đang mỉm cười nghe mình nói thì càng tự tin, “thôn tương đối gần, chúng ta cũng đỡ mất công dọn nhà.”
“Như vậy được không?” Nàng nhìn Tiêu Phương, đầy mong đợi.
“Nói cũng có lý.” Tiêu Phương không nhịn được cười khẽ, ra vẻ trầm ngâm một chút rồi gật đầu, “Cũng được!”
Hàn Nhạn Thanh được như ý thì cảm thấy rất hài lòng.
Khách Triệu chít khăn xanh
Ngô Câu ánh lạnh băng
Ngựa trắng mang yên bạc
Tựa tia chớp lướt nhanh
Mười bước gϊếŧ xong kẻ
Trời đất chẳng dung tình
Việc xong thời rũ áo
Cần chi tiếng với danh
Nhàn đến Tín Lăng uống
Cởi kiếm đặt ngang bàn
Chèo kéo mời Chu Hợi
Nâng chén thuốc Hầu Doanh
Ba say bèn chấp thuận
Ngũ Nhạc cũng coi khinh
Bực mình và nóng mắt
Chí khí vυ't trời xanh
Vung trùy vàng cứu Triệu
Kinh khϊếp cả Hàm Đan
Nghìn thu hai tráng sĩ
Đại Lương sợ một vành
Chết còn thơm tiếng Hiệp
Chẳng hổ đời tinh anh
Ai muốn ghi thành sách
Bạc đầu bởi chép kinh.Quyển 1 - Chương 5: Đông đến cho trà thêm xanh ngắtViệc chuyển nhà đã được quyết định nên tiến hành rất nhanh. Người trong thôn cảm động vì Tiêu Phương thường tới chữa bệnh cho thuốc nên đều tới giúp, nhanh chóng chuyển hết tất cả dược liệu, trúc giản xuống núi. Nghĩa mẫu lại càng chăm sóc nàng cẩn thận từng ly từng tý, dường như muốn vãn hồi sự tiếc nuối đối với đứa con gái đã mất sớm của mình.
“Tỷ tỷ, có trẻ con trong bụng của tỷ à?”, Tiểu Hổ Tử ngồi dưới chân Hàn Nhạn Thanh, chớp chớp mắt nhìn vào bụng nàng với vẻ e dè.
“Đúng vậy đấy.” Hàn Nhạn Thanh cười híp mắt, vuốt tóc cậu bé, cảm thấy cậu em mới kết nghĩa của mình rất dễ thương. Mặc dù cậu bé mặt mày xanh xao, thân hình hơi gầy yếu nhưng nếu được nuôi dưỡng tốt mấy năm thì sẽ là một đứa trẻ đáng yêu.
“Tiểu Hổ Tử này, tỷ tỷ hiện giờ đang giúp sư phụ cất nhà mới nên không có thời gian săn sóc cho đệ. Lộng Triều ca ca có võ công đấy, đệ học ca ca một chút đi, sau này có thể bảo vệ cho mẫu thân và tỷ tỷ.”
“Thật sao?” Ánh mắt Tiểu Hổ Tử sáng lên nhưng lại ảm đạm đi rất nhanh, “Đệ muốn giúp mẹ làm việc.”
“Không sao đâu.” Hàn Nhạn Thanh cười híp mắt vỗ vai cậu bé, “Bây giờ đã có tỷ rồi.” Nàng dẫn dụ từng bước, “Chuyện kiếm sống trong nhà đã có tỷ tỷ là người lớn làm. Đệ phải học võ công thật tốt để sau này bảo vệ cho mẫu thân và tỷ tỷ, còn cả cháu trai trong bụng tỷ tỷ nữa.”
“Vâng.” Tiểu Hổ Tử gật mạnh đầu. Thân đại nương từ bên ngoài mang thuốc dưỡng thai đi vào, bật cười nói, “Con đó, huyên thuyên vừa thôi.” Bà cũng không tin Hàn Nhạn Thanh có cách kiếm sống nuôi cả nhà nhưng vì cảm động trước tâm ý của nàng cũng không đành lòng trách móc, quay sang bảo Tiểu Hổ Tử, “Đi chơi đi!”
Tiểu Hổ Tử lập tức chạy biến, Hàn Nhạn Thanh cau mày nhìn bát thuốc. “Khổ quá đi”, nàng nhìn Thân đại nương vẻ đáng thương, nói giọng nũng nịu.
“Không nói nữa!” Thân đại nương vô cùng kiên trì, “Con mang thai chưa lâu, lại còn long đong lận đận mãi nên nhất định phải an thai thật tốt… Nếu năm đó có Tiêu tiên sinh ở đây thì chắc con gái mẹ cũng không bị…”
Nàng vội vàng đỡ lấy bát thuốc, uống một hơi cạn sạch rồi nói nhanh, “Nghĩa mẫu, con đi xem đám thợ có lười biếng hay không.” Dứt lời liền giả bộ như không nghe thấy tiếng Thân đại nương gọi với theo, chạy luôn một mạch.
Hàn Nhạn Thanh giành lấy việc thiết kế nhà mới. Nàng biết rõ Tiêu Phương có ý đồ tránh tai họa nên phòng ốc nhìn từ bên ngoài tuyệt đối không được có vẻ khác thường, thậm chí cả đại đường[1] cũng vậy, nhưng nội viện thì phải do nàng tự mình định đoạt. Đám thợ được mời tới xây dựng bị nàng hành hạ đến thê thảm, đã từng kín đáo ám hiệu Tiêu Phương là không nên để người nhà can thiệp vào chuyện này. Tiêu Phương chỉ cười cười chứ không nói gì, bọn họ sau đó càng bị Hàn Nhạn Thanh hành hạ nhiều hơn, cũng may mà tiền công trả rất đầy đủ. Hàn Nhạn Thanh lấy tiền của Tiêu Phương ra trả không hề tiếc rẻ. Thỉnh thoảng Thân đại nương đưa cơm tới thấy thế thì sợ hết hồn hết vía, một mực khuyên nàng phải dè sẻn hơn. Nàng chỉ thản nhiên cười bảo không cần phải lo đến chuyện này, cũ không đi thì mới sẽ không đến. Cuối cùng, khi phòng ốc đã dựng xong thì ngay cả đám thợ cũng không khỏi ồ lên kinh ngạc. Từ bên ngoài nhìn vào thì đó chỉ là một căn nhà nông thôn có mấy dãy phòng nối liền lại với nhau nằm giữa thôn xóm trên vùng đất vàng mênh mông không có gì đáng phải để ý. Đại đường chiếm diện tích khá lớn, sắp xếp mấy bộ bàn ghế theo tập quán của người ở nông thôn. Nội viện được thiết kế gồm phòng bếp, phòng chủ, hai chái nhà phía đông và phía tây, nhà thuốc, đình viện. Hàn Nhạn Thanh bảo bọn họ dùng một thứ không biết được điều chế thế nào, gọi là vôi, quét lên tất cả những bức tường bên trong, trắng mịn, sờ tay vào cảm giác lạnh như băng, lại nhẵn nhụi như gương. Chái nhà thậm chí còn xa xỉ tới mức lát nền bằng gỗ lim được đánh dầu bóng loáng, đi chân trần lên mát rượi, cực kỳ thoải mái.
[1] Đại đường: Gian phòng lớn dùng để tiếp khách.
Hàn Nhạn Thanh còn bảo bọn họ dựng một lầu trúc trong nội viện, trước lầu đào một cái hồ nhỏ, gieo trồng mầm sen mong đợi vào một sáng ngày hè xanh thẳm, mở cửa sổ lầu trúc sẽ thấy chuông gió ngân nga trên mái hiên, hoa sen nở rộ trong hồ, một trận gió thổi qua làm lá sen đung đưa soi bóng xuống mặt nước trong veo…
Từ lúc thiết kế nàng đã nghĩ tới cảnh này, nhìn Tiêu Phương cười rạng rỡ, “Sư phụ thấy thế nào?”
“Rất tuyệt vời. Lộng Triều thích lắm đấy.” Tiêu Phương chắp tay đứng trên đình viện đã được hoàn thiện xong cười nói. Gió nhẹ thoảng qua làm mấy lọn tóc trên đầu hắn bay phất phơ, trông tuấn tú không gì sánh được.
Nàng xoay người lại thì thấy Lộng Triều đi ngang đi dọc trên hành lang khu chái nhà ngó ngó nghiêng nghiêng, sờ sờ nắn nắn, dáng vẻ quả nhiên là thích thú tới cực điểm. Tiêu Phương mỉm cười nhìn bộ dạng vui vẻ của Lộng Triều, nói vẻ không để ý, “Chúng ta hình như không còn nhiều tiền lắm.”
Nàng vỗ vỗ tay, cười hồn nhiên, “Đúng vậy nhỉ.” Nàng nghĩ ngợi một lát, vẫn chưa tính xong, lấy mớ tiền Tam Thù[2] còn thừa ra đếm đi đếm lại rồi nói, “Chỉ còn hơn ba xâu thôi.
[2] Tiền Tam Thù: Tiền xu cổ của người Trung Quốc, được đúc vào năm đầu tiên của niên hiệu Kiến Nguyên thời Hán Vũ Đế.
Hắn nhìn chiếc lúm đồng tiền tròn xoe của nàng, lắc đầu thở dài vẻ hơi bất đắc dĩ.
Khi nhà mới làm xong thì cũng gần đến cuối năm Nguyên Quang thứ năm.
Hàn Nhạn Thanh dần dần cảm thấy cuộc sống của ba thầy trò bọn họ đã đến bước đường cùng. Vị sư phụ thần tiên của nàng không chỉ có phong độ thần tiên mà cả tâm địa cũng thần tiên, mặc dù y thuật vô cùng cao minh nhưng thường ngày chẩn bệnh bốc thuốc, nếu thấy bệnh nhân cùng khổ thì đừng nói là thu tiền chẩn mạch mà đến thuốc có khi cũng cho không. Như vậy không phải là không tốt, nhưng nếu cứ tiếp tục mãi thì nghèo nhất thôn chẳng phải là ai khác mà chính là ba thầy trò bọn họ.
Tiền không phải là vạn năng nhưng không có tiền thì vạn điều đều không thể, quả thật ở bất cứ nơi nào thì những lời này cũng là chân lý. Hàn Nhạn Thanh liền tính toán, nếu không thể tiết kiệm thì chỉ còn cách mở cửa hàng.
Nói đến mở cửa hàng thì từ khi đến Tây Hán tới nay, nàng vẫn mang một tâm bệnh. Nàng từ nhỏ đã chịu ảnh hưởng của mẹ nên rất thích uống trà, thích đến mức không có thì không xong. Nhưng trà của triều Hán thật sự nàng nuốt không nổi. Kể cả loại trà Kỳ Sơn danh tiếng nhất mà Tiêu Phương hiện đang uống, dưới mắt nàng cũng quá thô thiển đắng chát.
Vì thế ngay từ đầu nàng đã trông cậy vào việc sao trà, vừa có thể cho mình thưởng thức, vừa có thể lấy lòng sư phụ, lại còn có được một chút tiền để ra, cớ sao lại không làm? Nhưng khi thân hình dần nặng nề, tay chân cũng không nhàn rỗi thì nàng mới nhận ra rằng việc này không phải đơn giản như trong tưởng tượng. Chưa nói là nàng chỉ biết uống trà còn kiến thức về kỹ thuật sao trà chỉ là nửa vời. Chính nàng cũng biết rằng vùng trồng trà chính của thời kỳ này mới chỉ ở Ba Thục, dần dần lan tới kinh đô, những nơi khác thậm chí còn chưa có thói quen trồng trà.
Nàng mất rất nhiều thời gian mới tìm được một vườn trà trên núi bên ngoài thành Trường An, liền dẫn Lộng Triều tới hỏi. Chủ vườn quan sát nàng từ đầu đến chân mấy lần rồi nói, “Bây giờ đã vào mùa đông, mà trà lại chỉ hái vào hai mùa xuân hạ, phu nhân đến vào lúc này chẳng phải là phí công ư?”
“Thế cũng chưa chắc”, Hàn Nhạn Thanh điềm nhiên, “Lá trà mùa xuân sắc xanh mềm, hương vị tươi mát, mùa hè sắc trà tím hơn một nửa, vị chát, còn trà mùa đông thì hương vị đậm đà, mùi thơm ngào ngạt, đó mới thật là tốt.”
“Thì ra là thế”, chủ vườn chán nản phẩy tay, “Thật ra thì khí hậu Trường An không thích hợp để trồng trà, trà trong vườn của ta cũng không phát triển tốt. Nếu phu nhân thật sự cần thì cứ hái tùy thích. Vả lại trà mùa đông không đáng giá mấy nên không phải trả tiền đâu.”
“Vậy thì đa tạ tiên sinh”, Hàn Nhạn Thanh vui vẻ.
Mấy ngày này thời tiết tốt, khắp núi đồi toàn là trà lá nhỏ sum suê. Đang mùa đông, vườn trà tĩnh mịch không có lấy một bóng người. Hàn Nhạn Thanh chọn mấy đám trà xanh tốt, ngắt lấy một ôm lá.
“Hái để làm gì chứ?”, Lộng Triều đứng chờ mãi không nhịn được, hỏi giọng buồn bực.
“Về chế trà uống chơi”, nàng đáp.
“Trà?”, Lộng Triều ngây người, liên tưởng đến thứ nước trà Kỳ Sơn đen sì sì Tiêu Phương thường uống, chán chường chau mày, “Ở nhà vẫn còn, cần gì phải phiền phức như vậy.”
Hàn Nhạn Thanh bật cười, quay lại trấn an, “Thôi được rồi, nhanh tay chút đi. Lộng Triều ngoan, về nhà rồi chính tay ta làm vài món cho ngươi ăn.”
Lộng Triều nghi hoặc nhìn nàng rồi hỏi luôn, “Ngươi biết làm sao?” Hàn Nhạn Thanh bực mình, gắt gỏng, “Ngươi có bản lĩnh thì đến lúc đó đừng có mà ăn.”
Hắn ngẩn người, cuối cùng cũng hiểu mình đắc tội rồi nên vội nói lấy lòng, “Nhạn Thanh tỷ tỷ, để ta mang giúp bó lá này về nhé.” Nàng nghe vậy thì bật cười khanh khách.
Phương pháp chế biến trà từ sau thời Đường cũng không có gì khác ngoài mấy trình tự gồm sao trà, vò lá, sấy khô. Hàn Nhạn Thanh chia số lá trà hái về làm ba phần để phòng trường hợp thất bại. Cũng may là nhà bếp của Tiêu phủ được xây dựng theo yêu cầu khắt khe của nàng nên luôn có đầy đủ các loại vật dụng.
Nàng bỏ lá trà vào chảo, sao lên để giảm bớt hơi nước, vò cho thành hình, từ từ phơi gió, cuối cùng sấy bằng lửa nhỏ. Do chưa nắm được cách điều chỉnh lửa trong khi sấy nên thất bại hai lần, cuối cùng cũng sao được cách trà miễn cưỡng có thể coi là tạm hài lòng.
Hôm đó, Tiêu Phương đang đọc sách ở thư phòng chợt nghe thấy tiếng bước chân Hàn Nhạn Thanh đi ngoài hành lang, giọng cười trong trẻo như chuông ngọc. Thời gian này Hàn Nhạn Thanh thường cùng Lộng Triều hí hoáy gì đó, hắn cũng biết đôi chút nhưng không nói mà chờ xem nàng làm ra cái thứ gì.
“Sư phụ”, Hàn Nhạn Thanh dùng chân đá cho cánh cửa mở ta, dài giọng gọi. Tay nàng bưng một chiếc khay, bên trên là một chén trà nhỏ nóng nghi ngút.
Tiêu Phương hơi buồn cười, “Cô đang làm cái gì đó?”
“Sư phụ, đệ tử nghe nói người thanh bạch đạm bạc, chỉ thích uống trà, hơn nữa không phải là trà Kỳ Sơn thì không uống”, Hàn Nhạn Thanh học hắn ngồi quỳ trước án[3], đưa mắt liếc qua chén trà nhỏ bên tay hắn: “Có phải thế không?”
[3] Án: Cái bàn dài.
Hắn nâng chén trà lên, “Vậy thì sao?”
“Không sao cả”, nàng làm bộ vô tình, cũng nâng chén trà mình mang đến lên, chậm rãi mở nắp nhấp một ngụm. Hương trà thoang thoảng lan tỏa tràn ngập thư phòng.
“Người xem cái thứ trà Kỳ Sơn của mình đi, nhìn vào đen ngòm, vừa đắng lại chát, nhìn qua đã biết không dễ uống. Đúng không?”
Tiêu Phương đang bưng trà, tay bỗng nhiên cứng ngắc, khóe miệng dường như co giật, lén nhìn vào chén trà Kỳ Sơn nổi tiếng nhất đương thời. Nghe Hàn Nhạn Thanh nói vậy, hắn đặt chén trà xuống, thật sự cũng có chút uống không vào.
Hàn Nhạn Thanh mặt tươi như hoa, bưng chén trà trong tay đến trước mặt hắn, nói như thể đang hiến bảo vật, “Đây là trà đệ tử cùng Lộng Triều hái từ vườn về, đệ tử ở phòng bếp nghiên cứu bao nhiêu ngày mới chế ra, người nếm thử xem.”
Hắn làm như lơ đãng nhìn lại, ngón tay thon dài nâng chén trà như cánh hoa bồng bềnh trên mặt nước, bên trong chiếc chén trắng tinh, búp trà xinh xắn nở bung thành hình lá từ từ chìm xuống, nước trà xanh ngát, hương trà nồng lên tận mũi.
Hắn ho khẽ một tiếng, nhẹ nhàng đẩy tay nàng ra, “Cô lấy thêm cho ta một chén đi.”
“A?”, nàng ngạc nhiên hỏi, lúc này mới kịp nhớ rằng chén trà này mình đã uống rồi, mặt hơi đỏ lên, đứng vụt dậy nói, “Người chờ một chút.” Nàng vội vã chạy ra khỏi cửa, lúc quay lại đã cầm trên tay một hũ nước sôi và một chén trà.
“Thật ra thì cách ngâm trà này uống không ngon bằng pha trà”, nàng nói chậm rãi, miệng cười, lấy một dúm trà cho vào chén, rót nước sôi vào rồi khuấy đều. Hắn định đón lấy thì nàng lại lắc đầu, đổ nước tráng trà đi, thay một vòng nước sôi nữa rồi mới cung kính đưa tới trước mặt.
Hắn cầm lấy chén, dùng nắp gạt mấy lá trà nổi phía trên đi, nhấp một ngụm liền cảm thấy rất dễ chịu, vị đầu tiên hơi chát nhưng dần dần chuyển thành dịu ngọt man mác ở đầu lưỡi không hề tiêu tán.
“Sao? Thế nào?”, Hàn Nhạn Thanh hồi hộp hỏi.
Tiêu Phương bất giác mỉm cười, “Được lắm!” Hắn đột nhiên cảm thấy ấm áp, vuốt vuốt tóc Hàn Nhạn Thanh.
“Nào! Không được vuốt tóc tôi”, Hàn Nhạn Thanh xẵng giọng, sau đó đổi sắc mặt, có chút thương cảm.
“Tại sao?”, Tiêu Phương hơi lo lắng gạn hỏi.
“Không sao!”, nàng miễn cưỡng cười, “Chỉ là nhớ tới một người bạn.” Trước kia, Quý Đan Tạp cũng rất thích nghịch tóc nàng, lần nào nàng cũng bị Quý Đan Tạp chọc ghẹo đến phát điên lên rồi giận dữ quát: “Không được sờ tóc của tớ.” Giờ nhớ lại, thấy giống với giọng nói lúc vừa rồi như đúc.
Có lẽ, Đan Tạp cũng đang ở một vùng hẻo lánh nào đó trong Tây Hán cổ đại này chăng? Hàn Nhạn Thanh nhớ lại vụ tai nạn xe hơi kia, Tạp Tạp ôm nàng, cảm giác đau xé tới từng tế bào như chết đi sống lại, rồi cứ thế lặp lại. Nàng lắc đầu, đó là cơn ác mộng mà nàng vĩnh viễn không muốn nhớ đến.
Chế xong trà mùa đông, Hàn Nhạn Thanh lại nhớ tới lời hứa với Lộng Triều bèn vào bếp lần nữa, theo cách đời sau kho nấu vài món ăn, sai tiểu đồng bê một phần đến phòng Tiêu Phương và Lộng Triều còn mình thì mang một phần khác và một cân trà tự tay làm háo hức đi tới nhà mẹ nuôi ở thôn Bắc.
Đã mấy ngày không gặp, Thân đại nương thấy Hàn Nhạn Thanh đến thì mừng rỡ, “Con gái về nhà mẫu thân. Người trở về thì mẫu thân đã mừng lắm rồi, còn mang theo cái gì đấy?”
“Không phải đâu. Con mới làm mấy món lạ”, nàng mỉm cười đáp, “nên mới cố ý mang tới cho mẫu thân và Tiểu Hổ Tử nếm thử đó.”
Nhìn nàng bày ra một khay thức ăn có đủ cả sắc, hương, vị. Thân đại nương ngây người, nghi hoặc, “Món này làm như thế nào?”
Thời đầu Tây Hán phổ biến là những món luộc có mùi vị nhạt nhẽo, chưa từng thấy những món ngon như vậy. Thân đại nương còn nhịn được nhưng Tiểu Hổ Tử ở bên cạnh đã lập tức cất tiếng hoan hô rồi sà tới. Thân đại nương vội vàng kéo nó lại, mắng yêu, “Gượm đã nào, chẳng lẽ không phải là để cho con ăn sao.” Tiểu Hổ Tử phụng phịu chờ Thân đại nương mang bát đũa đến rồi lập tức gắp luôn miếng thịt kho tàu mà nó nhìn thèm nhỏ dãi. Hương vị ngọt dịu khiến nó suýt nữa nuốt luôn cả lưỡi, lúng búng khen: “Ngon, ngon thật. Tỷ tỷ của đệ lợi hại nhất.”
Thân đại nương cũng nếm kỹ một miếng, “Mùi vị thật ngon nhưng lại hơi khác với món ăn thông thường.”
“Dạ.” Hàn Nhạn Thanh cười hì hì đáp, “Đây là món kho, khác với món luộc hiện giờ.”
Tiểu Hổ Tử ăn ngấu nghiến như rồng cuốn, quệt mồm, sùng bái nhìn Hàn Nhạn Thanh, “Kể cả tay nghề cả lầu Văn Nhạc cũng không bằng tỷ tỷ.”
Hàn Nhạn Thanh phì cười, lấy khăn tay lau cho nó hết sức cẩn thận rồi hỏi, “Cái gì là lầu Văn Nhạc?”
“Lầu Văn Nhạc là chốn ẩm thực nổi tiếng nhất thành Trường An”, Thân đại nương đáp.
Nghĩa mẫu sống kham khổ, không có ấm chén pha trà nên Hàn Nhạn Thanh lấy bát canh rót hai chén trà cho bọn họ. Thân Hổ say mê nhìn lá trà xanh từ từ nở ra trong chén một cách thích thú, buột miệng, “Tỷ tỷ, chúng đệ chưa từng được uống trà đâu.”
Hàn Nhạn Thanh kinh ngạc, bỗng nhớ ra rằng trà ở thời Tây Hán vẫn còn là một món xa xỉ, nhìn quanh bốn vách phòng cũ nát, trong lòng lại mơ hồ dâng lên nỗi thê lương.
Nàng đẩy trà tới trước mặt dụ dỗ Tiểu Hổ Tử, “Vậy đệ thử xem tỷ tỷ sao trà có uống được hay không?”
“Dạ”, Tiểu Hổ Tử gật đầu thật mạnh, tu ừng ực một hơi hết sạch, đặt chén xuống, lấy tay áo chùi miệng, “Không tệ, trà Kỳ Sơn cũng chỉ như thế này thôi.”
Hàn Nhạn Thanh bật cười, kiêu ngạo, “Trà Kỳ Sơn so sao nổi với trà tỷ chế!”
Thân đại nương kéo nàng qua bên bảo, “Không nói chuyện ấy nữa. Nhạn Nhi, con đang mang thai, chẳng mấy chốc không thể mặc y phục này được nữa. Ta đã may cho con mấy bộ y phục, thử qua xem có thích không.”
Chẳng lẽ là y phục bà bầu mọi người thường nói? Hàn Nhạn Thanh hứng thú, “Mẫu thân”, nàng nhào vào lòng Thân đại nương, “Y phục mẫu thân may cho thì con nhất định sẽ thích.”
“Con ngoan!” Thân đại nương cười vui vẻ, cầm ra hai bộ y phục vải, nói là vải thô nhưng cũng cảm thấy rất thoải mái, đường may chắc chắn. Hàn Nhạn Thanh mặc lên người, quay phải quay trái một vòng. Thân đại nương thấy thế mỉm cười, “Cũng hơi rộng, ít ngày nữa bụng con lớn lên thì mặc mới vừa.”
“Ha ha, mẫu thân thật khéo tay.” Hàn Nhạn Thanh cười ngượng nghịu. Mặc dù trước kia đã từng bị Đan Tạp cho coi phim A[4], cũng đã nghe những chuyện tiếu lâm tục tĩu nhưng dù sao nàng vẫn là gái nhà lành, nói đến chuyện này thì vẫn hơi mất tự nhiên.
[4] Phim A: Phim khiêu da^ʍ.
Nói mới nhớ chuyện đứa bé trong bụng này là của Hán Vũ Đế, Hàn Nhạn Thanh nghĩ đến đây thì bất giác thấy lạnh người, không biết người trong mộng kia trông mặt mũi ra sao.
“Tất nhiên rồi”, Thân đại nương có chút kiêu ngạo, “Mẫu thân ngày trước là thợ may, nghỉ làm đã lâu, may mà không xuống tay.”
“Thế ạ?” Hàn Nhạn Thanh kinh ngạc, trong lòng nảy ra một ý niệm, “Thế mẫu thân có biết ai là thợ may giỏi nhất thành Trường An không?”
“Con hỏi chuyện này làm gì?… Ừm, tất nhiên là Hạ tiểu thư của phường Nghê Thường rồi.”
Nàng sửa sang ống tay áo, tức giận chau mày, “Một thợ may mà cũng gọi là tiểu thư!”
“Nhạn Nhi không biết đó thôi, Hạ cô nương là con gái của Hạ lão bản, phường chủ phường Nghê Thường, tiểu thư con nhà giàu thực sự. Nàng ta có tay nghề cao, tính tình lại kiêu ngạo, giá một bộ y phục nàng ta may ít nhất phải bằng người trung lưu chi tiêu trong một năm.”
“Vậy à”, nàng hơi cúi đầu xuống.
“Hạ tiểu thư là con gái ông chủ Hạ thì sao có thể làm việc cho người ngoài được chứ? Nhạn Nhi đừng có đòi hỏi quá nhiều.” Đây là phản ứng trực tiếp nhất của Thân đại nương sau khi biết được tính toán của Hàn Nhạn Thanh.
“Mẫu thân chưa từng nghe câu ‘mưu sự tại nhân’ sao?” Hàn Nhạn Thanh không để ý tới điều đó, chỉ cười ngọt ngào, “Tất cả mọi chuyện đều có khả năng mà.”
Thân đại nương ngẩn người ra nhìn, đánh giá Hàn Nhạn Thanh bằng ánh mắt hoàn toàn mới mẻ. Trước đây Thân đại nương vẫn thường cho rằng Hàn Nhạn Thanh chẳng qua chỉ là một cô gái bình thường bỏ nhà trốn đi mà thôi, nhưng đến giờ thì bà lại giật mình cảm thấy nàng thật sự không phải đơn giản.
“Mẫu thân”, Hàn Nhạn Thanh dựa sát vào người Thân đại nương, “Mẫu thân nói cho con biết một chút về Hạ tiểu thư đi.”
“Được rồi.” Thân đại nương vô thức đáp, “Tiểu thư Hạ Đông Trữ là con gái thứ ba của ông chủ Hạ Diễn. Mẹ của nàng ta họ Tần, là tiểu thϊếp thứ ba của ông chủ Hạ…”
Hàn Nhạn Thanh trở về phủ lúc trời đã tối đen, trông thấy một bóng người đang đứng lặng lẽ trong hành lang liền nâng đèn l*иg lên soi. Vừa đúng lúc người nọ ngẩng đầu lên, dưới ánh nén là một gương mặt lạnh như băng khiến nàng sợ hết hồn, hỏi xẵng, “Ngươi ở đây làm gì?”
“Ăn ngon.” Lộng Triều nói một câu không đầu không đuôi.
“Cái gì?” Hàn Nhạn Thanh sửng sốt mất một lúc mới có phản ứng, bật cười hỏi, “Không phải ngươi cứ chờ mãi ở đây chỉ vì muốn nói một câu này với ta đấy chứ?”
“Ngày mai vẫn nấu chứ?” Lộng Triều rầu rĩ cúi đầu một lát rồi nói.
“Không.” Hàn Nhạn Thanh hơi hoảng hốt, “Ta đến đây không phải để làm người nấu ăn cho các ngươi.”
Lộng Triều dường như rất kiên nhẫn, bướng bỉnh nhìn Hàn Nhạn Thanh khiến nàng cảm giác rất đau đầu. Nàng giận mình đã tự chuốc lấy phiền toái nhưng việc một cậu bé tuấn tú cứ nhìn mãi bằng một ánh mắt thuần khiết tràn đầy khát vọng khiến nàng cảm thấy mình sắp sửa không cưỡng lại được nữa, bèn dựa vào một chút lý trí còn sót lại, vội vàng nhìn tránh đi, dỗ dành, “Gần đây ta có nhiều việc bận, qua đợt này ta bảo đảm hàng ngày sẽ nấu món ngon cho ngươi ăn có được không?”
Lộng Triều mặc dù không hài lòng lắm nhưng cuối cùng cũng không nài ép, trề môi bỏ đi để lại Hàn Nhạn Thanh ở lại lau mồ hôi lạnh toát ra trên trán.Quyển 1 - Chương 6: Y phục như mây, dung mạo như hoaTam tiểu thư Hạ Đông Trữ lên một chiếc kiệu màu trắng ở cửa ngách Hạ phụ rồi chậm rãi tiến về hướng lầu Phong Nhạc.
Hạ Đông Trữ đang đứng bên cửa sổ đại sảnh Bích Vân ở trên tầng ba lầu Phong Nhạc nhìn dòng người qua lại trên phố thì nghe tiếng cửa phòng ở phía sau mở ra, bèn vui mừng quay đầu lại, “Liễu lang.” Nàng ta đi qua bức bình phong mừng rỡ ra nghênh đón, nhưng trong nháy mắt đã thay đổi sắc mặt.
Người đi vào là một thiếu niên đang cười khanh khách, gương mặt bình thản không hề có dáng vẻ quyền quý.
“Ngươi là ai?”
Thiếu niên chắp tay thi lễ, “Tiểu sinh Hàn Nhạn Thanh xin chào Đông Trữ tiểu thư.”
“Ta không biết ngươi”, Hạ Đông Trữ quan sát rất thận trọng, “Ngươi làm thế nào mà vào được đây?”
Thiếu niên xếp cây quạt giấy lại, mỉm cười chậm rãi bước tới, tự nhiên như không ngồi vào bàn, châm chén rượu rồi thản nhiên nói, “Ta có thể vào được vì ta chính là người mời tiểu thư tới đây.”
“Ngươi”, Hạ Đông Trữ kinh hãi, “Liễu lang chứ? Làm sao ngươi biết rằng chúng ta thường hẹn gặp nhau ở đây?”
“Đông Trữ cô nương! Cô nường đừng có hỏi một hơi nhiều vấn đề như vậy”, Hàn Nhạn Thanh uống cạn chén rượu rồi khẽ lắc lắc ngón tay trỏ, “Ta biết điều này dĩ nhiên là do Liễu lang của cô nương nói cho ta.”
“Ngươi…” Hạ Đông Trữ trừng mắt, “Có phải ngươi ép hỏi Liễu lang hay không? Hay là ngươi lừa chàng?”
“Ô kìa, Đông Trữ tiểu thư, tiểu sinh giống người xấu đến vậy sao?” Hàn Nhạn Thanh nhìn chăm chú vào mắt Hạ Đông Trữ, thôi cười, “Sự thật là ta cho Liễu Ngôn Hạ một khoản tiền nên hắn nói cho ta biết.”
Hạ Đông Trữ cảm thấy toàn thân mềm nhũn, ngã ngồi xuống đất rồi vẫn còn không tin, lẩm bẩm nói, “Ta không tin, rõ ràng là ta đã chu cấp tiền cho chàng.”
“Cô nương có thể cho hắn bao nhiêu tiền? Mười xâu, hai mươi xâu? Chỉ e là tiền vừa tới tay thì hắn đã ném tất cả vào sòng bạc rồi.” Hàn Nhạn Thanh lạnh lùng nhìn Hạ Đông Trữ, cảm giác hơi áy náy nhưng vẫn tàn nhẫn nói, “Ta đưa cho hắn luôn một lần một trăm xâu tiền Tam Thù, hắn liền đáp ứng với ta là từ nay về sau sẽ không gặp cô nương nữa, còn tự tay viết một phong thư.”
Hạ Đông Trữ ngồi ngây dưới sàn nhà, thất thố hồi lâu mới tỉnh táo lại, “Đây chỉ là những lời nói một phía của ngươi, ngươi có chứng cớ gì không? Ngươi muốn làm gì chứ?”
“Ha ha ha”, Hàn Nhạn Thanh vỗ tay vẻ thú vị, “Cô nương đâu phải là tiểu thư con nhà quyền quý không hiểu thế sự, sao con mắt nhìn đàn ông lại kém đến vậy? Chứng cứ? Việc ta ngồi ở đây chẳng phải là chứng cứ tốt nhất hay sao? Về phần mục đích của ta ư? Mục đích của ta là muốn cô nương làm người đứng đầu các thợ may trong phường may của ta.”
“Không thể được.” Hạ Đông Trữ dứt khoát từ chối, ánh mắt nhìn về thiếu niên thậm chí có vẻ hơi khinh miệt, “Ngươi bỏ ra nhiều công sức như vậy nhưng chẳng lẽ không biết ông chủ phường Nghê Thường là cha ta sao? Sao ta lại phải phản bội ông ấy?”
“Ta biết chứ”, Hàn Nhạn Thanh cười nhẹ, “Ta còn biết, cô nương chỉ là tiểu thư con của tam phu nhân làm thϊếp trong Hạ phủ. Tam phu nhân ở trong phủ cũng không được sủng ái, nếu không phải vì cô nương có tay nghề may không ai bì kịp thì chắc những đãi ngộ dành cho mẹ con cô nương cũng chẳng ra gì đâu.”
Hạ Đông Trữ cười khổ, “Nếu đã như vậy thì chắc ngươi càng phải biết rõ rằng ta không thể đánh mất thân phận thợ may của phường Nghê Thường được.”
“Ta không thấy bản thân cần phải hiểu rõ chỗ nào cả.” Hàn Nhạn Thanh nghiêm nghị nhìn nàng ta, “Đãi ngộ đối với hai mẹ con cô nương hiện giờ cũng không phải là tốt lắm đúng không? Theo tài nghệ của cô nương thì rõ ràng là phải nhận được nhiều hơn. Cô nương không oán thán mà vẫn cam tâm ư? Cô nương đã có hôn ước với Trương công tử của Miên luân cục[1], cô nương tưởng có thể rũ bỏ mà tự do lựa chọn vị hôn phu cho mình được sao? Với tài nghệ của mình, chẳng lẽ cô nương không nghĩ đến việc chế tác ra những bộ y phục tốt hơn khiến mọi người phải kinh ngạc ư? Nếu cô nương đồng ý thì ta có thể giúp cô nương làm điều đó.”
[1] Luân cục: Cục sản xuất, buôn bán tơ lụa.
“Phi!”, Hạ Đông Trữ cười nhạo, “Ngươi cho rằng ngươi là ai, may y phục nhìn thì đơn giản nhưng kỳ thật rất phức tạp, đòi hỏi tay nghề rất cao, ngươi dựa vào cái gì để có thể làm được”, nàng ta cố ý cao giọng, “y phục khiến cho mọi người phải kinh ngạc?”
Hàn Nhạn Thanh cười cười, “Đương nhiên là ta không may y phục. Nhưng mà…” Nàng dùng cây quạt chỉ vào đầu, “Ta có đầu óc. Đông Trữ cô nương, xem qua một chút rồi hãy nói.”
Nàng trải ra một tấm lụa tơ tằm, trên đó vẽ hình một cô gái không biết bằng loại bút gì. Hạ Đông Trữ cảnh giác đến gần, vừa nhìn vào thì lập tức say mê. Dĩ nhiên nàng ta có thể nhìn ra cô gái trong tranh có dáng vẻ thướt tha, y phục tôn quý, nét vẽ trôi chảy, dáng vẻ lộng lẫy mà chỉ có thể thấy được ở thiên kim tiểu thư Mộng Lý Tài trong kinh thành.
“Ngươi…” Hạ Đông Trữ chần chừ, lộ rõ vẻ dao động, “Thật sự ngươi có thể làm được sao? Còn có cha ta…”
“Nói như vậy…” Hàn Nhạn Thanh thu bức họa lại, cười ranh mãnh, “Nếu ta có thể thuyết phục cha cô thì cô đồng ý tới giúp ta chứ?”
Hạ Đông Trữ liếc nhìn nàng vẻ khó xử.
“Đông Trữ tiểu thư vẫn còn băn khoăn, như vậy đi.” Nàng nhẹ nhàng tháo chiếc mặt nạ da người xuống để lộ ra khuôn mặt yêu kiều rồi mỉm cười hỏi, “Như thế này có tốt hơn chút nào không?”
“Cô…” Hạ Đông Trữ vui mừng nhìn cô gái trước mặt, cuối cùng khẽ cúi đầu.
Sau khi đưa ra điều kiện phường may về danh nghĩa nằm trong phường Nghê Thường cùng với mức giá cao chót vót năm ngàn xâu tiền mỗi năm để thuyết phục Hạ Diễn buông tay, Hàn Nhạn Thanh vừa triệu tập những người khác vừa bắt đầu rầm rộ kiến lập phường may Tạp Môn[2] của mình. Hạ Đông Trữ tò mò hỏi tại sao lại lấy một cái tên kỳ quái như vậy, nàng chỉ cười bảo rằng để kỷ niệm một người bạn. Trước kia, cô gái mà Đan Tạp ngưỡng mộ nhất chính là Carmen dám yêu dám hận. Hàn Nhạn Thanh hy vọng rằng khi phường may Tạp Môn trở nên nổi tiếng thì Đan Tạp có thể nghe tên mà biết nàng đang ở chỗ này.
[2] Tạp Môn: Phiên âm Hán Việt của Carmen, tên nhân vật nữ chính trong vở opera cùng tên của Pháp, tượng trưng cho sự đấu tranh mạnh mẽ vì tình yêu.
Thân đại nương tưởng Hàn Nhạn Thanh lúc xây dựng Tiêu phủ đã là bới lông tìm vết, tiêu tiền như nước nhưng yêu cầu cao của nàng với phường may Tạp Môn lại còn khiến bà chặc lưỡi hít hà, tim đập loạn nhịp. Hàn Nhạn Thanh giải thích, “Phường may Tạp Môn của chúng ta nhằm vào các tiểu thư phu nhân của xã hội thượng lưu. Mẫu thân nghĩ mà xem, nếu như tiêu chuẩn thấp, đám phu nhân tiểu thư tới đây vừa nhìn đã cảm thấy bị hạ thấp, quay đầu bỏ đi thì chúng ta còn làm ăn được gì nữa. Huống chi cũng chỉ là lấy mỡ nó rán nó mà thôi, có thể hoàn vốn rất nhanh mà.”
Song Hàn Nhạn Thanh không ngờ được rằng mình khua chiêng gióng trống chuẩn bị suốt hai tháng trời ròng rã nhưng đúng vào trước ngày phường may chính thức khai trương thì nàng lại bị Tiêu Phương lấy lý do cái thai không yên để hạn chế.
Trong thư phòng của Tiêu phủ.
Nhạn Thanh giậm chân, giở hết các loại thủ đoạn cầu xin, ăn vạ nhưng Tiêu Phương vẫn lặng yên như phỗng ngồi trước án thư nhìn nàng rầu rĩ, lại còn mỉm cười hỏi, “Có muốn uống một ngụm trà rồi tiếp tục nói nữa hay thôi?”
Hàn Nhạn Thanh giận dữ, “Chỉ nốt hôm nay nữa thôi là tôi sẽ về nhà tĩnh dưỡng, cũng không được sao?”
“Không được”, Tiêu Phương nghiêm mặt nói, “Nhạn Nhi, lúc cô vừa mới mang thai đã bị đả thương quá nặng, ảnh hưởng đến cái thai. Mấy ngày nay ta thấy cô hăng hái nên không đành lòng ngăn cản, chỉ có thể giúp cô điều dưỡng trong ăn uống. Nhưng chuyện này quan trọng nhất vẫn là cơ thể người mẹ, nếu cô còn muốn bình an sinh đứa bé này thì từ giờ trở đi bắt đầu điều dưỡng một tháng.”
Hàn Nhạn Thanh sửng sốt, há hốc mồm nghe Trần A Kiều trong cơ thể kháng cự mãnh liệt.
“Biết rồi.” Nàng nhún vai, biết có nói thêm cũng vô dụng vì cứ cho rằng nàng thuyết phục được sư phụ nhưng làm sao thuyết phục được Trần A Kiều vốn coi bào thai trong bụng như sinh mạng? Nàng thở dài, cũng đành rầu rĩ như đưa đám buông trôi, nghĩ đến việc mình đã dồn hết tâm tư trù tính cho phường may, tới ngày khai trương hoành tráng thì lại không được chứng kiến tận mắt mà không thể cam lòng. Nhưng Tiêu Phương đã nói như đinh đóng cột, nàng rốt cuộc cũng không dám mang cái thai trong bụng A Kiều ra để đùa giỡn.
Đã không còn hy vọng ra ngoài thì nàng cũng thoải mái tâm tư, bắt đầu theo Tiêu Phương học y, lập chí quấy phá cho phiền chết mới thôi để hắn hối hận. Đương nhiên việc này không tránh khỏi bị Lộng Triều vốn luôn một lòng bảo hộ huynh trưởng trợn mắt nhìn rất nhiều lần.
Mặt trời từ từ xuống núi, lúc Thân đại nương cùng với Hạ Đông Trữ trở về thì Hàn Nhạn Thanh đang học phân biệt dược liệu. Từ rất xa đã nghe thấy giọng nói hưng phấn của Tiểu Hổ Tử, “Tỷ tỷ! Tỷ tỷ.”
“Hôm nay đúng thật là náo nhiệt. Người tới nhiều lắm. Lúc mới đầu thì phần lớn chỉ là những cô gái thường dân, vừa vào tới phường thì đều sáng mắt. Đến quá buổi trưa…” Tiểu Hổ Tử đang nói thao thao bất tuyệt, chợt thấy Hàn Nhạn Thanh nhìn mình bằng ánh mắt rưng rưng trông rất đáng thương thì giọng cậu bé càng lúc càng nhỏ, “Ôi! Tỷ tỷ! Tỷ tỷ.”
“Tỷ tỷ thật xinh đẹp!” Hạ Đông Trữ than thở nhìn Hàn Nhạn Thanh đang nửa nằm nửa ngồi trên ghế, dáng vẻ lười biếng, mắt nhìn ai oán. Hàn Nhạn Thanh và Trần A Kiều đều là những phụ nữ cực kỳ yêu kiều, nhất là Hàn Nhạn Thanh lại biết rất nhiều phương thuốc và món ăn dùng để dưỡng da dưỡng nhan của thời hiện đại, còn quấn lấy Tiêu Phương bảo hắn dạy cho mình rất nhiều món thuốc nên đã điều dưỡng cho da dẻ mịn màng sáng trắng, không hề có hiện tượng khô vàng tiều tụy của phụ nữ mang thai.
“Xinh đẹp thì có ích gì? Sao không nói nữa, tiếp tục đi!” Hàn Nhạn Thanh nói vẻ ai oán, đành phải nghe người khác tường thuật lại thành quả mà bản thân mình bao nhiêu ngày trù tính.
“Sau giờ Ngọ, rất nhiều tiểu thư nhà giàu đã phái người tới đặt may y phục”, Thân đại nương mỉm cười bưng thuốc đi vào, “Nhạn Nhi, uống thuốc đi!” Bà liếc thấy Hàn Nhạn Thanh hơi nhăn mặt thì lại bật cười, “Nhạn Nhi phải uống thuốc đúng hạn thì mới có thể mau chóng được tự do chứ.”
“Tự do hay là chết?” Hàn Nhạn Thanh lẩm bẩm nói, uống một hơi cạn bát thuốc sau đó nhăn nhó, “Nước, nước, nước…”, rồi vội vàng cầm lấy bát nước đưa tới uống ừng ực. Hạ Đông Trữ đứng bên giơ ra một quả mơ, nàng ghé sát lại gần há miệng ngậm lấy rồi hơi nhíu mày, “Chua quá!”
“Hì hì”, Hạ Đông Trữ cười nói, “Chẳng phải người ta vẫn nói người mang thai thích ăn của chua sao? Sao tỷ tỷ lại là một ngoại lệ thế nhỉ?” Rồi lại nói thêm, “Hơn nữa có câu ăn của chua sinh con trai, ăn cay sinh con gái, từ đó có thể thấy trong bụng tỷ tỷ là một cô bé xinh đẹp khả ái.”
Hàn Nhạn Thanh ngẩn ra, nụ cười trên mặt dần biến mất. Hạ Đông Trữ thấy vậy hơi sợ hãi, nhỏ giọng hỏi, “Tỷ tỷ, có phải muội nói gì sai không?”
“Không phải”, Hàn Nhạn Thanh đáp, “Thật ra bản thân ta thích con gái hơn, chỉ là…”, Trần A Kiều chắc sẽ không nghĩ như vậy.
“Chỉ là tỷ phu[3] sẽ không nghĩ như vậy phải không tỷ tỷ?”
[3] Tỷ phu: Anh rể.
“Ối!” Hàn Nhạn Thanh chút nữa thì nghẹn, Hạ Đông Trữ sau khi bỏ đi vẻ ngoài thanh cao thì cũng chỉ là một thiếu nữ quen sống trong khuê phòng tịch mịch, nếu là người quen biết thì luôn một dạ chân thành, đối với Liễu Ngôn Hạ cũng thế, đối với nàng cũng thế. “Tỷ phu?”, Hàn Nhạn Thanh cười khổ, cô nàng thật đúng là không biết giữ mồm giữ miệng. Rốt cuộc cô nàng bảo ai là tỷ phu? Nếu như Hạ Đông Trữ xác định tỷ tỷ là Hàn Nhạn Thanh thì tỷ phu nàng ta vào tám trăm năm sau còn chưa biết ở chỗ nào. Nếu như cô nàng nói đến cha của đứa bé ở trong bụng… Hàn Nhạn Thanh đột nhiên giật nảy mình, lạnh toát.
“Ừm.” Hàn Nhạn Thanh cảm thấy cần phải cải chính lại, “Đông Trữ, muội không có tỷ phu.” Nàng liếc mắt thấy vẻ mặt mọi người trong phòng đều trở nên kỳ lạ thì biết mình đã lỡ lời nên vội vàng bổ sung, cúi đầu vẻ thương tâm, “Tướng công của ta không cần ta nữa rồi.” Giọng nàng nghẹn ngào, mắt đỏ lên như sắp khóc.
Người thật sự đỏ mắt là Thân đại nương, bà ôm lấy Hàn Nhạn Thanh, đau lòng, “Nói gở miệng, người đàn ông nào đó thật sự là không có mắt mới không nhìn ra Nhạn Nhi của chúng ta tốt như vậy. Nhạn Nhi, không cần phải khóc.”
Hàn Nhạn Thanh toát mồ hôi, “Mẫu thân à, chúng ta không nhắc đến y nữa có được không?” Nàng chỉ sợ một ngày nào đó mọi người biết người đang bị mắng là ai thì chắc đều sợ hết hồn.
“Được rồi, được rồi, chúng ta không nói tới nữa.” Thân đại nương hiểu sai ý của Hàn Nhạn Thanh, vỗ vỗ lưng an ủi.
Hàn Nhạn Thanh xoay người lại, nhìn thấy vẻ mặt áy náy của Hạ Đông Trữ, “Tỷ tỷ, không phải muội cố ý khơi lại chuyện thương tâm của tỷ.”
“Không sao”, Hàn Nhạn Thanh cười vẻ khoan dung, che giấu những tính toán trong mắt, “Nếu muội thật sự thấy có lỗi thì làm giúp ta mấy bộ y phục rộng rãi thích hợp với người mang thai, kiểu dáng thì ta đã vẽ rồi, muội tự mình cắt may đi, hơn nữa…” Nàng nháy mắt, “Trước khi ta sinh con, trong kinh thành không được phép xuất hiện kiểu y phục giống như vậy.”
Cho dù ở thời hiện đại hay cổ đại thì bản tính trời sinh của phụ nữ là thích đẹp, nhất là khi nàng có tiền, vì vậy, Hàn Nhạn Thanh quyết định, nếu như bắt buộc phải làm một phụ nữ có thai thì nàng muốn là một phụ nữ có thai xinh đẹp mỹ lệ nhất.
Bảy ngày sau, khi Hàn Nhạn Thanh mặc bộ y phục dành cho phụ nữ có thai vừa mỹ lệ vừa thoải mái xuất hiện trước mặt mọi người thì tất cả đều thấy mắt mình như sáng lên. Hai phong cách khác biệt, vừa hoa mỹ, khoan thai vừa ngọt ngào, thân thiết đã được dung hợp lại như một thứ kỳ tích trên thân hình người phụ nữ đang chậm rãi bước tới.
Tiêu Phương cấm cung Hàn Nhạn Thanh đúng nửa tháng, sau khi xác định đã vượt qua giai đoạn nguy hiểm dễ sinh non mới để cho nàng tự do. Lúc này Hàn Nhạn Thanh đã mang thai gần năm tháng.
Ngày hôm đó Hàn Nhạn Thanh dẫn nha hoàn áo xanh mới thu nạp, ngồi kiệu đi tới phường may Tạp Môn, lên lầu từ cửa ngách. Lúc nàng thiết kế phường may Tạp Môn, tôn chỉ của nàng là phục vụ các vị phu nhân, tiểu thư trong xã hội thượng lưu nhưng cũng không bỏ qua thị trường bậc trung và bậc thấp cho nên dùng tầng một dành cho đại chúng và mở một cửa từ mặt bên dẫn thẳng lên lầu phục vụ riêng cho các tiểu thư, phu nhân quý tộc của kinh thành. Vì thế bây giờ nàng theo lối này lên đến lầu trên mà không một ai bắt gặp.
Thân đại nương trông thấy một phụ nữ có thai xa lạ lên lầu trên của phường may Tạp Môn thì bất giác ngẩn ra, nhưng nhìn thấy bóng áo xanh phía sau Hàn Nhạn Thanh thì nhận ra ngay, “Nhạn Nhi phải không?”
Hàn Nhạn Thanh tinh nghịch tháo mặt nạ xuống, cười duyên dáng, “Mẫu thân, làm sao mà mẫu thân nhận ra được?”
“Con đó, một cô gái mang thai năm tháng mặc quần cao thế này xuất hiện ở phường may Tạp Môn, không phải là Hàn Nhạn Thanh thì là ai?”
“Hì hì”, Hàn Nhạn Thanh nói lảng sang chuyện khác, “Phường may làm ăn như thế nào rồi ạ?”
Toàn bộ bố cục, kiến trúc, trang trí trên lầu hai của phường may Tạp Môn đều do Hàn Nhạn Thanh thiết kế, từ kiểu cầu thang xoắn ốc cho tới đại sảnh đón khách. Sàn đại sảnh làm bằng gỗ mộc nguyên tấm, đánh bóng loáng đến mức soi gương được. Chung quanh kê mấy chiếc bàn, ghế tựa bằng mây hòa hợp với cầm kỳ thư họa. Trên bày nước trà bánh ngọt, trong góc đặt một chậu Điếu lan[4] khiến cả đại sảnh tràn ngập màu xanh, trang nhã thoát tục. Bên trái đại sảnh là phòng y phục, chia làm năm gian váy, áo cánh, áo sam, mũ, giày, mỗi gian có một tiểu người phục vụ riêng biệt. Tay phải là phòng bày mẫu, lấy nguyên tắc thoải mái làm chuẩn, đốt trầm hương bố trí trang nhã ở trên cao. Có khách quý tới, người bán hàng sẽ giới thiệu những bộ y phục thích hợp, mặc thử luôn ở trong phòng bày mẫu. Theo như suy nghĩ của Hàn Nhạn Thanh, mục tiêu của phường may Tạp Môn là: Vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi.
[4] Điếu lan: Một loại cây thường được trồng trong chậu đặt trong nhà, có tác dụng lọc không khí rất tốt.
“Dạo này danh tiếng phường may ngày càng nổi, không ít tiểu thư con nhà quyền quý nghe danh tìm đến. Bây giờ các thục nữ trong kinh thành đã bắt đầu ưa chuộng y phục của phường may Tạp Môn rồi.” Nói đến đây, Thân đại nương liền cười không ngậm miệng lại nổi.
Rèm cửa lay động, Hạ Đông Trữ ôm một chồng sổ sách đi vào, “Tỷ tỷ, đây là thu nhập hai tháng vừa qua, tỷ xem đi.”
Hàn Nhạn Thanh trông thấy chồng sổ sách dày liền cảm thấy đau đầu, gạt đi, “Thôi bỏ qua, ta tin tưởng mọi người. Thu nhập của phường may Tạp Môn, trừ năm ngàn xâu giao cho Hạ thúc thúc, bốn phần giao cho sư phụ của ta, còn lại nghĩa mẫu, Đông Trữ và ta mỗi người hai phần.”
“Nhạn Nhi…”
“Tỷ tỷ…”
Thân đại nương và Hạ Đông Trữ kinh ngạc, “Không cần làm vậy đâu.”
“Phường may Tạp Môn là do chúng ta chung sức lập nên mà.” Xét từ góc độ của Thân đại nương và Hạ Đông Trữ thì Hàn Nhạn Thanh hơi ngốc nghếch.
“Nguyện vọng lớn nhất của ta là giúp cho cuộc sống của những người ta quan tâm khấm khá hơn lên. Cho nên, có thể làm được gì thì ta sẽ làm.”
Hạ Đông Trữ đứng lặng, không ngờ Hàn Nhạn Thanh xử lý việc này rộng rãi, nghĩa khí như vậy. “Tỷ tỷ, muội cũng là người của tỷ sao?”
“Tất nhiên. Không phải muội gọi ta là tỷ tỷ sao”, Hàn Nhạn Thanh bật cười, vuốt tóc nàng ta.
“Tỷ tỷ…” Hạ Đông Trữ nghẹn ngào, “À”, nàng ta chợt nhớ tới một chuyện: “Tỷ tỷ. Mấy hôm có người tới phường may tìm tỷ.”
“Tìm ta?” Hàn Nhạn Thanh hơi kinh ngạc, “Rất ít người biết ta có quan hệ với phường may cơ mà?”
“À.” Hạ Đông Trữ gật gật đầu, “Khoảng hơn một tháng sau ngày khai trương, người ấy đã vào tiệm nói là muốn gặp người đứng đầu phường may.”
Chẳng lẽ là Quý Đan Tạp? Hàn Nhạn Thanh cảm thấy rất nhiều khả năng là vậy liền hỏi lại với giọng có chút vội vã chờ mong “Nam hay nữ?”
“Nam”, Hạ Đông Trữ đáp, nhìn vẻ háo hức dần trở nên ảm đạm trong mắt Hàn Nhạn Thanh.
“Ồ.” Nàng nhún vai, thờ ơ hỏi, “Ai vậy?”
“Hắn nói tên là Mạc Ung Niên.”
“Mạc Ung Niên?” Hàn Nhạn Thanh trầm ngâm nói, “Cái tên này nghe thật quen.” Mạc Ung Niên, không phải là giám đốc điều hành của Tập đoàn Trường Phong trong vụ án bắt cóc con tin kia sao?
Hàn Nhạn Thanh đột nhiên nhảy dựng lên, “Hắn có gửi thứ gì để liên lạc hay không?”
“Ồ, hắn nói ít ngày nữa lại đến.” Hạ Đông Trữ hơi kinh ngạc, chưa bao giờ thấy Hàn Nhạn Thanh phản ứng mạnh đến thế.
“Nhạn Nhi, con không nên dây dưa đến người đó”, Thân đại nương chen lời, vẻ mặt nghiêm túc.
“Vì sao ạ?” Hàn Nhạn Thanh không hiểu nổi, nghĩa mẫu chưa từng bao giờ can thiệp vào chuyện của nàng.
“Đông Trữ là tiểu thư nhà giàu nên không biết chứ người đàn ông đó căn bản không phải là Mạc Ung Niên. Hắn là con trai thứ bảy của Tang lão bản giàu có nhất kinh thành, tên là Tang Hoằng Dương.”Quyển 1 - Chương 7: Vợ chồng gặp lại chẳng nhận ra“Tang Hoằng Dương?” Hàn Nhạn Thanh nhắc lại, cảm giác mồm miệng tê cứng lại.
“Đúng rồi, con đã nghe nói về cái tên này rồi chứ. Tang Hoằng Dương là cậu ấm nổi tiếng kinh thành chuyên đùa giỡn gái nhà lành, không chuyện ác nào không làm.”
…
Hàn Nhạn Thanh im lặng, trong ấn tượng của nàng thì Tang Hoằng Dương là danh thần thời sơ Hán nhưng tại sao lại chỉ là một cậu ấm thế này? Nàng chỉ có thể giải thích là do hiệu ứng cánh bướm[1], nàng hỏi thêm vài câu rồi cáo từ rời đi.
[1] Hiệu ứng cánh bướm: Là một cụm từ dùng để mô tả khái niệm trong lý thuyết hỗn loạn về độ nhạy cảm của hệ đối với điều kiện gốc. Vốn được sử dụng ban đầu như một khái niệm khoa học đơn thuần, hiệu ứng cánh bướm sau đó đã được nhắc đến nhiều lần trong văn hóa đương đại, đặc biệt là trong các tác phẩm có đề cập tới quan hệ nhân quả hoặc nghịch lý thời gian.
Sau khi lên kiệu, tin tức chấn động vừa nhận được vẫn còn luẩn quẩn bên tai, Hàn Nhạn Thanh thở dài một hơi, biết được tin tức của bạn bè, dù chỉ là Mạc Ung Niên mà nàng không phải quen thân lắm nhưng vẫn cảm thấy rất vui. Cảm giác vui mừng này giống như một người đi thật lâu trên đường vào ban đêm bỗng nhiên trông thấy ngọn đèn dầu ở đằng xa, ấm áp lung linh.
Cứ chờ Mạc Ung Niên quay lại phường may Tạp Môn hay là mình đến Tang phủ bái phỏng đây? Hàn Nhạn Thanh thầm đắn đo. Với thân phận nhạy cảm của nàng, tốt nhất là không nên dính dáng đến giới quan lại, nhưng mà… Hàn Nhạn Thanh khẽ thở dài. Xét theo tình hình hôm nay thì nghĩa mẫu và Đông Trữ không muốn giúp mình tiếp xúc với Tang Hoằng Dương. Chỉ là hai người không biết khi linh hồn Mạc Ung Niên xuyên không nhập vào thân thể Tang Hoằng Dương thì Tang Hoằng Dương đã không còn là Tang Hoằng Dương nguyên bản nữa.
“Lục Y”, Hàn Nhạn Thanh vén rèm kiệu, vừa định bảo phu kiệu chuyển hướng đi Tang phủ thì nghe thấy đằng xa tiếng con gái mắng chửi xa xả: “Tang thất thiếu gia, ngươi phải biết rằng chủ tớ chúng ta không phải là người các ngươi có thể trêu chọc được.”
“Đến chỗ đó”, Hàn Nhạn Thanh lập tức ra lệnh.
Hàn Nhạn Thanh bảo dừng kiệu ở cách đó không xa, nhìn từ cửa sổ ra bên ngoài, liền thấy giữa đám người vây quanh có một thanh niên áo trắng trạc hai mươi tuổi dẫn theo một tiểu đồng mặc áo xanh dương đang tỏ vẻ bất đắc dĩ nhìn một thiếu nữ xinh xắn lanh lợi mặc áo màu xanh lục đứng chống nạnh trước mặt, còn có một người phụ nữ mặc đồ trắng, đeo mạng bằng lụa mỏng che mặt đứng ở phía sau.
“Công tử nhà ta đã nói rồi.” Đứa tiểu đồng tỏ vẻ căm phẫn, “Công tử nhà ta chỉ không cẩn thận mới đυ.ng phải tiểu thư nhà ngươi.”
“Có bao nhiêu là người, sao ngươi không đυ.ng vào ai mà lại đυ.ng vào tiểu thư nhà ta?”, nữ tỳ áo xanh lục nhảy dựng lên.
“Vậy sao ngươi không nói đi, người nhiều như vậy, tại sao tiểu thư nhà ngươi lại bị công tử nhà ta đυ.ng phải?”, tiểu đồng áo xanh dương cũng giận điên lên, “Đúng là cố tình gây sự.”
“Tiếng tăm của Tang thất công tử thì có ai trong chúng ta mà chưa từng nghe qua. Tiểu thư nhà ta… Người đừng kéo nô tỳ. Ối, tiểu thư!”, nữ tỳ áo xanh lục giờ mới nhìn lại tiểu thư nhà mình, “Tiểu thư, sao vậy?”
“Công tử nhà ta thì sao?” Hiển nhiên những lời này đã đυ.ng chạm đến lòng bảo vệ chủ của tiểu đồng, khiến nó giận điên lên, nếu không bị chủ nhân kéo lại thì quả thực đã định xông lên cho nha đầu ngoa ngoắt kia một tát.
“Chúng ta đi thôi.” Tiểu thư che mạng rõ ràng là không quen bị nhiều người như vậy vây xem, khẽ bảo nữ tỳ.
“Tha cho hắn dễ dàng vậy sao?” Nữ tỳ áo xanh lục hiển nhiên chưa hết giận, quay đầu trợn mắt nhìn Tang Hoằng Dương.
“Công tử nhà ta mới không cần ngươi bỏ qua.” Tiểu đồng vẫn còn chưa hết giận.
Hàn Nhạn Thanh cười thầm, với thân thế giám đốc của Mạc Ung Niên trước đây mà lại gặp phải mớ bòng bong này chắc chắn là tức tối đến hộc máu. Chuyện rắc rối này phải để nàng ra mặt mới giải quyết ổn được. Nàng quyết định xong, liền đi thẳng vào, khẽ gọi: “Tang ca ca.”
Đám người vây quanh vốn đã định tản đi thấy vậy lại ồ ạt kéo tới, dỏng tai lắng nghe. Nữ tỳ áo xanh lục cũng quay ngoắt đầu lại, “Vị cô nương này”, thấy thân hình Hàn Nhạn Thanh rõ ràng đang mang bầu thì nghi ngờ một lát rồi chuyển ánh mắt khinh thường sang Tang Hoằng Dương. Ngay cả phụ nữ có thai cũng dính đến, đúng là…
Tiểu đồng cũng ngờ vực, len lén liếc nhìn chủ nhân nhà mình. Chủ nhân có thêm một muội muội từ lúc nào vậy? Sao nó lại không biết?
Tang Hoằng Dương lại càng ngờ vực, nhưng liếc thấy ánh mắt bướng bỉnh của Hàn Nhạn Thanh thì đành mỉm cười đứng yên xem trò vui.
Hàn Nhạn Thanh cảm nhận được ánh mắt chân chính ngay thẳng của Tang Hoằng Dương thì tan hết mọi nghi ngờ, nhào tới bên cạnh hắn, “Tang ca ca, mãi mà huynh không về nên muội không khỏi lo lắng mới chạy ra xem.”
“Vị phu nhân này”, thiếu nữ áo xanh lục vẫn không hiểu nổi, cố gắng nói liến thoắng, gánh vác trách nhiệm nặng nề giáo hóa lòng người, “Cô không được để loại chó đội lốt người này lừa bịp. Hắn là loài cầm thú, không điều ác nào không làm, chẳng có gì tốt đâu.”
Hàn Nhạn Thanh không nhịn được cười thầm, tiểu cô nương này thật đáng yêu. Nàng làm bộ tức giận vênh mặt lên, “Sao ngươi lại muốn làm nhục Tang ca ca của ta? Mấy tháng trước, khi ta trên đường tới kinh thành, nếu không có Tang ca ca cứu thì ta đã mất mạng từ lâu rồi. Người như vậy thì làm sao có thể là kẻ xấu chứ?”
“Tang ca ca, chúng ta đi.” Thừa dịp thiếu nữ áo xanh lục cứng họng, nàng quay sang túm lấy tay Tang Hoằng Dương, ngoảnh đầu ra hiệu cho tiểu đồng, “Gió hiu hiu hề, nước sông Dịch lạnh ghê”[2], thoát khỏi hiện trường đã, mặc kệ người chung quanh bình luận ta thán ầm ĩ.
[2] “Gió hiu hiu hề, nước sông Dịch lạnh ghê”, đây là câu thơ mà tráng sĩ Kinh Kha làm bên bờ sông Dịch với các bạn tiễn khi đi ám sát Tần Thủy Hoàng, biểu lộ ý chí khảng khái không vướng bận tình cảm. Ở đây tác giả dùng với ngụ ý Trần A Kiều cũng không quan tâm đến mọi người xung quanh.
“Đủ rồi chứ.” Đi qua một con phố, Hàn Nhạn Thanh nghe thấy tiếng Tang Hoằng Dương cười bên tai, ngẩng đầu lên thì chỉ nhìn thấy bả vai của hắn, liền hậm hực lườm một cái.
“Đa tạ phu nhân vừa cứu giúp.” Tang Hoằng Dương chắp tay thi lễ, “Nhưng ta biết phu nhân sao?”
“Hì hì”, Hàn Nhạn Thanh cười vẻ quỷ quái, “Ngươi không nhận ra ta nhưng ta lại biết ngươi đấy.” Nàng không nhìn ánh mắt nghi hoặc của Tang Hoằng Dương, bước ra xa mấy bước, tạo dáng rồi khẽ cất tiếng hát, “Tình yêu chẳng qua là một câu chuyện bình thường không chút gì ghê gớm. Đàn ông cũng chỉ là người khách qua đường, có gì phải vấn vương…”
Nàng vừa hát xong câu đầu thì Tang Hoằng Dương lập tức sáng mắt lên, “Ngươi là?”, hắn hỏi giọng chắc chắn.
“Tôi là Hàn Nhạn Thanh, em kết nghĩa của anh đó, Tổng giám đốc Mạc.” Hàn Nhạn Thanh mỉm cười đáp, bốn chữ cuối cùng nàng nói cực nhỏ, ngay cả tiểu đồng đứng sau Tang Hoằng Dương cũng không nghe thấy, ánh mắt đầy hàm ý.
“Thì ra vị phu nhân này thật sự là nghĩa muội của công tử nhà tôi.”
“Đúng vậy!” Hàn Nhạn Thanh gật đầu như thật, nàng bảo phu kiệu trở về, còn mình thì dẫn theo nha hoàn thân tín Lục Y quấn lấy Tang Hoằng Dương bắt phải mời một bữa.
“Muội muốn đi lầu Văn Nhạc.” Hàn Nhạn Thanh ngỏ ý. Tiểu đồng mím môi, vị nghĩa muội này của công tử thật không biết gì về tiền bạc, một bữa ăn trên lầu Văn Nhạc đủ cho một gia đình bình thường sống qua một tháng.
“Được thôi!” Để ăn mừng gặp lại chiến hữu, Tang Hoằng Dương cũng sẵn sàng mở hầu bao, nói vẻ hào sảng.
Đến lầu Văn Nhạc, Tang Hoằng Dương lấy một gian nhã thất, kêu mấy món ăn nổi tiếng rồi bảo tiểu nhị ra ngoài.
“Chiêu Tài là cô nhi ta nhận về, không nhà không cửa, lanh lợi tinh khôn nên ta giữ ở bên người làm tiểu đồng.”
“Chiêu Tài…” Một giọt mồ hôi rịn ra trên trán Hàn Nhạn Thanh, “Muội nói này, Tang Hoằng Dương, huynh tốt xấu gì cũng là… tổng giám đốc một công ty lớn của xã hội hiện đại, sao lấy tên quá tục thế. Huynh là… Chiêu Tài Miêu à?”
“Nghĩa tiểu thư”, Chiêu Tài không vui nhìn chằm chằm Hàn Nhạn Thanh, “Sao tiểu thư lại có thể gọi thẳng tên công tử nhà tôi vậy chứ?”
Hàn Nhạn Thanh cười ngọt ngào nhìn sang khiến Chiêu Tài đứng ngẩn ra.
Lục Y buồn cười nhìn Chiêu Tài bại trận, có vẻ hả hê, “Đáng đời!” Dưới cái nhìn nửa cười nửa không lạnh như băng tuyết của Tang Hoằng Dương, cô cũng không dám quá trớn.
Cửa phòng mở ra, đồ ăn thức uống đưa vào không ngớt.
“Ta nói này, ở đây ta không quen nhất chính là thức ăn đấy.” Tang Hoằng Dương giơ đũa lật qua lật lại một hồi, “Muội xem, lầu Văn Nhạc được coi là ăn được nhất Trường An vậy mà món ngon nhất nơi đây quanh quẩn cũng chỉ là mấy thứ thịt bò luộc gì gì đó. Dạo này mồm miệng ta nhạt thếch. Chán nhất là…”, khuôn mặt tuấn tú của hắn nhăn lại, “ngay cả trứng gà bọn họ cũng chỉ có trứng luộc.”
“Ha ha!” Hàn Nhạn Thanh mỉm cười nhìn hắn đang oán thán, “Nếu như huynh không ngại phải chờ thì để muội tự mình đi làm vài món nhé.” Hôm nay tâm trạng nàng rất tốt nên cam tâm tình nguyện xuống bếp nấu ăn.
“Thật sao, muội biết nấu ăn?” Tang Hoằng Dương sáng mắt. “Con gái trẻ mà còn có người biết làm món ăn à? Hơn nữa hình như muội là… cảnh sát đặc nhiệm.”
“Bớt xem thường người khác đi”, Lục Y phẫn nộ thay cho chủ nhân, “Lão gia và Lộng Triều thiếu gia đều nói món ăn do chủ nhân nhà tôi nấu rất ngon đấy.”
Hàn Nhạn Thanh ở nhà mới chỉ tự nấu nướng có mỗi một lần, khi đó Lục Y còn chưa được bán về Tiêu phủ nên cô cũng chỉ được nghe kể về tài nghệ nấu nướng của chủ nhân, nhưng giờ Hàn Nhạn Thanh bị nghi ngờ, cô là tỳ nữ nên tất nhiên phải ra mặt bảo vệ. Hàn Nhạn Thanh thản nhiên nói, “Chỉ cần huynh chịu chi tiền là được.” Câu nói này nghe rất kỳ lạ nhưng Tang Hoằng Dương cũng là người thông minh, biết nếu như không đưa tiền riêng thì nhà hàng sẽ không cho khách tự mình làm món ăn, hơn nữa tửu lâu càng lớn thì càng như thế.
Qua gần nửa canh giờ, Hàn Nhạn Thanh mỉm cười trở lại, phía sau là tiểu nhị đi theo mang món ăn. Mùi thơn nhàn nhạt tràn ngập khắp phòng.
Chiêu Tài và Lục Y quả thực nhìn đến lồi mắt, lần đầu tiên được thấy những món ăn đầy đủ hương sắc bày trên bàn, mùi thơm hấp dẫn khiến người ta muốn ăn ngấu nghiến. Tang Hoằng Dương nhìn kỹ thì thấy một đĩa cánh gà chiên, một đĩa bầu dục xào, còn có một đĩa đậu tứ quý xào lướt và một đĩa nộm ngó sen trắng, chỉ chực muốn nếm thử.
“Ồ, tài nghệ vị phu nhân này thật giỏi”, tiểu nhị luôn miệng khen nhìn Hàn Nhạn Thanh bằng ánh mắt như nhìn Quan Thế Âm Bồ tát phổ độ chúng sinh.
“Vừa rồi tiểu nhân bưng thức ăn đi qua dưới lầu thì cả đại đường an tĩnh đến mức nghe thấy cả tiếng cây kim rơi. Tất cả mọi người đều ngửi thấy hương thơm từ món ăn do phu nhân nấu.”
Hàn Nhạn Thanh vênh mặt nhìn Tang Hoằng Dương, “Thế nào?”
Tang Hoằng Dương gắp một đũa nếm thử rồi giơ ngón tay cái lên, “Không tệ, đầu bếp bình thường còn kém.”
“Tiểu thư.” Lục Y nhìn Hàn Nhạn Thanh vẻ đáng thương, muốn cầu khẩn mà không dám. Hàn Nhạn Thanh bật cười, đang muốn nói “Ngồi xuống đi” thì nghe bên ngoài bỗng nhiên truyền tới một thanh âm trầm trầm lãnh đạm, “Tang công tử, tại hạ muốn cùng ngồi, không biết ý công tử thế nào?”
Hàn Nhạn Thanh chấn động, trong phút chốc cảm thấy vô cùng sợ hãi, ý chỉ thân thể dường như chia làm hai nửa, một nửa bi thương pha lẫn vui mừng, chỉ biết lẩm bẩm trong lòng, “Là y, là y”, một nửa khác cứ như lơ lửng giữa không trung lạnh lùng nhìn xuống. Đây không phải lần đầu tiên linh hồn của nàng và Trần A Kiều đi theo đường lối khác nhau, nhưng là lần đầu tiên cảm thấy hoàn toàn hoảng sợ.
Người đi vào là một thanh niên mặc đồ tím, mặt mày tuấn tú, đôi môi cực mỏng.
“Hoàng…” Tang Hoằng Dương cấp tốc dừng được tiếng kinh hô. “Hoàng công tử”, Tang Hoằng Dương mỉm cười đứng lên, “Không dám nhận, không dám nhận. Hoàng công tử nguyện ý là vinh hạnh của tại hạ.” Nói xong hắn cất giọng căn dặn lấy thêm bát đũa.
Lưu Triệt nhướng mày, đi tới trước bàn ngồi xuống, hai người theo sát phía sau, một vẻ oai hùng, một lại có chút nhu hòa, chính là Lý Cảm và Dương Đắc Ý.
“Tiểu thư, tiểu thư!”, Lục Y thấy Hàn Nhạn Thanh vẫn ngồi ở đó bất động, không hề đổi sắc thì hơi sợ hãi kêu khẽ.
“Vị này là?” Lưu Triệt lúc này dường như mới chú ý đến người phụ nữ có dung nhan tươi trẻ ngồi bên. Nàng mặc một bộ y phục màu hồng phấn, từ trên xuống dưới thêu vô số hoa đào. Những bông hoa bắt đầu từ chéo áo đến ngực thì chậm rãi mở ra, đến cổ áo thì cực thịnh, đến ống tay áo thì dần tàn lụi, ở bất cứ chỗ nào cũng được thêu rất sống động, trông rất có thần. Tất cả như làm nền cho nàng trở thành bông hoa đào đẹp nhất, làn da trắng ngần, tỏa sáng rạng ngời. Bụng nàng nhô lên nho nhỏ, hiển nhiên đang mang thai. Tuy nàng tùy tiện ngồi ở đó nhưng trên người lại toát ra một khí độ ung dung đến kỳ lạ làm người khác nhìn vào cảm thấy lung linh.
Khí độ khó tả của Hàn Nhạn Thanh khiến cho Lưu Triệt nhiều lần liếc sang, nhưng cũng chỉ là liếc mắt mà thôi.
“Tiểu nữ họ Trần”, Hàn Nhạn Thanh tỏ vẻ lãnh đạm, cố hạ thấp giọng xuống trả lời, liều mạng áp chế phản ứng của linh hồn Trần A Kiều, thầm kêu may mắn vì mình mang mặt nạ da người nên không để lộ ra những biến đổi trên mặt. Cũng vì thế mà A Kiều lại cảm thấy đau thương, hai người vốn là thanh mai trúc mã cùng lớn lên, lại làm phu thê suốt bao năm nhưng giờ nàng ta ở bên cạnh mà Lưu Triệt vẫn không hề nhận ra.
“Ta mới vừa ở bên ngoài, nghe nói mấy tháng trước Thất thiếu gia của Tang gia cứu được một phụ nữ nên rửa được tiếng xấu, có phải là thật hay không?” Lưu Triệt trêu chọc Tang Hoằng Dương, nhìn bốn món ăn mới lạ trên bàn vẻ hơi kỳ quái, giơ đũa nếm thử một món thì nhướng mày, “Tài nghệ của Trần phu nhân thật là tốt”, y cho họ mà Hàn Nhạn Thanh nói chính là họ chồng.
Cho dù còn sợ hãi nhưng Hàn Nhạn Thanh vẫn không ức chế được kích động trong lòng bèn cười lớn, “Công tử khách khí rồi.”
Y vẫn chưa hết thèm, nếm nốt ba món còn lại, “Ta trả cho cô tiền công cực cao, mời đến nhà ta làm bếp nhé?”
“Đa tạ Hoàng công tử ưu ái, vốn là không nên cự tuyệt”, Tang Hoằng Dương lên tiếng, dù sao hắn cũng là người hiện đại, trải qua không ít phong ba nên dù trước mặt Hoàng đế vẫn không đánh mất bản sắc. “Nhưng thân thể nghĩa muội ta thật sự là không thích hợp.”
Lưu Triệt hờ hững buông một câu, “Thế à”, rồi sau đó không nói thêm gì nữa.
Hàn Nhạn Thanh liếc mắt nhìn Tang Hoằng Dương vẻ tán thưởng, tiểu tử này coi như có lương tâm, không bán đứng chiến hữu. Nàng tự rót cho mình một chén rượu. Rượu này là rượu Tân Phong[3], vị ngọt nhưng thanh đạm. Cuối cùng nàng vẫn không thể áp chế tâm trạng vừa u ám vừa muốn trả thù, u oán chính là Trần kiều, muốn báo thù chính là Hàn Nhạn Thanh, “Hôm nay có rượu ngon món ngon, bằng hữu sum vầy, cũng nên vui cho thỏa hứng, Tang ca ca, chúng ta chơi tửu lệnh đi.”
[3] Rượu Tân Phong: Là một loại rượu nổi danh ở vùng Tân Phong nay thuộc huyện Lâm Đồng tỉnh Tây An của Trung Quốc. Tương truyền rượu này do Lưu Bang sai thợ khéo nấu lên, đặt tên là Tân Phong vì cha ông xưa sinh ra ở vùng này.
“Hả?” Lưu Triệt có chút hứng thú, “Chơi như thế nào?”
Tang Hoằng Dương nhìn nàng, vừa nghi hoặc vừa buồn cười. Hàn Nhạn Thanh gọi Chiêu Tài tới, bảo nó tìm chưởng quỹ lấy cái ống và thẻ trúc, tự viết chữ làm lệnh rồi quay đầu cười nói, “Mời hai vị công tử này cùng ngồi đi. Tửu lệnh phải nhiều người mới náo nhiệt chứ.”
Lý Cảm và Dương Đắc Ý nhìn sang Lưu Triệt, thấy y khẽ gật đầu mới dám tìm chỗ ngồi xuống đầy vẻ khép nép.
Chiêu Tài và Lục Y cũng chưa từng xem qua trò vui mới mẻ như vậy nên háo hức ngồi xổm xuống bên cạnh quan sát.
“Kính xin Hoàng công tử rút ra một thẻ.”
Lưu Triệt đứng dậy, rút lấy một thẻ xem qua rồi xướng, “Các vị đang ngồi đây ngâm một câu liên quan đến rượu đi.”
“A”, Hàn Nhạn Thanh chút nữa lên tiếng nguyền rủa, dựa theo quy tắc tửu lệnh thì người nào rút ra thẻ lệnh đều phải giao cho quan hành lệnh, người đó chính là nàng. Hán Vũ Đế này đúng là Hoàng đế, lại có thể tự mình xem lệnh trong thẻ.
Lưu Triệt suy nghĩ một chút rồi ngâm:
“Rượu thời ngon ngọt,
Uống hết một hơi.
Tiếng keng vừa dứt,
Xin cạn chén mời.”
Đây là một bài thơ trong “Tiểu Nhã” của Kinh Thi, miêu tả tình cảnh chủ và khách đều hết sức vui vẻ.
Lý Cảm tuy là võ tướng nhưng xuất thân thế gia, văn tài không kém. Dương Đắc Ý có thể hầu hạ bên cạnh Hoàng thượng nên cũng hiểu biết một chút văn chương. Hai người lần lượt lên tiếng ngâm nga. Đến phiên Tang Hoằng Dương, hắn giơ chén rượu lên, hắng giọng gõ chén rồi lớn tiếng ngâm:
“Thầy Sầm hỡi,
Trò Đan ơi,
Cùng chuốc rượu,
Chén chẳng ngơi…
Chiêng ngà trống ngọc có gì quý.
Mong say túy lúy, tỉnh cầu chi…
Sai con đổi hết lấy rượu mạnh
Cùng quân tìm quên mọi trái ngang.”[4]
[4] Những câu trong bài Tương tiến tửu (Chuốc rượu nhau) của Lý Bạch.
“Hay!” Chiêu Tài vỗ tay, mặc dù không nghe ra hay ở chỗ nào nhưng nhất định phải ủng hộ công tử nhà mình, hơn nữa nó cũng rất sùng bái ý tứ phóng khoáng của công tử.
“Hừ”, Lục Y bên cạnh không phục quay mặt đi.
Ba người đang ngồi đều lộ vẻ xúc động, “Mong say túy lúy, tỉnh cầu chi. Ý thơ rất hay.” Lưu Triệt gõ nhịp khen, “Nhưng câu Hoằng Dương ngâm rất mới mẻ, tựa hồ ta chưa từng nghe qua bao giờ vậy?”
“Ha ha!” Tang Hoằng Dương mỉm cười, “Đây là do tiểu nhân tự viết ra.” Hắn rất sợ giải thích xuất xứ câu thơ với Lưu Triệt nên cứ thế nhận bừa, cho dù bên cạnh còn có một người cũng biết nên không khỏi lúng túng. Tuy nhiên hắn không tin Hàn Nhạn Thanh không đạo thi từ của người khác, thế cũng kẻ tám lạng người nửa cân thì còn ai cười được ai nữa.
Quả nhiên, Hàn Nhạn Thanh đảo con ngươi, cười trộm rồi ngâm lên, “Rút đao chém nước, nước càng chảy mạnh. Nâng chén tiêu sầu, sầu càng sầu thêm.”[5]
[5] Một câu trong nhạc phim Bao Thanh Thiên.
Nàng đọc chậm rãi, rõ ràng từng chữ. Cả đám ngẩn ra, sau đó cười lớn, ngay cả Tang Hoằng Dương cũng dở cười dở khóc. Hắn mới vừa nói là mua rượu giải sầu nhưng Hàn Nhạn Thanh lại nói là nâng chén tiêu sầu, sầu càng sầu thêm, không phải là nhằm vào hắn thì là gì?
Mấy vòng tửu lệnh trôi qua rất nhanh, cuối cùng lại đến phiên Hàn Nhạn Thanh. Nàng nhìn chiếc thẻ một hồi, ánh mắt lưu chuyển, không nói một câu.
Dương Đắc Ý sốt ruột, “Phía trên viết cái gì?”
Hàn Nhạn Thanh không đáp khiến Tang Hoằng Dương cũng tò mò, “Để ta xem nào!” Nói xong hắn cầm lấy thẻ lệnh nhìn qua rồi cũng yên lặng. Lưu Triệt hỏi vẻ hứng thú, “Chẳng lẽ trên đó có lời gì bỡn cợt?”
Tang Hoằng Dương giở thẻ lệnh ra, mọi người nhìn thì không khỏi sửng sốt, phía trên viết chính là, “Người nói chuyện đáp ứng người không nói chuyện một yêu cầu tùy ý.”
Khuôn mặt Lưu Triệt chuyển thành nghiêm túc. Nếu hôm nay trong mọi người không có hoàng đế như hắn thì thẻ lệnh này tuy độc nhưng cũng không ảnh hưởng toàn cục. Nhưng hôm nay đã có hắn ở đây, nếu có người rao giá trên trời thì không khỏi quá tâm cơ[6].
[6] Tâm cơ là động cơ ẩn sâu trong tâm. Nói một người có tâm cơ, ý nói người đó làm việc gì cũng có tính toán.
Trong mấy người đang ngồi, ngoại trừ Hàn Nhạn Thanh cũng chỉ có Lý Cảm là tính tình trầm tĩnh, chưa từng mở miệng, lúc này đành phải đứng lên, “Ta bỏ cuộc.” Sắc mặt Lưu Triệt hơi giãn ra.
“Lý công tử thật phóng khoáng.” Hàn Nhạn Thanh cười xuê xoa, “Tiểu nữ không thể sánh bằng.” Nàng nói vậy là ngụ ý muốn thi hành tửu lệnh.
Tang Hoằng Dương cười to, “Muội muội định thế nào?” Hắn vừa nói vừa liếc nàng vẻ cảnh cáo.
“Cũng không định thế nào cả”, Hàn Nhạn Thanh làm bộ như không nhìn thấy, “Tiểu nữ mặc dù bất tài nhưng cũng không phải là người dư dả gì. Hôm nay đã phá lệ xuống bếp, cũng không thể không có cái giá nào đó.”
“Giá của muội muội là gì?”
Hàn Nhạn Thanh cười bình thản, “Bình vàng rượu ngọc mỗi suất mười ngàn.”
Tang Hoằng Dương thở dài, “Biết rồi, ta sẽ sai người đưa bốn vạn tiền đến tận phủ cho muội.”
“Về phần Hoàng công tử cùng Dương công tử”, Hàn Nhạn Thanh chậm rãi cúi đầu giả bộ có vẻ áy náy, “Như vậy đi, nếu có một ngày nào đó tiểu nữ mạo phạm đến công tử, kính xin công tử nghĩ đến việc hôm nay mà tha thứ cho.”
“Chỉ thế thôi sao?” Lưu Triệt thản nhiên nói, không hề đổi sắc mặt.
“Đúng vậy.”
“Được rồi, Tang công tử, Trần phu nhân, cáo từ.” Lưu Triệt phất tay, ra lệnh, “Đi thôi.”
Ra khỏi lầu Văn Nhạc, Lưu Triệt nói khẽ, “Điều tra về thân phận của vị Trần phu nhân này.”
Quân không thấy,
Hoàng Hà nước đổ tự trên trời
Chảy xuôi tận biển có quay lui?
Lại chẳng thấy,
Trên lầu soi gương sầu tóc bạc
Sáng vẫn còn xanh chiều như tuyết
Đời người khi hứng cứ phải vui
Chớ để chén vàng không sánh nguyệt.
Trời đã sinh ta tất sẽ dùng
Ngàn vàng tiêu sạch lại về thôi
Ngả dê mổ bò vui tới bến
Vào cuộc ba trăm chén một hơi.
Thầy Sầm hỡi,
Trò Đan ơi,
Cùng chuốc rượu,
Chén chẳng ngơi.
Ca tặng quân một khúc
Xin hãy vì tôi lắng nghe chơi.
Chiêng ngà trống ngọc có gì quý,
Mong say túy lúy, tỉnh cầu chi.
Xưa nay thánh hiền đều cô quạnh
Riêng danh sành rượu mới để đời.
Vua Trần mở yến cùng bình nhạc
Suất rượu mười nghìn vẫn lướt khướt
Chủ nhân sao lại bảo thiếu tiền
Quân thích kiếm về say bằng được.
Ngựa năm đốm
Áo ngàn vàng
Sai con đổi hết lấy rượu mạnh
Cùng quân tìm quên mọi trái ngang.Quyển 1 - Chương 8: Món ngon khay ngọc giá vạn tiền“Muội biết vị Hoàng công tử kia là ai không?”
“Biết, Hán Vũ Đế chứ còn ai nữa.” Hàn Nhạn Thanh ngả người nằm trên ghế, ngọ ngoạy ngón chân vẻ vô cùng biếng nhác.
Sau khi rời lầu Văn Nhạc, hai người trở về Tiêu phủ, bảo mọi người ra ngoài rồi bắt đầu bàn luận.
“Không thể đến nhà của ta được.” Tang Hoằng Dương xòe chiếc quạt, “Muội cũng biết thế gia vọng tộc vốn có quan hệ phức tạp, nếu những chuyện động trời mà bị ai đó lén nghe được thì thật không hay.”
Hàn Nhạn Thanh cười tủm tỉm, nghĩ đến chuyện có thể giới thiệu Tang Hoằng Dương với Tiêu Phương nên cũng không nài ép. Nàng không cách nào hiểu thấu được Tiêu Phương, chỉ cảm thấy người này sâu không lường được, nhất định là một nhân vật lớn. Còn Tang Hoằng Dương thì vì lý do xuyên không nên được nàng coi là người mình vô điều kiện. Nếu như bọn họ muốn làm một cái gì đó ở thời đại xa lạ này thì chỉ có cách đoàn kết, cùng nhau hành động.
“Muội biết à? Tại sao muội biết?” Tang Hoằng Dương hơi kinh ngạc, nhưng liền nghĩ ra điểm then chốt, “Thân phận của muội sau khi xuyên không là ai?”
“Huynh đoán thử coi?”
“Không phải là Vệ Tử Phu, Vệ Tử Phu bây giờ đang ở trong cung. Chẳng lẽ là Lý phu nhân? Không đúng, Lý phu nhân bây giờ còn chưa gặp Hán Vũ Đế.”
“Sao mà huynh chỉ toàn đoán về những người đàn bà của y thế”, Hàn Nhạn Thanh bất mãn.
“Trừ những người phụ nữ có quan hệ với Hán Vũ Đế thì còn có khả năng nào khiến muội biết Hán Vũ Đế? Hơn nữa, theo luật xuyên không thì người xuyên không tuyệt đối không phải là loại không có tên tuổi, chẳng phải vậy sao?”, Tang Hoằng Dương hùng hồn lý luận.
“Tại sao huynh không đoán là Trần A Kiều?”, Hàn Nhạn Thanh gián tiếp thừa nhận lý lẽ của Tang Hoằng Dương.
“Trần A Kiều?”, Tang Hoằng Dương lại kinh ngạc, “Muội là Trần A Kiều? Trần A Kiều trong câu ‘Trường Môn nhốt chặt A Kiều đó, nỗi khổ nào chia Nam Bắc[1] gì đó ư?”
[1] Một câu thơ trong ‘Minh phi khúc – Kỳ 1 (Bài ca về Minh phi – Kỳ 1)’ của Vương An Thạch
“Muội là muội, Trần A Kiều là Trần A Kiều.” Hàn Nhạn Thanh buồn bực trong lòng, cả giận nói, “Cũng như Mạc Ung Niên là Mạc Ung Niên, Tang Hoằng Dương là Tang Hoằng Dương đó thôi. Muội tuyệt đối sẽ không lặp lại như A Kiều.”
“Thế nhưng muội bây giờ đang ở trong thân thể của cô ta”, Tang Hoằng Dương nói giọng cợt nhả, “Ngựa hay không quay đầu ăn cỏ cũ. Cứ như bây giờ thì Lưu Triệt chắc không làm một con ngựa hay được đâu!”
“Huynh mới là cái thứ cỏ gà đó!” Hàn Nhạn Thanh thuận tay với lấy chiếc thẻ tre ở bên cạnh hung hăng đánh vào đầu Tang Hoằng Dương, “Y chịu ăn cũng còn phải xem muội có muốn cho y ăn hay không đã.”
“Nhạn Nhi!”, Tang Hoằng Dương nghiêm mặt nói, “Ta là đàn ông, ta hiểu rõ về đàn ông. Lưu Triệt có thể không thèm muội, cũng có thể mặc cho muội chết, nhưng tuyệt đối không dễ tha thứ cho việc muội nằm trong vòng tay kẻ khác. Nếu như muội không về bên y, chắc là kiếp này muội sẽ không thể nào yêu người khác được nữa.”
“Nhưng muội sẽ không để cho y biết. Chúng ta sẽ gạt y. Hôm nay y đã gặp mà không nhận ra muội, y căn bản không biết muội là ai.”
“Muội dám bắt người mà mình yêu mến phải chịu khổ như vậy sao? Muội có thể chịu đựng được việc người yêu của mình gặp tai họa vì mình sao? Nhạn Nhi, phải biết rằng ở thời đại này, đế vương đã nổi giận thì không một ai có thể kháng cự.” Tang Hoằng Dương nhìn nàng thương hại nhưng vẫn nói tàn nhẫn.
“Không nói chuyện này nữa”, Hàn Nhạn Thanh lảng đi, rơm rớm nước mắt, “Huynh thì sao? Tại sao Lưu Triệt lại biết huynh, còn có vẻ rất quen thân nữa chứ?”
“Ha ha!” Tang Hoằng Dương cười lớn, “Muội biết về Tang Hoằng Dương sao?”
“Tất nhiên là muội biết. Tang Hoằng Dương là danh thần của Hán Vũ Đế, đề xuất ý kiến về quản lý thương mại. Người đời sau khen nhiều chê cũng lắm nhưng trên thực tế vẫn thường sử dụng quan điểm của Tang Hoằng Dương. Thế nên hồi trước muội nghe nói Tang Hoằng Dương là một cậu ấm thì vẫn lấy làm ngạc nhiên đấy! Chẳng lẽ…”, ánh mắt Hàn Nhạn Thanh sáng lên, trong lòng nảy sinh một ý nghĩ, “Huynh đã làm quan rồi sao?”
“Đúng vậy!”, Tang Hoằng Dương gật đầu, “Trước kia ta là một thương nhân, mặc dù không hiểu sao lại tới thời đại này nhưng ta không cam lòng an phận thủ thường. Sĩ, nông, công, thương, tại sao năm ngàn năm qua thương nhân Trung Quốc đều chỉ có địa vị thấp hèn?” Hắn phẩy tay, “Muội không cần nói lý với ta. Ta cũng biết nhưng ta vẫn không muốn khuất phục. Nhạn Nhi, ta muốn dùng chính tay mình thay đổi tình trạng này nên ta vào triều làm quan. Nhạn Nhi, chúng ta biết rằng thời Hán Vũ Đế là thời kỳ hưng thịnh của dân tộc Hán, chúng ta có thể dựa vào tay mình đưa sự hưng thịnh đó lên tới cực đỉnh. Muội có muốn hợp tác với ta hay không?”
“Huynh…”, Hàn Nhạn Thanh chấn động, “Muội mở phường may, một là muốn tìm các huynh, hai là hy vọng những người bên cạnh mình sống tốt hơn chứ không nghĩ lớn như vậy. Huynh nói không sai nhưng huynh phải biết rằng Lưu Triệt không phải là người mà huynh có thể thao túng được. Huynh đi một bước không đúng là có thể đầu tới một nơi người một nẻo, còn liên lụy đến cả người nhà nữa.”
“Thế nên ta mới cần muội trở về bên y.” Tang Hoằng Dương nghiêm mặt, “Ta muốn muội triệt để chiếm được lòng y, ảnh hưởng tới y trên mọi phương diện.”
Hàn Nhạn Thanh cười châm chọc, “Tại sao huynh lại cho là muội có thể? Y là người nào chứ? ‘Hoàng đế có thể ba ngày không ăn nhưng không thể một ngày không có nữ nhân’. Một người như vậy, muội thì có năng lực gì mà chiếm được đây?”
“Nhạn Nhi”, Tang Hoằng Dương cau mày, “Muội rất giỏi, muội không nên tự hạ thấp mình. Khi hoàn toàn tỏa sáng thì muội tuyệt đối có thể thu hút ánh mắt của bất kỳ người đàn ông nào kể cả là Hán Vũ Đế Lưu Triệt. Ta sẽ giúp muội bày mưu tính kế. Muội hãy tin ta, một khi ta đầu tư thì nhất định sẽ thu về lợi nhuận.”
“Huynh không cần phải nói nữa.” Hàn Nhạn Thanh cúi đầu, lạnh nhạt, “Để muội suy nghĩ đã.”
“Được!” Tang Hoằng Dương mỉm cười, “Chúng ta hãy nói về tình hình hiện tại chút đi. Nhạn Nhi, chúng ta có thể mở chung một nhà hàng trong thành Trường An. Muội nấu nướng cực ngon còn ta nhiều mưu kế, không ngoài một năm thì nhất định tiền tài sẽ vào như nước.”
Hàn Nhạn Thanh cuối cùng cũng tươi tỉnh trở lại, “Được, muội vốn cũng định như vậy, nếu không chắc bị Lộng Triều quấy rầy chết mất. Nhưng muội chỉ thu đồ đệ truyền nghề, không tự mình làm bếp. Huynh phải biết rằng, A Kiều là hoàng hậu, Hàn Nhạn Thanh muội ở đó cũng là quý rồi.”
“Cũng được!” Tang Hoằng Dương trầm ngâm, “Có một đầu bếp cấp cao tồn tại một cách thần bí cũng là lợi thế rất lớn đối với kinh doanh ẩm thực.”
Hàn Nhạn Thanh mang thai được vài tháng thì dần dần trở nên lười nhác, không còn muốn ra khỏi phủ nữa. Thời gian này nàng thường ngày chỉ hướng dẫn cho những đầu bếp được đưa tới, vẽ mấy loại y phục mẫu cho phường may, thời gian còn lại đều theo Tiêu Phương học nghề y.
“Nhạn Nhi!” Tiêu Phương ôn tồn khuyên nhủ, “Cô đang mang bầu không được phí quá nhiều tâm sức.”
“Sư phụ nói phải.” Nàng không thể làm gì khác hơn là mỉm cười đáp lời rồi trở về phòng nghỉ ngơi. Khi đi qua hành lang, nghĩ lại câu chuyện trao đổi với Tang Hoằng Dương mấy hôm trước bèn thở dài, cảm thấy hơi nhức đầu, có lẽ chuyên tâm theo đuổi học nghề y còn có thể làm cho nàng dễ chịu đôi chút.
“Ngươi sẽ làm chuyện đó phải không?”, một giọng nói mơ hồ từ đáy lòng hỏi.
“Ồ, A Kiều”, nàng thở dài, “Đó chính là người đàn ông ngươi yêu nhất. Nếu ta làm thế thật thì chẳng phải là phủ nhận bao nhiêu năm yêu say đắm của ngươi sao?”
“Chắc vậy.” A Kiều khổ sở, “Thay vì giao Triệt Nhi cho những người phụ nữ kia, ta tình nguyện giao cho ngươi. Ít nhất, ngươi và ta cũng cùng tồn tại, khi Triệt Nhi nhìn thấy ngươi thì, có lẽ, thỉnh thoảng vẫn còn nhớ về ta.”
“Thế nhưng… thế nhưng ta rất sợ y”, Hàn Nhạn Thanh ủ dột. Mặc dù nàng có những trải nghiệm của hai nghìn năm, hơn nữa lại là một nữ cảnh sát đặc nhiệm trưởng thành trong nền giáo dục hiện đại dưới lá cờ Đảng, thế nhưng vẫn có ý sợ hãi đối với người đàn ông thời cổ đại này. Dù sao người đó cũng là Hán Vũ Đế háo sắc hoang da^ʍ, cực kỳ hiếu chiến, chỉ thích lập công trong lịch sử. Nàng thầm oán hận trong lòng, thật sự là không nhận ra sợ ở điểm nào.
Trần A Kiều không biết nói gì. Cô gái này đúng là mẫu hình mà người cành vàng lá ngọc như nàng ta chưa từng thấy, thông minh nhưng đôi khi ngốc nghếch, thỉnh thoảng lại đưa ra những điểm quan trọng, không biết đường nào mà lần.
Sau hai tháng huấn luyện, các đầu bếp của Tiêu phủ cuối cùng cũng xuất sư[2]. Hàn Nhạn Thanh chọn một người kín đáo, tài nghệ không tồi ở lại Tiêu phủ nấu nướng thức ăn rồi cho tất cả những người còn lại trở về. Chỉ có Lộng Triều là vui sướиɠ không ai bằng, rốt cục có thể ăn thức ăn ngon hàng ngày mà không cần phải quấn lấy Hàn Nhạn Thanh.
[2] Xuất sư: Thành nghề.
Tháng Ba, mùa xuân năm Nguyên Quang thứ sáu. Xuất hiện một quán ăn mới mở trong thành Trường An, tên là lầu Thanh Hoan.
Khách đến lầu Thanh Hoan không cách nào đoán được rằng, lầu Thanh Hoan này về sau trở thành quán ăn đệ nhất Đại Hán, càng ngày càng nổi tiếng, cuối cùng thành một trong những chốn nổi danh của Trường An.
Ai tới Trường An tất phải ghé qua lầu Thanh Hoan. Không tới lầu Thanh Hoan nếm thử tay nghề thì sao có thể nói đã đến thành Trường An?
Một chiếc xe ngựa chầm chậm chạy tới, dừng lại trước lầu Thanh Hoan. Hàn Nhạn Thanh được Lục Y dìu xuống, ngẩng đầu quan sát bảng hiệu lầu Thanh Hoan, thầm yên tâm trong lòng, cảm giác có một bằng hữu để bản thân yên tâm giao phó được mọi chuyện thật dễ chịu. Mặc dù nàng không hoàn toàn tán đồng mọi ý kiến của Tang Hoằng Dương nhưng việc hắn chịu thành thật nói ra tất cả ít nhất chứng minh rằng hắn rất coi trọng quan hệ bằng hữu giữa hai người. Dù sao thì ở cái thế giới xa lạ này, mặc dù bọn họ ai có “người nhà” của người ấy, nhưng về mặt tâm lý thì chỉ coi nhau là thân thiết nhất.
Tang Hoằng Dương đứng trước cửa, mỉm cười làm động tác mời vào. Mọi người như dòng nước tràn vào lầu Thanh Hoan. Quán ăn khiến cho người Trường An cảm thấy mới lạ. Đại sảnh rộng rãi, bố trí trang nhã, tất cả bàn ghế đều chế từ mây tre, ngập tràn hơi thở thiên nhiên. Thậm chí ở khu phía đông còn bố trí theo phong cách ghế treo, khách ngồi còn có thể nhẹ nhàng đung đưa, cảm giác giống như ngồi trên xích đu.
Chung quanh lầu hai là nhã thất với tường trúc có phong cách mới mẻ nhã nhặn, không khuôn sáo dung tục. Điều khiến cho mọi người tấm tắc lạ lùng chính là ở khoảng không giữa hai lầu một và hai còn thiết kế một cái sàn treo, có thể dùng để biểu diễn ca múa, lầu trên lầu dưới đều xem được rõ ràng. Đến giờ lành, chưởng quỹ lầu Thanh Hoan đi lên sàn treo, cao giọng tuyên bố, “Hoan nghênh mọi người tới lầu Thanh Hoan!”
“Để cảm tạ mọi người ủng hộ, lầu Thanh Hoan hôm nay làm riêng một món chiêu bài, sau này trong thực đơn của chúng ta sẽ có giá một vạn lượng nhưng hôm nay quán khai trương nên chiêu đãi mọi người miễn phí.” Ông vỗ tay ra lệnh, “Mang thức ăn lên.”
Mấy người phục vụ đồng thanh đáp, “Dạ!” Tức thì dưới sàn ồn ào tiếng bàn luận, có người nói, “Món ăn đó hết một vạn lượng, không phải là gϊếŧ người sao.” Cũng có người nói, “Món đó có thể dùng cho bao nhiêu người ăn, chỉ huênh hoang.”
Những người phục vụ khiêng lên một chiếc mâm lớn lên sàn treo, có người bên dưới nhận được la lên: “Đó là lạc đà trên sa mạc.”
Con lạc đà vẫn còn hình dáng nguyên vẹn được nướng vàng óng, mùi thơm xông vào mũi khiến có người thèm nhỏ dãi. Tạ chưởng quỹ mỉm cười hướng vào nhã thất ở phía đông lầu hai hô lên, “Kính mời Tang đại nhân lên chia đồ ăn cho mọi người.”
Tang Hoằng Dương mặc bộ y phục trắng bước xuống lầu, mỉm cười, “Cung kính không bằng tuân lệnh.” Hắn cầm lấy cây dao mổ bụng lạc đà, một con dê nướng hiện ra từ trong bụng lạc đà giữa tiếng hoan hô thán phục của mọi người. Tang Hoằng Dương tiếp tục mổ bụng con dê, lần lượt lấy ra rồi mổ bụng ngỗng nướng, gà nướng, cuối cùng dùng mũi dao chọc vào một quả trứng gà màu vàng óng ánh, tươi cười cao giọng nói: “Xin mời Trần phu nhân quả trứng gà này.” Một người phục vụ lập tức hô lên nhận lệnh.
Một lát sau, từ nhã thất ở phía đông, lầu trên truyền ra một giọng nói thanh thoát, “Đa tạ Tang công tử đã ban thưởng món ăn, tiểu nữ không biết lấy gì báo đáp, xin đàn một khúc để tỏ lòng cảm ơn.” Sau một lúc, tiếng đàn vang lên thánh thót như nước chảy mây trôi, tiếng ca u hoài lay động lòng người. “Đường trần lắm thú vui, si tình chi cho khổ, điệu đàng thì đã làm sao. Kiếp này chửa tàn phai, chắc gì lòng không rối, chỉ mong đem đổi nửa đời tiêu dao. Tình vẫn gặp nhau cười, mộng về quên mất cả, trách đêm tối buông mau. Kiếp sau biết ra gì, yêu hận một lời xóa bỏ, nâng chén hát ca, ta chỉ nguyện được vui đến già. Gió có lạnh không thèm tránh chạy, hoa có đẹp cũng chẳng buồn coi, ta mãi phiêu du. Tuổi càng cao lòng càng nhỏ lại, hỏi làm chi nhân quả có nhiều, một mình say sưa. Hôm nay khóc ngày mai lại cười, không cần ai hiểu hay chia sẻ, kiêu ngạo riêng ta. Vũ có điệu ca hát bằng lời, đêm dài thức mãi cũng hiểu thôi, bến mộng tìm hoa.”[3]
[3] Bài hát Tiếu Hồng Trần.
Khúc hát đã hết, toàn bộ tầng lầu đều yên lặng, một lúc lâu sau mới có người kêu lên một tiếng: “Hay!”, tức thì mọi người cùng trầm trồ khen ngợi.
Ở trong gian phòng phía đông lầu hai, Hàn Nhạn Thanh đặt cây đàn tỳ bà xuống, hiểu rằng màn khai mạc mà nàng và Tang Hoằng Dương cẩn thận dàn xếp đã kết thúc một cách tốt đẹp.
Đang lúc lầu Thanh Hoan ồn ào náo nhiệt, Hàn Nhạn Thanh lẻn ra ngoài rồi cứ thế một mình đi trên đường phố, nghĩ về đủ thứ chuyện xảy ra sau khi tới nhà Hán, lòng dạ rối bời.
Trước khi gặp lại Tang Hoằng Dương, nàng không có tính toán gì cho tương lại nhưng nếu Tang Hoằng Dương đã có chí hướng cao xa thì dĩ nhiên nàng sẽ hết sức hỗ trợ trong phạm vi có thể, cứ như vậy thì những ngày tiếp theo tựa hồ cũng có sắp xếp rồi.
Ở góc đường đối diện có một bà lão đang bện búp bê cỏ, Hàn Nhạn Thanh thấy thú vị nên đi tới để xem cho rõ thì bỗng nhiên nghe thấy tiếng vó ngựa lộp cộp rồi một cỗ xe ngựa từ góc đường rẽ sang. Nàng vừa nhìn thấy người dẫn đầu rút ra một cây gia kỳ thì lặng người đi, cảm giác hai chân như nhũn ra, tuy muốn rời khỏi nhưng ngay cả khí lực nhấc chân cũng không có.
“Ô!” Dung Phi ghìm chặt ngựa, nổi giận nói: “Ngươi điên rồi. Không nhìn thấy xa giá của Trưởng công chúa Quán Đào sao?”
Xa giá quen thuộc, người cũng quen thuộc. Trong một khoảnh khắc, hai linh hồn trong cùng thân thể đều cảm thấy yếu đuối. Trong chiếc xe ngựa tôn quý hoa lệ chính là, chính là… mẹ của A Kiều, người mẹ rất yêu thương A Kiều từ thuở nhỏ. Hàn Nhạn Thanh lặp lại một tiếng “Mẹ”, đột nhiên vô cùng sầu não. Tới thế giới cổ đại rồi dùng chung thân thể với A Kiều được một thời gian rồi nhưng nàng vẫn chưa thừa nhận A Kiều là một. Nàng vẫn một mực căm ghét phu quân của A Kiều, ngay cả cái thai trong bụng cũng dùng một góc độ xa lạ để quan sát. Thế nhưng ngay cả bản thân nàng cũng không phát hiện được lúc này nàng đã xem mẹ của A Kiều như mẹ mình, điều này có thể là do nàng quá nhớ tới mẹ. Theo như nàng biết, Trưởng công chúa Quán Đào trong lịch sử rất yêu con gái mình. Mặc dù suy nghĩ đó cũng chỉ xuất phát từ phương diện quyền lợi nhưng tình thương yêu với A Kiều là không thể nghi ngờ.
“Dung Phi, tại sao vậy?” Ái sủng[3] Đồng Yến của Trưởng công chúa Quán Đào từ trong xe nhô đầu ra hỏi.
[3] Ái sủng: Người được cưng chiều, yêu thương.
“Có một cô gái chắn đường”, Dung Phi quay lại thấp giọng bẩm báo.
“Còn ở đó làm gì! Bảo cô ta tránh ra rồi chúng ta đi tiếp.”
“Dạ!”, Dung Phi đáp, quay đầu lại nhìn thấy Hàn Nhạn Thanh còn đứng ngơ ngẩn giữa đường thì không nhịn được gắt lên: “Còn không tránh ra!”
Hàn Nhạn Thanh như tỉnh cơn mê, lúng ta lúng túng không nói được nên lời, chỉ chậm cháp tránh ra. Nàng nghe thấy tiếng ngựa thở phì phì sau lưng, còn chưa kịp tránh thì đã cảm giác bị đυ.ng mạnh vào người, chân đứng không vững, suýt nữa ngã nhào xuống đất.
Trong lúc hoảng hốt, nàng đưa hai tay ôm lấy bụng, cảm thấy không ổn thì chợt nghe tiếng gió lướt qua bên tai, một bóng người áo xám ôm lấy người nàng lướt sang một bên rồi cả giận nói, “Trưởng công chúa sao không nói lý lẽ như thế? Đi lại nghênh ngang trên đường cái, lỡ đυ.ng phải người ta thì sao?”
“Thế thì sao?” Lần này chính là Trưởng công chúa Quán Đào vén rèm xe lên, hỏi giọng tức giận.
Tâm trạng của bà lúc này đang rất bực bội. Hôm nay bà định vào cung thăm con gái A Kiều bị bãi xuất về cung Trường Môn nhưng thỉnh cầu đó lại bị Lưu Triệt cự tuyệt. Bao nhiêu lâu không được gặp con gái yêu khiến nỗi tức giận của bà lên đến đỉnh điểm. Mặc dù Lưu Triệt đã ban thưởng cho rất nhiều thứ nhưng Trần gia được ân sủng long trọng thì trong phủ Đường Ấp hầu vốn đã đầy rẫy những thứ quý giá. Chỉ có A Kiều, chỉ có A Kiều là con gái duy nhất của bà thôi.
“Mới vừa rồi đυ.ng phải một cô gái, hình như cô ta còn đang mang thai”, một thị vệ bên cạnh ấp úng lên tiếng.
“Chẳng qua chỉ là một phụ nữ có thai.” Trưởng công chúa hừ lạnh, nếu như A Kiều không phải vào cung nhiều năm mà vẫn không có con thì sao đến nỗi gặp phải kết quả bị phế về cung Trường Môn lạnh lẽo.
“Bà…” Người áo xám giận dữ, định tiến lên nói cho ra lẽ nhưng lại cảm thấy vạt áo phía sau bị kéo khẽ, quay lại thì thấy cô gái có thần sắc hơi lạ lùng đang lắc đầu, vẻ mặt mệt mỏi.
“Cô…” Hắn cho là nàng sợ quyền thế của Trưởng công chúa nên bất đắc dĩ bỏ qua.
“Đυ.ng vào người là lỗi của chúng ta. Để biểu đạt thành ý, chúng ta bồi thường cho các ngươi có được không?” Lưu Phiếu không chú ý tới vẻ đau buồn lẫn dòng lệ đang dần chảy ra trong mắt cô gái đứng sau người đàn ông, phất tay áo quay về xe, nghĩ lại vẫn chưa hết giận bèn tiện tay lượm lấy một miếng ngọc bội bằng ngọc bích từ trong số phần thưởng của Lưu Triệt rồi ném ra khỏi xe, xoay người lại nói, “Đi thôi!”
“Ai cần miếng ngọc bội hư này của bà chứ.” Người áo xám hừ lạnh một tiếng, đá văng miếng ngọc bội này ra rồi xoay người định bỏ đi thì lại phát hiện trên trán cô gái đứng sau đã rịn ra một lớp mồ hôi lạnh, có vẻ không ổn nên vội vàng đỡ lấy, “Cô không sao chứ, để ta đưa cô về.”
Hàn Nhạn Thanh chìa tay ra, nói nhỏ đầy vẻ lo lắng, “Ngọc bội.” Người áo xám bất đắc dĩ đành phải nhặt lại miếng ngọc bội rồi hỏi, “Nhà cô ở nơi đâu? Ta đưa cô về.”
Cơn đau kịch liệt quặn lên trong bụng khiến Hàn Nhạn Thanh hít sâu một hơi, “Đa tạ ân công cứu giúp, xin hỏi tên họ ân công?”
Người áo xám đáp vẻ sốt ruột, “Ta là Quách Giải, phu nhân, cô rốt cuộc muốn ta làm gì?”
Hàn Nhạn Thanh thở phào nhẹ nhõm, “Đưa tôi trở về lầu Thanh Hoan.”
Vào lúc Hàn Nhạn Thanh yếu ớt được đưa về lầu Thanh Hoan, khách khứa đầy lầu vẫn chưa về hết, Tang Hoằng Dương lập tức biết ý giấu nhẹm tin tức, đưa nàng vào phòng trong.
“Nhạn Nhi gặp hoảng sợ nên bị động thai.” Tiêu Phương bắt mạch cho Hàn Nhạn Thanh rồi trầm ngâm nói, “Tình trạng của nàng ta lúc này e rằng không thể chuyển đi được nữa, cứ để ở lại đây thôi, nàng ta có thể sinh con bất cứ lúc nào.”
“Được rồi”, Thân đại nương nghẹn ngào, tròng mắt đỏ hoe, “Nhạn Nhi sẽ không có chuyện gì chứ?”
“Yên tâm, có ta ở đây thì sẽ không có việc gì.” Tiêu Phương nói giọng bình thản nhưng đủ sức mạnh khiến mọi người yên tâm rồi quay đầu lại: “A Giải, đa tạ con cứu Nhạn Nhi.”
“Nàng ta… là sư muội con?” Quách Giải vẫn không thể tin tưởng vị tiểu sư thúc tài năng tuyệt đỉnh lại thu nhận một nữ đệ tử mảnh mai như vậy.
“Nhạn Nhi thoạt nhìn thì nhu nhược nhưng thật ra rất tinh quái.”
Quách Giải nhìn một hồi lâu vẫn không thể nào nhận ra được như lời Tiêu Phương nói, đành than nhẹ: “Hy vọng sư muội có thể bình an vượt qua cửa ải này.”Quyển 1 - Chương 9: Kiều Nhi sinh đôi rồng phượngHàn Nhạn Thanh đi trong một vùng sương mù. “Đây là đâu vậy?”, nàng hỏi nhưng không có người trả lời, sương mù cũng dần tản đi. Trước mặt nàng xuất hiện một rừng trúc, dọc theo rừng trúc là một con đường nhỏ quanh co. Nàng cứ thế đi về phía trước, không biết được bao lâu thì trước mắt đột nhiên thoáng đãng rồi một ruộng cỏ huân y[1] mênh mông hiện ra. Trong vùng cỏ huân y màu tím có một cô gái đang nằm, tựa hồ đang ngủ say, Hàn Nhạn Thanh chậm rãi đến gần thì trông thấy mặt của người con gái đó chính là Trần A Kiều.
[1] Cỏ huân y: Một loại hương liệu trồng để lấy tinh dầu, có mùi hương ngan ngát và bền lâu, khiến cho tinh thần con người cảm thấy sảng khoái.
“A Kiều, A Kiều”, Hàn Nhạn Thanh gọi khẽ, “Ngươi làm sao vậy?”
“Nhân duyên thuở trước đá Tam sinh
Chẳng muốn luận bàn chuyện gió trăng
Thẹn với người bạn xa viếng hỏi
Thân này dẫu khác tính còn mang.”[2]
Một giọng nói già nua vang lên sau lưng Hàn Nhạn Thanh.
[2] Lấy ý của bài thơ Tam sinh thạch (Đá Tam sinh) xuất phát từ câu chuyện Tam sinh thạch thượng của nhà Phật. Câu chuyện kể về tình bạn của Lý Nguyên đời Đường và thiền sư Viên Trạch, tình bạn ba đời chưa dứt. Bài thơ này là lời của thiền sư Viên Trạch sau hai lần đầu thai nói với bạn cũ. Ý thơ như sau: Lý Nguyên, kẻ đang đứng trên hòn đá ấy là bạn cũ trong ba đời của ta. Song chúng ta chớ nói chuyện ngắm trăng, ngâm thơ, đàm luận làm gì. Ta thật hổ thẹn để người bạn thân thương từ xa đến thăm viếng. Thân ta tuy đã đổi thay song bản tánh Phật của ta thì còn mãi mãi.
“Ai đó?” Hàn Nhạn Thanh quay đầu lại, trông thấy một ông lão râu tóc bạc phơ.
“Ta là thần tiên chấp chưởng nhân duyên phàm trần.”
“Thần tiên chấp chưởng nhân duyên phàm trần”, Hàn Nhạn Thanh nhướng mày vẻ kinh ngạc, “Nguyệt Lão sao?”
“Ha ha, có thể nói như vậy. Thật ra thì thần tiên có nhiều cách gọi, Nguyệt Lão chẳng qua chỉ là một loại trong đó thôi.”
Hàn Nhạn Thanh cười lạnh, “Tôi thấy ông đang nói nhảm. Theo tôi được biết thì cả Đạo giáo lẫn Phật giáo còn chưa hưng thịnh ở thời Hán triều.”
“Ngươi biết cái gì”, ông lão nói vẻ sâu xa, “Con người sau khi sinh mới biết trời đất, nhưng trời đất có phải vì có con người mà sinh ra đâu chứ? Thần tiên vốn trường tồn mãi mãi.”
Hàn Nhạn Thanh không trả lời, lo lắng nhìn A Kiều đang nằm trong đám cỏ huân y, hỏi, “A Kiều làm sao thế?”
Ông lão cười ha hả, “A Kiều chính là ngươi, ngươi chính là A Kiều đấy.”
“Nói nhảm.”
“Lão đây không nói nhảm.” Ông lão khẽ vuốt chòm râu dài trắng như tuyết, chậm rãi nói, “Năm đó, Trần A Kiều lui về cung Trường Môn, thành tâm cầu xin trời xanh suốt hai mươi năm để có thể nối lại duyên tình vợ chồng với Lưu Triệt. Ý niệm chân thành cuối cùng cũng khiến trời xanh cảm động nên ánh xạ một hồn một phách ở ngàn năm sau, cũng chính là Hàn Nhạn Thanh.”
“Tôi không tin.” Sắc mặt Hàn Nhạn Thanh dần biến thành trắng bệch, “Một hồn một phách làm sao có thể tập hợp lại thành người.”
“Trời xanh cảm động ý niệm chân thành nên sai lão ban cho nước thánh, mới có Hàn Nhạn Thanh hôm nay.” Nguyệt Lão cười híp mắt. “Nếu không thì làm sao Hàn Nhạn Thanh ngàn năm sau lại có cùng dung nhan với Trần A Kiều của hai ngàn năm trước, làm sao có thể trở lại Hán triều nhập ngay vào thân thể Trần A Kiều?”
“Chẳng phải nói là vì chuyện Vu cổ của Sở Phục sao?”
“Vu cổ của Sở Phục chỉ là cái ‘nhân’.” Ông lão chậm rãi nheo mắt, “Chuyện nhân thế có ‘nhân’ có ‘quả’ ở trong cõi U Minh. Chân tình của Trần A Kiều có thể lay động trời xanh nên trời xanh để cho Hàn Nhạn Thanh xuyên qua thời gian không gian, cho nàng ta một cơ hội làm lại từ đầu.”
“Đám già cả các người không lo tu hành, vậy còn gọi là thần tiên cái nỗi gì?” Lửa giận dần dần thiêu đốt lý trí Hàn Nhạn Thanh, “Chẳng lẽ trên thế giới này chỉ có Trần A Kiều là si tình nhất? Các người cảm động vì ý chí của nàng ta, vậy Hàn Nhạn Thanh thì sao, nếu tôi phải phụng hiến vì ý chí của nàng ta, vậy ý chí của tôi sẽ ra sao?”
Ông lão không nói, nhìn qua vai của nàng về phía sau. Hàn Nhạn Thanh quay đầu lại, kinh ngạc nhìn thấy hai cô gái đứng dựa lưng vào nhau trong làn sương mù. Một cổ điển tao nhã, một hiện đại năng động, chính là Trần A Kiều và Hàn Nhạn Thanh. Hàn Nhạn Thanh nhìn lại Trần A Kiều đang nằm trong đám cỏ huân y, lại nhìn cô gái trong sương mù thì phát hiện thấy hình bóng của cô gái trong sương mù cứ như khói mây. Dù mỗi biểu hiện trên gương mặt đều rất sinh động nhưng chỉ là ảo ảnh. Hai ảo ảnh dường như không biết đến sự tồn tại của nhau nhưng mỗi lần chau mày vuốt tóc thì từ cử chỉ đến nét mặt đều giống nhau như đúc, phảng phất như hai người đang đối mặt soi gương. Lòng nàng dần trầm xuống.
“Ngươi vẫn còn chưa rõ sao, Trần A Kiều và Hàn Nhạn Thanh vốn chỉ là một người, ý niệm của Trần A Kiều chính là ý niệm của Hàn Nhạn Thanh”, ông lão giảng giải.
“Như vậy”, Nhạn Thanh lộ vẻ sầu thảm, “Nguyện vọng của Trần A Kiều là gì?”
“Ha ha, chẳng phải trong lòng ngươi biết rõ sao?”
Ảo ảnh dần dần nhạt đi, cuối cùng không còn lại một chút dấu tích nào. Hàn Nhạn Thanh bỗng nhiên cười khẽ, ánh mắt nhìn ông lão cũng dần lạnh băng, “Tôi không tin trời xanh cảm động ý niệm chân thành cái gì cả. Vẫn nói thần tiên chẳng qua là do mong muốn của người phàm trần tạo nên mà thôi. Các người làm như vậy cuối cùng là vì mục đích gì?”
Ông lão nhìn vào ánh mắt nàng, hơi lộ vẻ kinh ngạc nhưng cũng không tức giận, “Rốt cuộc là người của cái thời đại ấy không tôn kính thần tiên.” Ông lão nghiêm mặt nói, “Lưu Triệt gϊếŧ chóc quá nhiều, trời xanh hy vọng có thể thông qua ngươi ngăn cản sát nghiệt của y, cũng có thể để cho con dân trên vùng đất này ngày sau đỡ phải chịu cảnh khói lửa chiến loạn. Những gì lão vừa nói đều là sự thật, Hàn Nhạn Thanh và Trần A Kiều đúng là một linh hồn phân chia ra thành hai thân thể. Vẫn nói hợp lâu sẽ phân, phân lâu sẽ hợp, hôm nay đã phải hợp lại thành một thể rồi”
“Các người cho là tôi là ai? Hán Vũ Đế là hạng người nào, tôi có tài đức gì để ngăn cản y chứ?”
“Ha ha”, ông lão vuốt râu mỉm cười, “Nhớ câu thơ ta đọc ban đầu không?”
“Nhân duyên thuở trước đá Tam sinh?”
“Đúng vậy, chẳng phải vẫn nghe nói nhân duyên là do trời định sao? Mỗi một tượng đất trên đá Tam sinh tượng trưng cho một người trong thế gian, thông qua tơ hồng để quyết định nhân duyên. Tượng đất của Lưu Triệt có dây tơ hồng ràng buộc với rất nhiều tượng đất khác. Ta có thể giúp ngươi làm lại từ đầu những sợi tơ hồng này.”
Hàn Nhạn Thanh im lặng, vĩ đại như Hán Vũ Đế Lưu Triệt mà tình cảm cũng phải phụ thuộc vào mây sợi tơ hồng dính trên thân như thứ trò đùa kia, thì thật sự là làm cho mọi người cảm thấy nực cười. “Cứ cho là thế thì tôi vẫn muốn biết tại sao có nhiều người con gái trong đời Lưu Triệt như vậy mà các người lại cứ phải chọn tôi?”
Ông lão mỉm cười, “Đây cũng không phải là quyết định của chúng ta. Phải biết rằng, mặc dù trên thân Lưu Triệt quá nhiều tơ hồng nhưng phần lớn chỉ là hư ảo, có lẽ chỉ sợi dây tơ hồng ban đầu dính với Trần A Kiều là thật nhất.” Ông lão nhìn Hàn Nhạn Thanh, chậm rãi nói vẻ thâm thúy, “Chẳng phải thời niên thiếu y đã có tình cảm chân thành nhất định đối với A Kiều hay sao?”
“Hàn Nhạn Thanh, ngươi tự mình giải quyết cho tốt đi”, ông lão xoay người, từ từ biến mất.
“A Kiều, đây chính là điều ngươi muốn sao?” Hàn Nhạn Thanh nhìn Trần A Kiều đang ngủ trong đám cỏ huân y, vừa nói vừa phiền não bước đi. Có lẽ là vậy, nàng chợt nhớ tới một bộ phim truyền hình đã xem trước đó rất lâu, theo đó ý nghĩa của cỏ huân y chẳng phải là đợi chờ tình yêu sao?
Hàn Nhạn Thanh cảm giác thân thể nóng như lửa đốt, tiếng rêи ɾỉ của A Kiều lẫn bản thân nàng vang lên chấn động. “Đau quá!”, Hàn Thanh ôm đầu, không chịu nổi gào lên.
“Tiểu thư! Tiểu thư!” Lục Y ở bên hầu hạ cũng phát sợ, “Tiểu thư, người chờ một lát, tôi đi gọi Tiêu tiên sinh.” Cô cuống quýt chạy đi. Tiêu Phương đến rất nhanh, bắt mạch xong thì tỏ vẻ nghiêm trọng, “Nhạn Nhi sắp sinh rồi.”
“Ối, mau đi gọi bà đỡ.” Thân đại nương vội vàng phân công, nước nóng và các loại vật dụng đã chuẩn bị sẵn nhanh chóng được mang lên, bà đỡ cũng lật đật chạy đến.
“Tiêu tiên sinh, sinh con chắc là phải đau bụng chứ, nhưng sao tiểu thư lại ôm đầu kêu đau thế kia?”, Lục Y không ngừng lo lắng.
Đúng là tình huống quái lạ, Tiêu Phương không dám chậm trễ, ngồi xuống phía sau Hàn Nhạn Thanh khẽ gọi: “Nhạn Nhi, Nhạn Nhi!”
Hàn Nhạn Thanh cố sức mở mắt ra, yếu ớt kêu lên: “Sư phụ!”
“Cô sao vậy?”
“Nhức đầu, cảm thấy nóng như lửa đốt.”
Tiêu Phương liền sờ trán Hàn Nhạn Thanh, thấy lạnh hơn lúc bình thường một chút, mặc dù Tiêu Phương y thuật như thần nhưng lúc này cũng không giải thích nổi. Theo Quách Giải kể lại thì Nhạn Thanh bị va vào lưng làm động thai dẫn đến sinh non nhưng dù thế nào thì cũng không thể đau đầu được.
Tất nhiên là hắn không biết trong cơ thể Hàn Nhạn Thanh có chứa hai linh hồn khác nhau, lúc ở trong mộng đã sáng tỏ nhân duyên nên không thể ẩn giấu được nữa, linh trí khai mở rồi hai linh hồn bắt đầu quá trình dung hợp. Quá trình dung hợp tất nhiên là không dễ dàng gì, thế nên Hàn Nhạn Thanh mới cảm thấy hai linh hồn trong cơ thể đều nóng bỏng như lửa đốt, Tiêu Phương tất nhiên là không thể giải thích nổi việc này.
Tiêu Phương châm vài mũi kim trên mặt nàng để giảm đau, dịu dàng an ủi: “Nhạn Nhi, cô đã bắt đầu sinh con rồi. Hãy vì đứa con, cố gắng lên!”
Hàn Nhạn Thanh yếu ớt gật đầu. Nếu bình thường thì tất nhiên nàng không coi việc mang nặng đẻ đau này vào đâu, nhưng lúc này việc hai linh hồn dung hợp đã làm hao tổn hơn phân nửa sức lực khiến nàng cảm giác toàn thân hư nhược không thể cố sức.
“Phu nhân, rặn đi!”, bà đỡ ở phía trước lo lắng la lên.
“Triệt Nhi!” Nàng nghe thấy Trần A Kiều kêu khóc thảm thiết. “A Kiều rất coi trọng đứa con này”, nàng nghĩ.
“A Kiều, hãy nghe ta nói, vì hài tử của ngươi, chúng ta hãy tỉnh táo lại. Nếu không thì cả ba người chúng ta sẽ cùng mất mạng.”
Nàng cảm thấy đầu bớt đau rất nhiều, thân dưới chảy ra chất lỏng nóng ấm.
“Rặn đi!”
Nàng bắt đầu thở sâu. Khi linh hồn của Hàn Nhạn Thanh và Trần A Kiều từng chút từng chút dung hợp lại, cảm ứng được những biến đổi thân thể thì việc dùng sức cũng đều đặn hơn. Nàng nghe thấy tiếng Thân đại nương la lên: “Tại sao vẫn chưa sinh được?”
“Không hay rồi, là ca sinh khó.” Mồ hôi từ trên trán bà đỡ nhỏ thành giọt.
Thời gian cứ từng phút từng phút trôi qua, Hàn Nhạn Thanh đã rất yếu mà đứa bé vẫn chưa ra. “Ta nhất định phải sinh hạ đứa bé này”, trong lúc hoảng hốt, nàng trông thấy lòng tin kiên định thấp thoáng giữa hai hàng lông mày của linh hồn Trần A Kiều. “Đây chính là sức mạnh của người mẹ sao?”, nàng lơ mơ nghĩ, thấy Trần A Kiều thở dài, một lần nữa chui vào người nàng.
“Nhạn Nhi, giúp ta, giúp ta sinh con, giúp ta nuôi lớn, dạy dỗ, còn nữa, giúp ta… yêu thương…”
Trong phòng sinh, Lục Y khóc lóc hét lên, “Không xong, tiểu thư đã bất tỉnh rồi.”
Dường như nàng đã ngủ một giấc thật dài, dường như lại chỉ trong nháy mắt. Khi khôi phục ý thức, nàng nhìn thấy Tiêu Phương mặc y phục trắng tinh, cảm giác sạch sẽ thanh thoát rất dễ chịu.
“Tiêu công tử, đàn ông không được vào phòng sinh, huống chi công tử lại không phải là phu quân của vị phu nhân này”, bà đỡ gắt gỏng.
“Im miệng!” Hiếm khi thấy Tiêu Phương tức giận đến mức đánh mất cách nói chuẩn mực thường ngày, “Tính mạng con người quan trọng hay cái điều đó quan trọng?”
“Không phải sợ.” Tiêu Phương ôn tồn vuốt tóc nàng, “Ta sẽ cứu cô.”
Nàng yếu ớt gật đầu, đột nhiên cảm thấy an tâm.
Hắn kiểm tra cẩn thận tình trạng Hàn Nhạn Thanh, lấy từ trong hòm thuốc ra một cây kim rồi châm vào bụng nàng. Hàn Nhạn Thanh thấy bụng đau nhói, rồi có cái gì đó xuất ra ngoài cơ thể, tiếp theo là tiếng trẻ nít khóc oe oe và tiếng hoan hô vang dội khắp cả trong ngoài phòng.
“Sinh rồi, sinh rồi!”, bà đỡ rốt cục cũng thở phào nhẹ nhõm, bế hài tử giao cho Thân đại nương đã chờ sẵn ở bên, “Chúc mừng phu nhân, là một bé trai!”
Nàng khẽ mỉm cười, có cảm giác rất kỳ lạ. Sinh mạng được sinh ra rồi trưởng thành, thật sự là một chuyện rất kỳ diệu. “A, đau quá!”, nàng bỗng nhiên hét lên.
“Còn một bé nữa!”, bà đỡ rối rít la lên. Đứa bé thứ hai không làm khổ nàng lâu như ca ca của nó. Trong một thoáng nàng mở mắt ra, những ký ức của Trần A Kiều hiện lên rành rẽ trong tâm trí. Nàng trừng mắt nhìn, rốt cuộc thừa nhận rằng từ nay về sau Hàn Nhạn Thành và Trần A Kiều chính là một người.
Một người đàn ông ngồi bên giường đang nắm lấy tay nàng. Cố gắng thật lâu nàng mới nhận ra đó là Tiêu Phương.
“Sư phụ!”
“Nhạn Nhi”, Tiêu Phương chợt tỉnh, vội vàng bắt mạch cho nàng rồi thở phào nhẹ nhõm, “Không sao rồi.”
Hàn Nhạn Thanh quan sát Tiêu Phương, bỗng nhiên cười khúc khích, “Sư phụ, mấy ngày rồi người không rửa mặt đó, râu ria lởm chởm, không còn phong độ tuấn tú thường ngày.”
Tiêu Phương đưa tay lên mặt, lập tức hiểu ra, bèn mỉm cười nói, “Không phải là do cô làm cho ta mệt nhọc hay sao? Mấy ngày nay sốt cao, mặt lúc xanh lúc đỏ nên ta đâu dám rời đi nửa bước.”
“Tôi ngủ mê man mấy ngày cơ à?”
“Ba ngày”, Tiêu Phương ý tứ liếc nhìn nàng, “Khi sinh xong mới thật là khẩn cấp, mấy ngày qua cô trải qua những giờ phút cực kỳ nguy hiểm. Giờ đã tỉnh lại thì chắc không còn đáng ngại nữa, ta về nghỉ ngơi đây.” Tiêu Phương nói xong liền vén rèm đi ra ngoài. Một lát sau, Thân đại nương dắt Lục y vào, thấy hình dáng tiều tụy của nàng thì mắt đỏ hoe.
“Mẫu thân!” Hàn Nhạn Thanh phải an ủi bà, “Mẫu thân đừng khóc, không phải là con đã tỉnh rồi sao.”
“Con đó”, Thân đại nương trách yêu nàng, “Làm mẫu thân sợ chết mất.” Bà hồi tưởng lại chuyện cũ, “Nếu ngày đó có một vị thần y như Tiêu đại phu thì có lẽ Lăng Nhi của mẫu thân đã không chết.”
“Mẫu thân!” Nàng hiểu rằng bà đang nhớ lại người con gái mất sớm của mình, “Từ nay về sau con sẽ là con gái của mẫu thân, tỷ tỷ của Tiểu Hồ Tử.”
“Được rồi, được rồi!” Thân đại nương vuốt tóc nàng, nói liên tiếp mấy chữ rồi, rồi cúi đầu lau nước mắt. Nàng nằm trong lòng nghĩa mẫu, hồi tưởng lại những lời cuối cùng của Trần A Kiều, “Giúp ta, giúp ta sinh con, giúp ta nuôi lớn, dạy dỗ, còn nữa, giúp ta… yêu thương…”
Chữ yêu thương cuối cùng là ám chỉ đứa bé hay chính là y?
Nàng thở dài, “Rất xin lỗi, A Kiều, ta không làm được. Đúng vậy, ta kế thừa tình yêu của ngươi với y, nhưng mà, đồng thời còn cả oán hận nữa. Có lẽ tình yêu của ngươi đã khỏa lấp oán hận của ngươi nhưng với ta thì không thể, bởi vì ta không chỉ là Trần A Kiều, ta còn là Hàn Nhạn Thanh.”
Nàng lắc lắc đầu, vứt bỏ tất cả mọi ý nghĩ vẩn vơ, “Mẫu thân, bế đứa bé cho con nhìn một chút.”
“Con đó”, Thân đại nương gí vào chóp mũi của nàng một cái, “Đã làm mẫu thân rồi mà vẫn còn thẹn thùng.” Bà quay người gọi, “Bế tiểu thiếu gia và thiếu tiểu thư vào cho tiểu thư nhìn.”
Lục Y liền mỉm cười đi ra ngoài, một lát sau bế một bé trai tới, “Thiếu tiểu thư bị Lộng Triều thiếu gia bế không chịu giao, tôi không thể làm gì khác hơn là bế tiểu thiếu gia tới đây.”
Hàn Nhạn Thanh đón bọc tã lót, nhìn vào khuôn mặt nhỏ nhắn trắng nõn của con mình, mỉm cười nựng yêu, đứa bé cười toe toét rất ngộ nghĩnh.
“Đứa bé này thật đáng yêu.” Thân đại nương cũng rất vui mừng, âu yếm nhìn, “Phải rồi, Nhạn Nhi, đặt tên cho đứa bé này là gì?”
Nàng ôm chặt con, không chút do dự đáp, “Mạch”
“Mạch?”
“Vâng”, Hàn Nhạn Thanh chống cằm, “Chữ ‘Mạch’ trong câu ‘Mạch thượng hoa khai hoãn hoãn quy’[3].”
[3] Dịch: Hoa trên đường đã nở, có thể vừa ngắm cảnh vừa thong thả quay về.
“Hàn Mạch à? Tên hay đó.”
“Không”, nàng chậm rãi lắc đầu, “Hài tử này tên là Trần Mạch.”
“Họ Trần?” Thân đại nương nghi hoặc hỏi lại, sau đó chợt hiểu ra, “Cha đứa bé họ Trần à?”
“Không phải. Chỉ là từ nay về sau tên con là Trần Nhạn Thanh.” Lấy họ của Trần A Kiều làm họ, tên của Hàn Nhạn Thanh làm tên.
“Tại sao?”, Thân đại nương hỏi thất thanh.
Tất nhiên là Hàn Nhạn Thanh không thể nói thật, đành phải cố làm bộ đau khổ, lau nước mắt nói, “Mẫu thân à, con vốn họ Trần, vì phải tránh tai họa nên trước đây mới nhận là họ Hàn, nhưng đã là người thì sao có thể bỏ họ của mình khiến cho họ mạc hổ thẹn được. Mẫu thân, mẫu thân cũng biết rằng phu quân chẳng hề đi tìm con, con cũng không trông cậy vào y. Nhưng mà mẫu thân con chỉ có mình con, nên vẫn hy vọng đứa bé này kế thừa hương hỏa của Trần gia.”
Thân đại nương an ủi, “Được, con gái, con không phải lo, ta sẽ nói với mọi người về chuyện này.”
“Đa tạ mẫu thân.”
“Còn bé gái thì sao?”
“Gọi là Sơ đi”, nàng đáp nhẹ.
“Nhân sinh nhược chích như sơ kiến, hà sự thu phong bi họa phiến?” [4]
[4] Dịch: Đời người nếu mãi như vừa gặp, gió thu có khiến quạt hoa sầu? Đây là những câu thơ nổi tiếng trích trong một bài thơ của Nạp Lan Tính Đức người Mãn đời nhà Thanh.
Nhạn Thanh bảo Lục Y dìu đi ra ngoài, thấy Lộng Triều bế Trần Sơ bé bỏng từ trong viện chạy ra còn Thân Hổ thì đuổi theo ở phía sau, liền bảo: “Cho ta nhìn tiểu muội muội.”
Quách Giải ở một bên mỉm cười, quay đầu nhìn lại, khẽ gật đầu hỏi thăm nàng.
“Sư muội!”
“Quách sư huynh”, Hàn Nhạn Thanh mỉm cười chào, “Đa tạ ơn cứu mạng của sư huynh.”
“Đủ rồi.” Thân đại nương túm lấy Tiểu Hổ Tử, lau mồ hôi trên trán, khẽ tát vào má nó, “Gọi lung tung gì thế? Về bối phận thì Sơ Nhi là cháu chứ không phải là em gái của con.”
Hàn Nhạn Thanh hơi chần chừ nhưng rồi vẫn hỏi khẽ: “… Miếng ngọc bội đâu?”
Quách Giải chau mày, lấy ngọc bội từ trong ngực ra đưa cho nàng, thấy nàng lật qua lật lại nhìn một hồi, tỏ vẻ buồn rầu rồi bảo Lộng Triều bế Trần Sơ tới, trân trọng đeo vào cổ nó.
Quách Giải nghi hoặc hỏi: “Vì sao muội coi trọng miếng ngọc bội này?”
“Bởi vì…” Hàn Nhạn Thanh mỉm cười, ánh mắt hơi sầm xuống, “Bà ta… là mẫu thân của muội.”
“Mẫu thân của muội? Tại sao muội lại có mẫu thân như vậy?”, Quách Giải kinh ngạc, “Khoan đã… Trưởng công chúa Quán Đào chỉ có một nữ nhi, là trước…” Hắn bỗng nhiên nín bặt, trầm ngâm nhìn nàng.
“Đúng như huynh nghĩ đó”, Hàn Nhạn Thanh thản nhiên.
“Như vậy hai đứa bé…?” Hắn khá là kinh sợ nhìn Hàn Nhạn Thanh, lại hỏi lấp lửng: “À, huynh có một bằng hữu mới kết giao, sư muội có thể thu xếp bố trí được hay không?”
“Tất nhiên là có thể” Hàn Nhạn Thanh hơi ngạc nhiên, “Bằng hữu của huynh tên gì?”
“Liễu Duệ.”
“Cái gì?”, nàng bỗng ngẩng đầu lên.
“Liễu Duệ”, Quách Giải nhắc lại, “Sư muội biết hắn sao?”
“Huynh nghĩ sao?”, nàng cười bí ẩn.Quyển 1 - Chương 10: Tướng quân khoác bào đến biên quanBiên cương nhiều biến động, gió thu lạnh Ngũ Nguyên.
Vùng cao nguyên đất đỏ, lầu Mãn Phong mưa buồn.
Vận trù định quân kế,, giải ngũ về Tuyết Sơn.
Núi sương mờ gió lạnh, đùa cợt báo tin lành.
Khói lửa rồi lan đến, giã biệt con lên đường.
Ngựa phi trên trận tuyến, giặc thịt nát xương tan.
Mới hay đời lính khổ, biên cương lắm chiến tranh.
Nam nhân thích đánh trận, phụ nữ chuộng yên bình.
Long Thành sơ hở quá, mau chóng trở về kinh.
Lòng thương con gái nhỏ, khắc khoải nhớ Trường An.
(Thủ thi)
Liễu Duệ gặp lại Hàn Nhạn Thanh vui mừng xen lẫn cảm khái, thấy Hàn Nhạn Thanh mới sinh hai con trai gái thì kinh ngạc đến mức gần như không dám tin vào mắt mình. Khi biết được phụ thân của hai đứa bé đáng yêu đó là thần thánh phương nào thì cảm giác bản thân vừa ngao du một vòng trong không gian.
“Sư huynh, ngậm miệng lại đi.” Hàn Nhạn Thanh châm trà rồi đưa tới trước mặt Liễu Duệ.
“Ha ha!” Liễu Duệ cười gượng gạo rồi đưa tay lên chống cằm. “Ta chỉ kinh ngạc quá mà thôi. Nhớ ngày đó, muội chẳng qua là một cô nhóc mà, nào ngờ trong nháy mắt đã làm mẹ rồi.”
Hàn Nhạn Thanh lườm hắn, “Huynh không cần nhắc nhở muội về sự thật phũ phàng này.”
“Mạch Nhi và Sơ Nhi đáng yêu quá nhỉ.” Hai đứa bé ngủ trong chiếc nôi mà Hàn Nhạn Thanh thuê người đóng riêng rất thoải mái cùng cười toe toét, tuyệt nhiên không hề sợ người ta.
“Dĩ nhiên rồi!”, Hàn Nhạn Thanh nói thản nhiên nhưng không kìm được vẻ hơi kiêu ngạo. Dù sao cũng là huyết mạch của mình, cho dù vì nguyên nhân rối rắm nào đó, thì cũng không thể nào không yêu thương chúng được.
Trên hành lang vang lên tiếng chân bước dồn dập, Tang Hoằng Dương vội vội vàng vàng xô cửa lao vào, “Nghe nói là đã tìm được Liễu huynh rồi à?” Hắn vừa hỏi vừa thở hổn hển. Hàn Nhạn Thanh không nhịn nổi cười phá lên, liếc xéo hắn, “Huynh nói xem, sư huynh của muội thất lạc đi đâu được chứ?”
“Mạc lão bản”, Liễu Duệ đã nghe Hàn Nhạn Thanh kể chuyện nên biết được thân phận thực của Tang Hoằng Dương, vì thế không khỏi cảm thấy có mấy phần thân mật hơn những người khác.
“Cứ gọi ta là Tang Hoằng Dương đi”, Tang Hoằng Dương khoát khoát tay, “Đừng nhắc tới ba chữ Mạc Ung Niên nữa.” Hắn quan sát Liễu Duệ, “Thật là kỳ quái, ta và Nhạn Nhi xuyên không thì đều là xuyên không linh hồn, sao huynh lại xuyên không thân thể được chứ?”
“Sao ta biết được?”, Liễu Duệ cười gượng. Ở đội cảnh sát đặc nhiệm, hắn là người có tính cách nghiêm khắc cứng nhắc nhất, tách xa khỏi đời sống thường nhật nên cũng không hề biết đến những pho truyện xuyên không nhan nhản trên mạng internet. Sau khi tới niên đại xa xưa này, hắn đã phải mất rất nhiều thời gian mới thích ứng được. May mà gặp được Quách Giải có cùng chí khí, tiếp đó gặp lại Hàn Nhạn Thanh và Tang Hoằng Dương.
“Huynh đệ!” Tang Hoằng Dương sôi nổi hào hứng nói về hùng tâm tráng chí của mình với Liễu Duệ, hài lòng thấy hắn sáng mắt lên. Đã là đàn ông thì phần lớn đều có tham vọng, không cam chịu sống đời bình thường, nếu còn có chút bản lĩnh thì càng không thể an phận. Hàn Nhạn Thanh ngoảnh mặt làm thinh, trong lòng thầm thở dài nghĩ hai người này trong thế giới hiện đại cũng là số một số hai, huống chi bị ném tới nhà Hán của hai ngàn năm trước, một thời đại khá là đơn giản và man di trong mắt bọn họ.
“Ta vốn đã đưa huynh và Nhạn Nhi vào trong kế hoạch.” Tang Hoằng Dương ngả người trên chiếc ghế nằm, nói vẻ miễn cưỡng. “Vào thời đại phong kiến vua có quyền lực cao nhất này, muốn đứng vững thì nhất định phải có binh quyền. Tiểu tử Lưu Triệt quá lợi hại, chúng ta không tính toán lật đổ, đành phải kiếm cơm ăn dưới tay y. Liễu huynh xuất thân từ cảnh sát đặc nhiệm, vậy là không thể tốt hơn rồi. Còn Nhạn Nhi nghe nói cũng rất có thiên phú ở lĩnh vực chế tạo cơ khí, cũng là nhân tài không thể thiếu.”
“Vậy cũng tốt”, Hàn Nhạn Thanh khẽ mỉm cười, “Sư huynh của muội xuất thân từ học viện quân sự đấy!”
“Cái gì?” Tang Hoằng Dương sáng mắt lên, “Hóa ra Nhạn Thanh muội muội không phản đối ý định của ta à?”
Hàn Nhạn Thanh xẵng giọng, “Tại sao muội lại phản đối, chỉ cần các huynh không bán đứng muội thì dĩ nhiên là muội ủng hộ.”
“Ha ha!” Tang Hoằng Dương cười vẻ mất tự nhiên, mắt đảo lia lịa. “Muội cũng không thể để cho Mạch nhi và Sơ nhi không có cha chứ. Dù sao ở đây chúng cũng có thân phận, nếu ngày sau biết muội quyết định thay thì chưa chắc chúng sẽ không oán muội.”
“Tang Hoằng Dương huynh đừng có mà vừa sống mấy ngày ở thời đại này thì đã thành người xưa thật sự”, Hàn Nhạn Thanh lạnh giọng, “Chúng sống trong hoàng cung có cái gì hay, được nuông chiều từ bé, bị dạy dỗ thành những đứa bé không hề biết tới cuộc sống khó khăn của dân chúng, sao bằng muội dẫn theo bên người cho yên tâm.”
“Thôi được rồi, ta không nói nữa. Chẳng qua…” Tang Hoằng Dương tạm thời bỏ qua, quay sang nhìn chằm chằm vào hai đứa bé, gãi cằm, “Dù thế nào thì cũng phải nuôi nấng hai đứa bé này cho tốt mới được.”
Tháng Tám, mùa thu năm Nguyên Quang thứ sáu.
Thị trung Tang Hoằng Dương tiến cử đệ tử Mặc môn là Liễu Duệ, dâng lên yên ngựa và bàn đạp. Hoàng thượng cực kỳ vui mừng, phong Liễu Duệ làm giáo úy dự khuyết Kỳ Môn quân. Liễu Duệ vì muốn báo đáp quốc gia nên không nhận khiến Hoàng thượng càng thêm khen ngợi, phong Liễu Duệ làm Ngũ Nguyên giáo úy, thống lĩnh Khâu Trạch kỵ. Đây cũng là khởi nguồn của kỵ binh Khâu Trạch sau này khiến người Hung Nô vừa nghe danh đã sợ mất mật. Nghĩa huynh Liễu Duệ của Hiếu Vũ Trần hoàng hậu, người một tay rèn luyện nên đội quân tinh nhuệ đệ nhất Đại Hán cũng xuất phát từ đây để bước những bước đầu tiên dẫn đến việc phong hầu bái tướng ngày sau.
“Bệ hạ!” Tang Hoằng Dương đi bên cạnh Lưu Triệt trong hành lang của cung Vị Ương, “Hiện giờ Hung Nô đang như hổ đói nhòm ngó Đại Hán ta mà Đại Hán ta cũng thường dụng binh với chúng. Thần biết bệ hạ vẫn lo lắng việc này, vừa may thần có một người chế tạo được một loại yên ngựa và bàn đạp, chỉ hiến tặng riêng cho bệ hạ.”
“Vậy à? Yên ngựa này có gì tốt?”, Lưu Triệt hờ hững hỏi.
Tang Hoằng Dương là con của thương nhân Lạc Dương, vốn có kỹ năng “đoán ý”, mười ba tuổi đã nhận chức thị trung nhưng sau đó cũng không được vinh hiển, mãi đến khi Mạc Ung Niên xuyên không thì mới dần dần được Lưu Triệt yêu thích. Mạc Ung Niên từ khi làm thị trung tới nay phần lớn đều nắm bắt rất chính xác xu thế tâm trạng của Lưu Triệt, vì thế Lưu Triệt bình thường vẫn thích dẫn hắn theo bên mình.
“Có gì tốt”, Tang Hoằng Dương ra vẻ bí ẩn, “Bằng hữu Liễu Duệ của thần đang đứng hầu bên ngoài cửa cung, bệ hạ truyền lệnh cho hắn đến trường bắn thử một lần sẽ biết.”
Lưu Triệt bất giác bước chậm lại, nhìn vẻ mặt tự tin của Tang Hoằng Dương cũng có chút bất ngờ. “Dương Đắc Ý”, y đột nhiên quay sang bảo. Dương Đắc Ý hiểu ý, liền khom người lui ra.
“Tang Hoằng Dương, chuyện chiến sự thì triều đình tự có quan lại chuyên trách chủ trì, tại sao người này lại đem phẩm vật đến tay khanh?”
“Bởi vì người này là huynh trưởng nghĩa muội của thần”, Tang Hoằng Dương đã chuẩn bị từ trước nên đối đáp trôi chảy.
“À, chính là cô gái lần trước ở lầu Văn Nhạc?” Lưu Triệt suy nghĩ một chút, nửa cười nửa không, “Nàng có huynh trưởng sao?”
“Cũng là nghĩa huynh.” Tang Hoằng Dương trả lời bình thản.
Lưu Triệt liếc hắn một cái, “Nghe nói lầu Thanh Hoan của khanh được người Trường An rất hoan nghênh, điều này có thật không?” Y hỏi nhưng không đợi Tang Hoằng Dương trả lời mà chuyển hướng đi về trường bắn, lúc này Vệ Thanh cũng đồng thời xuất hiện.
“Thảo dân Liễu Duệ tham kiến Hoàng thượng”, Liễu Duệ đi theo quan Trung thư tuyên chỉ đến gần, quỳ xuống hành lễ.
“Miễn lễ!”, giọng nói đều đều của Lưu Triệt từ phía trên truyền xuống. Liễu Duệ đứng dậy, kín đáo đánh giá vị đế vương trẻ tuổi mặc gấm đen, mặt mày sáng láng, oai vệ khác thường. Quả nhiên có phần giống với Trần Mạch đang quấn trong tã lót.
Tang Hoằng Dương đứng ở bên Lưu Triệt, cười khẽ với Liễu Duệ. Liễu Duệ nhìn theo ánh mắt của hắn thì thấy một thanh niên mặc y phục màu xanh, thần thái rạng rỡ, vẻ mặt bình thản đứng hầu sau Lưu Triệt liền biết đó là Vệ Thanh.
Vệ Thanh nhờ có lần xuất quân ở Thượng Cốc tiến thẳng tới triều đình Hung Nô, lập nhiều công lớn nên lúc này đã được phong làm quan nội hầu. Cho dù là vì quan hệ với tỷ tỷ Vệ Tử Phu hay vì thực lực của bản thân thì vẫn được Lưu Triệt cực kỳ coi trọng, nhưng hắn đã là nhân vật làm mưa làm gió trong triều Hán. Nếu không phải vì Hàn Nhạn Thanh, Liễu Duệ rất sẵn lòng kết giao với viên tướng được lưu danh trong sử sách Tây Hán này. Đáng tiếc hiện giờ… Liễu Duệ thầm thở dài, cho dù là vì Hàn Nhạn Thanh hay là vì bản thân mình thì hắn đều phải coi Vệ Thanh là địch. Hắn chỉ sợ địch ý của Hàn Nhạn Thanh lúc này đối với Vệ gia cũng không cao, một khi Vệ gia biết sự tồn tại của Hàn Nhạn Thanh thì mới là lúc một mất một còn. Đây là số mệnh của hai nhà Trần, Vệ. Đã đến tình thế như bây giờ thì chỉ sợ rằng người tạo ra nó là Lưu Triệt cũng không thể nào thay đổi được cục diện.
“Liễu tiên sinh, xin mời!”, Lưu Triệt nói vẻ bình thản, trên mặt cũng không biểu hiện gì.
Y nói xong liền có người của Ngự mã giám dẫn ra một con ngự mã toàn thân đỏ rực, tiếng hí vang rền, bốn vó khỏe khoắn, thần thái kiêu ngạo. Liễu Duệ bất giác thầm khen. Trong huấn luyện cảnh sát đặc nhiệm hiện đại bao gồm cả việc thuần phục ngựa, kỹ thuật cưỡi ngựa của Liễu Duệ rất tốt nên thấy tuấn mã như vậy cũng không sợ. Hắn cẩn thận xem xét yên ngựa, bàn đạp, vuốt vuốt bờm ngựa khiến con ngựa hồng ngẩng đầu hí vang, rõ ràng có vẻ không quen.
Liễu Duệ phi thân lên ngựa, ghìm dây cương cưỡi vài vòng rồi buông hai tay. Những người bên ngoài nhìn ra chỗ tốt của yên ngựa, nhất là Lưu Triệt cùng Vệ Thanh, cặp mắt hai người đều sáng lên, thậm chí Vệ Thanh còn lộ vẻ nóng lòng muốn thử. Liễu Duệ rút tên bên hông lắp vào cung rồi dùng mấy tư thế rất khó, bắn ra mấy mũi đều trúng hồng tâm. Đã từng trải qua huấn luyện xạ kích[1] cực kỳ nghiêm khắc của cảnh sát đặc nhiệm hiện đại, Liễu Duệ dù lạ lẫm với cung tên nhưng chỉ qua mấy ngày tập luyện là đã có thể sử dụng thành thạo. Liễu Duệ ghìm ngựa, chậm rãi cưỡi trở về, xuống ngựa thu cung rồi quỳ gối, “Thảo dân kém cỏi.”
[1] Xạ kích: Môn tập bắn.
“Tốt, tốt!”, Lưu Triệt nói liên tiếp hai chữ, tự mình nâng hắn dậy. Y vốn không phải là một người dễ gần nhưng là một vị hoàng đế hùng tài đại lược đột nhiên thấy được ý nghĩa sâu xa của việc xuất hiện yên ngựa trong chiến tranh Hán Hung, trong lòng cực kỳ vui vẻ nên mới có thái độ như vậy. Y nhìn kỹ lại Liễu Duệ thì thấy hắn có cốt cách vững vàng, thần thái hiên ngang, là nhân tài hiếm có.
“Hoàng thượng!” Vệ Thanh tiến lên lên trước nói, “Yên ngựa này rất thần kỳ. Vệ Thanh cũng muốn thử một lần.”
Lưu Triệt cười nói, “Trọng Khanh[2] ngứa tay khó nhịn sao?” Y gật đầu đồng ý rồi quay sang hỏi, “Công lao Liễu tiên sinh hiến yên ngựa rất lớn, có muốn ban thưởng gì không?”
[2] Trọng Khanh: Tên tự của Vệ Thanh.
Trên trường luyện ngựa, Vệ Thanh oai hùng xuất chúng, phóng ngựa như bay, mấy mũi tên phá không bay ra, lực bắn rõ ràng mạnh hơn Liễu Duệ bắn lúc trước mấy phần.
“Hoàng thượng!” Vệ Thanh xuống ngựa nói, “Yên ngựa này quả nhiên dễ dùng, nếu phổ biến rộng rãi trong chiến tranh thì có thể nâng cao sức chiến đấu của kỵ binh Đại Hán gấp đôi trở lên.”
“Biết rồi”, Lưu Triệt mỉm cười nói, “Lý Cảm, truyền lệnh xuống ty Quân nhu toàn lực chế tạo yên ngựa, trong vòng năm nay phải đủ cho tất cả chiến mã hiện có.” Lý Cảm khom người nhận lệnh.
“Hoàng thượng!” Liễu Duệ quỳ xuống, cúi đầu bẩm báo, “Thảo dân mặc dù xuất thân thấp hèn nhưng có lòng đền nợ nước, cũng có chút khả năng về việc luyện binh bày trận, xin Hoàng thượng cho phép thảo dân ra nhập quân đội, góp sức cho đất nước.” Câu chữ dõng dạc hùng hồn, cách nói có khí phách khiến Lưu Triệt không khỏi động lòng. Lại thêm Tang Hoằng Dương bước lên nói nhỏ, “Người này đúng là am hiểu luyện binh bày trận.” Lưu Triệt cũng không để ý lắm, nói: “Liễu tiên sinh một lòng vì nước, trẫm rất hài lòng, ban cho Liễu Duệ chức giáo úy dụ khuyết trong Cấm vệ quân có được không?”
Cấm vệ quân đóng ở kinh thành, giáo úy cũng không phải là chức quan quá nhỏ, ban thưởng như vậy cũng coi là hậu hĩnh rồi, nhưng Liễu Duệ lại lắc đầu đáp, “Mặc dù làm giáo úy Cấm vệ quân cũng tốt nhưng thảo dân vẫn hy vọng được đến cấm quân ở vùng biên cương lạnh giá, thế mới có thể góp sức cho đất nước được tốt hơn.”
“Tốt!” Lưu Triệt không giận mà lại cười, “Đúng là trẫm đã xem nhẹ tiên sinh.” Y nghiêm mặt, nói: “Phong Liễu Duệ làm giáo úy Ngũ Nguyên, dưới quyền chỉ huy của Lý Quảng ở Hữu Bắc Bình. Trong vòng một tháng sẽ lên đường.”
“Dạ!”, thị thần ở bên cạnh khom người lĩnh mệnh.
“Đa tạ hoàng thượng”, Liễu Duệ bái tạ hoàng ân.
Lầu Thanh Hoan.
“Sư huynh, trong vòng một tháng đã lên đường rồi sao?”, Hàn Nhạn Thanh trầm ngâm hỏi.
“Đúng vậy!” Liễu Duệ gật đầu, “Ta phải tạm biệt sư muội đi Ngũ Nguyên một thời gian.”
“Cũng tốt.” Rượu Bích Nhưỡng Xuân mới ủ xong tản ra mùi hương đậm đà, Tiêu Phương uống cạn một chén rượu, “Ta cũng phải cùng Quách Giải, Lộng Triều trở về sư môn một chuyến, nhân tiện cùng lên đường với Liễu công tử.”
“Sư phụ cũng phải đi sao?”, Hàn Nhạn Thanh ngạc nhiên.
“Nhạn Nhi, trong thiên hạ không có buổi tiệc nào không tàn.” Tiêu Phương nhẹ nhàng, “Mấy hôm trước, Quách Giải tới báo cho ta biết sư môn có việc, bảo ta trở về gấp. Nếu không phải cô ấy sắp sinh con thì e là vi sư đã ở trên đường trở về Đường Cổ Lạp Sơn từ lâu rồi.”
“Vậy không được.” Hàn Nhạn Thanh đảo mắt, “Tôi đi cùng với sư phụ. Tôi cũng là người của sư môn, không phải sao?”
Tang Hoằng Dương cau mày, “Muội ném cục diện rối rắm ở kinh thành lại cho ta, còn mình thì vỗ mông bỏ đi sao?”
Hàn Nhạn Thanh nháy nháy mắt, cười ngọt ngào, “Muội biết huynh sẽ chèo chống được.”
“Muội điên rồi.” Tang Hoằng Dương hung hăng uống một chén, “Mạch Nhi và Sơ Nhi thì làm sao bây giờ?”
“Tất nhiên là đi cùng với muội.”
“Bọn chúng còn nhỏ như thế sao chịu nổi bôn ba?”
“Cứ yên tâm.” Hàn Nhạn Thanh nheo mắt lại: “Có tiền là có thể xui ma khiến quỷ, cứ đi từ từ rồi sẽ đến nơi.”
“Như vậy”, Tang Hoằng Dương bất đắc dĩ thấp giọng hỏi, “Y thì sao?”
Hàn Nhạn Thanh trầm ngâm một hồi lâu mới nói, “Cho dù thế nào thì huynh cũng phải thừa nhận rằng bây giờ còn chưa phải lúc. Hơn nữa, nếu thật sự muốn tạo ra một khoảng trời riêng thì há chỉ giới hạn trong thành Trường An nho nhỏ?”
Một cô gái xuống lầu đúng vào lúc người thanh niên áo tím đang dắt người hầu đi tới.
“Hoàng thượng, thế nào rồi?”, Lý Cảm nhỏ giọng hỏi.
“Không có gì”, Lưu Triệt quay đầu lại, “Hình như là đang gặp người quen.”
“Phu nhân!”, Lưu Triệt lên tiếng gọi.
Cô gái đang tha thướt đi ra ngoài kinh ngạc quay đầu lại, “Công tử, có chuyện gì thế?” Mặt mũi cô ta trông rất xa lạ.
“Không có gì, ta nhận lầm người.”
Cô gái cũng không chú ý, “Không sao cả.”
“Tỷ tỷ!” Tiểu Hổ Tử từ đằng xa chạy vội tới, “Mẫu thân gọi tỷ về.”
“Đang về đây.” Nàng gật đầu, dắt cậu bé chậm rãi đi xa, cuối cùng biến mất trong đám người mà không hề quay đầu lại.
Thần tiên ở trên trời, các người nhìn xem, số mệnh đã sắp đặt cho tôi nhưng tôi vẫn cứ khăng khăng không muốn cùng y gối ấp vai kề.
Trong lầu Thanh Hoan, người ca cơ dáng vẻ phong lưu ôm đàn ngọc ngồi trên sàn diễn đàn hát một khúc ca u buồn…
Một chiếc xe ngựa chậm rãi lăn bánh trên con đường từ kinh thành tới Lũng Tây.
“Tiêu sư phụ, có phải thức thứ ba, chiêu thứ tư của Vân Chu chưởng đánh như thế này không?”
Hàn Nhạn Thanh bế Trần Sơ, mỉm cười nhìn sư huynh Liễu Duệ quấn lấy sư phụ của mình thỉnh giáo chiêu pháp võ học. Liễu Duệ trước giờ gần như là một tên say mê luyện võ đến điên cuồng. Lý do chủ yếu khiến Quách Giải kết giao với hắn là do thuận mắt ở điểm cuồng dại này. Hơn nửa năm nay, Quách Giải cũng chỉ cho Liễu Duệ một ít công phu, nhưng ngại môn quy nên cũng không dạy sâu. Giờ Liễu Duệ gặp được Tiêu Phương là sư thúc của Quách Giải liền cố sống cố chết xin lãnh giáo.
“Á à ơi, Sơ Nhi ngoan.” Hàn Nhạn Thanh cố gắng hết sức thúc đẩy chuyện này, thậm chí cực lực đề cử Liễu Duệ và Thân Hổ làm đồ đệ của Tiêu Phương nhưng Tiêu Phương mãi vẫn không gật đầu, chỉ nói muốn thu đồ đệ thì phải được sư phụ đồng ý, bây giờ chỉ có thể chỉ dạy được một chút công phu mà thôi.
“Không phải trước đây người đã thu tôi làm đồ đệ sao?”, Hàn Nhạn Thanh không phục.
Lộng Triều ẵm Trần Mạch, ngước mắt nhìn nàng rồi lại cúi xuống chơi đùa với Trần Mạch.
“Làm sao mà giống nhau được.” Tiêu Phương phì cười, “Nhạn Nhi, nếu nhớ không lầm thì lúc trước cô dùng ân cứu mạng cưỡng ép ta thu nhận làm đồ đệ thì phải? Hơn nữa…”, hắn nhấn mạnh, “Cô vẫn chưa chính thức làm lễ bái sư mà.”
“Sư thúc từng bị nguy hiểm tính mạng ư?” Quách Giải lấy làm kinh ngạc, hắn luôn cho rằng vị sư thúc mà hắn ngưỡng mộ từ thuở nhỏ là người không có gì không làm được.
“Tôi vẫn còn chưa được coi là đệ tử chính thức?”, Hàn Nhạn Thanh giận sôi lên, “Vậy mà người bắt tôi kêu bằng sư phụ lâu như vậy!”
Lộng Triều trừng mắt lạnh như băng nhìn nàng, “Không được nói giọng như vậy với Tiêu ca ca.”
Tiểu Hổ Tử chống nạnh trừng mắt nhìn hắn, “Không được quát tháo tỷ tỷ của tôi.”
Lần này đi xa, Hàn Nhạn Thanh mang cả Tiểu Hổ Tử đi theo. Thân đại nương vốn không nỡ, nhưng Hàn Nhạn Thanh nói cuộc sống gia đình đã không phải lo nữa rồi, cũng nên cho Tiểu Hổ Tử ra ngoài trải nghiệm thì sau này mới có tương lai. Hàn Nhạn Thanh cực kỳ cảm động, giao Trần Sơ cho bà vυ', ôm lấy Tiểu Hổ Tử, “Chỉ có Tiểu Hổ Tử mới tốt với tỷ, không giống Lộng Triều, hừ.” Nàng không sợ Lộng Triều, lúc này Lộng Triều chẳng làm gì được nàng. Nhưng nàng cũng không biết rằng nếu là người khác thì chỉ e Lộng Triều đã ra tay độc ác.
“Nhạn Nhi, cô không nên tức giận”, Tiêu Phương ôn tồn nói, “Suốt những ngày qua, không phải những thứ cô muốn học, ta đều đã dạy cô đấy sao? Lần này về sư môn, ta sẽ bẩm báo với sư phụ rồi thu cô làm đồ đệ.” Hàn Nhạn Thanh quay đầu đi không để ý tới hắn.
“Chưởng lực Vân Chi chưởng lấy “miên” làm chủ, sức lực triền miên không dứt, không ngừng sinh sôi…” Tiêu Phương giảng giải Vân Chu chưởng cho Liễu Duệ, Hàn Nhạn Thanh dẫn Thân Hổ ngồi một bên lắng nghe. Bây giờ nàng còn đang ở cữ không thể tập võ, nhưng một điều thông thì trăm điều thông, lúc này nghe một chút thì sau này tập võ cũng dễ dàng hơn.
“Ồ”, Liễu Duệ trầm ngâm một lát, “Có phải như thế này không?” Hắn múa mấy đường, Tiêu Phương gật đầu, “Không tồi… Ngộ tính của ngươi khá đấy.”
“Quá đơn giản”, Hàn Nhạn Thanh ngẫm nghĩ, cúi xuống lại thấy Thân Hổ tỏ vẻ khó hiểu lại nghĩ, “Chẳng lẽ mình và sư huynh quá thông minh ư?”
“Trong lúc rảnh rỗi, chúng ta chơi mạt chược nhỉ?” Hàn Nhạn Thanh nháy mắt, trải qua mấy ngày thật sự nhàm chán, khi ngồi chán ở một thành vùng Tây Trữ, nàng mời thợ đến làm một bộ mạt chược, định là trong những ngày kế tiếp sẽ rủ rê tất cả mọi người trên xe ngựa cùng sát phạt.
“Mạt chược, không phải chứ?” Liễu Duệ ngán ngẩm rùng mình một cái, tưởng tượng ra một đám người trông rất thanh lịch vây quanh bàn mạt chược, sát phạt tàn bạo, mắt đỏ ngầu.
“Sư huynh không chơi sao?” Hàn Nhạn Thanh hỏi với vẻ mặt thuần khiết.
“Nói đùa à. Ta là quân nhân, tất nhiên phải tuân thủ quân quy, quân phong nghiêm chỉnh, đương nhiên không chơi”, Liễu Duệ chính khí lẫm liệt.
“Nếu không chơi, ngày tháng trôi qua buồn tẻ như vậy, mọi người đều phát điên mất.”
Tiếng xoa bài vang lên lách cách. Một chiếc án lớn được bày ra ở giữa xe ngựa, bốn người ngồi vây quanh.
“Nhị!”, Liễu Duệ la lên như hung thần ác sát, đánh ra một con Nhị.
“Sư huynh ơi!” Hàn Nhạn Thanh như cơn gió tây khoan khoái đùa giỡn trên mặt sông, “Huynh ngàn vạn lần không được để trò chơi này lưu truyền trong quân đó.” Nàng nhìn Quách Giải lúc này mắt đã đỏ vằn, Tiêu Phương thì khá hơn một chút, vẫn giữ được phong độ quân tử khiêm tốn của mình, “Hại người lắm.”
“Có lẽ muội không biết rồi”, Liễu Duệ cố ra vẻ nghiêm túc, “Tương truyền món mạt chược này là do chính Hoài Âm hầu Hàn Tín phát minh ra cho quân lính giải trí đấy.”
“Có chuyện này sao?” Quách Giải ngẩng đầu ngơ ngác, “Cho tới giờ con vẫn chưa từng trông thấy vật này. Sư thúc, người đã từng nghe nói chưa?”
“Chưa.”
“Thế nghĩa là không phải.” Quách Giải vừa kết luận vừa lấy một quân bài.
“Ha ha, muội ù rồi”, Hàn Nhạn Thanh khoái trá ngửa bài, quả nhiên là một con Phong.
“Lại ù nữa, không thể nào”, Quách Giải cáu kỉnh, “Ta vừa mới lấy một quân bài, sao muội đã ù được?”
Hàn Nhạn Thanh bế Trần Mạch, Trần Sơ lên hôn mỗi đứa bé một cái, “Muội chẳng qua chỉ kiếm chút tiền sữa cho A Mạch, A Sơ. Sư huynh hẹp hòi như vậy sao?”
Lục Y, Tiểu Hổ Tử, bà vυ' đứng phía sau cười trộm. Mấy ngày qua bọn họ thấy trò chơi này cũng có vẻ mới lạ nên không cảm thấy đi đường mệt nhọc nữa. Lộng Triều ngồi sau Tiêu Phương, chăm chú quan sát nhưng không nói câu nào.
Quách Giải không phục, “Nếu mà…” Hắn vốn định nói nếu Hoàng đế mà trông thấy muội nuôi dưỡng vị hoàng tử y mong đợi đã lâu thế này thì không biết sẽ như thế nào? Nhưng thấy trên xe đông người phức tạp nên đành nín lặng chung tiền ra trả.
Hàn Nhạn Thanh ngáp một cái, “Muội mệt rồi, đi nghỉ ngơi một lát, mọi người chơi tiếp đi.”
“Không được”, một giọng nói đã khản đặc vang lên, bàn tay trắng bệch thò ra, túm chặt lấy tay áo của nàng, cay cú, “Chơi tiếp, ta không tin không gỡ được vốn.”
…
Hàn Nhạn Thanh im lặng. Mạt chược, quả nhiên là trò chơi có hại.
Thành Ngũ Nguyên.
Sau chuyến lữ hành dài đằng đẵng, xe ngựa rốt cục cũng mệt mỏi vào thành.
“Ái chà, mệt chết được.” Hàn Nhạn Thanh nhảy xuống xe, cười khanh khách, “Chúng ta nghỉ trong thành mấy ngày đi.”
Mọi người trên xe nghe vậy đều choáng váng, “Nghỉ gì nữa, chúng ta đã đi chậm như rùa rồi”, Quách Giải trách móc.
Hàn Nhạn Thanh không nói lời nào, chỉ ngước cặp mắt lên nhìn Tiêu Phương là người cầm đầu.
“Thôi nào. A Giải.” Tiêu Phương cười bảo, “Chúng ta chỉ cần trở về trước dịp cuối năm là được rồi. Sư muội của con mới sinh không được bao lâu, con để cho nàng ấy nghỉ ngơi một chút đi.”
Quách Giải không nói gì, chuyện cứ thế được quyết định. Hàn Nhạn Thanh chọn một đại viện thanh nhã, quét dọn sạch sẽ rồi đi vào.
“Chỉ ở có mấy ngày thì có cần phòng lớn như thế này không? Nhạn Nhi, muội định làm gì thế?”, Liễu Duệ nằm gác hai chân trên trường kỉ, vừa nhàn nhã gặm lê vừa hỏi.
“Tất nhiên là để chuẩn bị cho huynh mà thôi.” Hàn Nhạn Thanh mỉm cười ngồi xuống cạnh bàn, giở ra một tấm sa bàn, “Huynh phải biết rằng thời Hán dùng chính sách phân chia cai quản, nhưng chỗ này vẫn thuộc về triều đình. Vùng ngoại thành Ngũ Nguyên có một mỏ sắt lớn, ở đây.” Nàng chỉ vào sa bàn, “Muội đã nhờ Tang Hoằng Dương kiếm được quyền sử dụng khai thác mỏ sắt này. Nhiệm vụ của huynh là thành lập một xưởng chế tạo binh khí ở gần đó.”
Liễu Duệ giật mình, “Nếu chúng ta có thể làm được thì tại sao không báo cho Lưu Triệt?”
Hàn Nhạn Thanh nheo mắt, “Nếu có thể được thì huynh hãy gọi là bệ hạ đi. Đừng để bị kẻ có ác ý nghe thấy, gán cho huynh cái tội danh đại bất kính.” Nàng buông tay xuống, cười nhạt nhưng từ trên người lại phát ra một loại khí thế sát phạt, “Muội muốn huynh lập nên một đội quân vô địch thiên hạ, nếu báo lên trên thì chúng ta được ích lợi gì?”
Liễu Duệ nhíu mày hỏi, “Nếu sau này bị phát hiện ra thì làm sao?”
“Đợi huynh luyện ba năm, năm năm nữa rồi chọn một phần báo lên trên, cứ nói là một mình huynh đã nghiên cứu chế tạo ra, trải qua nhiều năm kiểm nghiệm thực tế sử dụng rồi mới dám kính hiến.”
“Có thể được không?” Liễu Duệ bật cười, “Còn muội thì sao? Chắc cũng không nhàn rỗi.”
“Muội à? Muội đang định đi làm việc đây.” Hàn Nhạn Thanh cười ngọt ngào nhưng trong đó lại chứa một tia nguy hiểm, “Sư huynh, theo muội ra ngoài đi dạo một lúc.”
“Đây chính là chuyện muội muốn làm hả?” Liễu Duệ toát mồ hôi, ngước nhìn những chiếc đèn l*иg màu đỏ treo cao trên ngôi lầu cũ nát trước mặt.
“Đại gia, muốn vào à?” Người hầu vội chạy đến chào đón, “Các cô nương của chúng tôi ai nấy đều xinh đẹp như hoa. Xuân Lan, Xuân Cúc, mau mau ra đây.”
“Được rồi, được rồi.” Một thiếu niên áo trắng, vóc người không cao, vẻ mặt bình thản nhưng cười thật đáng yêu từ phía sau Liễu Duệ bước ra, “Cô nương nổi tiếng của các người là ai?”
“Tiểu thiếu gia tìm đúng chỗ rồi. Phù Dung cô nương của lầu Di Hồng chúng tôi có dáng vẻ xinh đẹp vào loại đệ nhất toàn thành Lũng Tây đó, chẳng qua muốn chào hỏi Phù Dung cô nương thì có lẽ…”
Liễu Duệ quăng ra một chuỗi tiền Tam Thù, “Đủ chưa?”
“Đủ rồi, đủ rồi!” Gã người hầu tỏ vẻ mừng rỡ, ở lầu Di Hồng này đã nhiều năm nhưng gã rất ít khi thấy người nào phóng tay rộng rãi như vậy. “Nhưng mà Phù Dung cô nương của chúng tôi đang tiếp khách mất rồi.”
Thiếu niên áo trắng cất tiếng cười để lộ ra hai hàm răng thật đáng yêu, “Ngươi đưa chúng ta vào nhã thất, sau đó xin mời lão bảo[3] tới. Chúng ta ở đây đợi Phù Dung cô nương nhé.”
[3] Lão bảo: Tú bà.
“Ái chà, cơn gió nào đã đưa hai vị khách quý đến đây.” Tấm màn cửa vừa vén lên, một cơn gió thổi qua mang theo mùi phấn son nồng nặc, rồi một người đàn bà trung niên ăn mặc rẻ tiền, son phấn lòe loẹt đi vào. Hai người Liễu, Trần cùng rùng mình một cái, đúng là phim truyền hình không hề giả tạo.
Lão bảo đang cười hỉ hả, vừa trông thấy Hàn Nhạn Thanh thì bỗng nhiên biến sắc, lạnh lùng nói: “Lầu Di Hồng chúng ta không hoan nghênh khách nữ giả nam trang.”
“Mắt ma ma rất tinh tường”, Hàn Nhạn Thanh mỉm cười đứng lên, “Hôm nay ta dạo quanh thành Ngũ Nguyên này một vòng, đã nhìn thấy trúng lầu Di Hồng của ma ma. Ta vốn nghĩ nếu ma ma không nhận ra thân phận nữ nhi của ta thì ta chỉ giao cho ma ma một khoản tiền rồi mời ma ma cuốn gói đi”, nàng đưa mắt từ trên xuống dưới đánh giá lão bảo, “May là ma ma không khiến ta thất vọng.”
“Ngươi…”, Dung ma ma vừa kinh ngạc vừa nghi hoặc, “Ngươi có ý gì?”
“Ta muốn mua đứt lầu Di Hồng.”
“Tại sao ta phải bán?”
“Tại sao Dung ma ma không bán?” Hàn Nhạn Thanh thong thả đi qua đi lại mấy bước, “Ta xem rồi. Lầu Di Hồng ở vị trí không tồi nhưng khách khứa không náo nhiệt lắm, trong khi ma ma lại không phải là một người hồ đồ, như vậy cho thấy ma ma rất có lương tâm. Ta cũng không phải là người lòng dạ ác độc.” Nàng quay người lại cười híp mắt, “Chỉ cần ma ma nghe ta thì ta tin chắc rằng các cô nương không phải cực khổ nhiều mà vẫn có thể kiếm được bộn tiền. Thế nào đây?”
“Nghe cô nương nói vậy có thể thấy cô nương là người rất có kiến thức.” Dung ma ma nhìn nàng từ trên xuống dưới, bỗng nhiên thở dài, nhún người hành lễ, “Ta quyết định liều một chuyến. Ta tin tưởng vận khí của ta, cũng thay các cô nương trong lầu cảm ơn cô.”
“Ấy, Hàn Nhạn Thanh vội vàng đỡ bà ta đứng lên, “Ma ma nói quá lời rồi.”
“Nếu đã quyết như thế thì tất nhiên phải cải tạo lại lầu Di Hồng. Từ ngày mai, ma ma hãy tạm ngừng kinh doanh để ta mời người tới sửa chữa. Ma ma yên tâm, tiền thì tất nhiên do ta bỏ ra. Các cô nương trong lầu cũng phải tập trung huấn luyện. Ta tin rằng khi mở cửa trở lại, lầu Di Hồng sẽ danh chấn biên thùy.”Quyển 1 - Chương 11: Gian khổ luyện binh đi Tái Bắc“Đó là tính toán của muội à?”, trên đường về đại viện, Liễu Duệ giả bộ lơ đãng hỏi.
“Đương nhiên!” Hàn Nhạn Thanh nheo mắt, “Từ xưa tới nay, nơi có nhiều tin tức nhất, phức tạp nhất chính là thanh lâu.”
“Chuyện này do muội chịu trách nhiệm nhưng muội không thể có bất kỳ liên hệ trực tiếp nào với thanh lâu”, Hàn Nhạn Thanh quay sang Liễu Duệ, “Cho nên phải bồi dưỡng một số tâm phúc, nhưng cũng may là vẫn còn nhiều thời gian. Ngược lại, bản thân sư huynh nên đi bái kiến quan trên luôn đi.”
“Vậy thì chưa chắc.” Liễu Duệ khẳng khái, ý tứ phong thái lỗi lạc, cất tiếng ngâm: “Vi thử Long Thành Phi tướng trấn, ngựa Hồ đâu dám vượt Âm Sơn”[1], đáng tíếc, đáng tiếc, ta chẳng thể gặp được vị Phi tướng quân này rồi.”
[1] Hai câu thơ trong bài Xuất tái – Kỳ 1 (Ra cửa ải – Kỳ 1) của Vương Xương Linh, viết về vị tướng quân tên là Lý Quảng, người Hung Nô xưa gọi ông là “Phi tướng” (Tướng bay).
“Hay!” Chợt nghe một tiếng tán thưởng, một công tử áo lam từ phía trước đi tới, khen ngợi: “‘Vi thử Long Thành Phi tướng trấn, ngựa Hồ đâu dám vượt Âm Sơn.’ Rất có khí phách!”
“Tại hạ là Lý Kỳ, xa kỵ úy Ngũ Nguyên, nghe thấy mấy câu thơ công tử vừa ngâm thì nhất thời không nhịn được nên mới khen ngợi, hy vọng không làm phiền hai vị.”
“Ha ha, có sao đâu chứ?” Hàn Nhạn Thanh từ phía sau Liễu Duệ bước lên, “Sư ca ta mới nhậm chức giáo úy Ngũ Nguyên, tên là Liễu Duệ. Hôm nay vừa tới khu vực của quý vị, chợt nghĩ tới uy danh của Tướng quân Lý Quảng thì không thể kìm lòng nên mới ngâm thơ hoài niệm.
“Ồ!” Ánh mắt Lý Kỳ sáng lên, “Thì ra là Liễu giáo úy hiến yên ngựa được bệ hạ chính miệng phong thưởng đó ư?”
“Ha ha, mọi người cũng biết cả rồi.” Liễu Duệ và Hàn Nhạn Thanh cùng toát mồ hôi. Liễu Duệ trừng mắt nhìn Hàn Nhạn Thanh, tất cả chỉ vì nàng làm chậm tốc độ đi đường nên tin tức này đã kịp truyền tới cả nơi biên thành hẻo lánh này.
“Thái thú và ta đều hiếu kỳ không biết yên ngựa có công hiệu thần kỳ thế nào? Vừa hay đúng lúc Liễu huynh đến.” Lý Kỳ vờ như không biết rằng hai người đang lúng túng, nói đầy vẻ hào hứng.
“Nếu đã vậy”, Liễu Duệ quyết định thật nhanh, “Sáng mai ta sẽ tới bái chào Lý tướng quân, nhân tiện giới thiệu về chiếc yên ngựa luôn.”
“Hay quá, Tướng quân và ta sẽ ở quân doanh chờ đại giá”, Lý Kỳ cũng thẳng thắn nói luôn, “Tướng quân mới tới Ngũ Nguyên nên chắc mệt rồi, sớm trở về an giấc đi.” Hắn liếc ánh mắt đầy ẩn ý nhìn về phía lầu Di Hồng mà Liễu Duệ vừa đi ra khiến Liễu Duệ cảm thấy nóng mặt, cố kìm nén ý muốn giáo huấn cho Hàn Nhạn Thanh một trận.
Ngày hôm sau, Liễu Duệ một mình đi tới phủ Ngũ Nguyên bái tướng, dựa vào lợi thế có yên ngựa bàn đạp nên dễ dàng giành được cảm tình của Lý Tiêu, thái thú Ngũ Nguyên.
“Vi thử Long Thành Phi tướng trấn, ngựa Hồ đâu dám vượt Âm sơn.”, Lý Tiêu khẽ vuốt râu, “Nghe Lý Kỳ nói là Liễu giáo úy vừa tới Ngũ Nguyên ngày hôm qua?”
Lý Tiêu là một người trung niên tầm khoảng từ ba đến bốn mươi tuổi, có tất cả đặc trưng của một đại tướng theo tiêu chuẩn Trung Quốc cổ đại, thân thể cường tráng, ánh mắt sắc bén nhưng lúc này đang nhìn Liễu Duệ với vẻ tán thưởng khó thấy.
“Đúng vậy!” Liễu Duệ khom người nói, “Mạt tướng đến Ngũ Nguyên ngày hôm qua, trong lúc tán gẫu với mọi người thì bỗng nghĩ tới Lý tướng quân bảo vệ quốc gia giúp cho dân chúng biên quan được sống yên ổn, trong lòng cảm khái mới buột miệng ngâm mấy câu thơ, ngờ đâu Lý kỵ úy lại nghe thấy.”
“Tốt, tốt!” Lý Tiêu mỉm cười, bỗng nhiên có chút thương cảm, “Nếu gia phụ biết được là Liễu giáo úy sùng bái người như thế thì nhất định sẽ hết sức vui mừng.” Liễu Duệ hỏi lại vừa ngạc nhiên vừa nghi hoặc, “Chẳng lẽ lệnh tôn là?”
“Chính là Phi tướng.”
“Vậy sao?” Liễu Duệ nghe thấy câu trả lời vừa nằm ngoài vừa ở trong suy đoán thì không khỏi quan sát người đàn ông trung niên trước mặt với ánh mắt hoàn toàn mới. Trong trí nhớ của hắn, Lý Quảng có ba con trai, con cả Lý Đương Lợi chết sớm, con thứ tên Lý Tiêu, tựa hồ cũng mất trước cha mình, hắn thấy buồn lòng nhưng vẫn lên tiếng khen ngợi, “Quả nhiên là cha nào con nấy.” Trong Sử ký cũng không ghi lại nguyên nhân cái chết của Lý Tiêu nhưng có thể thấy Lý Tiêu đã làm lên đến chức thái thú Ngũ Nguyên thì năng lực không kém, nếu không chết thì không biết Lý gia có thể có cục diện mới như thế nào.
“Ha ha”, Lý Tiêu rất vui vẻ nhưng vẫn dặn dò, “Thật hiếm có người văn võ song toàn như Liễu giáo úy, đúng là phúc của Đại Hán ta. Nghe nói Liễu giáo úy đã phát nguyện trước mặt bệ hạ muốn đến cấm quân ở vùng Tái Bắc lạnh giá này, thế mới là hành động đại nghĩa báo quốc. Hiện giờ trong quận Ngũ Nguyên ta có vùng Khâu Trạch vừa tuyển năm ngàn lính mới hồi đầu năm, vậy thì giao cho Liễu giáo úy đi. Giáo úy nhất định phải chăm chỉ luyện binh để không phụ ủy thác của bệ hạ.”
“Mạt tướng nhất định tận hết khả năng, đến chết mới thôi.” Liễu Duệ nghiêm trang quỳ bái, tám chữ sấm truyền bỗng hiện lên trong đầu, “Phùng Đường dễ già cả, Lý Quảng khó phong hầu.” Hiện giờ hắn muốn đối kháng với đám quân phiệt Vệ gia nên tất yếu phải nhờ Lý gia trợ giúp, mới bắt đầu thì chỉ có thể đặt mình dưới trướng Lý Quảng, thậm chí không thể bộc lộ tài năng, hy vọng ngày sau có thể phá vỡ vận mệnh trong lời sấm truyền “Lý Quảng khó phong hầu” để cho vị Phi tướng quân nổi tiếng ngàn đời được an ủi.
Liễu Duệ chào từ biệt nhóm Tiêu Phương rồi lên đường tới Khâu Trạch. Hàn Nhạn Thanh và Thân Hổ đi cùng với hắn.
“Thật ra thì Nhạn Nhi không cần phải đi theo ta”, Liễu Duệ hết lời khuyên nhủ.
“Muội không yên tâm về sư huynh mà!”, Hàn Nhạn Thanh không thèm để ý, “Mạch Nhi và Sơ Nhi đã có sư phụ và Lục Y chăm sóc nên muội rất yên tâm. Muội ở quân doanh một hai ngày rồi cưỡi ngựa đuổi theo bọn họ chắc vẫn kịp.”
“Ồ, thế này mà là quân doanh à?” Tiểu Hổ Tử nhìn quân doanh Khâu Trạch nằm không xa ở phía trước, không nói được tiếng nào. Hàn Nhạn Thanh mặc giả nam trang, nhíu mày nhìn sững vào quân doanh mới Khâu Trạch vắng lặng tiêu điều, “Đổ nát như thế này thì ở thế nào được đây?”
“Còn tốt hơn sơ với ta tưởng tượng rất nhiều.” Liễu Duệ ngược lại, vẻ mặt bình thản, “Triều Hán làm gì có quân doanh có điều kiện tốt ở tận nơi này chứ. Hơn nữa nếu quá tốt thì ngược lại sẽ không tốt cho việc huấn luyện quân đội.”
Năm ngàn tân binh đứng giữa quân doanh để cho vị giáo úy mới kiểm tra. Liễu Duệ nhíu mày, nhìn thấy phần lớn quân Hán đều có vẻ xanh xao, ý chỉ chiến đấu uể oải, thậm chí độ tuổi cao thấp không đều.
“Các người đều là con dân của Đại Hán ta.” Liễu Duệ chậm rãi ghìm cương ngựa, đi từng bước trước hàng quân, “Trên biên cương của Đại Hán ta có cha mẹ, vợ, con cái của các ngươi, chẳng lẽ các ngươi nhẫn tâm để bọn họ bỏ mạng dưới vó thiết kỵ[1] của bọn người Hung Nô? Các ngươi sinh ra làm nam tử Hán lại không nghĩ đến chuyện chinh chiến sa trường, không nghĩ đến việc lập công danh cho vợ con no ấm sao?”
[1] Thiết kỵ: Đội ngũ kỵ binh mang giáp trụ thiết giáp, năng lực tác chiến rất lớn.
“Có!” Năm ngàn quân Hán cùng đồng thanh đáp lời, âm vang như sấm dậy.
Liễu Duệ biết rõ mấy câu kích động lòng người như vậy chỉ có tác dụng nhất thời nên liền tranh thủ rèn sắt khi còn nóng, lập tức tuyển chọn ra ba ngàn trai tráng dẫn đi thao luyện, khoảng hai ngàn quân già yếu còn lại cũng được thu xếp thỏa đáng.
“Sư huynh tính sẽ làm như thế nào?” Buổi tối hôm đó, trong khi mọi người bị Liễu Duệ dùng các loại phương pháp thao luyện hiện đại làm cho thừa sống thiếu chết thì hắn vẫn còn khỏe mạnh như rồng như hổ. Hàn Nhạn Thanh đi tới phòng của hắn hỏi luôn.
“Nhạn Nhi có còn nhớ về ‘sinh thái nông thôn’ mà chúng ta thường nói đến thời trước hay không?”, Liễu Duệ cười hỏi ngược lại.
“Có.” Nàng gật đầu, thoáng cái đã hiểu ra, “Sư huynh tính thành lập một đội quân doanh tự cấp tự túc?”
“Người hiểu ta chỉ có Nhạn Nhi”, Liễu Duệ khen không tiếc lời, “Dù sao thì điều ta muốn là có được một đội quân vô địch thiên hạ nên không thể nhận hết tất cả mọi người. Nhưng mọi người đều có tên trong danh sách quân đội, làm như vậy cũng tránh được không ít phiền toái. Bọn họ đều là quân Hán mới tuyển từ dân chúng nên chắc vẫn còn chất phác.”
“Nhưng như vậy sẽ nảy sinh phiền toái mới. Dù sao thì cũng không cần gấp gáp”, Hàn Nhạn Thanh lắc đầu nói, “Dù sao đây cũng là vùng xa xôi hẻo lánh, chỉ cần sư huynh làm tốt, thật sự khống chế được tình thế ở nơi này thì sẽ không xảy ra chuyện gì lớn.”
“Yên tâm đi!” Liễu Duệ tự tin, “Đám người có thân phận sẽ không đến một nơi không chút màu mỡ gì như ở đây. Còn về phần quân sĩ bên dưới…”, hắn nhếch mép, “ta sẽ khiến cho bọn họ không có thời gian để nảy sinh lòng dạ này khác.”
“Nhưng mà…” Hắn chắp tay bái Hàn Nhạn Thanh, “Nhạn Nhi chu đáo hơn huynh, hiện cũng cần phải làm một số công tác nội bộ. Các quy chế phân công cụ thể này thì sẽ phải làm phiền sư muội.”
“Tỷ, tỷ tính sẽ làm gì?” Thân Hổ khó hiểu nhìn Hàn Nhạn Thanh sai người khênh bàn tới trước trướng trung quân[2] rồi ngồi xuống đó.
[2] Trung quân: Đạo quân ở giữa thường do chủ tướng trực tiếp chỉ huy, theo cách tổ chức quân đội thời xưa (gồm tiền quân, trung quân và hậu quân).
“Người tiếp theo.” Hàn Nhạn Thanh cẩn thận đổi chân thành một tư thế tương đối thoải mái. Hai ngàn quân Hán thuộc loại già yếu bị loại ra hôm qua đang sắp xếp thành đội ngũ thật dài trước bàn, một thiếu niên bước lên.
“Họ, tên, quê quán, nghề nghiệp?”, Hàn Nhạn Thanh đến bây giờ thì chỉ còn hỏi lấy lệ.
“Ta tên Tiết Thực”, thiếu niên nói giọng trong trẻo, “Nguyên quán ở Hoài Nam, trước đây làm ruộng ở quê.” Hắn liếc Hàn Nhạn Thanh, thấy nàng mặc y phục đắt tiền nhưng thân hình nhỏ bé nên ánh lên vẻ khinh miệt, “Ngươi là ai? Có chức quan gì? Dựa vào đâu mà ngồi đây hỏi chúng ta?”
“Ơ…” Hàn Nhạn Thanh ngẩng đầu lên nhìn vẻ hứng thú, “Từ đầu cho tới tận bây giờ chỉ có ngươi là người đầu tiên hỏi ta như vậy, không tệ, không tệ. Không phục có phải không, chúng ta làm một trận so tài đi.”
“Tiểu gia, Tiết Thực không có ý như vậy đâu.” Một thiếu niên trông nhang nhác cùng lứa mặc chiếc áo vá chằng vá đυ.p nhưng có cặp mắt trầm tĩnh từ phía sau vòng lên túm lấy ống tay áo của Tiết Thực, “Mau nhận lỗi với tiểu gia đi.”
Tiết Thực vùng tránh khỏi tay hắn, “Trần thiếu gia, xin mời.”
Hàn Nhạn Thanh nhìn quanh bốn phía một vòng, những binh sĩ còn lại đều coi như chuyện không liên quan đến mình, ngước mắt nhìn lên trời. Một số tỏ vẻ băn khoăn lo lắng, một số nhìn có vẻ hả hê nhưng phần nhiều là hờ hững. Nàng khẽ mỉm cười, thầm tính toán rồi chắp tay đứng lên đi tới trường luyện võ, dáng vẻ thoải mái, nhẹ nhàng bảo Tiết Thực, “Ngươi ra chiêu đi!”
Nơi này ở trong quân doanh Khâu Trạch, nàng không hề lo lắng có ai đó sẽ nhận ra mình, hơn nữa còn hy vọng, đội quân này về sau sẽ trung thành với mình ở mức độ nhất định nên cũng không đeo mặt nạ da người. Nàng vừa nở nụ cười thì Tiết Thực cảm thấy như có ánh mặt trời rạng rỡ xuyên qua áng mây làm mê muội lòng người. Hắn khẽ giật mình, lập tức tỉnh lại hô lên: “Nhường nhịn rồi”, tiếp đó xông lên đánh ra một quyền.
Tiết Thực rất tin tưởng vào sức mạnh của bản thân, tuy còn nhỏ tuổi nhưng khá kiên cường, tính tình lại dũng cảm. Hắn dám tự nhận mình thuộc vào nhóm một trăm người hàng đầu trong số năm ngàn tân binh. Hôm qua Liễu Duệ dựa theo tuổi tác và ấn tượng mà sơ tuyển ra ba ngàn quân nhưng không có hắn nên hắn vẫn cảm thấy không phục. Lúc này hắn quyết tâm phải thể hiện một chút lợi hại. Thấy vị thiếu niên công tử trước mặt có thân hình khá mỏng manh nên bất giác giảm đi bảy phần công lực. Hắn không ngờ Hàn Nhạn Thanh lại có bộ pháp linh hoạt, né tránh khỏi đường quyền rồi tung một cước quét ngang khiến hắn lảo đảo suýt nữa vấp ngã, lúc đó hắn mới bắt đầu nghiêm túc trở lại.
Hàn Nhạn Thanh vốn xuất thân từ cảnh sát đặc nhiệm hiện đại, trên đường đi Ngũ Nguyên thường thấy Tiêu Phương chỉ giáo cho Liễu Duệ nên cũng được lợi không ít. Mặc dù thân thể A Kiều được nâng niu từ bé, lại vừa sinh con nên không rèn luyện nhiều, chân tay hơi ngượng nghịu nhưng vẫn trội hơn Tiết Thực. Công thủ nhịp nhàng, nàng rất nhanh đá một cước trúng vào eo Tiết Thực, rồi mỉm cười hỏi, “Ngươi đã phục chưa?”
“Không phục”, Tiết Thực vốn quật cường, lại chưa bao giờ chịu nhục như thế nên rống lên.
“Vậy thì đánh tiếp”, Hàn Nhạn Thanh nghiêm mặt. Nàng biết phải nhân cơ hội thu phục Tiết Thực để lập uy trong quân doanh. Binh lính trong quân doanh chỉ chịu thần phục một thứ duy nhất là võ lực, phải triệt để thắng được bọn họ về võ lực thì mới có thể đạt được quyền uy.
Hàn Nhạn Thanh lần thứ bảy khống chế cổ tay Tiết Thực, khéo léo quật hắn ngã xuống đất. “Ngươi đã phục chưa?”, mồ hôi trên trán nàng nhỏ ròng ròng, thầm nghĩ sau này về gặp sư phụ sẽ càng phải chăm chỉ luyện võ. Một binh sĩ Hán bất kỳ đã có thể khiến nàng toát mồ hôi, xem ra cũng không thể quá ỷ vào thân phận cảnh sát đặc nhiệm hiện đại của mình nữa.
Tiết Thực thở dài, vùng dậy quỳ gối, “Ta phục rồi.”
“Vậy thì tốt!” Hàn Nhạn Thanh trở lại bộ dạng thánh thiện không gì sánh bằng, khen ngợi, “Công phu của ngươi không tệ. Ta về sẽ nói với Liễu giáo úy một tiếng để điều ngươi đến quân doanh huấn luyện.”
“Đa tạ Trần thiếu gia.”
Hàn Nhạn Thanh trở lại chỗ ngồi, nhìn thấy trong mắt binh sĩ dưới quyền đều đã có một tia kinh sợ thì khẽ nhếch miệng, cuối cùng thì mồ hôi vừa rồi đổ ra cũng không uổng phí.
“Ngươi tên là gì?” Nàng nhìn thiếu niên vừa đứng ra khuyên giải Tiết Thực.
“Ta tên là Ngụy Tự Nam”, thiếu niên bước ra khỏi hàng, “Đồng hương của Tiết Thực.”
“Ngươi…” Hàn Nhạn Thanh hỏi hắn vài vấn đề, xác nhận hắn rất thông minh cơ trí, bèn trầm ngâm hỏi, “Ngụy Tự Nam, ngươi làm quản gia quân doanh cho ta có được hay không?”
“Quản gia?” Ngụy Tự Nam bị hai từ này làm cho kinh ngạc đến sững sờ.
“Ừ”, Hàn Nhạn Thanh gật đầu, “Ngươi cũng thấy rồi đó, Liễu giáo úy không cần nhiều binh lính như vậy. Chuyện các ngươi cần làm là biến quân doanh này thành một nơi kinh doanh. Đã là đại gia đình thì phải có người canh tác, có người nấu cơm, có người chăn ngựa, có người trông coi kỷ luật quân đội. Ta cần một người quản lý tất cả những việc này, lại thấy ngươi có cơ trí, vừa rồi chịu đứng ra nói thay cho Tiết Thực, cũng có chút nghĩa khí, cho nên…”
Ngụy Tự Nam lập tức quỳ xuống, “Tiểu nhân nguyện ý.”
“Tốt!” Hàn Nhạn Thanh mỉm cười gật đầu, nhìn đám người bên dưới đang ồn ào bàn tán thì giơ tay lên nói, “Ta biết Đại Hán chúng ta chưa có lệ như vậy nhưng cũng không có quy định nào là không thể làm như vậy, đúng không?” Nàng đảo mắt, chắp tay vẻ nghiêm trang, “Ta hy vọng các ngươi coi quân doanh là một đại gia đình, vậy thì trợ giúp huynh đệ mình làm việc là đương nhiên. Các ngươi phải biết rằng, có sự ủng hộ của các ngươi thì đội quân ba ngàn binh sĩ của chúng ta mới có thể an tâm chiến đấu trên chiến trường. Các ngươi cũng đang dùng phương thức của mình tự bảo vệ người nhà. Thân phận của các ngươi cũng giống như bọn họ. Ta cũng biết trong một cánh rừng lớn thì lớp chim nào cũng có, vì thế nên ta sẽ thiết lập ty Trọng tài để giải quyết những xung đột trong quân doanh. Các ngươi cũng phải nhớ kỹ rằng người cùng một nhà dù có gây ra mâu thuẫn gì thì cũng đều là mâu thuẫn nội bộ, không được vượt quá mức độ này. Khi kẻ địch thật sự tới thì phải nắm vững đạo lý ‘Giơ nắm đấm lên, nhất trí đối ngoại’. Bởi vì, nếu không có quân doanh thì lấy đâu ra binh sĩ các ngươi chứ?”
Mọi người lặng im phăng phắc, một lúc sau mới có người lên tiếng, “Chúng ta nghe theo Trần thiếu gia.”
Hai ngàn binh lính kẻ lớn người nhỏ nhưng cùng đồng lòng hô to, “Chúng ta nghe theo Trần thiếu gia.”
Hàn Nhạn Thanh căn cứ theo nghề nghiệp của mọi người khi còn ở nhà để phân công nhiệm vụ; lựa chọn một số thiếu niên tương đối cường tráng và nhiệt huyết, trong đó có cả Tiết Thực, giao cho Liễu Duệ đến Hỏa đầu doanh[3] chỉ bảo cho các đầu bếp một số kỹ năng nấu nướng; tìm một số binh lính có nhân cách tốt thành lập ty Trọng tài chấp chưởng quy củ trong quân doanh; giao phó cho Ngụy Tự Nam một số công việc cần chú ý… Đến khi hoàn thành mọi việc thì đêm đã về khuya.
[3] Bộ phận phụ trách bếp núc cho quân doanh.
“Xem ra hôm nay muội thật bận rộn.” Liễu Duệ bật cười khì trông thấy bộ dạng vừa đi vừa gật gù buồn ngủ của nàng.
“Hôm nay huynh huấn luyện thế nào?” Hàn Nhạn Thanh cố giương mi lên hỏi.
“Cũng không tệ lắm.” Liễu Duệ cười thỏa mãn, “Xem ra câu danh ngôn của Lỗ Tấn thật là chí lý ‘Cuộc sống an nhàn làm mòn đi ý chí của con người’. Những người này đã quá quen với gian khổ, không yếu ớt như tân binh hiện đại nên dù tăng cường độ huấn luyện lên bao nhiêu cũng không oán trách. Huấn luyện hôm nay còn hơn cả cường độ huấn luyện mới đầu của cảnh sát đặc nhiệm chúng ta nữa.”
Điên cuồng! Hàn Nhạn Thanh dành một phút mặc niệm cho đám binh lính kia, bọn họ gặp phải người sư huynh say mê võ nghệ thế này thì sẽ không có lấy một ngày an nhàn. Tuy nhiên vì đạo nghĩa nên nàng vẫn nhắc nhở, “Đừng làm gì quá mức. Về mặt hậu cần thì muội đã thu xếp xong rồi, huynh chỉ cần nắm chắc Ngụy Tự Nam và luôn luôn để ý tới tình hình của ty Trọng tài thì chắc chắn quân doanh Khâu Trạch sẽ không thể rối loạn được.”
“Nhạn Nhi, cứ yên tâm đi.” Liễu Duệ như thể nắm chắc mọi chuyện trong lòng bàn tay, “Ta nhất định sẽ huấn luyện ra một đội kỵ binh không hề thua kém quân Phiêu kỵ sau này.”
Tần dưới trăng suông, Hán ải quan
Chiến chinh vạn dặm chẳng về làng,
Vi thử Long Thành Phi tướng trấn.
Ngựa Hồ sao dám vượt Âm sơnQuyển 1 - Chương 12: Tháng ngày nhàn nhã chốn sơn lâm“Tỷ tỷ, tỷ và Liễu đại ca thật là lợi hại.”
Hàn Nhạn Thanh và Thân Hổ thúc ngựa rảo bước trên con đường cổ Cam Lũng. Thân Hổ nhớ lại từ chuyện hai ngày qua tỷ tỷ đã bố trí công việc trong quân doanh ngăn nắp gọn gàng đâu vào đấy cho tới chuyện Liễu Duệ dùng các loại phương pháp không thể tưởng tượng nổi nhưng rất hiệu quả huấn luyện quân đội hùng dũng oai nghiêm, thì nhìn Hàn Nhạn Thanh vô cùng sùng bái.
“Thế à? Liễu đại ca lợi hại hơn hay là tỷ tỷ lợi hại hơn?” Hàn Nhạn Thanh điều chỉnh tốc độ phi ngựa, hỏi giọng bâng quơ.
“Ha ha!” Thân Hổ vò đầu suy nghĩ một lát nhưng rồi vẫn đáp, “Liễu đại ca lợi hại hơn.”
“Thật không?” Hàn Nhạn Thanh không hề tức giận, vẫn cúi đầu trầm tư, nam nhi dù gì cũng thích chinh chiến sa trường hơn.
“Tỷ tỷ!” Thân Hổ dài giọng hét lên khiến Hàn Nhạn Thanh quay đầu nhìn lại.
“Tỷ đi nhầm đường rồi. Hướng Đường Cổ Lạp Sơn đi theo bên này.” Có mấy sợi tóc lòa xòa bên Thân Hổ.
“Ừm…” Hàn Nhạn Thanh cười lúng túng, “Tỷ không để ý, con ngựa tự động đi theo hướng bên này.” Nàng bực tức cho con ngựa quay đầu lại, lợi hại đến mấy thì cũng được ích lợi gì chứ? Một người phiêu bạt bên ngoài, sáu, bảy phần mười là một đi không trở về. Phàm đã là phụ nữ thì hơn một nửa là cảm nhận phương hướng không tốt. Hàn Nhạn Thanh cũng tự thừa nhận là mình kém hơn người bình thường một chút.
Được Thân Hổ dẫn dắt, Hàn Nhạn Thanh cuối cùng cũng đuổi kịp Tiêu Phương ở dưới chân Đường Cổ Lạp Sơn.
“Mạch Nhi, Sơ Nhi, cho mẫu thân bế nào!” Hàn Nhạn Thanh rời xa hai con rồi thì mới nhận ra mình cũng rất nhớ bọn chúng. Nàng bế Trần Mạch rồi đi tới hôn lên khuôn mặt dễ thương của con gái, cảm khái nhận ra mình đã thật sự bị buộc chặt vào vùng đất cổ đại này.
Mạch Nhi nằm gọn trong lòng nàng cười toe toét còn Sơ Nhi thì lại nhăn nhó, tựa hồ không vui vì bị quấy rầy.
“Làm gì mà lâu thế?” Lộng Triều từ trong xe ngựa ló đầu ra vẻ mất hứng.
“Lộng Triều, nhìn xem ta mang cái gì tới cho ngươi”, Hàn Nhạn Thanh giơ một hũ rượu lên nói lấy lòng. Đây là rượu trái cây mà nàng nhờ Dung ma ma giúp đỡ mới ủ ra được, lúc về qua Ngũ Nguyên liền tiện thể mang theo hai hũ.
Hàn Nhạn Thanh rót cho bọn họ mỗi người một chén, nhìn quanh bốn phía rồi hỏi, “Quách sư huynh đâu rồi?”
“A Giải đi lên núi trước.” Tiêu Phương nếm một ngụm rượu trái cây thấy ngọt ngào man mác thì khá ngạc nhiên nhìn màu sắc sóng sánh trong chén, “Chúng ta ở dưới chân núi chờ cô tới để cùng lên. Cô tới rồi thì đi thôi.”
Cả đoàn bỏ xe ngựa lại, đi bộ lên núi. Đường Cổ Lạp Sơn quanh năm tuyết phủ, vừa dốc vừa trơn nên đến lưng chừng núi thì Lục Y và bà vυ' không thể đi tiếp. Tiêu Phương thu xếp cho hai người ở lại trong căn nhà đá trên sườn núi, còn mình bế Trần Sơ, cõng Thân Hổ, bảo Lộng Triều giúp đỡ Trần Mạch và Hàn Nhạn Thanh rồi thi triển khinh công lướt đi như trên đất bằng, chỉ chốc lát đã lên đến đỉnh núi.
Khi Hàn Nhạn Thanh lên đến đỉnh núi thì liền nghe thấy giọng một ông lão tức giận quát tháo từ trong thạch thất vọng ra, “Ta nghe A Giải nói vẫn không tin, hóa ra lại là sự thật. Ngươi thu đồ đệ cũng được, nhưng mà lại thu nhận một người phụ nữ không có căn cơ học võ. Thu nữ đồ đệ đã đành, nhưng đó lại là một phụ nữ có thai. Sinh con coi như xong đi, thế mà còn dẫn cả đám đến Đường Cổ Lạp Sơn. Dung Nam, ngươi làm việc hay thật!”
“Sư phụ của tôi làm sao?”, Hàn Nhạn Thanh nổi giận, bế Trần Mạch đi vào phòng. “Bản cô nương thông minh lanh lợi, xinh đẹp dễ thương, ngoan ngoãn vâng lời, cực kỳ có thiên phú. Sư phụ gặp rồi thì không đành lòng bỏ qua nên mới thu tôi làm đồ đệ, lão mũi trâu có ý kiến gì?”
Ông lão trong thạch thất quay đầu lại, chòm râu trắng như tuyết, ánh mắt trầm tĩnh liếc nhìn Hàn Nhạn Thanh, khinh thường hỏi: “Ngươi? Thiên phú cực cao ư?”
Quách Giải thiếu chút nữa sặc nước miếng mà chết, mẹ của hai đứa bé còn là cô nương được sao?
Tiêu Phương ngẩng đầu ánh mắt vẻ buồn cười liếc nhìn nàng. Ngoan ngoãn vâng lời mà vậy sao?
Lộng Triều hoài nghi nhìn nàng: Xinh đẹp dễ thương? Không có đâu!
Trái lại, Thân Hổ bế Trần Sơ đứng bên cạnh thì gật đầu như gà mổ thóc: “Tỷ tỷ ta vốn rất thông minh lanh lợi đó.”
Sư phụ của Quách Giải là Lữ Phi Khanh nhìn Trần Mạch nằm trong lòng Hàn Nhạn Thanh, mắt sáng rực: “Sư phụ, tư chất đứa bé này thật tốt.”
Mạnh Tắc Nhiên ngẩn người ra, bấy giờ mới đảo mắt nhìn sang Trần Mạch, bĩu môi nói, “Cũng không tệ lắm.”
Hàn Nhạn Thanh tức giận không có chỗ trút, la lên: “Tiểu Hổ Tử!”
“Dạ”, Thân Hổ giương mắt nhìn nàng.
“Đập ngay vò rượu còn lại đi, một giọt cũng không được để lại cho lão mũi trâu uống.”
“Dạ!” Thân Hổ trao Trần Sơ cho Lộng Triều, vâng lời quay lại lấy vò rượu.
“Hừ, chẳng qua là một vò rượu thì có gì đặc biệt chứ”, Mạnh Tắc Nhiên chẳng thèm quan tâm, “Trên Đường Cổ Lạp Sơn chúng ta loại rượu nào mà không có… hương vị gì đó?”
Bên ngoài phòng, Thân Hổ đã lấy vò rượu ra, chuẩn bị đập xuống.
“Này, này!” Hàn Nhạn Thanh kinh ngạc buột miệng. Nàng thấy một giây đồng hồ trước đó, ông lão râu bạc còn ở trong phòng phùng mang trợn mắt đấu khẩu với nàng nhưng chỉ một thoáng chớp mắt đã đứng trước vách núi, còn Tiểu Hổ Tử ngơ ngác hết nhìn vào hai bàn tay trống không của mình lại nhìn Mạnh Tắc Nhiên. Vò rượu đã nằm trong tay lão!
“Sư phụ!” Lữ Phi Khanh đưa tay lên quệt mép, thở dài có vẻ bất đắc dĩ.
“Rượu ngon quá!” Mạnh Tắc Nhiên cười lớn, hít ngửi mùi hương rồi nâng vò rượu đưa lên miệng nốc ừng ực, trong giây lát đã uống xong hơn nửa vò, vỗ vỗ bụng, “Tiếc là quá ngọt, không đủ mạnh.”
“Rượu vốn ủ để cho phụ nữ uống.” Hàn Nhạn Thanh mặt nặng như chì, bước ra chế giễu, “Rượu mà mạnh quá thì tôi sợ lão uống say mất.”
“Vậy ngươi có còn nữa không?” Mạnh Tắc Nhiên vụt cái đã đến trước mặt nàng “Ồ”, lão ngưng thần nhìn Trần Sơ trên tay Lộng Triều, “Đứa bé này!”
Hàn Nhạn Thanh nhìn con gái bi bô vẫy vẫy cánh tay, nét mặt thoáng vẻ đau đớn. Có quá nhiều chuyện cùng trùng hợp xảy ra vào đúng thời gian nàng sinh nở đến nỗi Sơ Nhi đã bị tổn thương từ khi còn ở trong bụng mẹ, sau khi ra đời đành phải nhờ Tiêu Phương châm cứu hàng ngày mới không bị làm sao nhưng kinh mạch yếu ớt không thể tập võ.
“Dường như mạch của con bé này bị thương tổn, may là được Dung Nam điều trị nên mới hết lo, nhưng không thể tập võ.” Mạnh Tắc Nhiên đặt ngón tay vào mạch môn của Trần Sơ, vuốt râu trầm ngâm, “Nếu chiếu cố thích đáng thì trong vòng ba năm đến năm năm sẽ có thể khôi phục lại như người thường.”
“Đa tạ sư tổ!” Hàn Nhạn Thanh lấy lại vẻ tươi cười, khom người thi lễ.
“Ai là… sư tổ của ngươi?”, Mạnh Tắc Nhiên vung tay áo, tức giận hỏi. Lão lại nhìn sang Trần Mạch đang quấn trong tã lót, thật sự không nỡ, “Đứa bé này cũng được lắm. Ta cho A Giải thu nó làm đồ đệ, đồng ý cho ngươi và đám hạ nhân của ngươi ở lại sườn núi, được không?”
“Không được”, Quách Giải lắc đầu quầy quậy, cảm thấy choáng váng. Mặc dù hắn là du hiệp, không để ý lắm tới triều đình, nhưng thu hoàng tử duy nhất hiện nay của đương kim Thánh thượng làm đồ đệ thì… Hắn lắc đầu, cứ để cho tiểu sư thúc tài hoa rước lấy phiền toái đi.
“Sư phụ, Nhạn Nhi thật sự rất thông minh, nàng học y thuật cũng rất giỏi.” Tiêu Phương vội nói, hy vọng sư tôn quyết định lại.
Lộng Triều đang đứng bên quan sát bỗng mở to đôi mắt trong sáng nói, “Nhạn Thanh tỷ tỷ rất tốt!”
“Ủa Lộng Triều”, Hàn Nhạn Thanh mở to mắt ngạc nhiên, chạy đến trước mặt Lộng Triều, “Ngươi đã chịu gọi ta là tỷ tỷ, ta hạnh phúc quá.”
Lộng Triều bị lòng nhiệt tình của Hàn Nhạn Thanh dọa phát sợ, rùng mình một cái như trúng phải gió lạnh, lặng lẽ lui về phía sau mấy bước.
“Sư phụ!” Lữ Phi Khanh cũng không đành lòng, “Người đã thấy Dung Nam, A GIải, Lộng Triều đều nói giúp cho Trần cô nương, người đồng ý đi.”
“Không được…” Mạnh Tắc Nhiên ôm vò rượu, mặt mày giận dữ, “Bọn chúng có còn coi ta đây là sư phụ, sư tổ hay không?”
“Mạnh tiền bối”, Hàn Nhạn Thanh cũng không thèm để ý, “Tất nhiên là Nhạn Thanh phải ở cùng với các con, nếu tiền bối nhất quyết không chịu thu Nhạn Thanh thì đó là do Nhạn Thanh không có phúc khí. Nhạn Thanh xin được rời đi luôn, nhưng còn tiền rượu… xin tiền bối trả cho. Dù sao người cũng không phải sư tổ của Nhạn Thanh, Nhạn Thanh cũng không cần phải mời người uống rượu, đúng không?” Nàng nhìn Mạnh Tắc Nhiên trợn mắt há mồm trong giây lát rồi bảo, “Tiểu Hổ Tử, bế cháu lên.. Chúng ta chuẩn bị xuống núi. À phải rồi”, nàng xoay người lại, áy náy bảo Lộng Triều, “Lộng Triều, thật xin lỗi. Sư tổ của đệ quá ngoan cố, ta đành phải dẫn bà vυ' và đầu bếp đi theo. Nếu đệ còn nhớ tới ta thì hãy tới quân doanh Khâu Trạch tìm ta.”
Lộng Triều hoảng quá, ôm lấy Hàn Nhạn Thanh la lên, “Không được đi.”
“Đau quá.” Hàn Nhạn Thanh vội vàng đẩy Lộng Triều ra. Lộng Triều dùng sức mạnh quá, nàng không biết liệu có siết thành một vệt đỏ ở bên hông mình hay không.
Tiêu Phương vừa bực mình vừa buồn cười, khẽ quát: “Buông ra!” Hắn nhìn Lộng Triều phụng phịu buông tay ra, sau đó mới xoay người lại xin Mạnh Tắc Nhiên: “Sư phụ, người đã thấy tình cảm giữa Lộng Triều và Nhạn Thanh rất sâu sắc, người thật sự nhẫn tâm chia tách bọn họ hay sao?”
Mạnh Tắc Nhiên nhìn vẻ mặt cương quyết của Lộng Triều, lại nhìn non nửa vò rượu trong tay mình, thoáng chần chừ, cuối cùng nổi giận quát: “Ta mặc kệ, các ngươi muốn làm gì thì làm!”, sau đó ôm khư khư lấy vò rượu, phất tay áo đi vào trong phòng.
“Khụ, khụ!” Tiêu Phương che miệng ho khan hai tiếng, nói vẻ nghiêm túc, “Thế là sư tôn đã đồng ý. Nhạn Thanh, ta dẫn con đi bái kiến bài vị các tiền bối của bản môn.” Mọi người ngây ra, trên mặt lộ các biểu cảm khác nhau.
“Oa!”, Trần Mạch đang nằm trong lòng Hàn Nhạn Thanh bỗng nhiên khóc ầm ĩ, nàng vội vàng bế lên xem, “Mạch Nhi, sao vậy?”
…
Hoàng tử điện hạ quang vinh duy nhất của Đại Hán hiện tại đã tè ra quần.
“Có Lý má má thật tốt.” Hàn Nhạn Thanh ngả người trên chiếc giường duy nhất trong phòng, nhớ lại lúc luống cuống tay chân nửa canh giờ trước, cảm khái uống một hớp hồng trà pha gừng.
Sau khi sao được loại hồng trà cho Tiêu Phương, nàng liên tục chế ra đủ các loại trà cho mình dưỡng nhan sắc. Mặc dù Tang Hoằng Dương bảo những loại trà này bán nhất định kiếm được rất nhiều tiền nhưng nàng luôn cho rằng tiền đủ dùng là được rồi, quá tham lam sẽ khiến người khác đố kỵ, cho nên dành các loại trà vừa ngon vừa đẹp mắt, lại có nhiều công dụng khác nhau này cho người thân hưởng dụng.
Trần Mạch người dính đầy đất đang ngồi trên tấm thảm dày nặng trải trong thạch thất, không ngừng cười khanh khách. Lý má má vừa lau rửa cho nó vừa nói: “Tiểu thư và tiểu công tử, thiếu tiểu thư ở trên đỉnh núi, bọn hạ nhân chúng tôi lại ở sườn núi, nếu mai sau có chuyện gì xảy ra thì tôi chỉ sợ tiểu thư bận quá không đến được.”
“Vậy thì các người hãy theo ta lên ở trên đỉnh núi đi” Hàn Nhạn Thanh hừm một tiếng.
“Nói dễ nhỉ.” Quách Giải cười lạnh, “Sư tổ sẽ không chấp thuận. Muội không quên là ngay cả muội cũng vừa miễn cưỡng được lên núi sao.”
“Ông ấy có thể chịu đựng được bao lâu?” Hàn Nhạn Thanh không cho là như vậy. Qua một thời gian ngắn ở chung trên đỉnh núi, nàng hiểu được về vị sư tổ này, một thế ngoại cao nhân trong truyền thuyết đó nhưng cũng là một dạng ông lão tính tình thích trẻ con. Nàng dẫn tất cả đồ tử đồ tôn trừ Lữ Phi Khanh tới sườn núi, thử xem ông ấy chịu cảnh tịch mịch được bao lâu.
“Nhạn Thanh!” Tiêu Phương ngồi bên cạnh biết rõ ý trong lòng nàng nên lên tiếng chỉ dạy, “Không được quá bướng bỉnh.”
“Yên tâm, sư phụ!” Hàn Nhạn Thanh cười dịu dàng, “Con biết tôn sư trọng đạo mà.”
“Có quỷ mới tin được”, Tiêu Phương im lặng, mắng thầm.
“Tiểu thư, thức ăn xong rồi”, Lục Y đẩy cửa vào bảo.
Lộng Triều đột nhiên sáng mắt lên, từ bên nôi Trần Sơ lao vụt ra.
“Ừ, mang lên đây đi, bảo Quách đầu bếp lên cùng ăn luôn”, Hàn Nhạn Thanh đứng dậy phân công. “Phải rồi!”, nàng chỉ tay nói luôn: “Quách Giải, huynh mang một phần lên cho sư tổ và sư phó đi.”
“Ừm.” Quách Giải đáp một tiếng rồi đi luôn ra ngoài. Cả nhóm ngồi xuống, mọi người đã quen cách Hàn Nhạn Thanh chẳng phân biệt tôn ti nên cũng không so đo. Cả thạch thất ồn ào náo nhiệt, không khí cực kỳ vui vẻ.
“Đây là đùi gà của ta”, Thân Hổ thấy Lộng Triều gắp mất cái đùi gà mình đã chọn từ trước bèn kêu chí chóe. Lộng Triều liếc nhìn nó một cái, không trả lời mà ngoạm luôn hai ba miếng chén sạch cái đùi gà, “Trả cho ngươi này!”
…
Thân Hổ tức không nói nổi, đùng đùng ngồi xuống.
“Các người không được ăn hết của ta chứ.” Cửa bị đẩy ra, gió lạnh thổi bông tuyết bay vào khiến có người bị lạnh kêu toáng lên, Quách Giải mặc đồ đen đã quay trở lại.
“Có chuyện gì thế?” Hàn Nhạn Thanh đang dỗ con trai bảo bối uống canh, cảm giác thấy có người nhìn chòng chọc vào mình thì quay lại hỏi.
“Không có gì.” Quách Giải thản nhiên đáp, nhập bọn tranh nhau ăn nhưng không che giấu nổi ánh mắt suy tư.
Có lẽ cô gái này thật sự có thể tạo ra thay đổi, hắn nghĩ.
Mùa đông năm Nguyên Sóc thứ tư.
“Nhạn muội, thấy thư như gặp mặt. Mùa đông năm nay, quân Khâu Trạch kỵ đã được huấn luyện đến mức khiến huynh hài lòng. Muội ở ẩn cũng đã lâu rồi. Theo sử sách, sang năm sau sẽ xảy ra trận đại chiến Mục Nam. Vệ Thanh sẽ xuất binh từ thành Sóc Phương. Sóc Trung rất gần với Ngũ Nguyên, đây là cơ hội của chúng ta. Nhạn Nhi hãy gửi Mạch Nhi và Sơ Nhi lại cho Tiêu Phương, dẫn Thân Hổ xuống núi gặp huynh cùng bàn bạc, việc lớn sắp thành rồi.
Huynh: Duệ”
Trên đỉnh núi Đường Cổ Lạp Sơn.
Một trận gió Bắc tràn qua thổi những bông hoa tuyết bay lất phất rồi đậu xuống trên người Hàn Nhạn Thanh, nàng đưa tay khẽ phủi, gấp lá thư lại rồi cất vào trong ngực. “Nham Nhi!” Nàng vươn tay ra, con chim ưng tên gọi Tiểu Nham sà xuống đậu lên trên tay. Nó xù lông cổ, hung hăng giương móng vuốt hướng về phía người đang đi tới khiến Hàn Nhạn Thanh vội vàng dùng tay trái vỗ về.
“Nhạn Nhi à, hôm nay chúng ta ăn món gì đây?” Mạnh Tắc Nhiên lướt rất nhanh đến trước mặt nàng, dày mặt hỏi. Trên mặt tuyết phía sau lưng lão không hề có một dấu chân.
“Sư tổ hăng hái quá!” Hàn Nhạn Thanh nhướng mày cười cười rồi thả Tiểu Nham ra. Con chim ưng hót lên hai tiếng rồi bay về phía chân trời. Nàng xoay người lại tiếp tục đắp người tuyết. Ba năm rưỡi trước đây, Mạnh Tắc Nhiên đã bị nàng dùng rượu và thức ăn ngon đánh gục, rồi qua thời gian tiếp xúc lâu như vậy, nàng đã sớm hiểu rõ tính cách của lão nên cũng không cần làm ra vẻ tôn sư trọng đạo.
“Mẫu thân!” Một đứa bé chừng hai ba tuổi loạng choạng chạy trong tuyết, cầm trong tay một quả cầu gỗ gọi bập bẹ.
“Mạch Nhi!” Hàn Nhạn Thanh vội vàng dừng tay ôm lấy con trai, hôm một cái lên mặt nó, đón lấy quả cầu gỗ khảm vào vị trí con mắt của người tuyết rồi lui về phía sau mấy bước, kiêu ngạo ngắm nhìn tác phẩm của mình, tự khen, “Đẹp quá!”
“Chỉ là một người tuyết mà thôi!” Mạnh Tắc Nhiên bĩu môi cực kỳ coi thường, “Ngươi cho rằng mình cùng độ tuổi với con trai à?”
Hàn Nhạn Thanh nheo mắt, “Sư tổ!” Nàng khum tay đặt vào vành tai trái của mình, “Người nói gì, con nghe không được rõ.”
Mạch Nhi toát mồ hôi, vẻ mặt của mẹ mình bây giờ không khác gì con sói đội lốt bà ngoại trong câu chuyện cổ tích hàng ngày mẹ vẫn kể lúc đi ngủ.
“Ta không nói gì cả” Mạnh Tắc Nhiên lắc đầu quầy quậy. Qua gần ba năm sống cùng với nàng, lão đã hiểu rõ, Hàn Nhạn Thanh là người có vẻ ngoài như thiên sứ nhưng thực chất là ma quỷ. Nếu không hiểu câu gió chiều nào che chiều ấy thì chắc chắn những ngày tiếp theo sẽ bị hành hạ thê thảm.
Hàn Nhạn Thanh vui vẻ, dịu dàng hỏi, “Muội muội đâu rồi?”
“Muội muội ở trong phòng. Muội muội kêu đói bụng.”
Nàng đột nhiên cảm thấy nhói lòng, im lặng không nói gì.
“Mẫu thân bảo Quách thúc thúc nấu cơm ngay bây giờ. Tảo Tảo có nói nó muốn ăn cái gì không?”, Mạnh Tắc Nhiên ở bên cạnh vội vàng liều mạng mách nước. Trần Mạch đảo cặp mắt đen láy như hạt nhãn của mình vài vòng rồi rúc đầu vào lòng mẹ, “Mẫu thân, Tảo Tảo nói muốn ăn đùi gà rán, cá chép bọc lá sen nướng.”
“Tốt!” Mạnh Tắc Nhiên mừng rỡ, “Không hổ thái sư tổ thương ngươi như vậy.”
“Con đó”, Hàn Nhạn Thanh vừa bực mình vừa buồn cười véo mũi Mạch Nhi, “Mềm lòng như vậy thì sau này làm việc thế nào được!”
Trần Mạch chu môi, “Mẫu thân nói ‘Nhân từ đối với kẻ địch là tàn nhẫn với bản thân mình’, nhưng đây là thái sư tổ chứ đâu phải kẻ địch.
Hàn Nhạn Thanh tức cười, suy nghĩ một chút rồi dạy bảo, “Con nói rất đúng. Nhưng sau này Mạch Nhi còn phải suy nghĩ nhiều hơn, đặc biệt phải phân rõ kẻ địch và bạn bè, nếu không thì sẽ làm cho người mình yêu mến bị thương tổn đấy.”
“Dạ!”, Trần Mạch gật đầu thật mạnh, chỗ hiểu chỗ không.
“Được rồi. Tiểu Hổ Tử, bế Mạch Nhi đi tìm Tảo Tảo đi.” Hàn Nhạn Thanh vỗ vỗ vai Tiểu Hổ tử, mỉm cười nhìn cậu bế Trần Mạch bé nhỏ đi về phía Phi Tuyết các rồi quay đầu nhìn thẳng vào ánh mắt đầy vẻ suy tư của Mạnh Tắc Nhiên.
“Mạch Nhi còn nhỏ thế mà ngươi đã dạy nó những điều sâu sắc như vậy làm gì? Ngươi… rốt cuộc có thân phận thế nào?”
Hàn Nhạn Thanh cười nhạt, “Người đoán đúng.” Nàng lặng lẽ nhìn về phương xa dưới Đường Cổ Lạp Sơn, “Mạch Nhi có thân phận không phải tầm thường, con không thể ngăn cản nó bước vào trận chiến đấu mà nó phải thực hiện, vậy thì không thể làm gì khác hơn là giúp nó chuẩn bị thật tốt trước khi trận chiến bắt đầu… Sư tổ,” Lần đầu tiên nàng yên lặng, bình tĩnh, lạnh lùng nhìn Mạnh Tắc Nhiên ở cự ly gần như vậy, “Người biết không? Con đã từng bị tổn thương, cho nên… không bao giờ… muốn nhìn người mình yêu mến bị tổn thương. Cả cuộc đời này, con sẽ nỗ lực bảo vệ những người con yêu thương.”
Đôi mắt bình thường luôn mang vẻ đùa cợt của Mạnh Tắc Nhiên thoáng ánh lên vẻ xót xa chỉ trong một khoảnh khắc mà Hàn Nhạn Thanh không bắt kịp rồi biến mất, lại khôi phục dáng vẻ bình thường, “Ngươi muốn làm thế nào thì cứ làm thế ấy, trước hết hãy mang đùi gà rán tới đây cho ta.” Lão cất bước trở về phòng, “Cho dù như thế nào…” đột nhiên hơi dừng bước nói thêm, “Chúng ta luôn ủng hộ ngươi.”
Hàn Nhạn Thanh sửng sốt, bất giác khẽ mỉm cười. Hóa ra ông lão thường hay tức giận mắng nhiếc thế gian cũng từng có một quá khứ, nếu không thì làm sao đạt được tới cảnh giới thông tuệ mà thuần phác như thế này chứ? Ở trên một ngọn núi quanh năm tuyết phủ xa cách thế gian, gặp được một vị sư tổ như vậy, đối với nàng là một loại hanh phúc, nhờ đó có thể sống vô lo vô nghĩ hơn ba năm trời.
“Tiểu thư?” Lục Y từ trong bước ra gọi. Hồi ba năm trước, Mạnh Tắc Nhiên bị thức ăn ngon cám dỗ nên buộc phải đồng ý để cho đám đầu bếp được ở lại trên đỉnh núi. Tiếp đó Hàn Nhạn Thanh lần lượt đưa cả Lục Y, Lý má má lên hết đây, biến thánh địa luyện công lạnh lẽo buồn tẻ này thành một đại gia đình ồn ào náo nhiệt, thậm chí còn mở rộng cả căn nhà đá và đặt tên là Phi Tuyết các. Mặc dù Mạnh Tắc Nhiên thỉnh thoảng có đôi câu oán hận nhưng nàng biết thật ra lão không ghét những đổi thay này.
“Tiểu thư, hôm nay tôi xuống núi mua thức ăn, Lê đại thúc nói Dung ma ma nhắn lại rằng gần đây liên tiếp xảy ra những biến động khác thường ở biên giới Hán Hung, rất nhiều khả năng chiến tranh lại sắp xảy ra”, Lục Y báo tin.
Lê Bình là người mà Nhạn Thanh bố trí ở Đường Cổ Lạp Sơn để liên lạc với tổ chức tình báo, bình thường vẫn sinh sống bằng nghề đồ tể và truyền tin tức giữa Dung ma ma và Hàn Nhạn Thanh. Kể từ khi ở trên đỉnh Đường Cổ Lạp Sơn, mấy người theo hầu nàng cũng học một chút khinh công mới có thể ra vào tự do. Ra vào Phi Tuyết các đều là cao nhân nên Hàn Nhạn Thanh cũng không có ý giấu giếm bọn họ. Người của Triêu Thiên môn biết Hàn Nhạn Thanh đang làm một số việc bí mật, thậm chí mỗi quý xuống núi một lần nhưng đều biết ý không hỏi han gì. Chỉ có Tiêu Phương và Quách Giải là biết một vài lý do đại khái.
Xem ra mình nhất định phải xuống núi một chuyến rồi. Hàn Nhạn Thanh nghĩ như vậy lúc đi vào Phi Tuyết các.
“Mẫu thân, ôm con nào.” Tiểu Tảo Tảo mặc áo may từ da cáo trắng lật người trên giường đưa hai tay ra đòi. Trần Sơ vừa ba tuổi, Hàn Nhạn Thanh đặt tên mụ cho nó là Tảo Tảo, bởi vì như cách nàng giải thích với mọi người thì chữ “Sơ” có nghĩa là sớm. Cái tên này rất dễ gọi, người mẹ đã gọi con như vậy thì mọi người cũng vui vẻ gọi theo.
“Tảo Tảo!” Hàn Nhạn Thanh chợt thấy trong lòng mềm nhũn, vội vàng ôm lấy con gái rồi hỏi, “Tảo Tảo hôm nay có lạnh không?”
Trên Đường Cổ Lạp Sơn, ngoài Trần Tảo Tảo vì bị tổn thương kinh mạch không thể luyện võ nên sợ lạnh, còn thì ngay cả ca ca Trần Mạch cùng ba tuổi đã luyện tâm pháp chống lạnh từ nhỏ. Hàn Nhạn Thanh thương con gái nên bắt Quách Giải ở trong núi tuyết ba ngày ba đêm bắt được một con cáo tuyết may thành áo choàng, để thêm lò than trong phòng Tảo Tảo rồi mới an tâm cho con gái ở lại trên đỉnh Đường Cổ Lạp Sơn.
“Không lạnh!”, Tảo Tảo ngọt ngào đáp. Thấy mẫu thân ăn mặc phong phanh, khuôn mặt nhỏ nhắn xinh xắn nhăn lại, “Mẫu thân lạnh không?”
“Hi hi”, Hàn Nhạn Thanh vô cùng vui vẻ, cọ má vào khuôn mặt nhỏ nhắn của con gái, “Mẫu thân cũng không lạnh.”
“Hai mẹ con tiểu thư và thiếu tiểu thư đúng là quấn quýt quá”, Lục Y đi vào, mỉm cười nói, “Tiêu tiên sinh nói đã đến thời gian châm cứu cho thiếu tiểu thư.”
“Không thích đâu”, Tảo Tảo hét toáng lên, rúc đầu vào lòng Hàn Nhạn Thanh. Hàn Nhạn Thanh bật cười đẩy con gái ra, “Con không ngoan ngoãn đi châm cứu là sư công không vui đâu.”
“Sư công à?” Tảo Tảo nhớ tới khuôn mặt trong sáng của sư công, bắt đầu do dự, “Nhưng sau khi châm cứu phải uống thuốc đắng lắm”, nó phụng phịu.
“Có câu ‘Thuốc đắng dã tật’. Thuốc này sẽ điều dưỡng cho thân thể Tảo Tảo tốt lên. Hơn nữa sư công đã cho thêm cam thảo, sẽ không đắng lắm đâu”, Hàn Nhạn Thanh dỗ dành, “Uống thuốc rồi chúng ta sẽ ăn cơm, hôm nay có đùi gà mà Tảo Tảo thích nhất đấy.”
“Vâng”, Tảo Tảo nín khóc mỉm cười, gật đầu. Hàn Nhạn Thanh bé nó đến y phòng của Tiêu Phương, đứng xem hắn châm cứu. Sau khi Tảo Tảo chìm vào giấc ngủ do tác dụng của thuốc mê mà nàng chiết xuất ra, nàng hỏi, “Sư phụ, cơ thể Tảo Tảo rốt cuộc như thế nào?”
“Con không phải lo lắng”, Tiêu Phương đứng dậy thu châm, “Đã điều trị suốt ba năm rồi, không còn đáng ngại nữa. Chờ hết một tháng trị liệu cuối cùng thì cũng không cần châm cứu liên tục, chỉ uống thuốc là đủ.”
“Vâng, như vậy thì con cũng yên tâm.” Hàn Nhạn Thanh cụp mắt, “Nếu không thì con cũng khó lòng ra đi được.”
“Con lại muốn xuống núi?” Tiêu Phương chợt dừng tay, khẽ miết vào hòm thuốc, “Chẳng phải vừa mới xuống núi hai tháng trước sao?”
“Dung ma ma báo tin nói có việc lớn sẽ phát sinh, con chuẩn bị dẫn Thân Hổ xuống núi xem thế nào, lần này có khả năng sẽ đi rất lâu.” Hàn Nhạn Thanh đứng dậy chắp tay, “Phiền sư phụ chăm sóc Mạch Nhi và Tảo Tảo giúp cho.”
“Con… không cần khách sáo với ta như vậy.” Tiêu Phương thở dài, “Đã nói với mọi người chưa?”
“Vẫn chưa nói.” Hàn Nhạn Thanh cúi đầu, “Dĩ nhiên con muốn báo cho sư phụ trước.”
“Võ công của con tuy tiến bộ nhanh nhưng lại không được tinh thuần.”
“Con biết, nhưng như vậy cũng đủ để bảo vệ tính mạng rồi.”
“Tảo Tảo sẽ khóc đấy.”
Nàng trầm tư một lúc lâu, “Con biết, nhưng… không có cách nào khác.”
“Ngày mai con phải dẫn Thân Hổ xuống núi”, nàng chọn lúc mọi người ngồi vào bàn ăn để mở lời, thấy mọi người cùng ngẩn cả ra thì trong lòng bỗng nhiên dâng lên một nỗi bi thương man mác không nguôi.
Thân Hổ chậm rãi ngẩng đầu lên, trông thấy vẻ mặt thoáng chút ưu thương nhưng kiên quyết của tỷ tỷ thì hiểu ngay.
“Mẫu thân, chúng con cũng muốn đi.” Mạch Nhi không cảm nhận được nỗi u buồn của người lớn, gắng ngước khuôn mặt bé nhỏ nhìn lên, vui vẻ đòi theo.
“Không được.” Nàng trả lời hơi gắt gỏng khiến Tảo Tảo giật bắn mình sợ hãi. “Lần này chừng mấy ngày thì mẫu thân về?”, Tảo Tảo giơ tay lên đếm ngón, bập bẹ hỏi.
“Mẫu thân không biết”, nàng ngồi sụp xuống ngang bằng với con gái, mỉm cười trả lời.
Tảo Tảo không chịu, hơi ngẩn ra, “Trước kia mẫu thân đều đi chưa tới mười ngày là trở về mà.” Nó khẽ quay đầu đi, trong con ngươi đen trắng rõ ràng thoáng ánh lên vẻ nghi hoặc trông rất đáng yêu, “Mỗi lần mẫu thân không mang theo Tảo Tảo và ca ca đi ra ngoài thì Tảo Tảo và ca ca ngày nào cũng ở nhà đếm ngày mẫu thân trở về, đếm gần tới mười thì mẫu thân đã trở về rồi.
“Vậy con đừng đếm nữa.” Nàng nhắm mắt lại, nước mắt ứa ra.
“Mẫu thân đừng khóc.” Mạch Nhi sán tới, đưa cánh tay nhỏ bé mềm mại lau nước mắt tèm nhem trên mặt nàng, “Hay khóc không phải là nam tử hán.” Nó cũng không nghĩ rằng mẹ mình không phải là nam tử hán, cố gắng suy nghĩ một chút rồi hỏi, “Mẫu thân có chuyện rất quan trọng sao?”
“Đúng vậy, mẫu thân có chuyện rất quan trọng.”
“Mẫu thân cứ yên tâm đi đi, con và Tảo Tảo sẽ ngoan ngoãn nghe lời sư phụ và thái sư công, chờ mẫu thân trở về.”
“Ừ”, Hàn Nhạn Thanh cảm động, có con trai, con gái như thế thì còn mong gì hơn. Nàng gạt nước mắt nói âu yếm, “Tảo Tảo, phải nghe lời ca ca biết không.”
“Tảo Tảo nghe lời.” Tảo Tảo cũng không quá hiểu chuyện nhưng theo bản năng cảm giác được sự lo lắng của mẫu thân nên đáp ngay.
“Nhạn Nhi, con và Tiểu Hổ Tử chờ ta ở bãi tuyết sau nhà.”, Tiêu Phương đứng bên cạnh nhìn với vẻ nặng nề, nhẹ nhàng nói rồi xoay người đi vào phòng.
“Võ công luyện đến cuối cùng thì dựa vào kinh nghiệm chứ không phải ngộ tính”, Tiêu Phương đứng giữa sân tuyết sau Phi Vân các nói, “Nhạn Nhi, con có ngộ tính cao nhưng lại không chịu khó luyện công, thiếu hụt thực chiến. Tiểu Hổ Tử, ngộ tính của con không tốt như tỷ tỷ nên cần chăm chỉ luyện tập, hơn nữa cũng thiếu hụt thực chiến. Giờ ta sẽ cùng lúc đấu với hai con, không được xem ta là sư phụ mà phải coi ta như địch nhân thật sự cần phải chống lại. Phải nhớ rằng ta sẽ không nương tay đâu.” “Lộng Triều”, hắn quay đầu bảo, “Kiếm!”
“Dạ!” Lộng Triều đang ở trong tàng cây cổ thụ ngàn năm bên cạnh cất tiếng đáp rồi ném xuống ba thanh kiếm bằng đồng thông thường. Hàn Nhạn Thanh cầm lên thử ước lượng thì thấy không thuận tay như thanh nhuyễn kiếm[1] Tài Vân mà sư phụ thường đưa cho nàng sử dụng.
[1] Nhuyễn kiếm: Loại kiếm được làm bằng thép tốt, có độ đàn hồi cao, lưỡi kiếm rất dẻo, khi sử dụng lưỡi kiếm duỗi thẳng ra, lúc bình thường lại có thể uốn cong làm thắt lưng.
Tiêu Phương khẽ vung thanh trường kiếm, mơ hồ như phát ra tiếng sấm động rồi nhanh như chớp đánh tới hai người. Hàn Nhạn Thanh sợ hết hồn, vội vàng giơ kiếm ngăn lại, chỉ nghe “keng” một tiếng, kiếm trong tay đã bị bạt ra, lòng bàn tay hơi tê dại. Thân Hổ bên cạnh nàng cũng không khác gì. Lúc này nàng mới phát hiện hôm nay sư phụ thể hiện sự nóng nảy rất rõ ràng, không giống bộ dạng ung dung thường ngày.
“Ngày khác trên chiến trường không ai dừng lại chờ các con khôi phục đâu. Đánh tiếp đi!”, Tiêu Phương lạnh lùng nói.
Hàn Nhạn Thanh và Thân Hổ liếc mắt nhìn nhau, đồng thời tách sang hai bên, song kiếm tỏa thành một quầng sáng bao bọc Tiêu Phương.
“Cũng tạm được đấy”, Tiêu Phương thản nhiên nói, đồng thời cả người bốc thẳng lên như thể chim hạc bay vυ't trời xanh, thân hình bất động thẳng tắp lao nhanh như làn khói, trên không trung cất tiếng thét dài, kiếm quang lóe lên như ngàn vạn ánh sao trời, đồng thời đánh về phía hai người Trần, Thân.
Hai bóng người bỗng tách ra rồi quay ngoắt trở lại, vung tay phải thành hoa kiếm, trong hư có thật, trong thật có hư, một đâm dưới nách, một đâm bên hông, tưởng chừng sắp đánh trúng thì bỗng nghe Tiêu Phương cười lạnh, xoay kiếm ngang người. “Keng keng” hai tiếng, mũi kiếm đang xoáy tít bỗng nhiên bị hắn dùng thân kiếm chặn đứng, một luồng lực đạo cực mạnh theo mũi kiếm áp tới khiến hai người tức thì khốn đốn. Hàn Nhạn Thanh nhanh chóng nắm bắt tình thế nên lập tức buông tay. Thân Hổ nổi tính bướng bỉnh, mặt đỏ bừng bừng bước dấn tới muốn đoạt lại kiếm.
“Tiểu Hổ Tử!”, Hàn Nhạn Thanh kinh hãi la lên. Tiêu Phương cười nhẹ, tay thu rồi lại nhả kình lực khiến Thân Hổ chân đứng không vững, loạng choạng lùi về sau mấy bước, ngã phịch xuống.
Tiêu Phương hất hai thanh kiếm dưới đất lên, nhướng mày, “Đánh tiếp.”
Hàn Nhạn Thanh cau mày, nàng không biết sư phụ rốt cuộc uống nhầm thuốc gì nhưng phát hiện thấy tâm trạng nóng nảy của hắn nên dành phải liều mình “chiều quân tử.”
Đến lúc mặt trời bóng ngả về tây thì Tiêu Phương cuối cùng cũng thu kiếm lại bảo: “Được rồi!” Hàn Nhạn Thanh và Thân Hổ nhìn nhau cười khổ. Tiêu Phương không hề quay đầu nhìn lại mà đi thẳng về phòng.
“Lộng Triều, đệ còn đó không?”, Nhạn Thanh cao giọng gọi.
Lộng Triều từ trên cây bay xuống, vẻ mặt rầu rĩ.Quyển 1 - Chương 13: Lầu Mãn Phong sắp nổi bão giôngNếu có ai tới thành Ngũ Nguyên hỏi thanh lâu nào tốt nhất thì cả mười người đều nói như một rằng đó chính là lầu Mãn Phong. Lầu Mãn Phong của thành Ngũ Nguyên với cơm ngon rượu ngọt, ca múa xuất sắc, phục vụ chu đáo nổi tiếng khắp biên thành, lão bảo tên là Dung nương. Mãn Phong được chia làm lầu Phong và lầu Mãn. Lầu Phong tiếp đãi khách quý và người đọc sách còn lầu Mãn thì tiếp đãi quân nhân và thị dân, mỗi nơi một nhiệm vụ không xâm phạm lẫn nhau. Các cô nương trong lầu, nếu có tài có sắc thì ở lầu Phong, nếu bình thường thì ở lầu Mãn, được đãi ngộ tốt hơn nhiều so với các thanh lâu khác cho nên rất nhiều gái thanh lâu kỳ vọng được gửi thân vào lầu Mãn Phong. Vì vậy cũng không cần bắt gái nhà lành làm kỹ nữ để gây nhiều tội nghiệt.
Một hôm, lầu Phong nghênh đón hai khách thanh niên, một người chừng độ mười bốn, mười lăm tuổi, nước da ngăm đen, cặp mắt vô cùng cơ trí, chuyển động nhanh như chớp. Người còn lại phe phẩy một cây quạt làm từ sợi vàng, dáng vẻ như người đọc sách, tư thế ung dung.
“Chúng ta muốn tìm Mi Vũ”, người áo trắng khép quạt mỉm cười nói, ném ra một xâu tiền Tam Thù.
“Có ngay!” Kẻ hầu mừng rỡ đón lấy, “Hai vị đi hướng bên này, đến Phù Dung hiên chờ một chút, Mi Vũ cô nương lập tức tới ngay.”
Hàn Nhạn Thanh dẫn Thân Hổ lên lầu hai, tiến vào nhã thất. Nàng gấp quạt lại, quan sát bức tường thành màu đỏ. Chỉ lát sau, một cô gái ôm đàn Không[1] vén rèm đi vào, khẽ khàng thi lễ. “Chả trách rằng đêm qua nến trắng báo hỉ, sáng nay chim tước chuyền cành. Trần công tử, người nói xem đã bao lâu không tới rồi?”
[1] Loại đàn thời xưa, ít nhất có năm dây, nhiều nhất có hai mươi lăm dây.
Thân Hổ đỏ bừng mặt. Cô gái vừa vào có một đôi mắt quyến rũ, dung nhan không bằng Hàn Nhạn Thanh nhưng lại có một dáng vẻ vừa thùy mị vừa đa tình, quả nhiên không hổ với tên.
“Mi Vũ tỷ tỷ”, Hàn Nhạn Thanh dùng quạt nâng cằm cô gái lên trêu chọc, “Sau khi từ biệt hai tháng trước đây, quả nhiên tiểu sinh nhung nhớ tỷ tỷ đến nỗi trà không muốn uống, cơm không buồn ăn, không thể chịu nổi bèn dối gạt người nhà lập tức đi tìm tỷ tỷ.”
Mi Vũ thay đổi vẻ mặt “Công tử, hãy đi theo tôi!” Nàng ta dẫn Hàn Nhạn Thanh đi xuyên qua lầu trước tới phòng của mình, sai bảo nha đầu Phi Hoằng, “Pha một bình trà mới!”
Phi Hoằng cúi đầu lui ra, Mi Vũ chỉnh lại sắc mặt hành lễ với hai người, “Công tử mạnh giỏi, Thân thiếu gia mạnh giỏi.”
“Được rồi”, Hàn Nhạn Thanh thu quạt về hỏi, “Dung nương đâu?”
“Ma ma đi Vân Trung rồi. Công tử biết đấy, ma ma đang mở một thanh lâu nữa ở Vân Trung, đặt tên là Ngọc Đường Xuân, ước chừng cũng giống kiểu lầu Phong của lầu Mãn Phong này.”
“Ừm”, Hàn Nhạn Thanh gật đầu chậm rãi. Sau khi lầu Mãn Phong ổn định kinh doanh, nàng có ý bảo Dung nương khống chế thêm một hai thanh lâu ở các thành thị đông dân cư. Để không cho người ta phát hiện quan hệ giữa những thanh lâu này với lầu Mãn Phong, lầu Mãn Phong ở những địa phương khác sẽ được đổi tên và kinh doanh độc lập. Ở mỗi thanh lâu đó sẽ lựa chọn ra một vài cô nương, người hầu cơ trí để dò la tin tức. Trước mắt vẫn chưa phát hiện ra điều gì không ổn.
“Nhớ nói lại với Dung nương”, nàng suy nghĩ một chút rồi dặn dò, “Chúng ta làm việc phải thận trọng một chút, không phải bất đắc dĩ thì không được xung đột chính diện với bất kỳ thế lực nào.”
“Chúng tôi cũng hiểu.” Mi Vũ tủm tỉm cười, khuôn mặt rực rỡ quyến rũ đến nỗí Hàn Nhạn Thanh là con gái cũng cảm thấy không cưỡng nổi, phải khẽ quay mặt đi. Đúng vào lúc này, Phi Hoằng mang trà vào dâng lên ba người, xuýt xoa, “Trà do công tử sao quả nhiên được mọi người rất thích, đáng tiếc là không cho chúng tôi mang ra đãi khách, nếu không thu nhập từ nước trà hạng nhất cũng không thua kém rượu trái cây.”
Mi Vũ sầm mặt, “Công tử làm việc tất có đạo lý của công tử, đâu đến lượt cô nói ra nói vào.”
“Không việc gì”, Hàn Nhạn Thanh mỉm cười, “Mi Vũ cũng đừng nghiêm khắc quá.” Nàng quay sang ôn hòa nói với Phi Hoằng bị hù dọa đến tái mặt, “Trong lầu toàn việc cơ mật nên không phải cứ nổi danh là tốt. Duy trì hiện trạng đã là không tệ rồi.”
“Tạ ơn Trần công tử”, Phi Hoằng quỳ gối hành lễ, màu đỏ ửng lan ra khắp gương mặt, “Tôi ra canh cửa cho công tử và cô nương, sẽ không có một ai vào được.” “Công tử thật thủ đoạn”, Mi Vũ nhướng mi, lạnh lùng nhìn Hàn Nhạn Thanh nhưng mặt lại có vẻ đùa cợt, “đã khiến cho nha hoàn thân thiết của tôi phải tâm phục.”
“Đó cũng là do cô ngầm đồng ý”, Thân Hổ ôm kiếm trước ngực nói vẻ thản nhiên, không chút động lòng. Sau phút ngây ngất ban đầu, cậu ta vẫn luôn duy trì vẻ mặt lạnh băng.
“Được rồi”, Hàn Nhạn Thanh không muốn dây dưa nhiều ở vấn đề này, ‘Tình hình biên giới gần đây thế nào?”
“Rất khẩn trương.” Mi Vũ thu hồi ánh mắt nhìn Thân Hổ trừng trừng giận dữ, khôi phục phong độ mỹ nữ xinh đẹp quyến rũ, nghiêm mặt nói, “Bề ngoài thì nhiều lần quấy nhiễu thành Sóc Phương, nhưng thực tế thì quá nửa những vụ hỗn loạn gần đây ở các quận Thượng Cốc, Ngư Dương, Định Tương đều do người Hung Nô gây ra.”
“Ngoài ra, có người trong quân đội ở Sóc Phương nói rằng sắp tới Hoàng thượng có ý phát động lại chiến tranh.”
“Ồ?” Hàn Nhạn Thanh hứng thú, “Lầu Mãn Phong có thể lấy được tin tức quân sự?”’
“Đây chẳng phải là dụng ý mà công tử khi mua lại lầu Mãn Phong ư?” Mi Vũ cười lạnh nhưng vẫn giải thích, “Vân Ca cô nương của quán Ỷ Vân tại Sóc Phương là nhân tình của một giáo úy ở đó. Trước đây mấy hôm, viên giáo úy đã tâm sự khi lên giường với Vân Ca rằng không biết có còn sống sót trở về gặp nàng hay không. Vân Ca lanh lợi thừa cơ hỏi được.”
“Ồ!” Hàn Nhạn Thanh hơi ngượng ngùng, mặc dù những tin được coi là cơ mật ở thời đại này nhưng đối với những người đến từ tương lai như bọn họ thì thật sự chẳng là cái gì. “Còn có tin tức gì nữa không?” Nàng hỏi nhưng không hy vọng quá nhiều.
“Tin này…”, Mi Vũ bỗng có vẻ lưỡng lự, “Cũng không biết có phải là tôi đa nghi hay không, mấy hôm trước có khách tới lầu Mãn Phong được tôi tiếp đãi, trên ngực của hắn có xăm hình sói.”
“Cô nghi hắn là người Hung Nô?” Hàn Nhạn Thanh đã hiểu ra, Người Hung Nô coi sói là thần thú, đúng là có khả năng này.
“Nhưng từ hình đáng đến lời nói của hắn đều giống như người Hán.”
“Không sợ nhất vạn, chi sợ vạn nhất. Ta không có sự trùng hợp như thế. Có phải hay không, cứ điều tra thêm sẽ biết.” Hàn Nhạn Thanh mỉm cười, đáy mắt hiện lên vẻ mập mờ khó nhận thấy. Nàng rất nhanh che giấu đi rồi hỏi, “Hắn có còn quay lại nữa không?”
“Hắn nói mấy ngày nữa sẽ quay lại.”
“Có biết hắn đi đâu hay không?”
“Hẳn không nói, chẳng qua…”, Mi Vũ nhíu mày, “Thị vệ của hắn nói lúc rời đi là lên đường đi Khâu Trạch hay sao đó?”
“Khâu Trạch”, Hàn Nhạn Thanh chau mày, nảy sinh một dự cảm xấu.
“Dạ, hơn nửa còn nói bằng giọng Đại Uyển.”
“Tiểu Hổ Tử, chuẩn bị ngay. Chúng ta lập tức lên đường tới Khâu Trạch”, Hàn Nhạn Thanh ra lệnh.
Thân Hổ nhận lệnh rời đi.
“Xem ra Trần công tử muốn đi rồi.” Mi Vũ che miệng cười một tiếng, “Mi Vũ có thể hỏi công tử một vấn đề hay không?”
Hàn Nhạn Thanh xoay ngươi lại nhìn nàng ta.
“Công tử rốt cuộc là làm việc cho ai?”
“A Vũ hỏi vấn đề thật kỳ quái”, Hàn Nhạn Thanh mỉm cười quay đầu lại, trong mắt ánh lên những tia tối thẫm vừa thần bí vừa mê hoặc, “Ta không thể làm việc vì bản thân mình sao?”
“Người giấu giếm được nha đầu ngốc Phi Hoằng kia nhưng không lừa gạt được Mi Vũ nhiều năm lăn lộn trong chốn phong trần.” Cô gái không vì thế mà đổi ý, mệt mỏi gạt mấy sợi tóc, mỉm cười nói, “Trần công tử thực ra là nữ giả nam trang. Một người con gái yếu đuối vô duyên vô cớ dính dáng vào việc tranh đấu ở biên ải, nếu không có lý do thi có ai tin?”
“A Vũ quả là thông minh”, Hàn Nhạn Thanh cúi đầu, che giấu ánh mắt hơi có vẻ mỉa mai, “Ai bảo phụ nữ thì phải dựa vào cái gì dó mới có thể tồn tại?” Nàng chậm rãi giơ tay lên, đặt vào ngực mình, “Ta chỉ làm theo lý tưởng ở trong này. Ta hy vọng có một ngày thế giới này sẽ hòa bình, yên ấm, tất cả mọi người sống trong trời đất đều có thể sinh hoạt yên ổn, tươi cười vui vẻ. Ta hy vọng có một ngày Hung Nô trông thấy người Hán là khϊếp đảm, không dám tùy ý xâm phạm biên giới chúng ta gây chiến tranh nữa. Ta hy vọng có một ngày công bằng, chính nghĩa sẽ là tín ngưỡng của mỗi người, lập công sẽ được thưởng, giúp người sẽ nhận được báo đáp, gϊếŧ người sẽ bị vương pháp chế tài… Ta biết điều này là rất khó, rất khó.” Nàng nhướng mày, cố ngăn vẻ xúc động trên gương mặt Mi Vũ. “Vậy đó!”, nàng nói giọng thật thấp, “Ít nhất có thể làm được chút nào hay chút ấy.”
Bao nhiêu trong những lời này là thật từ đáy lòng, bao nhiêu là đổi lấy sự trung thành của cô gái xinh đẹp trước mặt, chính bản thân Hàn Nhạn Thanh cũng không biết. Lúc nhỏ nàng đã tin tưởng vào điều này, nhưng từ khi cha nàng vứt bỏ vợ con đến khi trưởng thành nàng lại ghét cay ghét đắng nó. Mãi đến thời điểm nói ra mấy lời vừa rồi, nàng mới phát hiện ra rằng ở sâu trong đáy lòng, nàng vẫn mong có thể tin tưởng được điều này. Mặc dù hơn một nửa những việc nàng làm sau này không thể phù hợp với lời nói hôm nay.
“Ta phải đi rồi”, Hàn Nhạn Thanh cáo từ, phân công việc cuối cùng, “Vẫn như cũ, thay ta cố gắng hết sức hỏi thăm về một cô gái tên là Quý Đan Tạp, có lẽ… còn có tên khác nữa. Tuy các cô chưa chắc đã biết nàng ấy nhưng nàng ấy nhất định có thể nhận ra dấu vết của ta.”
“Mi Vũ biết rồi.” Cô gái khom người thi lễ, “Công tử đi cẩn thận.”
Hàn Nhạn Thanh đẩy cửa bước ra ngoài. Phi Hoằng đứng chờ ngoài cửa cách đó không xa, thấy nàng liền khẽ mỉm cười, “Công tử phải đi rồi sao?”
“Ừm”, Hàn Nhạn Thanh khẽ gật đầu. Sự si mê vô lý của tiểu nha đầu này khiến nàng khá nhức đầu, có ý muốn nói thẳng ra để cho cô nàng dứt bỏ hết tình ý đó đi, nhưng lần này thời gian cấp bách, chỉ có thể thế thôi.
“Qua nhiều năm như vậy, Mi Vũ cảm thấy vị Trần công tử này của chúng ta thế nào?” Trong phòng, một phụ nữ áo lam đẩy cửa từ mật thất bước ra, trên mặt đã xoá hết nếp nhăn, không còn trẻ tuổi mà cũng không cho thấy là đã già, chính là Dung ma ma, tú bà của lầu Di Hồng năm xưa – tiền thân của lầu Mãn Phong hiện giờ.
“Ma ma!”, Mi Vũ cất tiếng, “Ma ma ở bên cạnh, không phải đã nhìn thấy tất cả sao? Trần công tử là người rất tốt.”
“Con đó”, Dung nương cười, không so đo việc nàng tránh nặng tìm nhẹ, “Xét theo việc đã làm trong mấy năm qua thì vị Trần công tử này thật sự không phải là nhân vật đơn giản. Nhưng ánh mắt nàng ta trong sáng ngay thẳng, làm việc dù không lỗi lạc nhưng cũng không làm chuyện mất nhân cách, tuy lập trường không rõ nhưng cũng không có xung đột với chúng ta. Chủ nhân nói rằng tạm thời cứ cung cấp tin tức cho nàng ta. Chúng ta chấp nhận làm việc cho nàng ta cũng được.”
“Bản thân con rất thích nàng ta”, Mi Vũ cười nói, “Bàn về tầm nhìn, cách làm việc, thì vị Trần công tử này cũng có chỗ tương tự như chủ nhân của chúng ta. Có thể nói, tốt hơn hết là không nên chống lại nàng ta.”
Đúng vào lúc Hàn Nhạn Thanh dẫn Thân Hổ chạy thẳng một mạch tới Khâu Trạch thì Liễu Duệ đang dẫn mấy người thân binh cưỡi ngựa ra ngoài quân doanh Khâu Trạch.
“Liễu đại nhân, năm ngoái ngài trang bị cho chúng ta mạch đao[2], mặc dù trông không đẹp bằng kiếm nhưng ra chiến trường lại dễ sử dụng hơn kiếm nhiều, Liễu đại nhân này, ngài suy nghĩ thế nào mà làm ra được loại mạch đao này vậy?”
[2] Mạch đao: Một loại đao của Trung Quốc, có phần cán rất dài.
“Ta đâu có làm ra. Việc ta quản chính là cầm quân đánh giặc, còn việc chế tạo binh khí đương nhiên là của xưởng quân khí nghiên cứu làm ra.” Liễu Duệ bình thản giục ngựa, vỗ vào gáy Tiết Thực: “Mấy hôm trước, ta đã báo lên triều đình rồi.”
“Thế à!” Tiết Thực gật đầu, không hề hoài nghi về những gì Liễu Duệ nói, “Xưởng quân khí thật là lợi hại.”
Năm đó không biết Tang Hoằng Dương ở kinh thành đã dùng phương pháp gì mà thuyết phục được Hán Vũ Đế Lưu Triệt phân chia cho Liễu Duệ một phần quyền khai thác mỏ sắt mới ở Ngũ Nguyên. Liễu Duệ và Hàn Nhạn Thanh liền xây dựng một xưởng quân khí ở gần quân doanh Khâu Trạch, chiêu mộ không nhiều người do yêu cầu bí mật và trung thành tuyệt đối nhưng toàn là tinh anh trong giới thợ rèn của Ngũ Nguyên. Hai người cùng với Tang Hoằng Dương ở chốn kinh thành xa xôi nghiên cứu làm ra mấy bản vẽ binh khí rồi chuyển cho đám thợ thi công. Những năm này, mặc dù bọn họ yêu cầu không cao nhưng đám thợ cũng lần lượt chế tạo ra các loại binh khí tiên tiến như mạch đao, cung nỏ. Sản phẩm làm ra vẫn luôn được cất kín, tin tức bị giấu nhẹm đi, mãi đến nửa năm trước thì Liễu Duệ mới ra lệnh chế tạo số lượng lớn để dùng trong thao luyện hàng ngày tại quân doanh.
Trên đường từ quân doanh Khâu Trạch đến xưởng quân khí phải đi qua một hẻm núi cực dài, dân bản xứ gọi là Nhất Tuyến Thiên, theo đó có thể thấy rằng nó rất hiểm trở, Ngũ Nguyên gần với Hung Nô, tính cách dân chúng dũng mãnh, mỗi năm gặp nạn đói sẽ có không ít người trốn vào rừng núi làm giặc cướp đoạt tài vật của thương gia và lữ khách đi qua. Nhất Tuyến Thiên chính là nơi có nhiều phỉ hoạt động nhất. Kể từ khi tiếp quản quân doanh Khâu Trạch, Liễu Duệ đã năm lần bảy lượt dẫn quân đi tiễu phỉ, trên danh nghĩa là huấn luyện thực chiến. Trong thời gian ngắn ngủi ba năm, cả quận Ngũ Nguyên đã được dẹp yên không còn bóng dáng tên giặc cỏ nào. Từ năm thứ hai trở đi, Liễu Duệ đã không còn gặp phải chuyện gì khi qua lại giữa quân doanh và xưởng quân khí nên lần này hắn cũng không hề lo lắng, cứ thế dẫn sáu thân binh tiến thẳng vào hẻm núi.
Tiến vào Nhất Tuyến Thiên chưa được một tuần nhang thì hắn liền phát hiện bất ổn. Hẻm núi quá an tĩnh, lúc này tuy là mùa đông nhưng còn chưa có tuyết, thế mà lại không hề nghe thấy một tiếng động nào.
“Dừng lại!” Liễu Duệ thắng ngựa, quát khẽ.
Bảy con ngựa đồng thời dừng lại.
“Thân thủ thật tốt.” Trên hẻm núi có người vỗ tay khen ngợi rồi gần một trăm tên mặc đồ đen xuất hiện phía trên, “Đáng tiếc, chậm rồi.”
“Trần thiếu gia.” Ngụy Tự Nam chạy tới cổng lớn quân doanh, hơi kinh ngạc khi nhìn thấy người đang cưỡi ngựa hiên ngang trước mặt “Làm sao người…?”
“Liễu Duệ đâu rồi?”, Hàn Nhạn Thanh ghìm ngựa, hỏi giọng gấp gáp.
“Liễu giáo úy đi đến xưởng quân khí rồi”
“Nguy rồi… Hắn mang theo bao nhiêu người?”, Hàn Nhạn Thanh lộ vẻ lo lắng, hỏi dồn.
“Tính cả Tiết Thực thì tổng cộng là sáu người.” Ngụy Tự Nam bình tĩnh đáp, “Chắc là không có chuyện gì đâu, sáu người này đều là cao thủ.”
“Ngươi không cần nói nữa”, Hàn Nhạn Thanh quay ngựa, “Ngươi điều cho ta một trăm kỵ binh do ta chỉ huy. Ngoài ra, bảo quân y chuẩn bị sẵn sàng, tới đây tiếp ứng.”
“Tuân lệnh!” Ngụy Tự Nam gật đầu không chút do dự, xoay người trở về quân doanh.
“Tiểu Hổ Tử”, Hàn Nhạn Thanh quay sang ra lệnh, “Đệ đi trước xem tình hình, ta dẫn người tới sau.”
Thân Hổ biết chuyện nghiêm trọng nên gật đầu không nóí tiếng nào.
“Chủ nhân, dưới hẻm núi chỉ còn lại bảy con ngựa, không thấy một ai cả”, một tên áo đen dùng tiếng Hung Nô bẩm báo.
“Khốn kiếp!” Tên thủ lĩnh che mặt hung hăng đá tên vừa lên một cái, “Rõ ràng vừa mới ở đó, ngươi cho là bọn chúng mọc cánh rồi sao?”
Cho dù thật sự là chim bay lên thì cũng phải nhìn thấy chứ, tên mặc đồ đen thầm nghĩ nhưng không dám nói ra, sợ lại chọc cho thủ lĩnh nổi giận.
Tên thủ lĩnh bịt mặt trấn tĩnh lại rất nhanh, phất tay, “Bọn chúng nhất định còn đang ở trong khe núi, chỉ là không biết trốn đâu. Phái hai mươi người xuống dưới lục soát, những người còn lại sẵn sàng chờ lệnh.” Dưới ánh mặt trời, tay hắn thon dài trắng nõn lạ thường, trên ngón trỏ đeo một chiếc nhẫn nạm ngọc phản chiếu ánh sáng mặt trời lấp lánh cho thấy phẩm chất cao quý, người bình thường không thể có.
“Đáng ghét.” Hắn hung hăng vỗ một chưởng vào cây cổ thụ bên cạnh, “Bọn chúng chỉ cần tiến thêm về phía trước mấy bước thì đã sa vào vòng vây của chúng ta, tên tướng quân đó cũng có chút bản lĩnh, lại rất cảnh giác.”
“Chủ nhân, vẫn không có động tĩnh gì”, đám người áo đen dần trở nên nôn nóng. Lần phục kích trong biên giới Đại Hán này tuy mạo hiểm nhưng là cơ hội hiếm có, hơn nữa lấy trăm người đối kháng với bảy người cộng thêm lợi thế về địa hình thì thế nào cũng phải thắng mới đúng. Sau khi thành công lại chia ra thành nhóm nhỏ rời khỏi Ngũ Nguvên thì dù Thái thú Ngũ Nguyên có khả năng lớn đến đâu cũng không thể điều tra ra tình hình thật sự. Thế nhưng bỗng nhiên gặp phải tình huống này khiến bọn chúng không kịp trở tay. Nói thế nào thì việc một lực lượng gần trăm người không rõ của thế lực nào bỗng nhiên xuất hiện trong quận, cho dù đám người Liễu Duệ bị vây trong hẻm núi không cách nào chạy thoát được, nhưng nếu có ai đó vô tình nhìn thấy và báo cho quan phủ nhà Hán thì bọn chúng cũng sẽ gặp phiền toái.
“Chủ nhân, có phải là…?” Qua một khắc, một tên áo đen nơm nớp sợ hãi tiến lên định hỏi, còn chưa kịp nghe trả lời thì bỗng thấy có hô bên dưới, “Chủ nhân, phát hiện…”
Một tiếng kêu đau đớn sau đó là âm thanh chiến đấu vang lên, tên thủ lĩnh phấn chấn phất tay, “Đi xuống!”
Ở dưới hẻm núi đã có năm, sáu người áo đen ngã xuống, số còn lại đang đánh giáp lá cà với người Hán. Người đàn ông cầm đầu xuất thủ vô cùng ác độc, cứ qua mấy hiệp lại đánh ngã một người, động tác dứt khoát đầy sức mạnh. Sáu người kia cũng không có ai yếu. Tên thủ lĩnh che mặt thoáng kinh hãi, bọn người Hán có sức chiến đấu như vậy từ lúc nào?
Trong khoảnh khắc, người đàn ông cầm đầu ngẩng lên trông thấy hắn thì liền nhếch miệng cười đầy hàm ý rồi xoay người ra lệnh một câu. Ba người phía sau người đàn ông ấy lập tức ngừng chiến đấu, xoay người lao vào sơn động vừa ẩn nấp lúc trước, ba người còn lại vẫn đứng sau lưng không hề hoảng loạn.
“Hắn muốn làm gì chứ?” Tên thủ lĩnh che mặt dừng bước nghĩ ngợi. Song thực tế không để cho hắn nghĩ ngợi quá lâu, lại có thêm hai tên áo đen nữa ngã xuống, máu của đồng bọn kí©ɧ ŧɧí©ɧ những tên áo đen bên cạnh đỏ ngầu mắt. “Xông lên đi!” Hắn nghe thấy tiếng thuộc hạ kêu gào ầm ĩ, “Băm nát đám người này thành thịt vụn để báo thù cho bọn họ.”
Ở bên hẻm núi, bốn người quây lại thành một vòng, dựa lưng vào nhau ngoan cường chiến đấu.
“Thêm hai mươi người nữa lên.” Tên thủ lĩnh cảm gỉác không ổn, vội vàng hô.
“Chậm rồi!” Liễu Duệ cười dài một tiếng, vung mạch đao phát kình lực chém xuống, xả thành một nhát dài trên bả vai người áo đen đối diện, đồng thời nghiêng sang bên phải định né một kích của một người áo đen khác bên cạnh. Song lưỡi đao của đối phương đã tới quá gần, dù là Liễu Duệ cũng không kịp thu đao đón đỡ. Nếu chỉ có một mình Liễu Duệ thì dĩ nhiên có thể dùng bộ pháp né tránh nhưng lúc này chỉ cần hắn di chuyển một bước thì vòng tròn bốn người sẽ lập tức bị phá vỡ, sợ là không chống chọi được đến lúc mấy người Tiết Thực quay lại cứu viện. Liễu Duệ gần như có thể nghe thấy tiếng loan đao[3] vù vù chém đến trước mặt. Hắn nheo mắt dùng toàn lực thu đao đề phòng một bên, chuẩn bị chịu một đao kia. Nhưng khi mạch đao của hắn đâm vào kẻ địch thì vẫn chưa thấy cảm giác đau đớn, chỉ nghe bên tai “keng” một tiếng rồi thấy Phương Dụ Hàn ở bên trái đã chịu thay mình nhát đao này.
[3] Loan đao: Một loại đao của Trung Quốc, cán ngắn, bề mặt đao rộng, lưỡi cong.
Trên chiến trường không có chỗ cho từ bi. Liễu Duệ ở ngay sát tận mắt thấy loan đao trong tay một kẻ địch chém ngang bụng Phương Dụ Hàn khiến máu tươi phun ra như suối. Phương Dụ Hàn lảo đảo đứng không vững, cầm đao ngã ngồi dưới đất, lập tức lại có vài thanh loan đao sáng loáng chém tới. Mắt thấy Phương Dụ Hàn sắp bị chém thành mấy mảnh, Liễu Duệ liền đánh tới một đao bạt đi tất cả công kích.
“Dụ Hàn, ngươi làm cái gì vậy?” Trong khi hắn hỏi, bốn người tiếp tục bị tiến công dồn dập. Dù vẫn phản kích dũng mãnh nhưng nhanh lại có người đổ máu.
“Lão đại!”, Phương Dụ Hàn cười thảm, nỗ lực tự chống đỡ: “Chỉ cần người không ngã thì cả quân doanh còn có hy vọng. Chúng ta đã quá sợ cuộc sống cơ khổ rồi, không muốn trở lại như trước kia.”
“Ngươi…”, Liễu Duệ không biết phải nói gì, đành ngậm miệng chuyên tâm chém gϊếŧ. Đến khi hắn cảm thấy những người bên mình đã dần không ngăn được thế công của địch, thì phía sau đám người áo đen bỗng trở nên hỗn loạn. Cuối cùng thì Tiết Thực cũng đã xông ra từ phía bên kia hẻm núi, tuy nhiên lập tức bị hai mươi tên đang quan sát cuộc chiến cuốn lấy, trong thời gian ngắn còn khó bảo vệ bản thân mình thì nói gì tới hỗ trợ. Sau một hồi, lại có thêm một binh sĩ bên cạnh Liễu Duệ ngã xuống, chỉ còn lại hai người có sức chiến đấu, tình thế hết sức nguy ngập.
Hai người còn lại rốt cục cũng từ trong sơn động chạy về, nhất thời làm rối loạn thế công của đám người áo đen. Hai bên “hợp vây”, mặc dù không tăng sức chiến đấu lên được bao nhiêu nhưng cũng làm thay đổi tình thế. Mấy người Liễu Duệ cuối cùng từ chỗ bị tấn công đã dần chuyển sang phản kích.
Lúc này đám người áo đen đã tử vong gần một nửa, còn lại cũng đều bị thương. Tên thủ lĩnh che mặt thấy vậy nôn nóng, lạnh giọng hô, “Tất cả xông lên cho ta!”
Chiến đấu thêm một thời gian chừng đủ uống nửa chén trà thì tên áo đen có thân phận giống như quân sư đứng bên cạnh thủ lĩnh không kiên nhẫn được thêm, “Chủ nhân, rút lui đi!” Tên thủ lĩnh che mặt trừng mắt căm tức nhìn hắn, “Cố thêm một chút nữa là có thể bắt gọn bọn chúng. Ngươi bảo ta rút lui vào lúc này sao.”
“Chủ nhân, lại có người đến”, một tên áo đen phía sau kinh hãi la lên.
Một thiếu niên mặc áo lam cưỡi trên con ngựa đen, nét mặt lạnh tanh, vừa rạp người thúc ngựa lao vào hẻm núi vừa lắp tên giương cung, bắn ra ba mũi liên tiếp, Tên bay xé gió, lập tức bắn trúng ba người.
“Liễu đại ca”, Thân Hổ lớn tiếng gọi.
“Ta không sao.” Từ sâu trong hẻm núi truyền đến tiếng cười hào sảng của Liễu Duệ. Hai mắt hắn bốc lên sát khí nồng đậm, Thân Hổ đã tới, vậy thì Hàn Nhạn Thanh cũng ở không xa.
Từ đằng xa vang lên tiếng vó ngựa rầm rập. Tên thủ lĩnh che mặt, trán nổi gân xanh, phất tay nói, “Rút lui!” Hắn oán hận cắn răng, tưởng chừng như sắp bắt được đối phương tới nơi, ai ngờ chuyện sắp thành lại bại.
Thiếu niên áo lam cười lạnh, cũng không hiểu cậu dùng động tác sao mà bỗng nhiên phi thân lướt qua mấy tên áo đen tới chặn đầu thủ lĩnh của chúng, “Ngươi muốn đi thì đi sao?” Một đường kiếm quét qua, lưỡi kiếm phản chiếu ánh mặt trời chói lọi trước lúc hoàng hôn.
Tên thủ lĩnh vung đao ngăn lại, không muốn dây dưa nhưng vào lúc đao kiếm chạm nhau thì cánh tay hắn tê rần, trong lòng càng thêm bất an, càng muốn thoát khỏi trận đánh giằng co với Thân Hổ.
Tiếng vó ngựa càng lúc càng gần. Bóng dáng Hàn Nhạn Thanh cưỡi ngựa đã xuất hiện ở lối vào hẻm núi, một trăm kỵ quân Khâu Trạch giáp trụ chỉnh tề đang dàn trận ở phía sau.
“Bọn họ sao rồi?”, Hàn Nhạn Thanh không vào trong trướng mà đứng ở bên ngoài, vừa thấy một tiểu thân binh bê chậu thau đầy máu tươi vén rèm bước ra thì hỏi dồn.
“Liễu đại nhân không sao, chỉ bị thương nhẹ ở cánh tay. Tiết Thực toàn thân đẫm máu song không có vết thương chí mạng, nhưng Dương Triết thì e là không cứu được. Còn Phương Dụ Hàn sau khi được tiên sinh khâu bụng vẫn luôn gây gây sốt”, tiểu thân binh buồn bã trả lời.
“Ừm”, Hàn Nhạn Thanh không nói gì, chỉ khẽ gật đầu. Bản thân là đại phu, nàng kế thừa y thuật cổ kim nội ngoại, thực tế có thể coi là số một đương thời, nhưng gặp phải vết thương do chiến tranh gây ra như thế này thì thật ra cũng chẳng cao minh hơn những quân y bình thường bao nhiêu. Quân y đang cố gắng hết sức chữa trị cho những người có thể khó nhọc chạy thoát ra.
“Tỷ tỷ”, Thân Hổ từ sau trướng đi ra, “Tỷ đừng dằn vặt!” Mặc dù trên mặt Hàn Nhạn Thanh không có biểu hiện gì nhưng cậu biết nàng đang thầm tự trách mình, bèn an ủi, “Đây không phải là lỗi của tỷ.”
Hàn Nhạn Thanh cười tự giễu, “À”, nàng chợt nhớ ra, “Đám người Hung Nô đâu?”
“Đang giam trong địa lao ở phía sau”, Thân Hổ hừ lạnh, “Đệ mới từ bên ấy về, tên áo đen kia sống chết cứ khăng khăng rằng mình là người Đại Uyển, không chịu thừa nhận thân phận.”
Hàn Nhạn Thanh nhếch miệng, “Hắn cứng đầu lắm à? Đi nào, tỷ sẽ đích thân thẩm vấn hắn.”Quyển 1 - Chương 14: Ngóng về Trường An núi non trùng điệpHàn Nhạn Thanh đi xuống địa lao, ánh sáng dần nhạt đi, cây đuốc sáng lòa khiến nàng có ảo giác rằng dường như đang không phải là ban ngày mà là đêm tối. Gã áo đen bị trói vào bức tường đá, ngẩng đầu nhìn nàng, ánh mắt lóe lên rồi tiếp tục gục đầu xuống, tóc tai rũ rượi, trên người thương tích chồng chéo ngang dọc, hiển nhiên là đã chịu đựng không ít hình phạt.
“Thiếu gia, thiếu gia!” Còn có một số người áo đen khác cũng bị bắt sống, trong đó có một người bị trói ở phía sau bên trái không ngừng kêu gọi gã áo đen. “Vị đại nhân này!”, hắn trông thấy Hàn Nhạn Thanh bước vào, “Ngươi thả thiếu gia của chúng ta ra, muốn bao nhiêu tiền thì lão gia của chúng ta sẽ trả.”
“Ưu Cách, không được cầu xin người Hán tha thứ”, gã áo đen lớn tiếng quát, khí huyết đảo lộn làm cho vết thương thêm đau đớn.
“Ái chà, tiểu huynh đệ.” Hàn Nhạn Thanh tựa như không nhìn thấy gã áo đen kia, đi thẳng tới trước mặt người thiếu niên tên là Ưu Cách, nhìn qua đánh giá, “Ngươi bị thương rất nặng!” Nàng quay lại ra lệnh. “Mang thuốc trị thương và băng gạc tới đây.”
Thuốc trị thương và băng gạc nhanh chóng được đưa lên. Thiếu niên kia nhìn Hàn Nhạn Thanh với vẻ rất cảnh giác nhưng Hàn Nhạn Thanh thật sự không động chân động tay gì, chỉ băng bó vết thương, động tác gọn gàng, thậm chí không làm cho hắn cảm thấy quá đau đớn.
“Vị đại nhân này”, Ưu Cách cẩn thận nhìn nàng, nhưng giọng điệu đã hơi mềm xuống, “Ngài cũng băng bó giúp cho thiếu gia nhà ta một chút đi. Thiếu gia bị đánh rất nhiều.”
“Ấy, không được cử động, mạch của ngươi khá kỳ lạ.” Hàn Nhạn Thanh bắt mạch cổ tay hắn, làm bộ lơ đãng hỏi, “Các ngươi là người Hung Nô à?”
“Không được nói lung tung”, gã áo đen phía trước quát lên, “Lão tứ là người Đại Uyển, các ngươi tin cũng được, không tin cũng được.”
“Người Đại Uyển à, cũng tốt.” Hàn Nhạn Thanh gật gù, “Hoàng đế chúng ta quyết định tấn công Hung Nô, mấy ngày nữa Xa kỵ tướng quân sẽ thống lĩnh đại quân tấn công Hữu Hiền vương của Hung Nô.”
Đôi môi đỏ mọng duyên dáng lạnh lùng bật ra những tin tức động trời lúc này còn mang tính cơ mật của quân Hán, Hàn Nhạn Thanh hướng ánh mắt về phía gã áo đen nhưng lại liếc xéo ngầm giám sát chặt chẽ Ưu Cách, quả nhiên thấy Ưu Cách “a” lên một tiếng, vẻ mặt hơi khác thường, mạch cổ tay nhảy lên.
“Còn phó tướng Lý đại nhân cầm quân tấn công Tả Hiền Vương…” Cảm giác rõ ràng mạch cổ tay Ưu Cách đập cuồng loạn, Hàn Nhạn Thanh buông ra, kinh ngạc thốt lên, “Các ngươi là người của Tả Hiền Vương.”
“Ngươi…” Gã áo đen rất kinh ngạc, sau liền hiểu ra, cười gằn, “Xem ra trong đám người Hán thật sự có không ít kẻ thông minh.”
“Còn ngươi lại không thông minh lắm.” Hàn Nhạn Thanh thản nhiên nhận lời tán thưởng, không muốn nhìn sắc mặt tái mét của đối phương, nói tiếp, “Nghe nói phi tử Đại Uyển được Tả Hiền vương sủng ái nhất đã sinh cho hắn một người con tên là Ngạc La Đa, chắc hẳn là ngươi. Ngươi là con của Tả Hiền vương, đến Ngũ Nguyên làm gì?”
Hàn Nhạn Thanh ra khỏi địa lao thì trời vẫn còn nắng khiến nàng cảm thấy dường như vừa bước ra một thế giới khác. Liễu Duệ đứng ở lối vào địa lao trông sang, thấy nàng ra thì đi tới rồi cả hai cùng rảo bước trên con đường chạy dọc quân doanh.
“Thương thế của huynh thế nào rồi?”
“Không vấn đề gì.” Liễu Duệ không dừng bước, “Nhạn Nhi, muội nói… có phải huynh làm sai hay không?”
“À…?” Hàn Nhạn Thanh không trả lời. Nàng biết trong chuyện xảy ra tại Nhất Tuyến Thiên ngày hôm qua có cái gì đó đã làm sư huynh xúc động, còn việc nàng cần làm chỉ là lắng nghe.
“Chúng ta quá tự phụ, cho là biết việc ba trăm năm trước, biết chuyện năm ngàn năm sau thì mọi sự không nằm ngoài tính toán của chúng ta. Huynh nghĩ với sự bố trí ở Nhất Tuyến Thiên thì không có gì thoát khỏi tính toán của mình, thế nhưng vẫn còn có người vì huynh mà chết. Trời cao đã dùng máu tươi của người ở bên cạnh để nhắc nhở huynh trước khi huynh khởi sự rằng, chúng ta thật ra cũng chỉ là người bình thường, không có gì để huênh hoang.”
“Sư huynh nghĩ như vậy…”, Hàn Nhạn Thanh cúi đầu, “cũng là đã xin lỗi đồng đội bị thương vì huynh rồi.” Nàng nói thêm, “Mặc dù muội không có mặt ở hiện trường nhưng cũng nghe kể rằng Phương Dụ Hàn bị thương là vì đỡ đao cho huynh. Hắn hy vọng huynh có thể dẫn các huynh đệ tốt của mình mở ra một chân trời mới. Huynh nghĩ như vậy không phải là xin lỗi hắn sao?”
“Hơn nữa, cho dù không có chúng ta thì cũng không tránh khỏi cuộc chiến tranh này. Thật ra thì trong thời loạn, không một ai có thể xác định được người nào sẽ bỏ mạng, người nào sẽ sống sót. Nếu quả thật xác định được như vậy thì tranh đấu để làm gì?”
“Nếu như huynh thật sự cảm thấy có lỗi với bọn họ, thì xin hãy quý trọng bọn họ, đối xử như vậy với họ trong các chiến dịch ngày sau đi.”
“Trên thế giới này, người phức tạp có thể phức tạp đến mức huynh không thể nào đoán nổi, người chất phác thì lại có thể chất phác đến mức huynh không thể nào tin.”
“Vì một niềm tin, họ có thể người trước ngã xuống người sau xông lên, trên mặt vẫn nở nụ cười không bao giờ tắt. Nếu lương tâm của huynh đã lên tiếng vậy thì cũng là đủ rồi.”
“Huynh tính xử trí Ngạc La Đa, con trai Tả Hiền vương thế nào?”
Liễu Duệ nhướng mày, “Không cần bày nhiều mưu kế phức tạp làm gì, chỉ cần phản ứng theo cách bình thường là được rồi. Có lẽ…” Mắt hắn hiện ra vẻ u ám, siết chặt tay nói, “Gã là quân cờ tốt nhất để huynh nắm giữ quân quyền.”
“Bắt được con trai của Tả Hiền Vương Hung Nô à?”, Vệ Thanh nhướng mày. Khi hắn thống lĩnh ba vạn quân Hán tiến vào quận Sóc Phương đã nghe Thái thú Sóc Phương báo cáo chuyện này, giờ hiếu kỳ hỏi lại.
“Đúng vậy!” Thái thú Sóc Phương khom lưng đáp, “Ngạc La Đa dẫn quân vào trong nội địa Ngũ Nguyên tập kích Giáo úy Liễu Duệ và bị Liễu Duệ bắt được. Liễu Duệ thẩm vấn biết thân phận của gã thì không dám tự ý giải quyết, bèn áp giải đến trước trướng chờ Tướng quân xử trí.”
“Lại là Liễu Duệ”, Vệ Thanh thầm nghĩ, cao giọng truyền, “Tuyên Liễu Duệ vào.”
Liễu Duệ vào trướng, bái lạy, “Mạt tướng Liễu Duệ tham kiến Trường Bình hầu, Xa kỵ tướng quân.”
“Liễu giáo úy miễn lễ.” Vệ Thanh vội đi xuống, tự tay đỡ Liễu Duệ dậy, “Mấy năm trước đã gặp nhau trong ngự uyển, Liễu giáo úy vẫn anh dũng như trước.”
“Tướng quân quá khen!” Liễu Duệ chắp tay làm lễ, “Liễu Duệ sao dám so sánh với Tướng quân.”
“Vệ Thanh nghe nói rằng Liễu giáo úy lấy lực lượng bảy người ít ỏi cầm cự với hơn trăm tên Hung Nô tới tập kích trong gần một canh giờ. Hành động như vậy còn không xứng hai chữ ‘Vũ dũng’ sao?” Vệ Thanh khen ngợi, “Huống chi yên ngựa mà Liễu giáo úy dâng hiến giúp ích không ít trong trận chiến Hán Hung. Lần này Liễu giáo úy có công lớn đó.”
Vẻ mặt Liễu Duệ càng thêm nhún nhường, “Mạt tướng không dám.” Hắn lảng sang chuyện khác, “Mấy hôm trước, mạt tướng bắt một gã người Hung Nô ở trong nội địa Ngũ Nguyên, nghe nói là con trai của Tả Hiền vương Hung Nô bèn áp giải đến đây. Kính xin Tướng quân chủ trì nên xử trí như thế nào.”
Vệ Thanh nghiêm mặt ra lệnh: “Dẫn người tới!”
Ngạc La Đa bị trói gô cổ dẫn vào trướng, sắc mặt tiều tụy nhưng vẫn ngang nhiên không quỳ, vẻ mặt ngang tàng. Hắn thấy Liễu Duệ đứng ở sau lưng Vệ Thanh thì không khỏi tức giận trừng mắt nhìn sang.
“Đủ rồi”, Vệ Thanh khoát tay nói: “Ngạc La Đa, tại sao ngươi tập kích Liễu giáo úy?”
Ngạc La Đa ngạo nghễ đáp: “Ta nghe nói hắn lợi hại nên muốn tới xem thử một chút mà thôi.” Không đợi Vệ Thanh lên tiếng đã lại nói tiếp: “Mặc dù ta thua nhưng người Hung Nô kính trọng anh hùng, hắn cũng được coi là hảo hán. Các ngươi muốn chém muốn gϊếŧ thì cứ việc. Ngạc La Đa ta mà nhăn mặt chau mày thì không tính là hảo hán.”
“Đúng là lợn chết không sợ nước sôi”, Liễu Duệ nhủ thầm trong lòng.
“Ngươi không nói ta cũng biết.” Vệ Thanh đi đi lại lại mấy bước bên trong trướng, “Nhất định là mấy vương tử trong bộ lạc của Tả Hiền vương các ngươi không hòa hợp, vì vị trí người thừa kế mà ngươi sa vào vũng lầy.” Hắn cũng không nhìn đến ánh mắt ngạc nhiên của Ngạc La Đa, vén màn trướng lên, ra lệnh: “Cử người áp giải đến dưới trướng Hữu Bắc Bình tướng quân Lý Tức.”
“Dạ!” Mấy thân binh đáp lời rồi lôi Ngạc La Đa đi.
Liễu Duệ ngấm ngầm đánh giá viên tướng trẻ tuổi, quả nhiên không hổ là danh tướng Vệ Thanh của Hán Vũ Đế, đoán trúng ngay điểm quan trọng. Hắn và Hàn Nhạn Thanh làm việc ở biên ải nhiều năm, tất nhiên biết rằng mặc dù Ngạc La Đa được Tả Hiền vương sủng ái nhưng do thân phận của mẫu thân nên không có đủ uy vọng ở trong bộ tộc. Quá nửa nguyên nhân Ngạc La Đa đột nhập vào đất Hán lần này là vì muốn lập chút công lao để ngăn chặn miệng lưỡi người trong bộ lạc.
“Liễu giáo úy!” Vệ Thanh mỉm cười quay đầu lại, nghĩ lại lời Hoàng thượng căn dặn hắn trước khi đi.
Trong cung Vị Ương, Lưu Triệt ngắm nghía thanh mạch đao do quận Ngũ Nguyên cống lên, vuốt ve lưỡi đao sáng lóa, hài lòng: “Liễu Duệ dâng lên một món đồ thật tốt, đáng tiếc là hơi muộn một chút. Nếu chế tạo xong trước khi cuộc chiến Mạc Nam bắt đầu thì trận đánh này nhất định thắng chắc.”
“Trọng Khanh, khanh đến Sóc Phương quan sát hắn lần nữa”, Lưu Triệt suy nghĩ một lát rồi bảo: “Nếu như hắn là một nhân vật thì đừng ngại dẫn quân đội của hắn ra chiến trường tôi luyện một phen, trẫm cũng dễ điều hắn trở về kinh.”
“Thương thế của ngươi đỡ chưa?”
“Đa tạ Tướng quân quan tâm, mạt tướng đã không còn đáng ngại”, Liễu Duệ khom người đáp.
“Như vậy đi, ngươi dẫn Khâu Trạch kỵ của ngươi cùng tham gia cuộc chiến Mạc Nam lần này.”
“Tuân lệnh!”
“Phương Dụ Hàn chết rồi.”
“Ồ”, Liễu Duệ lộ vẻ khổ sở, sau đó thì dần khôi phục lại như thường.
Hàn Nhạn Thanh cũng không vui vẻ gì. “Nói như vậy là huynh phải lập tức rời Sóc Phương ra chiến trường sao?” Nàng rót một chén rượu mới, di chuyển cờ hiệu trên sa bàn.
“Đúng vậy!” Liễu Duệ thản nhiên đáp, “Chuyện của Ngạc La Đa coi như là công thành thì rút lui. Vệ Thanh đúng thực không phải là một nhân vật đơn giản.” Vừa nói hắn vừa trầm tư.
“Tất nhiên rồi!” Hàn Nhạn Thanh cười tươi tỉnh trở lại, “Huynh cho rằng vị tướng quân kháng Hung nổi tiếng thời Hán Vũ Đế là đồ chơi sao.” Nàng chợt nhớ hồi trước đã từng đọc bài bình luận trên mạng về các danh tướng Trung Quốc cổ đại. Vệ Thanh đại khái xếp khoảng hạng mười, sau Hoắc Khứ Bệnh, phía dưới còn có thêm một câu: “Công tử nhà giàu coi tiền là rác như thời La Mã cổ đại.”
“Thật ra thì…” Liễu Duệ rót một chén rượu, “Tiến cống tất cả những thứ chúng ta có trong tay thì cuộc chiến tranh giằng co Hán Hung này có thể kết thúc sớm hơn, chúng ta cũng sẽ giảm bớt rất nhiều thương vong. Chúng ta có ích kỷ quá hay không?”
“Đúng vậy”, Hàn Nhạn Thanh nhếch miệng, “Sau đó chúng ta cũng bị chém đầu, biến mất khỏi thế giới này. Tóm lại, không thể hy sinh thân mình vì những thứ đó.”
“Sư huynh…” Hàn Nhạn Thanh cúi đầu, nhìn những đầu ngón tay chai sạn vì tập võ, không còn mềm mại như ban đầu của mình, “Huynh dẫn Thân Hổ đi theo cho nó học hỏi kinh nghiệm.”
“Ồ!” Liễu Duệ lấy làm kinh ngạc, “Còn muội thì sao?”
“Muội ư?” Hàn Nhạn Thanh cười một tiếng thê lương, giơ chén rượu lên, kính về hướng Trường An phương xa, khe khẽ hát, “Tây Bắc vọng Trường An, thương thay trung điệp nước mây ngàn?”[1]
[1] Lời trong bài hát Tây Bắc vọng Trường An.
Tháng Ba năm đó, một chiếc xe ngựa bình thường chạy về hướng cổng thành Trường An.
“Phu nhân, đến rồi!” Ngoài rèm, phu xe giảm dần tốc độ.
“Ừ, dừng xe trước cửa phường may Tạp Môn”, Hàn Nhạn Thanh vẫn nhắm mắt, ra lệnh.
Phu xe ở ngoài rèm đáp giọng trầm trầm, “suỵt” một tiếng để cho hai con ngựa tiếp tục chạy chầm chậm. Khi rời khỏi Trường An, nàng ngồi trên chiếc xe ngựa xa hoa được chế tạo đặc biệt, có rất nhiều bạn bè người thân đi cùng, còn có cả hai đứa bé nên rất vui vẻ, không cảm thấy nỗi buồn ly biệt. Bây giờ trở về chỉ có một thân một mình, tự dưng có tâm trạng e ngại khi gần về tới nhà, nghe âm thanh thành Trường An ồn ào náo nhiệt nhưng lại không dám vén rèm xe lên xem.
“Chưa già chớ kể hồi hương
Bởi chưng mang nỗi đoạn trường về theo.”[2]
[2] Trích trong bài thơ Bồ tát man – Kỳ 3 của Vi Trang.
Nàng nhớ tới chuyện trước khi rời khỏi quận Ngũ Nguyên đã đặt một phòng riêng trong tửu lầu Bạch Vân sang nhất quận để gặp Phi Hoằng. Phi Hoằng nói vị quận chúa Hoài Nam đó vừa phái người tới Ngũ Nguyên mật đàm với Dung ma ma, Mi Vũ cả một buổi tối, Hàn Nhạn Thanh cười mỉa mai, thấy mình quả thật may mắn, chọn một người bất kỳ trong thành Ngũ Nguyên, thế nào lại đúng là người trong mạng lưới ngầm của Hoài Nam vương.
Quận chúa Hoài Nam, chắc là Lưu Lăng, rất nổi danh đời sau, có một đoạn tình duyên mặn nồng với Lưu Triệt. Theo như Sử ký Tư Mã Thiên và những bộ phim đời sau thì Lưu Lăng cũng là một nhân vật lợi hại. Chẳng qua, Hàn Nhạn Thanh thầm nghĩ, theo như nàng điều tra từ hướng khác thì thấy dấu vết mưu phản của Hoài Nam vương ở thời đại này không rõ ràng như trên sử sách ghi lại, ít nhất nàng cũng chưa phát hiện thấy điều gì.
Đang suy nghĩ mông lung thì xe ngựa đã dừng lại trước phường may Tạp Môn, phu xe ở ngoài cửa nói, “Đến rồi!”
“Vậy hả?” Hàn Nhạn Thanh bừng tỉnh, thanh toán tiền xe, dừng trước cửa lớn phường may, ngẩng đầu quan sát cửa hiệu đầu tiên do chính tay mình lập nên ở thời đại này. Ngựa xe vẫn nườm nượp trước cửa. Dưới ánh mặt trời, biển hiệu phường may trải qua mấy năm mưa gió đã hơi cũ kỹ nhưng vẫn không mất đi khí thế. Chỉ có người đã chẳng phải người năm cũ nữa rồi.
Khi lên lầu, Hàn Nhạn Thanh bị mấy nha hoàn mới mà nàng không nhận ra cản lại, xem như khách hàng, dẫn tới phòng lớn.
“Mời Hạ cô nương ra đây!” Hàn Nhạn Thanh mỉm cười, thái độ tiếp khách của những nha hoàn này rất tốt. Xem ra Tang Hoằng Dương đã hết lòng giúp nàng thu xếp phường may.
“Hạ cô nương của chúng tôi bận việc nhà nên hiện giờ không có ở phường may.” Nha hoàn đó có khuôn mặt tròn tròn đứng bên trái nhún mình hành lễ cáo lỗi, sợ nàng mất hứng, nên nói tiếp: “Hay để tôi mời một vị sư phụ tới giới thiệu cho phu nhân?”
“Thế à?” Hàn Nhạn Thanh hơi kinh ngạc cười nói, “Vậy thì mời Thân đại nương ra đây gặp mặt đi.”
Lần này nha hoàn nhỏ không còn cáo lỗi, cúi chào rồi đi ra. Rất nhanh, có một phụ nữ mặc đồ xanh từ bên trong bước tới, vừa thấy Hàn Nhạn Thanh thì mắt sáng bừng, đó chính là Thân đại nương.
“Mẫu thân!” Hàn Nhạn Thanh nhõng nhẽo gọi, mắt bất giác đỏ lên, gục đầu vào lòng nghĩa mẫu.
“Nhạn Nhi, Nhạn Nhi!” Thân đại nương vỗ vỗ nhẹ vào lưng nàng, lẩm bẩm, “Trở về là tốt rồi, trở về là tốt rồi!”
“Mẫu thân, con để Tiểu Hổ Tử đi theo Liễu đại ca ra chiến trường đánh giặc rồi”, Hàn Nhạn Thanh khóc rấm rứt một hồi mới nhớ ra, kể chuyện Thân Hổ cho nghĩa mẫu.
“Ồ!” Thân đại nương lập tức lo lắng, “Tiểu Hổ Tử không việc gì chứ?”
“Sẽ không có chuyện gì đâu, mẫu thân!” Hàn Nhạn Thanh cười an ủi, “Công phu hiện giờ của Tiểu Hổ Tử đã giỏi lắm rồi, chính tay nó đã bắt được một vương tử Hung Nô lúc còn ở Ngũ Nguyên đấy.”
“Thật không?” Thân đại nương lắc đầu, “Mẫu thân cũng không cầu các con kiến công lập nghiệp, chỉ cần các con ai nấy bình an khỏe mạnh là tốt rồi. Đúng rồi, Mạch Nhi và Sơ Nhi đâu?” Bà chợt nhớ ra liền vội vàng hỏi.
“Ở chỗ sư phụ của con”, Hàn Nhạn Thanh đáp, “Sức khỏe Sơ Nhi không được tốt, còn phải nhờ sư phụ châm cứu điều dưỡng hơn nửa tháng nữa nên con để chúng ở lại đó.”
Mặt Nghĩa mẫu thoáng vẻ rầu rĩ, “Nếu không phải ban đầu con khó sinh thì Sơ Nhi cũng không bị bệnh như vậy. Trưởng công chúa…”, bà nói vẻ oán hận, “làm sao lại đυ.ng vào Nhạn Nhi chứ?”
“Mẫu thân không cần phải nói nữa.” Đối với Hàn Nhạn Thanh, chỉ riêng việc người đυ.ng phải mình là mẫu thân của A Kiều thì nàng đã không thể trách móc gì, huống chi ban đầu thị phi cũng chưa phải rõ ràng như vậy. Hơn nữa chuyện nàng sinh khó không chỉ riêng vì nguyên nhân đó. Chuyện đã xảy ra rồi, quan trọng lúc này không phải là truy cứu trách nhiệm mà là để cho Trần Sơ được vui vẻ.
“Đúng rồi, con nghe nói nhà Đông Trữ đã xảy ra chuyện, là chuyện gì vậy?”
“Chao ôi!” Thân đại nương thở dài, “Mẫu thân của con bé ngã bệnh. Những năm này Đông Trữ khiến cho Hạ gia thu nhập một ngày tới trăm tiền nhưng Hạ gia vẫn trách con bé ăn cây táo rào cây sung, không ngó ngàng gì đến mẫu thân. Đông Trữ đành phải ở nhà chăm sóc cho mẫu thân. Xem ra thì bà ấy cũng không qua được mùa xuân này. Nhạn Nhi, con có muốn đến thăm không?”
Đeo tấm mặt nạ mới lấy được lúc ở Đường Cổ Lạp Sơn, Hàn Nhạn Thanh kéo khăn che mặt, ngồi lên xe ngựa, ra lệnh đi về hướng Hạ phủ. Nàng biết đây là thành Trường An chứ không phải biên cương. Tuy không nhiều họ hàng thân thích năm xưa nhận ra được Trần A Kiều nhưng cũng không phải là hoàn toàn không có. Năm nàng mang thai, trong thân thể có hai linh hồn nên tự thấy hành vi cử chỉ vẫn có chỗ khác biệt vì thế khi mang mặt nạ mới dám đi lại khắp thành Trường An, gặp mặt Lưu Triệt cũng không quá sợ hãi. Lúc này nàng cũng không dám liều lĩnh, chưa kể những người khác, ít nhất trong thành Trường An đã có hai người có thể nhận ra nàng. Một người là Trưởng công chúa Quán Đào, người còn lại chính là Lưu Triệt.
Sau khi gia nhập phường may Tạp Môn, Hạ Đông Trữ nghe theo ý Hàn Nhạn Thanh mở một cửa hông tại viện Đan Tâm mà hai mẹ con nàng ta ở để khi ra vào không phải giáp mặt với những người khác trong Hạ phủ. Thật ra theo ý Hàn Nhạn Thanh thì tốt nhất là xây lên một bức tường triệt để ngăn cách viện Đan Tâm và Hạ phủ nhưng mẫu thân của Hạ Đông Trữ không chịu, nói như vậy sẽ làm xấu đi tình cảm giữa người một nhà.
Tình cảm, Hàn Nhạn Thanh cười khinh miệt, bọn họ đã không coi các người là người một nhà rồi, các người còn bận tâm về cái tình cảm đó làm gì chứ? Tới nơi, nàng bảo phu xe chờ ở bên cửa hông viện Đan Tâm còn mình thì nâng váy đi vào.
Cửa hàng mở hé một nửa không có ai trông chừng. Hàn Nhạn Thanh bước vào, trong lòng tràn ngập cảm giác kỳ quái, đi ngang vườn thì đột nhiên nghe thấy sâu trong rừng đào có tiếng người tranh cãi, trong đó có một giọng trong trẻo chính là Hạ Đông Trữ.
Nàng nghiêng mình đi tới, từ đằng xa đã thấy Hạ Đông Trữ mặc y phục màu lam dịu dàng tươi tắn đứng dưới một cây hoa đào và đối diện với nàng ta, Hàn Nhạn Thanh cau mày, lại là Liễu Ngôn Hạ.
“Đông Trữ, nàng phải tin tưởng ta, lúc đó thật sự ta bất đắc dĩ mà thôi.”
“Ngươi còn chưa nói đã vào đây bằng cách nào?”, Hạ Đông Trữ không hề bộc lộ chút tình cảm, hỏi trống không một câu.
“Năm xưa là cái tên ác ôn họ Hàn kia”, Liễu Ngôn Hạ nói bừa, “Hắn bức ép ta, ta vạn bất đắc dĩ mới phải nói cho hắn biết tin tức về nàng.”
Ở đằng xa, Hàn Nhạn Thanh nheo mắt, hay cho họ Liễu, đồ ăn cháo đá bát, bán đứng người khác như ngươi mà còn dám gắp lửa bỏ tay người.
“Đông Trữ, tuổi nàng cũng lớn rồi”, Liễu Ngôn Hạ tiếp tục huyên thuyên, dường như không nhìn thấy vẻ mặt thiếu kiên nhẫn của Hạ Đông Trữ, “Ta cũng không chê nàng bị tên họ Hàn giày xéo, cam tâm tình nguyện lấy nàng. Nàng cũng đừng lăn lộn ở phường may Tạp Môn đó nữa, nhà nhạc phụ có sản nghiệp lớn như thế mà lại để nàng và nhạc mẫu đói khát sao?”
Hàn Nhạn Thanh đột nhiên nghe thấy tin tức động trời như vậy thì quá kinh ngạc bước hụt một cái khiến Hạ Đông Trữ lập tức cảnh giác, “Ai?”
Hàn Nhạn Thanh bước ra ngoài. Đang tiết xuân nên hoa đào nở rộ, một cơn gió thổi qua khiến mấy cánh hoa rụng xuống vai nàng, khẽ lay động rồi trượt theo y phục xuống đất.
Hạ Đông Trữ liếc qua thì thấy một cô gái xa lạ đang đi tới. Cô gái này mặc chiếc váy dài có kiểu dáng bình thường nhưng cách cắt may lại là thượng phẩm để lộ ra vòng eo không hơn một chét tay[3]. Nàng nhìn qua cũng có thể nhận ra đây là tay nghề của phường may Tạp Môn, dùng chỉ thêu cùng màu thêu lên đủ các hình hoa mẫu đơn phức tạp. Bộ y phục này dành riêng cho một người con gái đang ở xa tận vùng biên cương mặc. Đôi mắt linh động của cô gái khiến Hạ Đông Trữ có một cảm giác quen thuộc tới kỳ lạ.
[3] Chét tay: Một lượng vừa nắm gọn trong hai lòng bàn tay.
“Tỷ tỷ?”, Hạ Đông Trữ hô lên thất thanh.
“Đông Trữ”, Hàn Nhạn Thanh vén cành đào, mỉm cười đi tới, “Nhiều năm không gặp muội”, nàng cố ý nhấn giọng, nhìn sâu vào mắt Hạ Đông Trữ, “vẫn khỏe chứ?”
“Muội vẫn khỏe.” Hạ Đông Trữ dường như nhớ lại điều gì, lạnh mặt quay sang Liễu Ngôn Hạ, “Ngươi có thể đi rồi.”
“Ngươi”, Liễu Ngôn Hạ tái mặt, “Ngươi đừng tưởng rằng mình là tiểu thư khuê các con nhà đại gia gì, nếu không phải cha ngươi trả tiền thuê ta tới thì ta sẽ không bao giờ thèm cái thứ hoa tàn liễu rủ như ngươi.”
Hạ Đông Trữ tức giận đến lạnh toát tay chân, nước mắt trào ra, “Cút.” Nàng ta chỉ về hướng cánh cửa trống không, lạnh lùng quát lên.
“Sao lúc đầu muội lại mù mắt coi trọng hắn như thế chứ?”, Hạ Đông Trữ dùng khăn lau nước mắt, nói vẻ oán hận.
“Cho nên tỷ nói con mắt chọn đàn ông của muội không ra gì mà”, Hàn Nhạn Thanh không muốn nàng ta thương tâm nên trêu đùa, tiếp đó nghiêm nghị hỏi, “Viện Đan Tâm lớn như thế này mà sao lại không có người canh cửa?”
Hạ Đông Trữ tỏ vẻ rầu rĩ, thấp giọng nói, “Chắc chắn là cha muội dã điều đi để cho Liễu Ngôn Hạ vào.” Nàng khổ sở: “Tốt xấu gì thì cũng là cha con với nhau, làm gì mà phải dùng tới cách này.”
“Bá mẫu!”, Hàn Nhạn Thanh bước vào phòng, thấy Hạ phu nhân nằm ở trên giường, sắc mặt tái nhợt, hốc mắt lõm sâu, thân thể quả thật suy nhược tới cực điểm. Trong hơn nửa năm nàng ở Trường An, Hạ phu nhân đối xử với nàng rất tốt nên nàng vội bước tới bắt mạch cho bà.
“Đại phu trong thành Trường An đều nói là ho lao, không cứu được nữa rồi”, Hạ Đông Trữ rầu rĩ, giọng nói ảm đạm dường như mất hết hy vọng.
“Ha ha, ai nói vậy”, Hàn Nhạn Thanh cười khẩy, “Đông Trữ quên sư phụ của tỷ là ai sao?”
“Tiêu tiên sinh!”, Hạ Đông Trữ sáng mắt lên. Nàng vốn rất kính trọng và ngưỡng mộ Tiêu Phương, cũng loáng thoáng biết y thuật của hắn như thần, “Tỷ tỷ có biện pháp trị bệnh sao?”
“Để tỷ thử xem.” Hàn Nhạn Thanh mặc dù có học dược lý, đọc qua một số sách trung y nổi danh đời sau nhưng rất ít thực hành nên không dám bảo đảm, trầm ngâm nói, “Muội lấy giấy bút ra đây.”
“Được rồi.” Hạ Đông Trữ quay đi lấy giấy bút tới. Hàn Nhạn Thanh cúi đầu suy nghĩ một chút rồi viết ra một đơn thuốc mang tính ôn hòa để ổn định lại thân thể.
“Nói đến bút mực…”, Hạ Đông Trữ vì có hy vọng mẫu thân sẽ bình phục nên tâm trạng cũng khá hơn, “nghe nói Tang tiên sinh tính toán mở một cửa hiệu chuyên bán giấy bút tên là Tức Lam các, chuẩn bị khai trương rồi!”
“Cái gì?”, Hàn Nhạn Thanh ngẩng đầu, thoáng giật mình.
Năm đó, Hàn Nhạn Thanh, Tang Hoằng Dương và Liễu Duệ gặp lại nhau, cả ba người đều nhận thấy không thích ứng được với trúc giản, còn dùng tơ lụa thì cao quý nhưng lại không quen. Cho nên sau khi kinh doanh phường may và lầu Thanh Hoan có lợi nhuận thì họ quyết định nghiên cứu kỹ thuật làm giấy.
Tang Hoằng Dương biết rõ đạo lý khéo quá hóa hỏng. Nếu nói về kiếm cơm gạo thì phường may và lầu Thanh Hoan đã chiếm hai vị trí hàng đầu. Nếu bọn họ muốn nhúng tay vào tất cả mọi việc thì sẽ khiến mọi người chú ý. Trong ba người, ngoài Tang Hoằng Dương thì Liễu Duệ là xuyên không thân thể, còn thân phận của Hàn Nhạn Thanh lại không thể để cho người ngoài biết. Mặc dù người nào cũng bố trí che đậy nhưng nếu có người truy xét đến cùng thì cũng có thể điều tra ra. Vì thế ba người cùng nỗ lực giữ công nghệ làm giấy ở phạm vi nhỏ nhất, chỉ sử dụng trong đám nhân sĩ thân cận thôi. Trước mắt, ngoài ba người thì chỉ Triêu Thiên môn ở Đường Cổ Lạp Sơn và Hạ Đông Trữ là có loại đồ dùng hiếm lạ này. Thân đại nương không biết chữ nên không cần.
Theo ý Hạ Đông Trữ thì Tang Hoằng Dương lại đang tính toán dùng thân phận của mình đưa giấy mực ra kinh doanh như một nghề làm ăn mới. Hàn Nhạn Thanh ngồi trên xe ngựa, nhíu mày không giải thích được. Lẽ ra Tang Hoằng Dương không được tự tiện quyết định như vậy cho dù thời cuộc có biến hóa nhưng cũng nên thương lượng trước với nàng và Liễu Duệ mới phải.
Rời khỏi viện Đan Tâm, Hàn Nhạn Thanh thấy lầu Thanh Hoan ngay gần bèn chuyển hướng đi tới đó, hy vọng có thể gặp được Tang Hoằng Dương.
Lúc nàng đến lầu Thanh Hoan thì Tang Hoằng Dương không có mặt nhưng thư đồng Chiêu Tài của hắn đang ở đó, trông thấy Hàn Nhạn Thanh vội vàng tới nghênh đón, tỏ vẻ ngạc nhiên, “Tiểu thư, người đã về Trường An rồi?”
“Thì sao? Không hoan nghênh ta hả?”, Hàn Nhạn Thanh mỉm cười hỏi. Tang Hoằng Dương quản lý đầu bếp của lầu Thanh Hoan vô cùng tốt cho nên đến nay lầu Thanh Hoan là số một ở thành Trường An, hàng ngày quan lại quyền quý, dân chúng phố phường ra vào không ngớt.
Trên sàn diễn giữa hai lầu, người thuyết thư[4] kể chuyện Tam Quốc Diễn Nghĩa lúc này đang sôi trào nhiệt huyết diễn giải việc Gia Cát Lượng bố trí “Không thành kế”[5], Tư Mã Ý đa nghi lui binh, lầu trên lầu dưới rầm rầm ủng hộ.
[4] Thuyết thư: Thuyết thư là cách gọi khác của nghệ thuật Hát nói Trung Quốc, bao gồm các thể loại như Bình sách, Đàn từ, Bình thoại… Người thuyết thư là người biểu diễn các tiết mục Hát nói trước đám đông.
[5] “Không thành kế”là kế sách thứ tư trong nhóm kế sách “Nghi binh”. Khổng Minh cuối thời Tam quốc đã sử dụng kế này khi chống lại sự tấn công vào thành Bình Dương của đội quân Tư Mã Ý. Biết rằng mình đang ở thế yếu hơn, ông đã cố tình bố trí quang cảnh thành Bình Dương càng tiêu điều xơ xác để quân địch cảm thấy hoang mang, không dám tin vào tình cảnh quá sức bi đát đó của mình, còn sợ sa bẫy nên luống cuống đào thoát. Nhờ vậy mà Khổng Minh đã có đủ thời gian tập trung binh lực, trở lại với thế mạnh thường có của mình.
Đột nhiên người thuyết thư gõ thẻ gỗ một cái, chắp tay nói, muốn biết tiếp theo thế nào, xin nghe hồi sau sẽ rõ. Tấm màn che từ từ buông xuống, mấy thiếu nữ ôm đàn tỳ bà bước lên, hát bài Phiến vĩ khúc:
“Trường giang lớp lớp chảy về đông
Sóng dâng cuộn hết anh hùng
…”
“Hay!” Một giọng nữ thanh nhã từ phía sau truyền đến. Hàn Nhạn Thanh quay đầu nhìn lại, thấy một đôi nam nữ từ trên lầu đi xuống, nam thì nho nhã lịch sự, tuấn tú phong độ, nữ thì thanh tao quyến rũ, khí chất cao sang.
“Khúc hát thật thay. Trường Khanh[6] này, chàng có biết nữ ca sĩ chơi nhạc cụ gì không?”
[6] Trường Khanh: Tên tự của Tư Mã Tương Như.
“Nhạc cụ này gọi là đàn ‘ô đặc’ từ Tây Vực truyền đến, người Trung Nguyên thấy khó đọc mới gọi là đàn ‘tỳ bà’”, Hàn Nhạn Thanh nói, mắt nàng sáng lên, mơ hồ đoán được thân phận của hai người này, mỉm cười bước ra nghênh đón.
“Nghe ý tứ như vậy thì chắc hẳn phu nhân rất giỏi môn này?”, Trác Văn Quân hơi kinh ngạc, nhưng nhanh chóng thừa nhận thân mật hỏi.
“À, cũng hơi biết một chút”, Hàn Nhạn Thanh vã mồ hôi, đây chính là cách nói khiêm nhường mà người cổ đại thường xuyên sử dụng. Nàng từng học đàn tỳ bà nhưng chỉ học sơ qua, có thể gảy được một khúc nhưng đến chỗ cao siêu thì không bàn được. Hồi mới chơi, nàng khoác lác là người giỏi nhất cả nước, bây giờ thì e rằng một nữ ca kỹ tầm thường nhất trong lầu Thanh Hoan cũng hơn nàng.
“Nếu Tư Mã đại nhân và phu nhân có hứng thú, chúng ta hãy vào trong nói chuyện.” Nói gì thì nói Hàn Nhạn Thanh cũng không chịu để cho hai người đi, “Tôi sẽ bảo người ca cơ này đàn vài khúc mới cho hai người nghe.”
“Ồ!” Ngay cả Tư Mã Tương Như cũng cảm thấy có hứng thú. Hai vợ chồng họ rất giỏi âm nhạc, vừa mới tới kinh thành đã được nghe ở lầu Thanh Hoan này một khúc hát hay, theo lời Hàn Nhạn Thanh thì hẳn là còn không ít bài mới khác, “Phu nhân là chủ nhân lầu Thanh Hoan à?”
“Coi như là một nửa thôi.” Hàn Nhạn Thanh đưa tay duyên dáng nói, “Xin mời”, rồi đưa bọn họ vào phòng, quay lại bảo Chiêu Tài, “Hãy mời Mai cô nương đến đây.”
Một cô gái mặc y phục trắng như tuyết vén rèm bước vào, bàn tay nõn nà như ngọc, “Ký Giang ra mắt phu nhân, ra mắt Tư Mã đại nhân, Tư Mã phu nhân.”
Mai Ký Giang quỳ gối thi lễ, đàn tỳ bà che khuất nửa khuôn mặt, chỉ hé ra nửa bên trái được ánh mặt trời từ cửa sổ phía bắc mờ mờ chiếu vào, tuy không phải nghiêng thành tuyệt sắc nhưng cũng khá tươi tắn quyến rũ, không hề gợn chút phong trần.
“Ký Giang, tên rất hay”, Trác Văn Quân cười khanh khách nhìn sang, khen, “Quả thật là một cô nương thanh khiết như băng tuyết.”
“Đa tạ Tư Mã phu nhân khích lệ”, Mai Ký Giang dịu dàng trả lời, “Đây là nghệ danh phu nhân chọn cho tôi.”
“Ồ, có thể biểu diễn luôn không?” Tư Mã Tương Như mỉm cười hỏi. Hắn bỗng kinh ngạc thốt lên khi trông thấy nước trà mà người hầu dâng tới, là trà màu xanh biếc mát mắt, nở xòe trong nước như một đóa hoa. “Trà này chắc là có tên chứ?”
“Tiểu nữ bất tài nhưng cũng đã đặt tên. Tư mã đại nhân nổi tiếng thiên hạ, xin hãy giúp bình phẩm. Trà tên là ‘Minh Tiền Vũ Hậu’.”
“Minh Tiền Vũ Hậu”, hai vợ chồng nhấp thử một ngụm, liền cảm thấy như hoa thêu trên gấm, hương tan trong miệng, bèn khen, “Tên rất hay!”
“Đến phần Ký Giang biểu diễn rồi. Ký Giang”, Hàn Nhạn Thanh khẽ đưa mắt, “Tỷ hãy hát cho Tư Mã đại nhân và Tư mã phu nhân nghe bài Tây Châu khúc đi.”
“Được!” Mai Ký Giang ngồi ở chiếu dưới, chỉnh dây đàn rồi khoan thai đàn hát:
“Nhớ Mai ở Tây Châu,
Chặt gửi ra miền Bắc.
Cánh đơn nhụy đỏ hồng,
Hai nhành nâu một sắc
Tây Châu ở chốn nào?
Sông sâu cầu kết nối
Hoàng hôn chim khách kêu
Cành phong theo gió thổi.
Dưới cây là cổng trước
Vào trong đến vườn xanh
Mở cửa chàng không tới
Đành đi hái sen hồng
Hái sen ao phía Nam
Đài sen vượt quá đầu
Cúi đầu tách mấy hạt
Hạt sen ngọt nước Thu
Sen giấu trong tay áo
Tâm sen đỏ rực nồng
Nhớ chàng chàng chẳng đến
Ngẩng đầu hỏi chim Hồng
Chim bay khắp Tây Châu
Thấy chàng đến lầu xanh
Lầu cao lạc mất bóng
Ngày đậu hành lang trống
Hành lang mười hai khúc
Tay ai muốt như ngọc
Vén rèm cuốn trời cao
Biển trời màu xanh lục
Biẻn trời mộng phiêu diêu
Chàng sầu thϊếp cũng sầu
Gió Nam hiểu lòng thϊếp
Chuyển mộng đến Tây Châu.”
Bài Tây Châu khúc này vốn là một trong những bài dân ca nổi tiếng nhất Nam Triều, ca từ mộc mạc trong sáng, hoàn toàn tự nhiên. Giọng hát Mai Kỳ Giang cực kỳ êm ái, lại cố ý dùng phong cách đàn hát của Tô Châu như Hàn Nhạn Thanh bày dạy, thổ âm nước Ngô nhẹ nhàng ngân nga, lan tỏa khắp phòng như hơi thở vùng sông nước Giang Nam đang vỗ dồn.
Khúc hát đã hết mà Tư Mã Tương Như và Trác Văn Quân còn ngây ngất mãi. “Đây là lời bài hát Tây Châu khúc”, Hàn Nhạn Thanh không thay đổi sắc mặt, đưa cho hai người khúc phổ.
Có trí nhớ của A Kiều làm cơ sở, cộng thêm mấy năm tự khổ luyện, có thể nói Hàn Nhạn Thanh hôm nay đã có thể viết đủ bốn kiểu chữ Thượng Thanh Lệ Điền, nhưng điều hai vợ chồng chú ý tới trước tiên không phải là chữ của nàng, thậm chí không phải là lời bài hát Tây Châu khúc, mà là trang giấy mềm mại trắng nõn ghi chép bài hát.
“Đây là loại giấy mà chính miệng Hoàng thượng từng tán dương, gần đây truyền tụng huyên náo cả thành Trường An đó ư?” Tư Mã Tương như than lên, “Quả nhiên là tuyệt phẩm.”
Hàn Nhạn Thanh buồn bực, loại giấy giá cả bình thường của đời sau như thế này mà cũng được các người sùng bái vậy sao? Nhưng nàng lại có được một thông tin, chính miệng Hoàng thượng khen? Tang Hoằng Dương hiến tặng giấy bút cho Hán Vũ Đế sử dụng rồi sao? Nói đi cũng phải nói lại, nếu quả thật quyết định kinh doanh giấy mực thì lấy Lưu Triệt làm hình ảnh ngươi phát ngôn cũng không tệ, ít nhất là có sức hấp dẫn rất lớn.
“Tức Lam viên phải tới cuối tháng mới được khai trương, phu nhân lại có loại giấy này, vậy phu nhân và Tang Hoằng Dương đại nhân…?”, Tư Mã Tương Như trầm tư hỏi.
“Tang đại nhân là nghĩa huynh của tôi.”
“Nhạn Thanh muội trở về mà không thèm báo cho ta một tiếng nhé.” Tang Hoằng Dương mặc một bộ y phục màu xanh cười dài từ bên ngoài rèm rồi bước vào, không nhìn sang Mai Kỳ Giang đang đứng dậy hành lễ mà phất tay cho nàng ta lui, nói với Hàn Nhạn Thanh vẻ giận dỗi, “Muội còn biết trở về cơ đấy.”
“Hì”, Hàn Nhạn Thanh cười lúng túng, biết Tang Hoằng Dương đang oán trách nàng bỏ hắn một mình ở lại Trường An, vội vàng lảng sang chuyên khác, “Đây là Tư Mã Tương Như đại nhân và phu nhân, còn đây chính là Trị túc đô úy Tang Hoằng Dương đại nhân.”
Tang Hoằng Dương thu lại vẻ phóng túng, tôn kính cúi chào, “Nghe tiếng tăm Tư Mã đại nhân đã lâu, hôm nay mới được gặp, quả nhiên nghe danh không bằng gặp mặt. Về phần giấy của Tức Lam viên, nếu Tư Mã đại nhân thích thì đến ngày khai trương, ta sẽ cho người mang đến quý phủ.”
“Làm sao dám nhận”, Tư Mã Tương Như đáp lễ, “Vẫn nói là vô công bất thụ lộc, nhưng đến ngày khai trương Tức Lam viên, vợ chồng ta nhất định sẽ tới dự. Hôm nay huynh muội gặp lại nhau thì chắc chắn có nhiều chuyện muốn nói, phu thê chúng ta xin cáo từ trước.”
Dân Tây Hán cởi mở phóng khoáng không phân biệt nam nữ nặng nề như triều Tống đời sau, hơn nữa không phải ai cũng “biếи ŧɦái” giống như cha của Hạ Đông Trữ cho nên Tang Hoằng Dương có thể đi thẳng vào phòng có khách nữ, còn Trác Văn Quân cũng có thể thoải mái từ biệt.
Hàn Nhạn Thanh cầm tay Trác Văn Quân mỉm cười nói, “Trác tỷ tỷ, khi nào rảnh rỗi thì đến chơi với muội, muội nhất định sẽ mở tiệc tiếp đãi.”
Trác Văn Quân theo Tư Mã Tương Như rời đi, Hàn Nhạn Thanh nhìn bóng lưng của nàng bỗng thấy trống trải. Đây là một trong những cô gái mà nàng ngưỡng mộ, có thể dũng cảm yêu, dũng cảm nói lời cự tuyệt. Còn Tư Mã Tương Như từng vì nàng ta viết bài Trường Môn phú. Hàn Nhạn Thanh hừ lạnh một tiếng, cũng chỉ là một người đàn ông phụ tình vô ơn bạc nghĩa.
“Đủ rồi!”, Tang Hoằng Dương cầm quạt cốc vào đầu của nàng, “Tỉnh lại đi.”
“Không được cốc đầu muội”, Hàn Nhạn Thanh tức giận quát lên. Hai người đã quen lúc nào cũng phải tính toán, thủ đoạn trong cuộc sống, giờ chỉ còn mỗi bạn bè liền trở lại tính trẻ con.
“Huynh muốn mở Tức Lam viên thật sao?” Hàn Nhạn Thanh tìm chỗ ngồi xuống.
“Còn chưa…”, Tang Hoằng Dương có vẻ hơi phiền muộn, “Hôm đó ta đang viết chữ trong thư phòng thì Hoàng thượng cải trang dẫn Dương Đắc Ý và thị vệ đi vi hành, ngang qua Tang phủ nhất thời cao hứng rẽ vào thăm nhưng không cho người thông báo mà cứ thế đến thẳng thư phòng nên bắt được quả tang.”
Thì ra là vậy, Hàn Nhạn Thanh im lặng, “Thế huynh đối phó như thế nào?”
“Ta đổ cho A Duệ”, Tang Hoằng Dương đắc ý, “Dù sao thì hắn cũng đã có hai phát minh rồi, thêm một nữa thì cũng chẳng sao. Ta chỉ nói rằng trong khi chế tạo binh khí đã bất ngờ phát minh, vì thấy không quan trọng cho nên chỉ nói cho ta biết.”
“Phải thống nhất lời khai đấy”, nàng nhắc nhở.
“Ta biết”, Tang Hoằng Dương chỉ tay nói tiếp, “Y vừa thấy nó thì rất vui mừng, nói cái này còn quan trọng hơn cả binh khí, nhất định phải phát triển rộng ra, lập tức phất tay phê chuẩn cho ta lấy thân phận quan lại để kinh doanh.”
“Ừm”, Hàn Nhạn Thanh đang thầm suy tính, chỉ lơ đãng nói, “Thế thì tốt rồi.”
“Tốt cái gì chứ”, Tang Hoằng Dương chán nản, “Hoàng thượng nói một nửa thu nhập của Tức Lam viên phải nộp vào quốc khố.”
…
Hàn Nhạn Thanh choáng váng, “Như thế cũng vẫn còn tốt….” Nàng miễn cưỡng, “Ít nhất huynh còn được cái tư cách quan thương nghiệp.”
“Dẹp cái trò an ủi đi”, Tang Hoằng Dương gạt đi, “Không nói nữa, Mạch nhi và Sơ nhi đâu?”
“Ở chỗ sư phụ.”
“Năm Nguyên Sóc nguyên niên, Vệ Tử Phu sinh hạ Lưu Cứ, trên danh nghĩa là hoàng tử trưởng, được tấn phong hoàng hậu”, Tang Hoằng Dương nhìn nàng đầy ẩn ý, “Nhạn nhi, muội thấy rồi đó.”
Hàn Nhạn Thanh nhìn đi chỗ khác. Nàng cố không chú ý đến nỗi đau bị Tang Hoằng Dương khơi dậy làm chảy máu đầm đìa, nhất thời không biết nên căm hận hay giận dữ.
Người người ca tụng Giang Nam
Khách du chỉ muốn ở thăm trọn đời
Nước xuân xanh biếc chân trời
Thuyền hoa nghe tiếng mưa rơi rộn ràng
Bê vò em ngước khuôn trăng
Đôi tay trắng muốt như ngừng tuyết sương
Chưa già chớ kể hồi hương
Bởi chưng mang nỗi đoạn trường về theoQuyển 1 - Chương 15: Nam nhi thà chết trong chiến trận“Nam nhi thà chết trong chiến trận, cần chi uất ức dựng Trường Thành!”[1]
[1] Câu thơ trong bài Ẩm mã Trường Thành quật hành (Cho ngựa uống nước trong hào Trường Thành) của Trần Lâm thời Đông Hán.
Thảo nguyên mênh mông vô tận, nhìn gần thì chỉ thấy lác đác mầm xanh mới nhú ra từ sắc khô vàng của mùa đông nhưng càng ra xa thì càng dần chuyển thành màu xanh lục hút mắt. Quân Hán đã toàn lực chạy suốt một ngày một đêm, lúc này đang dừng ngựa bên bờ sông nhỏ nghỉ ngơi, chuẩn bị thật tốt cho trận tập kết quân địch sắp tới. Liễu Duệ dắt ngựa, mỉm cười nhìn nó vừa đi bên cạnh vừa gặm cỏ, trong lòng thầm ngâm nga mấy câu thơ, cảm giác bi khái mênh mang.
“Hán Thành”, Vệ Thanh mỉm cười bước tới. Những ngày qua hắn vẫn luôn quan sát Liễu Duệ, “Khí trời râm mát rồi, ngươi xem chúng ta còn khoảng bao lâu thì có thể đến được vương đình của người Hung Nô?”
Hán Thành là tên tự của Liễu Duệ. Vào thời đại triều Hán, phần lớn mọi người đều có tên tự, như Vệ Thanh có tên chữ là Trọng Khanh.
“Nhanh thì bảy tám ngày, chậm ước chừng phải mất đến nửa tháng. Đương nhiên…”, Liễu Duệ quay đầu lại, “Nếu như không bị lạc đường.” Hắn vừa nhớ lại vị Phi tướng quân Lý Quảng chưa từng gặp mặt nhưng danh tiếng như sấm động bên tai. Lịch sử ghi lại, trong đời vị lão tướng này đã mấy lần lạc đường tại đất Hung Nô, đây là một nguyên nhân trọng yếu dẫn đến việc không được phong hầu.
“Haha!”, Vệ Thanh tự hồ cũng nghĩ đến điều này, “Lần này chúng ta sẽ không vậy đâu, ta đã mời một người Hán qua lại hung Nô nhiều lần làm người dẫn đường.”
“Liễu đại ca!”, Thân Hổ đi tới, “Khi nào chúng ta tiếp tục lên đường đây?” Cậu trông thấy Vệ Thanh thì lãnh đạm hành lễ: “Xin chào Vệ tướng quân!”
“Không cần khách sáo!”, Vệ Thanh gật đầu, “Cứ để cho người ngựa nghỉ ngơi một lát đã.”
“Nhưng Tần Thất nói hiện giờ cỏ trên thảo nguyên quá tươi, chứa nhiều nước, nếu cho ngựa ăn quá no thì một lát nữa khi chạy hết tốc lực chúng sẽ bị trướng bụng.”
Tần Thất là một binh lính chịu trách nhiệm chăn ngựa của kỵ binh Khâu Trạch. Khuôn mặt Vệ Thanh dần trở nên lãnh đạm, “Không sao, ta sẽ có chừng mực.” Không đợi Thân Hổ đáp lời, hắn đã cười tự giễu, “Ta cũng xuất thân là người chăn ngựa, sao lại không biết chuyện đó chứ?”
Liễu Duệ trừng mắt nhìn Thân Hổ, thầm nghĩ tiểu tử này chẳng lẽ vì ở với Lộng Triều quá lâu nên bị tiêm nhiễm tính cách của hắn? Rõ ràng khi còn bé trông rất là cơ trí cơ mà.
Vệ Thanh xoay người trở lại trung quân, tung mình nhảy lên ngựa, hô vang, “Truyền lệnh, dùng tốc độ nhanh nhất xuất phát.”
Các tướng sĩ hơi kinh ngạc nhưng đều nghe theo tướng lệnh, nhanh chóng lên ngựa, chỉ thỉnh thoảng cằn nhằn khe khẽ. Vệ Thanh ngoảnh mặt làm ngơ, ba ngàn hắc giáp kỵ binh dưới trướng Liễu Duệ trầm mặc không nói, nhìn có vẻ nhũn nhặn nhưng có một loại sức mạnh tinh thần bộc phát ra từ trong xương cốt. Xuất quân đã được gần nửa tháng, kỵ binh Khâu Trạch biểu hiện rất bình thường nhưng lại rất tuân thủ mệnh lệnh, hành động như gió, không một chút lười biếng. Vệ Thanh tấm tắc cho là lạ. Xem ra Liễu Duệ thật sự không phải là người chỉ biết say mê chế tạo ra những công cụ kỳ lạ như Hoàng thượng và mình đánh giá lúc đầu. Tang Hoằng Dương, hắn cúi đấu xuống, không quên cảnh trước lúc mình rời khỏi Trường An, ở trong điện Tuyên Thất, thiên tử đã nửa cười nửa không nhắc tới cái tên này. Liễu Duệ này chẳng phải do Tang Hoằng Dương tiến cử lên sao? Cũng vì lý do này nên Liễu Duệ được cử đến Ngũ Nguyên đã hơn bốn năm mà chẳng hề bị ai gây khó dễ. Điều này cũng không phải vì Liễu Duệ có tài cán gì lớn mà bởi vì thân phận của người huynh đệ tốt Tang Hoằng Dương luôn ở gần thiên tử kia. Mấy năm trước trong vườn ngự uyển của thiên tử, Tang Hoằng Dương tiến cử với Hoàng thượng rằng Liễu Duệ giỏi cầm quân, lúc đó hắn cũng có mặt. Những năm này, Vệ Thanh lặng lẽ quan sát Tang Hoằng Dương làm mưa làm gió ở trong triều, mặc dù chức quan không lớn nhưng những người sáng suốt đều biết rằng hắn rất được lòng Thánh thượng. Thân phận đó có nghĩa là hắn lúc nào cũng có thể gặp mặt Hoàng thượng. Nếu hắn ghen ghét người nào đó rồi dâng lên cáo trạng thì dúng là đối phương không thể chống đỡ nổi. Tuy nhiên, vì xuất thân của Liễu Duệ khi gia nhập quan trường nên cho dù yên ngựa và bàn đạp trong mấy năm chiến tranh Hán Hung đã có công cực lớn nhưng Liễu Duệ vẫn không được quá coi trọng, chỉ giậm chân tại chỗ ở chức vụ giáo úy Ngũ Nguyên nho nhỏ suốt mấy năm qua. Vệ Thanh vừa rong ruổi phi ngựa chạy vừa nghĩ thầm, lần này trở về Trường An thì mọi chuyện sẽ thay đổi rất nhanh. Chỉ cần dựa vào ba nghìn kỵ binh ít ỏi, Liễu Duệ vẫn có thể dễ dàng trở lại Trường An thăng quan tiến bước.
“Huynh nói thử xem”, Hàn Nhạn Thanh lười biếng dựa lưng vào chiếc ghế bọc da hổ trong Tang phủ, thoải mái nheo mắt, mỉm cười hỏi, “Sư huynh hiện giờ tới đâu rồi?”
“Hắn tới nơi nào cũng không quan trọng”, Tang Hoằng Dương cảm giác mình bị người phụ nữ này kiềm chế đến mức không còn nóng nảy được nữa, “Vấn đề là…”, hắn nổi giận nói, “Tại sao muội cứ ở mãi tại chỗ của ta không chịu đi?”
“Ái chà!” Nàng áp tay lên ngực giả bộ như vô cùng đau lòng, “Nói như vậy là làm tổn thương tình cảm rồi, chẳng lẽ nhà của huynh không phải là nhà của muội?” Liếc thấy hắn tức đến phát sặc nàng mới xoa dịu, “Nhà của muội còn đang xây mà, đương nhiên bây giờ phải ở trong nhà huynh chứ.”
Sau khi Tiêu Phương rời đi, nghĩa mẫu vẫn thường tự quét dọn Tiêu phủ sạch sẽ như ngày bọn họ còn ở đó. Hàn Nhạn Thanh cảm thấy lãng phí, nhưng nghĩ tới việc phải đi từ ngoại thành vào nội thành Trường An thì không an tâm nên dứt khoát bỏ ra một khoản tiền lớn mua một miếng đất bên cạnh Tang phủ, rầm rộ khởi công xây dựng.
Tang Hoằng Dương bất đắc dĩ lắc đầu, “Muội tính trở về Trường An sẽ làm những gì?”
“Muội”, Hàn Nhạn Thanh thản nhiên, “Muội muốn mở hiệu thuốc, làm đại phu ngồi chẩn bệnh.”
Nàng đã học y nhiều năm như vậy mà không thực hành thì không thể được. Thực hành thì quan trọng nhất là chữa trị nhiều. Muốn vậy thì không còn gì tốt hơn là mở y quán để mọi người đến khám chữa bệnh, đã thế còn thu được tiền của bệnh nhân nữa. Mặc dù một vài quan Hàn Nhạn Thanh không thiếu nhưng tiền do chính tay mình làm ra vẫn cảm thấy thành công hơn.
“Vậy thì mặc cho muội mệt chết đi”, Tang Hoằng Dương ác độc nguyền rủa.
“Muội nào có ngốc như vậy”, Hàn Nhạn Thanh vênh mặt, “Mỗi ngày muội chỉ mở một lúc, chẩn bệnh chừng mười người, có hơn nữa cũng không tiếp.”
“Muội cho rằng muội là…”, Tang Hoằng Dương muốn châm chọc mấy câu nhưng chợt nhớ ra điều gì liền ngậm miệng.
“Sao cơ?” Nàng nhìn sang vẻ ngạc nhiên.
“Không có gì”, Tang Hoằng Dương gượng gạo.
Nàng nhìn chằm chằm hắn một lát, tin tưởng hắn không thể tính kế gì lừa được mình, mới quay đi.
Vương đình của Hữu Hiền vương ở Mạc Nam.
Một nữ tỳ dáng vẻ khỏe khoắn nhưng xinh đẹp vén rèm bước vào trướng, quỳ gối bái chào, “Vương gia, tôi tới rót rượu mời ngài.”
“Được rồi”, Hữu Hiền vương Lạc Cổ Tư cười lớn, thò tay sờ soạng nắn bóp thân thể người nữ tỳ. “Lại đây, lại đây!”, hắn quay đầu lại nhìn tay trung niên người Hán dưới trướng, “Trung Hành Thuyết đại nhân, ta mời ngươi một chén.”
“Cạn chén, “Lạc Cổ Tư đại nhân tôn kính”, Trung Hành Thuyết mỉm cười uống cạn chén rượu mạnh. Hắn đã sống ở Hung Nô nhiều năm, cũng ăn mặc trang phục Hung Nô chính thống nhưng mọi hành vi vẫn còn mang phong cách của các văn nhân người Hán.
“Người Hán các ngươi chắc không có rượu mạnh như thế này”, Lạc Cổ Tư ngửa đầu cười nói, “Rượu của người Hán cứ như nước lã thì say thế nào được chứ. Đã không thể uống rượu thì làm sao có thể chống lại được người Hung Nô trên thảo nguyên chúng ta?”
Mọi người trong trướng phá lên cười ầm ĩ, Trung Hành Thuyết lắc đầu, “Vương gia, theo tin báo về thì triều Hán đã phái Xa kỵ tướng quân Vệ Thanh thống lĩnh đại quân tiến công Mạc Nam, Vương gia không nên coi thường.”
“Hà!” Người lên tiếng là một dũng sĩ Hung Nô trong bộ lạc của Hữu Hiền vương đứng phía sau, bên tay trái của Trung Hành Thuyết. Gã mặc trang phục hở ngực, cắn một miếng thịt dê nướng lớn đang cầm trong tay rồi vừa nhai nhồm nhoàm vừa nói, “Thằng nhãi Vệ Thanh chẳng qua là em vợ của hoàng đế triều Hán, theo như người Hán các ngươi nói là bám váy đàn bà lên làm tướng, có gây khó dễ được ta?”
“Đúng đấy, đúng đấy!” Trong trướng lại nhao nhao một hồi, ngay cả nữ tỳ rót rượu cũng che miệng cười trộm, không hề có vẻ lo lắng.
“Mọi người chớ quên rằng năm năm trước hoàng đế triều Hán đã phái bốn cánh quân đến tấn công Hung Nô ta”, Trung Hành Thuyết nhướng mày, gằn giọng, “Chỉ có cánh quân của Vệ Thanh là đánh tới tận Long Thành của Hung Nô và giành được thắng lợi, nhờ vậy hắn mới được phong hầu đó.”
Nhất thời trong trướng lặng ngắt, mặt mũi đám người Hung Nô đều lộ vẻ khó coi, “Đây chẳng qua là ngẫu nhiên thôi.” Lạc Cổ Tư cười lạnh nói, “Lúc ấy người Hung Nô vốn không nghĩ tiểu tử chưa ráo máu đầu đó dám đánh đến Long Thành nên chỉ để lại ở đó một ít tàn binh già yếu.”
“Thế thì hai bộ lạc Lâu Phiền, Hưu Đồ ở vùng Hà Tây[2] đâu mất rồi?”, Trung Hành Thuyết nói vẻ kɧıêυ ҡɧí©ɧ, biết rằng làm như vậy sẽ rất không được hoan nghênh nhưng hắn nhất định phải nói, bởi vì nếu như ngay cả hắn cũng không nói thì những người Hung Nô này sẽ tự đại đến mức ngông cuồng.
[2] Hà Tây: Vùng đất phía Tây của sông Hoàng Hà.
“Hiện giờ Lý Tức của triều Hán đã dẫn quân đến Hữu Bắc Bình nhưng Thiền vu vẫn phái ta tới lãnh thổ của Hữu Hiền vương”, Trung Hành Thuyết đứng dậy hành lễ nói với Lạc Cổ Tư, “Chính là hy vọng Hữu Hiền vương có thể coi trọng lần tiến công này của triều Hán, không làm mất uy danh của người Hung Nô, những đứa con của Sói.”
“Ta đã phái Lộ Thiền Nhượng dẫn một đội nhân mã đi ngăn chặn Vệ Thanh rồi.” Không biết là do sợ uy quyền của Thiền vu hay bị Trung Hành Thuyết thuyết phục mà Lạc Cổ Tư cuối cùng cũng phải nói lộ ra.
Trung Hành Thuyết thở phào nhẹ nhõm, “Đại nhân Lộ Thiền Nhượng là dũng sĩ nổi tiếng nganh hàng với Ốc Đề Duẫn trong bộ lạc của Hữu Hiền vương, có hắn thì chắc hẳn có thể ngăn được Vệ Thanh.”
Mặc dù Trung Hành Thuyết không coi trọng Lộ Thiền Nhượng nhưng cũng không thể nói trắng ra. Cũng may Lộ Thiền Nhượng quả thực là một kẻ dũng mãnh, ít nhất có thể ngăn chặn quân tiên phong của Vệ Thanh. Khi tin tức chiến bại truyền tới vương đình, trên dưới bộ lạc của Hữu Hiền vương sẽ coi trọng, vậy thì trận chiến này sẽ ổn rồi.
Nhưng ngay cả Trung Hành Thuyết cũng không ngờ tới, Vệ Thanh ngay từ lúc vừa bắt đầu đã chia quân ngăn cản Lộ Thiền Nhượng còn bản thân mình thì dẫn kỵ binh tinh nhuệ tiến thẳng tới vương đình, trên đường hễ gặp dân Hung Nô là gϊếŧ sạch, lúc này chỉ còn cách vương đình không quá một dặm đường.
Một cuộc chiến tranh không chỉ là sự đối địch giữa tướng quân của hai quốc gia mà còn là sự đối lập giữa vua của hai quốc gia đó. Y Trĩ Tà[3] chắc phải cảm thấy xui xẻo vì đối thủ của hắn lại là Hán Vũ Đế Lưu Triệt, có cả thành Trường An phồn hoa, tuy nhiên lại tạo dựng được trước vương triều hình ảnh một hoàng đế hùng tài nhưng âm trầm, đại lược nhưng bạo ngược.
[3] Y Trĩ Tà thiền vu chính là người cai trị Hung Nô, song song với thời đại của Hán Vũ Đế.
Trong bóng đêm, kỵ quân bọc vó ngựa[4] đang thận trọng tiến sát vương đình Hung Nô, Vệ Thanh vừa cưỡi ngựa vừa phân công nhiệm vụ.
[4] Kỵ quân bọc vó ngựa: Vó ngựa của kỵ quân toàn bộ được bọc vải mềm để tránh gây ra tiếng động khi di chuyển.
“Công Tôn Hạ, ngươi mang năm ngàn nhân mã chặn cổng sau vương đình, không cho một kẻ quan trọng nào chạy thoát.”
“Lý Lãng, ngươi mang năm ngàn nhân mã tạt qua trái.”
…
“Hà phó tướng dẫn đội tìm chuồng ngựa của người Hung Nô, trước tiên phải làm cho ngựa của Hung Nô kinh sợ, ta muốn người Hung Nô không còn ngựa để chiến đấu. Triệu Tín, ngươi mang một đội nhân mã ở giữa phối hợp tác chiến. Ta dẫn quân tấn công chính diện, nghe rõ chưa?”
“Rõ!” Chúng tướng nhất tề nhỏ giọng đáp.
“Hán Thành, ngươi đang suy nghĩ gì?”
“Mạt tướng đang nghĩ tới một câu thơ,”, Liễu Duệ từ từ quay đầu nhìn nghiêng lại, cặp mắt trong trẻo ánh lên trong màn đêm sâu thẳm.
Vệ Thanh cảm thấy buồn cười, Liễu Duệ vốn không phải văn nhân, làm sao có thể trong thời khắc khẩn trương của một cuộc chiến khốc liệt lại nổi lên nhã hứng như thế?
“Nam nhi thà chết trong chiến trận, cần chi uất ức dựng Trường Thành!”
Quân Hán luồn đi trong đêm phát ra những tiếng sột soạt, mái tóc Liễu Duệ bị gió đêm thổi tung, trong khoảnh khắc đã rối bời, thì thầm từng từ một.
Trong phút chốc, Vệ Thanh thất thần.
Nam nhi – thà chết trong chiến trận, cần chi – uất ức dựng Trường Thành!
“Vệ Thanh chính là một người đàn ông chân chính”, Liễu Duệ quay đầu lại, vung roi thúc ngựa xông về phía trước, thầm nghĩ.
Mùa xuân năm Nguyên Sóc thứ năm. Người đế đô Trường An nhiều năm về sau vẫn còn nhớ rằng đây là thời điểm Tứ Dạ y quán[5] nổi tiếng cả nước bắt đầu khai trương. Nhưng vào lúc đó, nó mới chỉ là một y quán nhỏ tầm thường trên phố phía tây Trường An không thu hút quá nhiều chú ý.
[5] Phòng khám nửa đêm.
Nói y quán này nhỏ thì cũng không phải là oan uổng, vì nó chỉ là một y quán nhỏ có mặt tiền hẹp nằm ở khu phố có cửa hàng san sát kinh doanh sầm uất phía tây Trường An, gồm một gian ngoại đường và một gian nội thất. Vị đại phu ngồi ở ngoại đường, phần lớn thời gian không phải là xem bệnh mà là xem sách với vẻ khoan khoái. Phía ngoài y quán có treo một tấm biển hiệu đề: “Ngày khám mười người, bắt mạch hai mươi tiền, sau giờ Ngọ ngừng khám.”
“Chim sẻ tuy nhỏ nhưng vẫn phải đủ ngũ tạng”, Hàn Nhạn Thanh cắn một miếng táo, giọng hờ hững. “Ta không thích phòng trống rỗng. Như thế này…”, nàng thoáng nhìn quanh Tứ Dạ y quán, hài lòng, “…cảm giác như ở nhà vậy.”
Y quán do chính Hàn Nhạn Thanh thiết kế, không cần xa hoa mà chỉ cần vật dụng thật tiện lợi gồm một chiếc ghế trúc có tay vịn và một tủ thuốc nhiều ngăn màu sắc cổ kính chỉ thấy được trong phim truyền hình. Nàng nhắm mắt, tưởng tượng rằng mình đang ở trong nhà, nếu không phải thì cũng là ở bên cạnh sư phụ.
“Ký Giang, muội nhớ Mạch Nhi và Sơ Nhi quá!” Nàng buồn rười rượi nhìn vào bóng cô gái đang giúp mình thu dọn dược liệu, giọng ai oán.
“Khi trận đại chiến Mạc Nam kết thúc thì Liễu đại nhân nhất định sẽ đến Đường Cổ Lạp Sơn đón bọn trẻ”, cô gái lấy vị cam thảo bỏ vào ngăn kéo tương ứng rồi quay lại nói. Nàng ta có gương mặt thanh tú, chính là Mai Ký Giang hát bài Tây Châu khúc cho vợ chồng Tư Mã Tương Như nghe hồi tháng trước.
“Mai tỷ tỷ!”, Hàn Nhạn Thanh nhìn nàng ta đầy thâm ý, “Không chừng đến lúc đó thì Quách sư huynh cũng sẽ trở về. Tỷ tỷ có nhớ huynh ấy hay không?”
“Muội muốn chết hả”, Mai Ký Giang đỏ mặt lên. Nàng ta là con gái của danh y đương thời Mai Lương. Phụ thân nàng ta bị giặc cướp gϊếŧ chết, còn nàng ta được Du hiệp Quách Giải cứu rồi giao cho Hàn Nhạn Thanh chiếu cố. Hàn Nhạn Thanh thấy nàng ta thông minh sáng láng, từ nhỏ đã thừa hưởng học vấn của gia đình nên để cho nàng ta được di chuyển làm việc tùy thích trong các cơ sở kinh doanh của bọn họ.
“Hỏi thật nhé Nhạn Thanh, muội ít tuổi hơn ta à?”, Mai Ký Giang tò mò, “Rốt cuộc năm nay muội bao nhiêu tuổi?”
Hàn Nhạn Thanh cúi đầu xuống. Nàng cũng không biết mình lớn bé thế nào. Những năm qua nàng gọi người này là ca ca, người kia tỷ tỷ chẳng qua vì mình có vóc dáng khá nhỏ. Tất nhiên khi đó Hàn Nhạn Thanh cũng ít tuổi.
“Tỷ cảm thấy thế nào?”, nàng hỏi lại.
“À”, Mai Ký Giang lui lại mấy bước, đánh giá, “Không đoán được, vừa giống như hai mốt hai hai, vừa giống như hai sáu, hai bảy.”
“Suỵt! Coi như chưa nói gì nhé!”, Hàn Nhạn Thanh toát mồ hôi.
Mai Ký Giang cũng nhanh chóng bỏ ngoài tai câu chuyện này, “Y quán làm ăn kém như vậy mà muội không có ý kiến gì sao? Hay là gỡ tấm bảng kia xuống?”
“Muội cũng không thiếu chút tiền đó.” Hàn Nhạn Thanh không buồn quan tâm, “Cái này gọi là ‘Khương thái công câu cá, muốn người tự mắc câu’[6]. Không có người hữu duyên thì muội có biện pháp gì được.” Nàng trông thấy Mai Ký Giang có vẻ lo lắng bèn an ủi, “Yên tâm đi. Chờ một ngày nào đó có người tới thì tự nhiên công việc sẽ tốt. Hiện giờ…”, nàng bỗng nhiên phấn chấn, “Không có việc gì, dược liệu cũng đã đủ, chúng ta nghiên cứu làm hương đi.”
[6] Khương Thái Công tức Khương Thượng thời đầu Xuân Thu, còn gọi là Khương Tử Nha. Khương Thái Công thủa xưa dùng lưỡi câu thẳng và không có mồi để câu cá, con cá nào cắn câu là tự muốn mắc câu. Ông làm như vậy là để chờ đợi minh quân.
Trận chiến tại Mạc Nam cực kỳ khốc liệt, mãi về sau Liễu Duệ hồi tưởng lại vẫn còn chấn động. Cho dù hắn vô cùng anh dũng, có kiến thức hơn người thường cả ngàn năm, nhưng dù sao thì đây vẫn là lần đầu tiên hắn chứng kiến tận mắt nhiều người chết như vậy, người Hung Nô có, người mình cũng có.
“Liễu Duệ”, hắn vừa thúc ngựa vừa tự hỏi, tự cười nhạo mình, “Ngươi không phải tự xưng là cảnh sát đặc nhiệm đệ nhất Trung Quốc sao, nhận ra rõ ràng giới hạn của dân tộc từ lúc nào vậy? Tất cả đều là những sinh mạng đấy.”
Hắn nhớ như in cái chết của Phương Dụ Hàn và Dương Triết, lại tận mắt nhìn thấy hết thảy những sinh mạng quen thuộc hoặc xa lạ lớp này ngã xuống, lớp khác thay lên xông vào cõi chết. Lúc này hắn vẫn còn cảm giác kinh hoàng nhưng khi đó lại bình tĩnh chỉ huy những đợt tiến công, tỉnh táo nhìn chằm chằm vào đám người Hung Nô trong vương đình, lạnh lùng quan sát hướng chạy của Hữu Hiền vương Hung Nô để ra lệnh chặn bắt.
Lịch sử ghi lại rằng mùa xuân năm Nguyên Sóc thứ năm, Vệ Thanh dẫn quân ra Sóc Phương, cấp tốc hành quân đường dài tập kích vương đình của Hữu Hiền vương, đánh cho hắn trở tay không kịp, chật vật chạy trốn về phương bắc. Vì bắt giữ được Ngạc La Đa, đứa con yêu của Tả Hiền vương, hơn nữa Lý Tức ở mặt kia cũng điều binh khiển tướng thỏa đáng nên Tả Hiền vương và thiền vu đã không phái binh trợ giúp Hữu Hiền vương Lạc Cổ Tư. Tuy nhiên Hữu Hiền vương Lạc Cổ Tư vẫn trốn thoát.
Liễu Duệ cười lạnh, gọi Tiết Thực đến hạ lệnh: “Ngươi dẫn năm mươi người lên phía bắc, tùy cơ phán đoán mà lập một chốt chặn phía sau Công Tôn Hạ, nếu Lạc Cổ Tư trốn ra thì phải bắt sống. Nhớ kỹ là không được để người khác thấy.”
“Tuân lệnh!”, Tiết Thực lĩnh mệnh rời đi.
“Tiểu Hổ Tử!”, Liễu Duệ gọi.
Thân Hổ thúc ngựa tới.
“Đệ… cẩn thận một chút. Phải nhớ rằng mẫu thân đệ và tỷ tỷ còn đang ở Trường An chờ đệ.” Liễu Duệ chẳng biết phải nói gì, không thể làm gì khác hơn là vỗ vỗ vai Thân Hổ. Hắn biết Hàn Nhạn Thanh không muốn Thân Hổ bị tổn thương nhưng đối với những người đã trải qua khóa huấn luyện cảnh sát đặc nhiệm như bọn họ thì, muốn trưởng thành nhất định phải kinh qua bão táp. Thân Hổ đã mười sáu tuổi, luyện võ mấy năm nên cũng lớn rồi. Chiến dịch lần này chỉ đơn thuần là đóng cửa đánh chó, hẳn là không chuyện gì xảy ra. Thân Hổ gật đầu, thúc ngựa đi.
“Quân Hán đánh tới rồi!
Vương đình Hung Nô rộng lớn, những tiếng la hét bằng ngôn ngữ Hung Nô ầm ĩ vang dội đêm khuya, cả một vùng hoàn toàn náo loạn. Quý tộc Hung Nô vừa uống rượu hoan ca giật mình tỉnh giấc nhưng vẫn không tin. Lạc Cổ Tư túm lấy tên vệ binh vừa vào trướng báo tin, hung hăng giáng cho một tát, giận giữ gầm lên, “Nói bậy bạ gì đó? Quân Hán làm sao có thể đến được nơi đây. Chẳng lẽ bọn chúng biết bay…”
Hắn chưa quát tháo xong thì mặt đã dần dần biến sắc. Từ xa vọng lại tiếng ngựa hí vang, tiếng la hét chém gϊếŧ ngất trời trong doanh trại khiến hắn hiểu rằng không phải là hạ cấp nói ngoa, vội vàng mặc chiến giáp, xách đao lao ra khỏi lều.
Trong màn đêm, quân Hán như thiên thần giáng trần thúc ngựa xông tới, vung kiếm nhất tề chém gϊếŧ người Hung Nô bất kể trẻ già trai gái. Lạc Cổ Tư giận dữ gầm lên: “Những đứa con của Sói, hãy vung loan đao của các ngươi lên. Người Hung Nô chúng ta là con dân của Trường Sinh Thiên[7], không thể thua kẻ khác.”
[7] Người Hung Nô coi trời xanh là vị thần tối cao đời đời vĩnh hằng, thời cổ họ gọi vị thần của mình là “Trường Sinh Thiên.”
Được Hữu Hiền vương hiệu triệu, binh lính Hung Nô dần bình tĩnh lại, ai nấy khôi phục dũng mãnh, tức thì chém gϊếŧ quân Hán, khó phân thắng bại. Trung Hành Thuyết vội vã từ trong trướng khách xông ra, thấy tình hình như vậy chẳng kịp kinh ngạc, hét lên: “Chém chân ngựa của quân Hán.”
Liễu Duệ từ ngoài chiến trường trông thấy bèn hỏi: “Người đó là ai vậy?” Không ai trả lời, người bên cạnh hắn cũng không biết rõ lắm.
“La Sĩ Vĩ, ngươi bám theo người kia, bắt sống hắn!” Liễu Duệ hạ lệnh. La Sĩ Vĩ là một trong mấy người còn sống trong trận ác chiến Nhất Tuyến Thiên ngày trước.
“Rõ!” La Sĩ Vĩ nhận lệnh, xông thẳng vào chiến trường trong vương đình.
“Mọi người cố gắng lên, giữ vững bên này không cho bọn Hung Nô bỏ chạy.”
“Rõ!” Quân Khâu Trạch lớn tiếng đáp, tất cả đều đã chém gϊếŧ đến đỏ rực cả mắt.
“Không cầu có công, chỉ cầu không tội”, Liễu Duệ nghĩ thầm trong lòng.
Phía bắc doanh trại xuất hiện ánh lửa ngất trời, ngựa chiến Hung Nô kinh hãi lao ra, xông loạn vào đám người. Trong cuộc chiến tranh Hán Hung bao nhiêu năm qua, người Hung Nô luôn giữ thế chủ động tấn công, tuy bị bại trận ở Long Thành, Hà Tây nhưng người Hung Nô ở Mạc Nam chưa thay đổi tập quán này. Vì vậy, khi quân Hán mới bắt đầu tập kích thì chúng luống cuống chẳng biết làm gì, giờ được Trung Hành Thuyết nhắc nhở liền tỉnh ngộ, tập trung sức chém ngựa của quân Hán. Ngựa Quân Hán hoảng sợ, thế công nhất thời hơi rối loạn.
Vệ Thanh dẫn quân vào vương đình, thấy tình hình đó bèn hô lớn ra lệnh: “Xuống ngựa!” Hắn đang ở trong trận tuyến của mình nên nhất thời người Hung Nô không thể tấn công tới. Con tuấn mã hắn cưỡi thuộc loại tuyển chọn trăm con lấy một nên không hề sợ hãi.
Nhờ ánh lửa, Vệ Thanh thấy rõ mặt Hữu Hiền vương ở đằng xa bèn rút từ sau lưng ra một mũi tên, ngắm nghía thật chính xác rồi bắn. Tình thế hỗn loạn đã giấu đi tiếng mũi tên xé gió. Khi Lạc Cổ Tư phát hiện thì mũi tên đã bắn tới sát người. Hắn kinh hãi toát mồ hôi, vung đại đao chém bay mũi tên nhưng chưa kịp thu đao về thì mũi tên thứ hai đã bắn vào vai.
Lúc này quân Hán đã dần dần khống chế được tình thế. Quân Hung Nô tuy hung hãn nhưng không có ngựa, phải đánh giáp lá cà theo kiểu bộ binh, trong khi đó quân Hán quá nhiều, lại dũng mãnh, gϊếŧ người như rác. Cả vương đình chìm trong biển máu, thi thể ngổn ngang khắp nơi.
“Vương gia!” Thị vệ A Sính xông về phía Hữu Hiền vương, “Ngài hãy chạy trước đi!” Nước mắt bi khái chảy tràn trên gương mặt người lính trong một giây, không ai nói gì.
Lạc Cổ Tư đưa tay nhổ mũi tên trên vai ra, hít sâu một hơi, “Người Hung Nô chỉ có hảo hán chết trên chiến trường, không có kẻ hèn nhát chết khi bỏ chạy.”
“Nhưng vương gia đã bị thương, tạm thời rút lui để ngày sau trở lại”, quân Hung Nô đứng quanh cùng khuyên nhủ. Lạc Cổ Tư thê lương nhìn qua vương đình, con dân trong bộ lạc của hắn đã ngã xuống non nửa. Hắn thở dài, nhảy lên con ngựa chiến do thủ hạ dẫn tới.
Vệ Thanh! Trước khi lao đi hắn thầm nhắc trong lòng cái tên này, quay đầu nhìn về phía viên Xa kỵ tướng quân trẻ tuổi, có khuôn mặt đặc trưng của người Hán, “Ta sẽ trở lại!”
Trời dần sáng.
“Tướng quân!” Thám báo quân Hán báo lên, “Đã đánh hạ vương đình, bắt được hơn mười tiểu vương, tỳ tướng thuộc hạ của Hữu Hiền vương, hơn vạn dân chúng trong bộ lạc và rất nhiều súc vật. Hữu Hiền vương Hung Nô tháo chạy, quân Hung Nô liều chết bảo vệ nên chúng ta không ngăn cản được.”
Vệ Thanh ngồi trong trướng. Vị Xa kỵ tướng quân trẻ tuổi giành được thắng lợi như thế này thì trong lòng rất hưng phấn. “Đáng tiếc là không bắt được Lạc Cổ Tư”, hắn thở dài nói.
“Vệ tướng quân, mạt tướng biết tội”, Liễu Duệ bước ra khỏi hàng, cúi đầu quỳ lạy.
“Liễu giáo úy anh dũng gϊếŧ địch, có tội gì?”, Vệ Thanh kinh ngạc, mỉm cười định đỡ hắn dậy.
“Vào lúc trước khi tấn công vương đình, mạt tướng lo lắng có nhân vật trọng yếu của Hung Nô chạy thoát nên cố ý phái thủ hạ Tiết Thực mai phục sẵn ở phía tây bắc vương đình, bắt được Hữu Hiền vương Lạc Cổ Tư đang định chạy trốn về phương bắc”, Liễu Duệ tránh không để Vệ Thanh đỡ dậy, bẩm báo. Trong trướng tức thì bàn tán om sòm.
Công Tôn Hạ có vẻ tức giận, “Liễu Duệ, ngươi lén điều binh thì có còn quân pháp không?”
Liễu Duệ ngẩng đầu liếc nhìn Công Tôn Hạ rồi lại cúi xuống, “Mạt tướng tình nguyện nhận tội.”
“Thôi được!”, Vệ Thanh cuối cùng cũng mỉm cười, lần nữa nâng Liễu Duệ đứng lên, “Liễu giáo úy đúng là có sai nhưng cũng vì lo lắng việc quân, lần này lập được công lớn, khi khải hoàn về triều Vệ Thanh ta sẽ bẩm báo lên Hoàng thượng.”
“Đa tạ tướng quân!”, Liễu Duệ ôm quyền nói, nhưng trong lòng lại khẽ thở dài.
Liễu Duệ trở lại doanh trướng, trông thấy Thân Hổ mặt mày tái nhợt.
“Không phải sợ!” Hắn an ủi, đây là lần đầu tiên cậu bé chứng kiến cảnh chiến trường máu chảy thành sông. Ngay cả hắn cũng không thể thích ứng, huống chi là cậu. “Hãy nghĩ rằng những người Hung Nô này gϊếŧ đồng bào của ta, làm nhục phụ nữ của ta, đệ gϊếŧ bọn họ cũng không ai trách. Ngay cả người Hung Nô chết dưới đao của đệ cũng sẽ không trách. Người ra chiến trường vốn đã phải giác ngộ điều này.”
“Dạ!”, Thân Hổ gật đầu, vẻ mặt đã dễ coi hơn, “À, Liễu đại ca, La Sĩ Vĩ đã bắt được cái người huynh muốn bắt rồi đấy.”
“Tốt! Giải hắn vào đây!”
Thân Hổ gật đầu, vén rèm bước ra ngoài. Liễu Duệ mặt trầm xuống. Những lời hắn vừa nói để thuyết phục Thân Hổ nhưng cũng chính là để thuyết phục chính bản thân mình. Mấy người lính áp giải Trung Hành Thuyết vào, hành lễ rồi đi ra ngoài. Liễu Duệ nhìn Trung Hành Thuyết một lát, “Người là ai?”
“Đại trượng phu đi không đổi tên, ngồi không đổi họ, tại hạ là Trung Hành Thuyết.”
“Hả? Phản gia bán nước mà là đại trượng phu sao?”, Liễu Duệ lạnh nhạt nói.
“Ngươi…”, Trung Hành Thuyết bị Liễu Duệ chọc vào nỗi đau, giận dữ đáp: “Nếu không phải nhà Hán làm hại gia đình ta, gϊếŧ chết vợ con ta thì ta đâu phải đi đến bước đường này?”
“Triều đình có lỗi với ngươi, ngươi lại muốn lấy đồng bào khắp thiên hạ bồi táng[8] ư?”, Liễu Duệ lạnh lùng hỏi, trong lòng băn khoăn, tại sao lại có tình tiết thực như thế này? Chắc không phải là trong bộ phim truyền hình nào chứ? Nói đến phim truyền hình, Trung Hành Thuyết dường như có trong một bộ phim truyền hình, có một đoạn tình duyên với Long Lự công chúa Lưu San, người tỷ tỷ mà Hán Vũ Đế gả sang tận Hung Nô. Liễu Duệ toát mồ hôi, không biết hắn bị lây bệnh của hai cô bé Hàn Nhạn Thanh và Quý Đan Tạp từ lúc nào, chú ý đến cả những chuyện tạp nham này.
[8] Bồi táng: Chôn đồ vật, của cải theo người chếtQuyển 1 - Chương 16: Hai con chưa nguôi nhớ Trường AnCuối năm Nguyên Sóc thứ năm.
Sau khi giành được thắng lợi hoàn toàn trong trận chiến Mạc Nam, Vệ Thanh dẫn quân trở về, tiền quan và hậu quan hợp lại trên thảo nguyên bao vây tiêu diệt tàn quân Lộ Thiền Nhượng của Hữu Hiền vương. Tin báo truyền tới Trường An, Hán Vũ Đế Lưu Triệt cực kỳ vui mừng, chẳng kịp đợi đến lúc đại quân trở về đã phái sứ giả đến tận quân doanh, phong Xa kỵ tướng quân Vệ Thanh làm đại tướng quân, ân sủng vô hạn.
Liễu Duệ coi như không biết, một khi hắn tiến vào kinh thành tụ hội với mấy người trong nhóm thì những ngày tốt đẹp của Vệ gia chắn chắn sẽ phải kết thúc. Hắn nhớ tới Trần Mạch và Trần Sơ lúc này đang ở Đường Cổ Lạp Sơn chợt thấy lòng dịu đi, chỉ mong ngày sau hai đứa bé sẽ không làm cho bọn họ thất vọng, không được quá vô dụng. Thân Hổ đã lên đường đi Đường Cổ Lạp Sơn đón hai đứa về kinh thành ở với Nhạn Thanh.
“Hoàng thượng có chỉ, giáo úy Ngũ Nguyên là Liễu Duệ anh dũng gϊếŧ địch, ban cho một ngàn sáu trăm hộ, gia phong làm Trường Tín hầu.”
“Quân sĩ Tiết Thực bắt sống Hữu Hiền vương Lạc Cổ Tư của Hung Nô, ban phong Kỵ đình úy.”
Tên tiểu thái giám tuyên chỉ cất giọng lanh lảnh đọc ý chỉ của Hoàng đế. Hán Vũ Đế Lưu Triệt lần này rất mạnh tay, phong thưởng cực kỳ rộng rãi. Chỉ cần có công là được phong thưởng, cao hơn một chút sẽ phong hầu. Liễu Duệ cùng mọi người khấu đầu tạ ơn, trong lòng thầm than sao đối với Lý Quảng lại khó khăn như vậy chứ?
“Chúc mừng, chúc mừng.” Vệ Thanh tiếp chỉ xong liền mời đám hoạn quan tuyên chỉ vào trong quân doanh, còn mình thì sải bước đi tới. “Không dám, không dám! Đại tướng quân mới xứng đáng được chúc mừng đó”, Liễu Duệ nói mấy câu khiêm tốn.
“Sau này về kinh…”, Vệ Thanh vui vẻ, “xin mời Trường Tín hầu đến Vệ phủ một chuyến. Vệ Thanh này hết sức ưa thích mạch đao của ngài đấy.” Hắn nói xong thì quay người đi vào trong trướng. Liễu Duệ cười khổ, chỉ sợ ngày sau hai chúng ta đã là những người xa lạ, còn nói gì tới chuyện đến phủ của nhau, thăm viếng gì chứ.
Tháng Bảy Nguyên Sóc thứ năm.
Vệ Thanh vừa mới được phong Đại tướng quân đã trở về Trường An. Trận chiến Mạc Nam giành thêm một bước tiến là củng cố các trấn quan trọng ở Sóc Phương giúp cho đế đô Trường An không còn nguy hiểm bị Hung Nô uy hϊếp trực tiếp. Thiên tử nghĩ tới công lao ba quân chinh chiến nên đích thân đến lầu Chung Cổ nghênh đón để bày tỏ ý ngợi khen. Dân chúng thành Trường An tràn ra khỏi nhà, quan sát Đại tướng quân Vệ Thanh oai phong lẫm liệt cưỡi ngựa trắng đi hiên ngang hùng dũng trên đường phố Trường An. Phía sau hắn là vô số tướng sĩ Đại Hán chẳng sợ chinh chiến sa trường, da ngựa bọc thây vì cuộc sống an vui của trăm họ. Cuối cùng là một hàng dài xe tù được tinh binh canh giữ, đi đầu chính là Hữu Hiền vương Lạc Cổ Tư của người Hung Nô.
“Con ơi!”, một bà lão từ ven đường lao ra, “Con trai ta đã chết bởi tay người Hung Nô. Bọn Hung Nô các người hãy đền mạng cho con trai ta.”
Dân chúng nhanh chóng bị kích động gào thét phẫn nộ, “Đứa con trai nhỏ của ta cũng bị chết trong tay đám người Hung Nô. Bọn người Hung Nô tàn ác.” Có người nhặt rau quả bên cạnh ném tới. Nhất thời, vô số đồ thiu quả thối ném tới tấp vào xe tù khiến quân Hán canh giữ phải cố sức duy trì trật tự nhưng vô ích.
“Đủ rồi!”, Lạc Cổ Tư ở bên trong xe tù nhướng cặp mày rậm lên hét lớn, dù sa cơ thất thế nhưng vẫn toát ra khí phách hào hùng. “Lão tử đã rơi vào tay các ngươi, muốn chém muốn gϊếŧ thì cứ việc, lão tử mà nhíu mày thì không phải là người Hung Nô.”
Mọi người ngẩn ra, vẫn tiếp tục ném đồ vào xe tù nhưng dần dần không nhằm vào Lạc Cổ Tư nữa.
“Hữu Hiền vương của Hung Nô thật sự không đánh mất tư cách của một trang hảo hán! Sư công thấy có đúng không?” Một bé trai chừng năm sáu tuổi vé rèm cửa sổ một cỗ xe bình thường phủ vải xanh đỗ ở ven đường, nhìn mọi người chạy qua, cắn ngón tay rồi quay đầu lại hỏi.
“Ca ca không được cắn ngón tay.” Tảo Tảo vụng về bò qua túm tay Trần Mạch rồi chen đến trước cửa sổ xe, “Tảo Tảo cũng muốn xem.”
“Được rồi, ca ca nhường cho muội”, Trần Mạch trìu mến nói rồi hơi lui sang bên cạnh một chút.
“Thiếu tiểu thư, cẩn thận đấy.” Lục Y lo lắng dặn dò. Bọn họ vào thành cùng ngày với đại quân, đang đứng đợi một bên để nhường đường.
“Ừm”, Tiêu Phương đặt quyển sách trong tay xuống, gật đầu, “Hắn dù là người Hung Nô nhưng khí phách cũng không tệ.”
“Các vị đại gia”, người phu xe phía trước nói to, “Quân đội sắp đi qua rồi. Nghe người Trường An nói, Hoàng thượng tiếp kiến Đại tướng quân Vệ Thanh ở lầu Chung Cổ phía trước. Các vị muốn trở về nhà hay là đi xem náo nhiệt đây?”
“Con muốn đi xem, con muốn đi xem!”, Tảo Tảo vui vẻ huơ huơ nắm tay nhỏ bé.
Tiêu Phương vốn không để ý những chuyện phàm tục như vậy nhưng lại không muốn để Tảo Tảo mất hứng, quay đầu lại nhìn Trần Mạch thì thấy nó không nói nhưng ánh mắt cũng có ý khát khao, bèn bảo Thân Hổ, “Thanh toán tiền cho phu xe, chúng ta qua đó xem.”
Thân Hổ trả tiền, nhảy xuống ôm Mạch Nhi vào lòng, Tảo Tảo chìa tay ra, “Tảo Tảo muốn Lộng Triều ca ca bế.”
Lộng Triều không nói gì, ôm xốc nó lên kiệu ở trên vai. “Khoan đã!”, Quách Giải vội vàng ngăn lại, “Có thể đi xem nhưng bảo hai đứa đeo mặt nạ da người vào đã.”
Thân Hổ kỳ quái nhìn hắn, “Có cần thiết phải làm thế không?” Mạch Nhi trái lại rất vui vừng, “Con muốn đeo!” Gần đây nó rất thích vật này. Nó thấy đeo vào có thể làm cho một người trông lại thành một người khác hoàn toàn thì quá đỗi thần kỳ. Tiêu Phương bật cười rồi đưa cho nó một cái mặt nạ. Bên kia Tảo Tảo thấy ca ca đeo thì cũng không nói gì đeo lên. Đoàn người cõng hai đứa bé hòa vào trong dòng người.
Lầu Chung Cổ.
Một toán tướng sĩ xuống ngựa, Đại tướng quân Vệ Thanh dẫn thủ hạ bái lạy ở dưới lầu, cúi đầu thật sâu, “Thần,Vệ Thanh, tham kiến Hoàng thượng.”
“Trọng Khanh không cần đa lễ”, Hoàng đế mặc áo chùng, tay rộng, nét mặt bình thản đứng trên lầu nói, “Mời đứng lên!”
“Dạ!” Vệ Thanh theo lời đứng dậy, chắp tay cúi đầu, “Vệ Thanh may mắn không làm nhục mệnh, thống lĩnh các tướng sĩ phá được vương đình của Hữu Hiền vương Lạc Cổ Tư của Hung Nô, bắt sống Lạc Cổ Tư và hơn mười tỳ tướng, một vạn năm ngàn tướng sĩ dưới trướng hắn và tổng cộng trăm ngàn vạn bò dê gia súc. Cũng là nhờ anh danh Hoàng thượng vang xa, các tướng sĩ xả thân chiến đấu anh dũng.”
“Tốt!” Tuy Lưu Triệt đã xem chiến báo, nhưng được nghe Vệ Thanh bẩm báo trước mặt dân chúng Trường An thì khuôn mặt vẫn bất giác thoáng hiện nét cười, xóa đi vẻ lạnh lùng. “Dương Đắc Ý, ban thưởng cho Vệ tướng quân một chén rượu.”
“Dạ!” Dương Đắc Ý lĩnh mệnh, ngay lập tức có tên tiểu thái giám bưng ra một cái khay, bên trên có một chén rượu ba chân bằng đồng xanh trông rất cổ xưa. Được ban rượu dưới lầu là vinh dự vô cùng lớn, Vệ Thanh không nén nổi vẻ kích động, tạ hoàng ân rồi nâng chén rượu lên uống một hơi cạn sạch.
“Hay lắm!” Dân chúng Trường An đứng ngoài vòng cấm quân bảo vệ trầm trồ khen ngợi.
Trần Mạch và Trần Sơ ngồi trên vai Thân Hổ và Lộng Triều nên nhìn rõ hơn những người khác, cũng vỗ tay khen hay. Tảo Tảo cười quay đầu lại hỏi ca ca, “Ca ca, người đó uống cái gì mà xúc động như thế?”
“Hình như là rượu”, Trần Mạch chần chừ đáp, thái sư công của nó cũng hay uống rượu nhưng vì nó và Tảo Tảo còn quá nhỏ nên chưa bao giờ được cho uống cả.
Đoàn xe tù chậm rãi đi theo đường ngách tiến vào đại lao.
“Trường Bình hầu, Trường Tín hầu, hai người các khanh theo trẫm tới đây”, Lưu Triệt ra lệnh, đưa mắt nhìn dân chúng Trường An đứng dưới lầu một vòng rồi quay người đi. Đoàn người Tiêu Phương đứng lẫn trong đám đông nên y không để ý đến hai đứa trẻ nhỏ.
Sự náo nhiệt qua đi, Trần Mạch ngồi trên vai Lộng Triều ngó nghiêng một hồi, thấy phía xa có mấy bóng dáng phụ nữ, “Mẫu thân!” Nó gọi to một tiếng, một người trong đó quay đầu lại kinh ngạc nhìn sang, thấy bọn họ thì giật mình, “Mạch nhi!”
“Không ngờ các con lại đến đúng vào hôm nay.” Hàn Nhạn Thanh vừa vui mừng vừa thương xót hôn nhẹ lên má hai bảo bối của mình rồi cùng mọi người quay về Tử Dạ y quán.
“Mời uống trà.” Mai Ký Giang bưng mấy chén trà ra cho mọi người, lúc đưa đến tay Quách Giải thì khuôn mặt hơi ửng hồng. Quách Giải lại không để ý, “Muốn để cho sư muội bất ngờ thôi.” Hắn cầm nắp gạt những lá trà nổi trên mặt nước, nhấp một ngụm rồi đặt chén xuống.
“Chủ quán.” Một nha hoàn áo xanh đi tới, cười nói, “Lần trước phu nhân chúng ta dùng Trầm Thủy hương ở đây, cảm thấy rất tốt nên lại đến mua thêm.”
“Được rồi!” Hàn Nhạn Thanh phất tay, Mai Ký Giang liền vào trong lấy Trầm Thủy hương ra rồi thu tiền.
“Đây là cái gì?”, Lộng Triều tò mò hỏi.
“Hương thơm đấy”, Hàn Nhạn Thanh hăng hái đáp, bảo Mai Ký Giang đem các loại hương thơm mà các nàng nghiên cứu được trong những ngày qua ra, “Đây là Trầm Thủy hương, bình tâm tĩnh khí; đây là Tô Hợp hương, thanh tâm mắt sáng; còn đây là Bạch Chiên Đàn hương, Long Não hương, An Tức hương, Ngũ Diệp Tùng Mộc hương, Tử Đàn hương, Thiên Mộc hương, Cam Tùng hương, Thiên Diệu hương, Thanh Mộc hương, Vân Thủy hương, Huân Lục hương, Sa Lạc Sí hương…, loại nào cũng có tác dụng kỳ diệu.”
Quách Giải im lặng, “Sư muội nghĩ ra được nhiều tên như vậy cũng thật vất vả nhưng sư muội tốt xấu gì cũng là đệ tử của Triêu Thiên môn, vì sao đến nỗi phải đi bán hương chứ?”
Hàn Nhạn Thanh mất hứng, “Còn tốt hơn là huynh chẳng học được chút y thuật nào.” Triêu Thiên môn vốn được xưng là y kiếm song tuyệt, sư phụ Lữ Phi Khanh của Quách Giải chỉ học được kiếm nên hắn cũng không biết gì về y thuật.
“Nhưng công phu của Quách công tử rất tốt mà”, Mai Ký Giang giải vây.
Hàn Nhạn Thanh nhìn nàng ta chằm chằm thật lâu cho đến khi nàng ta đỏ bừng mặt mới quay đi cười khúc khích, “À, mà mọi người đi đường cũng mệt mỏi rồi. Chúng ta đóng cửa hiệu về nhà nghỉ ngơi thôi.”
Mai Ký Giang im lặng, Tử Dạ y quán có một bà chủ không màng việc chính như vậy mà vẫn ăn nên làm ra thế mới là lạ.
“Mẫu thân, chúng con ở Đường Cổ Lạp Sơn đang tốt, sao lại phải đến đây?” Trần Mạch ngồi trên sàn nhà trong phòng mẫu thân, ngẩng đầu lên hỏi.
“Bởi vì nhà của mẫu thân ở Trường An.” Nàng ôm lấy con trai, dụi dụi đầu vào trán nó.
Đúng vậy, cho dù là A Kiều kiếp trước hay Hàn Nhạn Thanh hiện giờ thì quê hương của các nàng đều ở tại ngôi thành cổ này nên nàng đã coi ngôi thành này chính là nhà.
“Nhà của phụ thân cũng ở Trường An sao?”
Cánh tay Hàn Nhạn Thanh chợt sững lại. Hồi hai đứa bé vẫn còn ở trên Đường Cổ Lạp Sơn, không biết là vì ý riêng hay để tránh phiền toái mà nàng chưa bao giờ nhắc đến người cha của chúng ở trước nặt chúng. Mọi người trên núi cũng phối hợp ăn ý nên cũng chưa bao giờ nhắc tới. Vì thế trong một thời gian rất dài Mạch nhi và Sơ nhi không biết đến hàm nghĩa của từ này. Sau khi biết chúng liền hỏi nhưng thấy nàng khóc một trận lớn thì không bao giờ hỏi lại nữa.
“Tại sao Mạch Nhi lại hỏi như thế?” Nàng quay mặt, cảm giác sống mũi cay cay.
“Nếu mẫu thân không thích thì Mạch Nhi không hỏi nữa.” Mạch Nhi hơi hoảng, nhào vào lòng nàng, “Con nhớ mẫu thân quá!”
“Ừ, mẫu thân biết rồi.” Nàng rầu rĩ nói, không phủ nhận rằng việc nàng đã khóc sướt mướt ở Đường Cổ Lạp Sơn lần trước chỉ là hành động tình thế vì không biết phải trả lời thế nào nên làm vậy để cho lũ trẻ không hỏi nữa. Nhưng ở Đường Cổ Lạp Sơn thì còn có thể, về Trường An thì nàng không thể nào né tránh vấn đề này nữa.
“Mẫu thân!” Tảo Tảo dụi dụi mắt tỉnh dậy, cười toét miệng sán đến bên nàng, “Con ngoan lắm đấy, rất nghe lời ca ca.”
“Được rồi”, nàng buồn cười kéo dài giọng, “Tảo Tảo muốn mẫu thân thưởng cho con cái gì đây?”
“Con muốn uống rượu có được không?” Nó vừa hỏi đã thấy mẫu thân xịu mặt nên vội vàng bổ sung: “Một chén thôi.” Nó vừa nói vừa giơ một ngón tay ra để nhấn mạnh.
Hàn Nhạn Thanh bị nó chọc, cười phá lên, gật đầu, “Được rồi!”
“Biết tại sao trẫm giữ các khanh lại không?” Trong điện Tuyên Thất, Lưu Triệt chắp tay mỉm cười nhìn hai người.
Vệ Thanh và Liễu Duệ liếc mắt nhìn nhau, cùng chắp tay đáp “Thần không biết.”
“Trận đại chiến Mặc Nam lần này, hai người các khanh đã lập công rất lớn.” Lưu Triệt đứng ở sau ngự án, nghiêm mặt nói, “Trẫm đã được an ủi, nhưng còn chưa đủ.” Y lạnh mặt, xoay người sang chỗ khác, “Người Hung Nô lòng lang dạ thú tất không chịu từ bỏ ý đồ. Vệ Thanh, khanh trở về phủ rồi thì lúc nào cũng phải nhớ luyện binh nghĩ kế, trẫm muốn khanh sang năm lần nữa xuất chiến biên cương, không đánh cho Hung Nô không còn sức chống cự thì trẫm không bỏ qua.”
Vệ Thanh không hề kinh ngạc, cúi đầu lớn tiếng nói: “Tuân chỉ.” Đối với tướng soái mà nói, có một vị quân chỉ quyết đoán như thế cũng là một điều khích lệ.
“Tốt. Có lẽ khanh đã lâu không về kinh rồi, đến điện Tiêu Phòng thăm tỷ tỷ của khanh đi”, vẻ mặt của Lưu Triệt dịu xuống.
Vệ Thanh lui ra, Lưu Triệt chuyển sang Liễu Duệ, “Trường Tín hầu”, vẻ mặt y không chút thay đổi, “Khanh xuất thân thế nào? Làm sao lại quen với Trị túc đô úy Tang Hoằng Dương?”
“Hồi loạn Thất vương thì Liễu Duệ là cô nhi”, Liễu Duệ đáp trơn tru, “tầm sư học đạo, sư phụ là người ở ẩn trong núi sâu. Sau khi sư phụ mất, thần xuống núi, làm quen du hiệp Quách Giải. Rồi làm quen với nghĩa muội và Tang đại nhân.”
“Ừ, tầm sư học đạo, cũng có chút đạo lý.” Lưu Triệt khẽ gật đầu, vẻ mặt cũng tươi lên. “Khanh dâng lên bàn đạp và yên ngựa, còn cả mạch đao nữa, đều là những thứ tốt. À phải, còn có giấy nữa”, y nhìn Liễu Duệ chằm chằm, thấy hắn vẫn thản nhiên lại tiếp tục nói, “Trẫm ban thưởng cho khanh một tòa phủ đệ ở ngoại đô Trường An. Khanh hãy tiếp tục nghiên cứu chế tạo các loại như vậy đi.”
“Tuân chỉ”, Liễu Duệ lớn tiếng đáp, quỳ xuống bái lạy.
“Trẫm cũng mệt rồi, khanh lui ra đi.”
“Dạ.”
Tang Hoằng Dương đến Trần phủ vừa lúc Lục Y đang bê chậu nước từ trong phòng đi ra, trông thấy hắn nhưng không rảnh tay nên chỉ bối rối chào hỏi, “Chào Tang đại nhân.”
“Ừm”, hắn đáp gọn, ban nãy được Chiêu Tài báo tin nên hắn đã vội vàng trở về, “Tiểu thư nhà cô đâu?”
“Đang thoa thuốc cho Mạch thiếu gia”, Lục Y bĩu môi, thấy vẻ mặt ngạc nhiên của Tang Hoằng Dương liền mỉm cười nói, “Lúc ăn cơm tối, thiếu tiểu thư làm ầm ĩ đòi uống Bích Nhưỡng Xuân, Mạch thiếu gia cũng cùng uống vài hớp, kết quả là bị mẩn rượu, tiểu thư đang thoa thuốc cho.”
Tang Hoằng Dương để cho Lục Y lui ra rồi tự đi vào phòng. Quả nhiên hắn trông thấy Nhạn Thanh đang trộn thuốc cho một bé trai chừng năm sáu tuổi, dáng vẻ mệt mỏi nằm dài trên chiếc giường trong phòng. Cậu bé thấy hắn mở cửa vào thì đưa mắt nhìn sang, ánh mắt lấp lánh như sao. Trên da mặt, da tay cậu bé chi chít những vệt mẩn đỏ không nhìn ra hình dạng gì, vẻ mặt khổ sở. Một cô bé ước chừng cùng tuổi đứng ở cạnh đang cố sức thổi vào mặt cậu bé, dịu dàng thì thầm, “Ca ca đừng đau nhé.”
Lòng Tang Hoằng Dương chợt mềm nhũn. Đây chính là hai đứa bé Nhạn Thanh sinh ra, đã lớn thế này rồi.
“Không phải là ca ca đau…”, Mạch nhi cố sức trả lời, “mà là ngứa ngáy.” Nó thò tay định gãi.
“Không được”, Hàn Nhạn Thanh tóm ngay tay con trai, lấy thuốc trừ ngứa tiêu mẩn thoa lên. Cũng may là khi xây dựng Tử Dạ y quán, Hàn Nhạn Thanh đã giữ lại một ít dược liệu ở nhà nên dễ dàng tìm được.
“Con có thấy đỡ chút nào không?”
“Đỡ hơn một chút rồi”, Mạch Nhi tội nghiệp đáp. “Thúc thúc là ai?”, nó ngửa đầu nhìn Tang Hoằng Dương.
“Ta họ Tang, các cháu có thể gọi ta là Tang thúc thúc”, Tang Hoằng Dương đi tới, âu yếm nói.
Mạch Nhi và Tảo Tảo nhìn sang mẫu thân, thấy mẫu thân mỉm cười thì cùng lên tiếng chào thúc thúc.
“Được rồi.” Tang Hoằng Dương bế Tảo Tảo lên, thấy cô bé đúng là mặt hoa da phấn, khá giống Hàn Nhạn Thanh thì lòng càng yêu thích. Hắn lục lọi trong ngực hồi lâu rồi lấy ra một chiếc vòng ngọc phỉ thúy đeo vào cổ chân cô bé, “Thúc thúc vừa mua trên đường về, cho Sơ Nhi. Còn chiếc lắc như ý này thì để cho Mạch Nhi.”
Hàn Nhạn Thanh cười, căn dặn: “Tảo Tảo, con chơi với ca ca.” Nàng đứng dậy ý bảo Tang Hoằng Dương cùng đi ra ngoài.
“Liễu Duệ đâu?”
“Hắn cùng Vệ đại tướng quân được vời vào điện Tuyên Thất, ta nghĩ lát nữa sẽ trở về.”
“Hoằng Dương”, Hàn Nhạn Thanh cúi đầu nhìn mũi giày thêu dưới chân mình, một lúc sau mới chuyển nhìn sang chỗ khác, “Hôm nay muội trông thấy y ở lầu Chung Cổ.”
“… Ồ.” Một lúc lâu sau Tang Hoằng Dương mới cúi đầu đáp một tiếng.
“Muội vẫn không nghĩ sẽ quay lại với y”, Hàn Nhạn Thanh vẫn không nhìn hắn mà chỉ nói một mình, “Muội biết huynh có ý đồ, mà bằng nỗ lực của chúng ta thì không phải là không thực hiên được. Cho tới bây giờ, không phải là tất cả đang được tiến hành rất tốt sao?”
“Muội… hy vọng huynh hiểu được ý muội.”
Hàn Nhạn Thanh xoay người trở về phòng. Tang Hoằng Dương nhìn chằm chằm vào bóng lưng của nàng, ánh mắt thâm trầm hiếm thấy, “Nhạn Nhi”, hắn thở dài, khẽ nói, “Tình hình trước mắt đã ở thế cưỡi hổ khó xuống rồi.”
“Tang Hoằng Dương.” Từ cửa ngách có một người đi ra. Đó chính là Tiêu Phương, sắc mặt lạnh lùng, “Ngươi định làm gì đó?”
“Tiêu tiên sinh”, Tang Hoằng Dương cười thanh thản vô hại, bước tới kéo tay hắn, “Ta thì có thể làm gì? Đã lâu rồi không gặp, nào, chúng ta đi uống rượu đi!”
Tiêu Phương bình tĩnh nhìn hắn một lúc lâu, mặc cho hắn lôi đi, khẽ nói, “Cho dù thế nào thì cũng không được làm Hàn Nhạn Thanh bị tổn thương.”
“Sao thế được chứ?” Tang Hoằng Dương đáp, từ từ buông tay.Quyển 1 - Chương 17: Cầu y tìm thuốc phải làm thế nàoNăm xưa Trần quận chúa, danh chấn khắp Trường An
Hôm nay là Tử Dạ, tay vàng cứu bệnh nhân
Cung Vị Ương truyền ý, vua vời làm thái y
Hận sâu chẳng muốn gặp, việc chấn động kinh kỳ
Vua buồn vì lâu lắm, chàng thiết bặt tin mừng
Chỉ hát “Giai nhân khúc”, rồi mất hẳn hành tung
Ruổi xe về phía trước, phía trước có tri âm
Thành Tức Mặc nương náu, quê nhà chẳng ghé thăm
Nữ nhi mà quyết đoán, hơn cả đấng mày râu
Biết trước không thể tránh, mộng xưa khó cưỡng cầu
(Thủ thi)
Mai Ký Giang cho rằng với tính tình biếng nhác thế này của Hàn Nhạn Thanh thì Tử Dạ y quán chỉ có thể bán hương thơm, không thích hợp mang cái tên y quán. Nhưng rồi nàng ta cũng phải thừa nhận khi vận đỏ đến thì có muốn ngăn cản cũng không ngăn được. Một hôm, một vị phu nhân nhà đại gia đi vào y quán chọn một thẻ hương cầm thật lâu rồi bỗng nhiên nắm chặt lấy y phục dường như không thở nổi. Hàn Nhạn Thanh dùng kim châm cứu mấy chỗ mới thuyên giảm. Sau này mới biết vị phu nhân này chính là vợ của Tể tướng Công Tôn Hoằng. Công Tôn Hoằng nhậm chức sau khi Lưu Triệt phế hậu nên phu nhân của ông ta tất nhiên không nhận ra A Kiều. Bà bị chứng bệnh tim bẩm sinh không thể chữa trị tận gốc, chỉ có thể điều trị tạm thời. Hàn Nhạn Thanh kê một toa thuốc, dặn bà trở về ngày dùng một lần, chừng mười ngày thì sẽ chuyển biến tốt hơn. Được Công Tôn phu nhân lấy mình làm gương, Tử Dạ y quán nhanh chóng nổi danh khắp thành Trường An. Đương nhiên, chuyện này cũng nhờ khá nhiều vào những quy định kỳ quái của Hàn Nhạn Thanh. Ví dụ như tấm bảng hiệu treo bên ngoài từ lúc y quán khai trương. Tử Dạ y quán lúc đầu vắng ngắt một phần cũng vì tấm biển hiệu này. Một số người không coi cái biển hiệu này là gì vì dù sao cũng không có ai chê tiền cả. Thế nhưng cứ đến trưa hoặc là chẩn mạch cho mười người xong là Hàn Nhạn Thanh bảo đóng cửa về nhà chơi với con gái. Lúc đầu Mai Ký Giang hào hứng nhận việc này, nhưng khi mọi người phát hiện rằng không có đại phu nào từ trước đến nay có y thuật cao minh hơn vị đại phu này thì đều muốn được chờ đến ngày hôm sau. Cũng có người tức giận nghĩ y quán này kiêu ngạo như vậy thì không thèm khám ở đây xem họ có thể đứng vững được không. Nhưng rốt cuộc có rất nhiều bệnh nan y, mãn tính đến tay đại phu của Tử Dạ y quán đều chuyển biến tốt. Vì vậy người lũ lượt kéo đến, e là Hàn Nhạn Thanh có nâng tiền chẩn bệnh lên tới trăm tiền cũng không ngăn được. Thậm chí, mọi người còn lấy y quán để đặt tên, gọi nàng là Trần Tử Dạ. Hàn Nhạn Thanh quá mệt mỏi, cuối cùng cũng hiểu được một nguyên tắc của kinh tế thị trường là khi cầu vượt cung thì trông chờ vào việc điều chỉnh giá sẽ là vô ích. Nàng lại giảm tiền chẩn mạch xuống chút ít.
“Cuộc sống là như vậy…”, Hàn Nhạn Thanh bế Tảo Tảo đi trên đường phố Trường An, nàng khó khăn lắm mới trốn được ra khỏi y quán, hối hận về chủ ý lập y quán điên rồ của mình ngày trước, than thở, “khi nào mới kết thúc đây?”
Tảo Tảo cười tươi tắn, vung vẩy chiếc trống con trong tay.
“Sao vậy?”, Liễu Duệ bật cười quay lại nhìn nàng, ác ý chọc vào vết thương, “Tự gây nghiệt thì không thể sống.”
Từ sau ngày vào điện Tuyên Thất ra mắt Hoàng thượng, Liễu Duệ căn bản luôn luôn nhàn rỗi. Phủ Trường Tín hầu còn chưa khánh thành nên hắn cứ thế ở lại Tang phủ. Lưu Triệt giao cho hắn nhiệm vụ nghiên cứu chế tạo binh khí mới, nhìn như thể sẽ tốn rất nhiều sức lực nhưng thực tế vào tay hắn thì chẳng qua cũng chỉ bằng một bữa sáng. Năm ngàn kỵ binh Khâu Trạch của hắn đã bị điều vào quân phương bắc, mặc dù không do hắn trực tiếp điều động quản lý nhưng hắn có tự tin có thể nắm chắc đội quân này trong lòng bàn tay.
Hàn Nhạn Thanh trừng mắt nhìn hắn, “Huynh có thời gian rỗi, hay là dạy Mạch Nhi đạo cầm quân.”
Trần Mạch được Liễu Duệ dắt đi dắt lại trên đường phố Trường An, đang tò mò quan sát thành phố phồn hoa ồn ã, chợt nghe nhắc đến tên mình bèn ngẩng đầu nhìn hai người, bừng bừng khí thế hỏi, “Học cái gì ạ?”
Liễu Duệ toát mồ hôi, “Nó mới năm tuổi thì học làm gì.” Kể từ khi Liễu Duệ và Tang Hoằng Dương gặp cặp sinh đôi ai thấy cũng yêu này, bọn họ cưng chiều còn hơn cả mẫu thân của chúng. Nhưng bọn họ cũng hiểu rằng cưng chiều quá sẽ làm hại đến ý chí của con trẻ. Gần đầy Hàn Nhạn Thanh và Tiêu Phương đã dạy bọn nhỏ rất nhiều, vì sự an toàn sau này nên cũng đã dạy Trần Mạch một chút bản lĩnh thực tế. Hai người đưa mắt nhìn nhau, trong lòng cùng một ý nghĩ.
“Mẫu thân!” Tảo Tảo kêu, “Chúng ta định đi đâu đây?”
Hàn Nhạn Thanh dừng bước, giờ mới phát hiện mình đã vô tình đi tới gần phủ Đường Ấp hầu.
Phủ Đường Ấp hầu sơn son gác tía, mặc dù thiếu đi một bà hoàng hậu tại vị nhưng nhìn bề ngoài thì vẫn uy nghiêm đường hoàng như xưa. Hàn Nhạn Thanh đứng trong một góc khuất bên ngoài cửa chính Hầu phủ nhìn sang thấy cửa lớn huy hoàng, các thiếu niên áo đẹp ngựa quý vênh váo tự đắc ra ra vào vào, có cả người quen kẻ lạ. Nàng thấy cay cay mắt, chợt nghe thấy Tảo Tảo gọi rối lên, cúi đầu nhìn xuống thấy con gái đang tròn xoe đôi mắt lo lắng.
“Mạch Nhi! Tảo Tảo!” Nàng ngồi sụp xuống, dịu dàng nói, “Mẫu thân nói cho các con biết nhé, mẫu thân của mẫu thân sống ở nhà này đó.”
“Mẫu thân của mẫu thân!” Tảo Tảo mắt long lanh, cái hiểu cái không, lại hỏi: “Chẳng phải chúng ta có Thân bà bà rồi sao?”
“Không phải thế đâu. Thân bà bà là nghĩa mẫu của mẫu thân, người trong này mới là mẫu thân của mẫu thân đó.”
“Bà có thương ca ca và Tảo Tảo giống như mẫu thân không?”
“Có chứ!” Hàn Nhạn Thanh khẳng định, “Nếu như bà biết Mạch Nhi và Tảo Tảo, nhất định sẽ rất thương Mạch Nhi và Tảo Tảo. Bởi vì…”, nàng nghiêng đầu mỉm cười, “bởi vì bà rất yêu mẫu thân, mẫu thân lại rất yêu các con, cho nên bà cũng sẽ rất yêu các con.” Nàng cầm tay con chậm rãi đi ngược trở lại trước ánh mắt lộ rõ vẻ kỳ quái của Liễu Duệ. Liễu Duệ không hiểu rằng từ một góc độ khác thì nàng chính là tổng hợp của Trần A Kiều và Hàn Nhạn Thanh, cho nên nàng có tình cảm sâu đậm với Trưởng công chúa Quán Đào.
“Sư huynh”, nàng cười tươi tắn, “Chúng ta về nhà đi.”
Nàng đã thừa nhận nơi này là nhà!
Đầu năm Nguyên Sóc thứ sáu.
Thời gian như nước nhẹ trôi dưới chân cầu. Năm Nguyên Sóc thứ năm cứ thế qua đi, thoáng cái đã sắp đến năm mới. Một năm qua, bên trong Đại Hán không xảy ra thiên tai, bên ngoài đại thắng Mạc Nam dương oai với Hung Nô, khắp chốn mừng vui. Lại đúng vào dịp cuối năm nên đế đô Trường An giăng đèn kết hoa ăn mừng năm mới. Tuy nhiên trên dưới cung Vị Ương lại lờ mờ xuất hiện không khí khẩn trương.
Hoàng tử trưởng Lưu Cứ bệnh lâu chưa lành. Lúc đầu Lưu Cứ cũng chỉ bị cảm lạnh, vốn là thứ bệnh mà trẻ con rất dễ mắc phải, vì thế Vệ hoàng hậu dù có chút không vui nhưng cũng không trừng phạt đám nô bộc nội thị chăm sóc tiểu hoàng tử. Ngự y xem mạch xong thì kê một phương thuốc, nói cũng không nghiêm trọng, nhưng tiểu Hoàng tử uống thuốc mà không thấy khá hơn. Chuyện này kéo dài hơn nửa tháng, thoáng chốc đã đến cuối năm.
Điện Tuyên Thất.
“Quốc khố Đại Hán ta đã hao phí không ít sau nhiều năm liên tục dụng binh đánh Hung Nô. Thần nghĩ có thể thực hành biện pháp quy sắt và muối về của công để tăng thêm thu nhập quốc gia.”
“Ồ!”, Lưu Triệt vỗ án, nói với vẻ ưu tư, “Mặc dù suy nghĩ của Hoằng Dương không tệ, nhưng muối và sắt đều do các vương gia chư hầu nắm trong tay rồi.”
Tang Hoằng Dương thoáng cười, từ năm Nguyên Sóc thứ hai, Lưu Triệt đã tiếp nhận đề nghị của Chủ phụ Yển ban bố lệnh cắt bớt ân sủng, bắt đầu từng bước đối phó với vương gia chư hầu.
Công Tôn Hoằng bên cạnh tiến lên can gián, “Vương gia chư hầu vốn nên chia sẻ gánh nặng với Hoàng thượng. Hoàng thượng có thể hạ lệnh thu hồi độc quyền bán muối và sắt.”
Cấp Ảm ở một bên cả giận nói, “Quyền khai thác muối và sắt thuộc về chư hầu là do Cao Tổ lúc còn tại thế ban cho họ. Công Tôn Hoằng, ngươi giờ lại muốn quy về của công, có phải muốn đẩy Hoàng thượng vào chỗ bất nhân bất nghĩa, quên nguồn quên gốc?”
Tang Hoằng Dương thầm than, lão Cấp Ảm này cậy là cựu thần, thật sự là… Hắn liếc trộm thấy sắc mặt âm trầm của Lưu Triệt thoáng động, đúng lúc ấy bên ngoài điện truyền vào âm thanh ầm ĩ. Lưu Triệt lạnh lùng ngẩng đầu hỏi, “Bên ngoài có chuyện gì?”
Một lát sau, Dương Đắc Ý đi vào bẩm báo, “Bệnh cảm lạnh của Hoàng tử trưởng điện hạ chuyển nghiêm trọng hơn, Hoàng hậu nương nương không dám tự ý quyết định nên phái người bẩm báo Hoàng thượng.”
Lưu Triệt bực bội, vớ luôn chiếc chén bên cạnh ném thẳng xuống mặt sàn vỡ nát tan, “Đám ngự y kia làm gì mà mấy cái bệnh cảm vặt cũng không trị được, nuôi bọn chúng có ích gì?”
Tất cả cung nữ trong điện Tuyên Thất đều quỳ xuống, im như thóc, “Hoàng thượng!”, Tang Hoằng Dương cười vang, “Vi thần cũng đã được nghe nói về bệnh cảm lạnh của hoàng tử trưởng điện hạ. Thần biết phía tây thành Trường An có một y quán, ở đó có một loại hương thơm tên gọi là Ngũ Diệp Trầm Thủy có công hiệu bình tâm tĩnh khí cũng tốt cho bệnh cảm lạnh của trẻ nhỏ, vi thần cả gan xin để Hoàng tử trưởng thử một chút.”
“Thật không?”, Lưu Triệt nhìn hắn, “Chẳng qua chỉ là một loại hương thơm mà lại có công hiệu như thế sao?”
“Ngũ Diệp Trầm Thủy hương này đúng là có chỗ thần kỳ, nếu Hoàng thượng không tin, có thể hỏi thừa tướng Công Tôn.”
“Hoàng thượng!” Sắc mặt Công Tôn Hoằng hơi lúng túng, “Đúng là gần đây thê tử của thần ở nhà có sử dụng một loại hương thơm, mặc dù thần già rồi nhưng được ngửi hàng ngày thì thấy cũng có hiệu quả làm cho tinh thần được sáng suốt. Nhưng hương thơm có thể trị được bệnh cho hoàng tử trưởng hay không thì cựu thần không biết. Chỉ biết là…”
“Biết cái gì?”
“Chủ của Tử Dạ y quán có y thuật rất cao minh, thê tử thần bị bệnh tim từ nhỏ, được Hoàng thượng ân điển ban ngự y đến chữa trị nhưng cũng chỉ có thể miễn cưỡng khắc chế, tháng trước lấy thuốc ở Tử Dạ y quán thì gần như không còn tái phát.”
“Vậy à?” Lưu Triệt nghe xong bèn quay sang phân phó, “Dương Đắc Ý.”
“Có nô tài.”
“Ngươi dẫn người đến Tử Dạ y quán lấy một chút Trầm Thủy hương.”
“Dạ.”
“Nếu sức khỏe của Hoàng tử trưởng chuyển biến tốt lên”, Lưu Triệt cười nhạt, trong khóe mắt ánh lên ý tứ kỳ quái, “Tang Hoằng Dương, trẫm chắc chắn sẽ có khen thưởng.”
“Thần không dám, chia sẻ âu lo, cởi bỏ gánh nặng cho Hoàng thượng là bổn phận của thị thần”. Tang Hoằng Dương vẫn một mực giữ lễ.
Chiêu Tài trông thấy Tang Hoằng Dương từ trong cung đi ra thì vội vàng nghênh đón, “Thiếu gia, khí trời lạnh rồi, chắc tuyết sắp rơi”, nói xong liền phủ thêm cho chủ nhân một cái áo khoác.
“Ừm.” Tang Hoằng Dương vừa mặc áo vừa đi về phía xe ngựa. “Trường Tín hầu và Nhạn Thanh tiểu thư gần đây đang làm cái gì vậy?”
“Liễu hầu gia gần đây dọn về phủ đệ của mình, bắt đầu chế tạo nỏ lớn. Nhạn Thanh tiểu thư thì cứ sáng sớm là tới y quán, trước giờ Ngọ thì trở về, tiểu thiếu gia và thiếu tiểu thư gần đây đều đi theo tiểu thư.”
“Thiếu gia”, Chiêu Tài hạ thấp giọng, “Bãi cỏ bên kia, có phải… nữa hay không?”
Tang Hoằng Dương ngần ngừ một lát rồi đáp, “Thôi đi”, hắn cười khổ, biết bản thân dù sao cũng không thể coi mạng người như cỏ rác, “Những huyền cơ trong đó, dù có người điều tra ra được thì cũng không hiểu nổi đâu.”
Điện Tiêu Phòng.
“Hoàng thượng!” Vệ Tử Phu dẫn mọi người quỳ lạy khi Lưu Triệt sải bước vào điện Tiêu Phòng. Lưu Triệt nâng nàng ta dậy, “Tử Phu, nàng đã là hoàng hậu, không cần phải đa lễ như thế.”
“Nô tỳ không dám”, Vệ tử Phu dịu dàng đáp, mái tóc xõa ra như dòng suối đen óng ả, “Tất cả đều là nhờ ân điển của Hoàng thượng, Tử Phu cam tâm tình nguyện.”
Lưu Triệt cười vẻ hài lòng, đi vào điện, “Cứ Nhi thế nào rồi?”
“Hoàng thượng sai nội thị đưa tới năm nén hương Diệp Trầm Thủy, Tử Phu đã mời các ngự y xem thử, mặc dù không biết có đúng bệnh hay không nhưng đều nói là vô hại, do đó Tử Phu mới sai người thắp lên ở trog phòng của Cứ Nhi. Nói ra cũng thật kỳ lạ, bệnh trạng của Cứu Nhi đã khá lên nhiều.”
“Vậy à?” Lưu Triệt cúi xuống nhìn đứa con trai độc nhất của mình. Lưu Cứ lúc này còn nhỏ, mới chừng bốn năm tuổi, đang ngủ say trong chiếc giường nhỏ, gương mặt hồng hào, coi như đã an ổn.
“Hoàng thượng!” Vệ Tử Phu mắt đỏ hoe, đứa con trai này liên quan tới bốn mẹ con nàng ta, thậm chí là cả gia tộc họ Vệ, thật sự không dám có nửa điểm sơ suất, “Trầm Thủy hương mặc dù tốt, nhưng Cứ Nhi cũng không thể dùng hương này mãi được. Nô tỳ nghe nói, đại phu chế ra Trầm Thủy hương có y thuật cao minh, có thể mời hắn xem bệnh cho Cứ Nhi một lần được hay không?”
“Tử Phu nghe từ đâu vậy?” Lưu Triệt đứng dậy nhìn nàng ta, ánh mắt lóe lên một tia sắc nhọn, giọng nói âm u. Vệ Tử Phu kinh hãi, quỳ nói, “Lúc Trầm Thủy hương được đưa tới, nô tỳ lo lắng nên đã hỏi nội thị đưa hương mấy câu.”
Khuôn mặt Lưu Triệt giãn ra, đi lại vài bước, trầm giọng, “Y thuật của đại phu kia có tốt hơn nữa thì vẫn là người ngoài cung, làm sao có thể mời vào cung Vị Ương được chứ?”
“Hoàng thượng!” Vệ Tử Phu buồn bã cầu khẩn. Lưu Triệt nhìn dung nhan đáng thương của nàng ta, lại nghĩ tới đây là con trai độc nhất của mình, lúc vừa sinh đã khiến y rất vui vẻ nên mềm lòng. “Để trẫm điều tra xem, nếu không có gì khả nghi trẫm sẽ đồng ý với nàng, cho người đi mời.”
Lúc này, hai người nam nữ trong điện Tiêu Phòng cũng không biết, bởi vì một câu nói kia mà sinh ra biết bao nhiêu biến hóa trong tương lai. Nếu Vệ Tử Phu biết cũng chẳng thể oán hận thỉnh cầu của mình ngày hôm nay, vì cái gọi là “Thành nhờ Tiêu Hà, bại cũng bởi Tiêu Hà”[1]. Nàng ta đặt toàn bộ hy vọng vào Lưu Cứ nhưng cũng chính bởi Lưu Cứ mà tất cả hy vọng tan thành mây khói. Còn nếu như Lưu Triệt biết được thì thà rằng nguyện đời này kiếp này vĩnh viễn không gặp lại, hơn nữa còn hối hận năm đó không chịu quay đầu lại nhìn dung nhan kiều diễm của cô gái kia.
[1] Tiêu Hà (? – 193 TCN) vốn là người huyện Bái (ở vùng Giang Tô ngày nay), là Thừa tướng nhà Hán. Tiêu Hà cùng với Trương Lương, Hàn Tín là “Tam kiệt nhà Hán.” Ông có đóng góp nhiều trong thành công của Lưu Bang trong thời Hán Sở tranh hùng. Ông cũng là người có công giúp Hàn Tín đến với Lưu Bang nhưng đồng thời cũng có phần nào trách nhiệm trong cái chết của Hàn Tín, việc này trở thành một ngạn ngữ của Trung Quốc: “Thành nhờ Tiêu Hà, bại cũng bởi Tiêu Hà.”
Đêm đã về khuya, Tang Hoằng Dương ở trong phủ đệ của mình nhìn vầng trăng sáng trên trời cao, thở dài, “Nhạn Nhi, muội chớ trách ta.”
Tử Dạ y quán.
“Mẫu thân ơi, chúng ta phải về nhà chứ?”, Tảo Tảo hỏi.
“Ừ”, Hàn Nhạn Thanh gật đầu, kê nốt đơn thuốc cho người bệnh cuối cùng, “Lục Y, chuẩn bị đóng cửa.”
“Dạ”, Lục Y đáp dịu dàng.
“Tử Dạ đại phu, con gái của đại phu thật là đáng yêu.” Người bệnh là một quý phu nhân đang mang thai, vừa đỡ tay vào eo vừa trìu mến nhìn Tảo Tảo.
“Đa tạ phu nhân”, nàng đưa đơn thuốc tới, “Cứ theo đơn này, mỗi ngày uống hai lần vào sáng tối thì có thể an thai. Đến tháng Năm sẽ sinh một cậu con trai mạnh khỏe bụ bẫm.”
“Ồ, cảm ơn lời chúc phúc.” Quý phu nhân cười tươi như hoa nở, lại mua thêm mấy cây An Tức hương, thanh toán tiền chẩn bệnh rồi dẫn nha hoàn đi ra.
Tảo Tảo trông thấy có một bà lão đang bán búp bê cỏ ở góc tường bên ngoài y quán thì hớn hở xin phép: “Mẫu thân, con đợi ở bên ngoài nhé, lúc nào mẫu thân về thì gọi con.”
“Con cẩn thận đấy!” Nàng đáp, nhìn theo bóng con gái rồi cúi đầu thu dọn đồ đạc, bất chợt nghe thấy một giọng nói lanh lảnh, nàng chợt cứng người, ngẩng đầu nhìn lên.
“Đây chính là Tử Dạ y quán sao?”
Một thanh niên mặc y phục hoạn quan, dẫn theo hai gã thị vệ ăn mặc trang phục Kỳ Môn quân. Chắc gã tiến cung sau năm Quang Nguyên hoặc là địa vị còn thấp nên nàng không nhận ra, nhưng điệu bộ này thì nàng quen thuộc đến tận xương cốt. Gã nhìn Tử Dạ y quán có chút nhỏ hẹp với vẻ chê bai lộ rõ, “Chúng ta là người trong cung, Trần đại phu, ngươi gặp vận may rồi. Hoàng thượng lệnh cho ngươi vào cung chẩn bệnh cho Hoàng tử trưởng điện hạ, nếu ngươi chữa khỏi thì sẽ có muôn ngàn vinh hoa phú quý.”
Nếu không phải vì thân phận, Hàn Nhạn Thanh thật sự muốn mỉm cười hỏi ngược một câu, “Nếu như trị bệnh không hết thì sao?”
Nàng cúi thấp đầu, Lưu Cứ bị bệnh sao? Nàng đọc lịch sử không thấy vị thái tử điện hạ này có bệnh nặng gì khi còn nhỏ. Tuy nhiên nàng lại không thể đi xem bệnh cho nó. Lòng kiêu hãnh không cho phép nàng quỳ gối thỉnh an trước những người đó. Lưu Cứ, nàng cười nhạt, mặc dù không hận, cũng không có ý định làm khó, nhưng nàng không muốn trở thành Bồ tát cứu mạng gì đó, nàng không vĩ đại đến như vậy.
“Công công, ngài chờ một chút.” Nàng ổn dịnh vẻ mặt rồi ngẩng đầu lên, “Tôi đi vào chuẩn bị chút dược liệu.”
“Không cần, trong cung chẳng lẽ thiếu dược liệu?”, Thượng Viêm không khỏi nôn nóng.
“Tử Dạ dù bất tài nhưng cũng có một số thứ dược liệu độc môn của sư môn, nếu không mang đi, kéo dài bệnh của điện hạ thì tìm ai chứ!” Nói xong, nàng không để ý tới Thượng Viêm, vén rèm đi thẳng vào.
“Mẫu thân!” Mạch Nhi đang ở phòng trong, dụi mắt nhỏm ra khỏi giường. Gần đây nó được Liễu Duệ thao luyện các loại kỹ thuật cận chiến nên cực kỳ mệt mỏi, phần lớn thời gian rảnh rỗi đều ở nhà nghỉ ngơi. “Phải đi về ạ?”
“Suỵt!”, Hàn Nhạn Thanh ngăn nó nói thêm, gói chút tiền bạc lại rồi ôm nó nhảy ra ngoài qua cửa sổ phòng trong.
Còn Tảo Tảo nữa, nàng thầm suy tính rồi căn dặn Trần Mạch tự tới cổng phía tây Trường An chờ ở đó, còn mình thì quay về cửa chính y quán.
“Làm gì mà còn chưa đi ra?” Thượng Viêm không nhịn được, chỉ vào Lục Y, “Ngươi đi vào giục nhanh lên.”
Lục Y vén rèm đi vào, chỉ chốc lát sau đã đi ra nói với vẻ hốt hoảng, “Chuẩn bị xong rồi!”
Đúng lúc Tảo Tảo cầm một con búp bê có hớn hở chạy vào kêu lớn, “Mẫu thân, mẫu thân ơi. Bà bà tặng cho con một con búp bê.”
Lục Y kinh hãi vội vàng nhào qua ôm lấy nó. Thượng Viêm sinh nghi xông tới khoát rèm ra nhìn vào bên trong, liền biến sắc mặt, nghiến răng nghiến lợi nói, “Đúng là không muốn uống rượu mời lại muốn uống rượu phạt.” Gã chỉ vào Lục Y và Tảo Tảo ra lệnh, “Trói hết bọn chúng lại dẫn về cho Hoàng thượng xử lý.”
“Dạ!” Hai thị vệ đáp một tiếng rồi tiến lên.
Ngoài đường, Hàn Nhạn Thanh dậm chân, biết mình hôm nay quá vọng động. Nàng suy nghĩ một chút rồi cắn răng xoay người chạy về phủ của Trưởng công chúa Quán Đào.
“Thỉnh cầu thông báo với Trưởng công chúa Quán Đào rằng Trần Tử Dạ của Tử Dạ y quán cầu kiến.”
Tên lính canh cổng Hầu phủ ngẩng lên nhìn Hàn Nhạn Thanh vẻ khinh miệt, “Ngươi cho rằng nói muốn gặp Trưởng công chúa là được gặp hay sao?”
“Vậy thì ta cầu kiến Trần đại tổng quản của quý phủ, kính xin tiểu ca giúp cho.” Hàn Nhạn Thanh tháo dây buộc thả buông xõa mái tóc dài. Mặc dù nàng đang mặc y phục đàn ông, nhưng đã lộ rõ ra hình dáng phụ nữ.
Tử Dạ thần y nức tiếng kinh thành đúng là nữ giới! Tên lính gác còn chưa kịp kinh ngạc thì một giọng nói già nua đã từ trong phủ truyền ra: “Có chuyện gì mà làm loạn lên thế?”
“Nhị tổng quản”, tên lính gác cuống quýt bẩm báo, “Người phụ nữ này cầu kiến Trưởng công chúa.”
“Trần thúc thúc”, Hàn Nhạn Thanh gọi với, “Thúc còn nhớ ta không?”
Nàng từ từ gỡ tấm mặt nạ xuống để lộ ra một gương mặt yêu kiều quen thuộc, giọng nói tràn đầy vẻ thân thiết.
“Nương nương!”, Trần Lãng kinh ngạc thốt lên, “Nương nương sao lại…?” Ông kinh ngạc không tin vào mắt mình.
“Chuyện khác hãy để nói sau”, Hàn Nhạn Thanh nhướng mày, hơi sốt ruột, “Ta muốn gặp mẫu thân.”
“Dạ!”, Trần Lãng khom người đáp. Ông đã làm người hầu ở phủ Đường Ấp hầu suốt bao năm nên rất biết thời thế, hiểu rõ cái gì nên hỏi, cái gì nên ngậm miệng. “Mời nương nương đi theo ta.”
“Kiều Kiều!” Trưởng công chúa Quán Đào vừa thấy Hàn Nhạn Thanh xuất hiện trước mặt thì không tránh khỏi thất thố, chạy vội xuống hỏi, “Tại sao con lại ở đây?”
“Mẫu thân…”, Hàn Nhạn Thanh tức thì đỏ hoe mắt, nhào vào lòng Trưởng công chúa Quán Đào, “Mẫu thân!”, nước mắt nàng rơi lã chã.
“A Kiều! Không phải là con đang ở trong cung Trường Môn ư? Làm sao lại ở…?” Trưởng công chúa Quán Đào ôm đứa con gái đã lâu không gặp, nhất thời cũng đổ lệ, dù sao tình cảm mẫu tử rất khó kìm nén, nhưng rất nhanh chóng khôi phục lại lý trí, vội nén cơn xúc động mà hỏi ngay vào chuyện chính.
“Mẫu thân”, Hàn Nhạn Thanh vừa khóc vừa cười, “Chuyện này để nói sau, con cầu xin mẫu thân giúp con cứu Sơ Nhi trước đã.”
“Ai?”
“Sơ Nhi, con gái của con. Con không chịu tiến cung thăm bệnh cho Lưu Cứ, bọn họ liền bắt Sơ Nhi và Lục Y mang đi. Mẫu thân, hãy giúp con cứu người, chậm một chút nữa thì sợ rằng không kịp mất.”
Trưởng công chúa Quán Đào cảm thấy tim mình như ngừng đập, “Con… Con nói gì?”
“Say này con sẽ giải thích cho mẫu thân nhưng Sơ Nhi đúng thật là con gái của con, con gái ruột của con, cháu ngoại của mẫu thân. Mẫu thân cũng không muốn nó gặp chuyện không may phải không? Hoàng… Triệt Nhi không biết…”
“Con không cần nói nữa.” Trưởng công chúa Quán Đào cũng biết chuyện nghiêm trọng, vung tay lên, “Lập tức tiến cung.” Bà quay mặt ra ngoài gọi, “Trần Lãng!”
“Lão phu nhân!”, Trần Lãng khom người bước vào.
“Chuẩn bị xe ngựa, bản cung muốn tiến cung… Ngoài ra, phái mấy người đắc lực bảo vệ nương nương, khi bổn cung trở về, nếu nương nương xảy ra chuyện không may thì ta sẽ hỏi tội ngươi.”Quyển 1 - Chương 18: Chuyện tày đình chấn động kinh đô“Ngươi nói gì?” Trong cung Vị Ương, Vệ Tử Phu nghe Thượng Viêm bẩm báo liền nổi giận, “Một đại phu nho nhỏ mà lại dám kháng chỉ bất tuân sao?”
“Nô tài cũng không ngờ có người dám như vậy cho nên không đề phòng để cho hắn chạy mất, nhưng nô tài đã bắt con gái và nha hoàn của tên đại phu đó về đây.” Thượng Viêm cuống quýt dập đầu bẩm báo.
“Bắt được bọn chúng thì có ích gì?” Vệ Tử Phu dần tỉnh táo lại, hỏi: “Thượng Viêm, Hoàng thượng nói thế nào?”
“Nàng ta bỏ chạy?” Trong điện Tuyên Thất, Lưu Triệt đang mân mê cái chén nhỏ trong tay.
“Đúng vậy.”
Theo sự điều tra của Niếp Mông thì Trần Tử Dạ của Tử Dạ y quán thật ra là một người phụ nữ có quan hệ mật thiết với các triều thần của y như Tang Hoằng Dương và Liễu Duệ. Lưu Triệt nhớ tới vị phu nhân mà y gặp ở lầu Phong Nhạc năm xưa, sau đó y đã phái Lý Cảm đi điều tra nhưng không tìm ra manh mối gì. Người đầu bếp có tài nấu nướng của lầu Thanh Hoan nổi tiếng thành Trường An và vị phu nhân đó giống nhau như đúc. Lưu Triệt vẫn nhớ rằng mình còn nợ nàng một yêu cầu.
Trần Tử Dạ quá nửa chính là Trần phu nhân năm đó!
Lưu Triệt cười nhạt, yêu cầu của nàng chính là phải tha cho con gái và nha hoàn của nàng một lần hay sao?
Y nói vẻ lạnh lẽo, “Hai người bắt được ở Tử Dạ y quán…”, thoáng suy nghĩ rồi buông thõng,” …phạt đánh mười trượng, vào cung làm nô tỳ.”
“Thả ta ra!”
Trong một gian phòng nhỏ bên cạnh trường thao luyện của Kỳ Môn quân, Tảo Tảo đang nép chặt vào lòng Lục Y, liên tục gào lên nhưng giọng trẻ con của nó không được ai để ý tới.
“Ai bị giam trong đó?” Một thiếu niên đi ngang qua, dừng lại hỏi thăm.
“Phá Nô, đi thôi”, một thiếu niên mặc áo đen quay lại gọi.
“Cũng là do Hoàng tử trưởng bị bệnh phong hàn lâu không khỏi mà ra.” Tên thị vệ canh giữ căn phòng này bị Tảo Tảo hành hạ suốt một canh giờ không chịu nổi, thấy Triệu Phá Nô tới hỏi thăm thì cũng không giấu giếm, “Hoàng thượng hạ chỉ mời một đại phu dân gian tới chữa bệnh cho Hoàng tử trưởng điện hạ, thế mà đại phu dám bỏ trốn. Các thị vệ bắt người về nhưng không biết xử trí thế nào.”
“Đại ca ca bên ngoài ơi,” Tảo Tảo nghe được, đảo mắt mấy vòng rồi hạ giọng nỉ non. Gương mặt đáng yêu trắng như ngọc của nó lộ vẻ thương cảm đủ làm cho người nổi lòng thương.
“Chuyện gì thế?”, Triệu Phá Lỗ ngồi sụp xuống hỏi. Trước mặt một cô bé xinh xắn như Tảo Tảo, hắn cố gắng nhẹ giọng, sợ làm nó kinh sợ.
“Bọn họ bắt muội và dì Lục để làm gì đây?”, Tảo Tảo suy nghĩ một chút rồi hỏi.
“Điều này…”, Triệu Phá Nô khó nhọc suy nghĩ một lúc, “Phải xem ý tứ của Hoàng thượng!” Nếu Hoàng thượng mà tức giận thì có thể sẽ bị phạt nặng, Triệu Phá Nô nghĩ đến đây không khỏi oán giận Trần chủ quán của Tử Dạ y quán, vì lẽ ra được chữa bệnh cho Hoàng tử trưởng là một vinh dự lớn lao. Hoàng tử trưởng là con trai trưởng của Hoàng thượng, hiện giờ cũng là hoàng tử duy nhất được Hoàng hậu coi như là sinh mạng. Nếu bà hài lòng thì việc lên như diều gặp gió, thế mà tên đại phu đó không biết uống nhầm phải thuốc gì cứ cự tuyệt, cự tuyệt rồi lại cự tuyệt, còn bỗng nhiên biến mất tăm tích để liên lụy đến con gái. Thật sự không phải là hành động của đàn ông.
“Ồ!” Tảo Tảo gật đầu, nó cũng không lo lắng gì mấy, ngược lại tin tưởng rằng mẫu thân và ca ca nhất định sẽ cứu mình ra ngoài, nếu không được thì còn có cả Tang thúc thúc, Liễu bá bá và sư công nữa.
Triệu Phá Nô nhìn vẻ điềm nhiên của cô bé mà lòng rầu rĩ, cho là nó còn quá nhỏ không hiểu được tính nghiêm trọng trong việc này. Hắn đang định nói chuyện thì chợt nghe Hoắc Khứ Bệnh đứng đằng kia nói: “Phá Nô, ngươi và tiểu cô nương kia bàn tán gì thế? Còn không biết nó có thể sống hết tối nay hay không nữa.”
Tảo Tảo nheo mắt lại, “Ngươi mới không sống qua đêm nay ấy.” Nói rồi nó làm mặt quỷ.
“Thiếu tiểu thư!” Lục Y thất kinh vội vàng bịt miệng Tảo Tảo lại, “Không được nói lung tung kẻo sẽ gây họa đó.”
Hoắc Khứ Bệnh khoanh tay, không hề tức giận mà chỉ khẽ hừ lạnh nói, “Còn nhỏ mà đã hỗn xược, không biết dạy dỗ thế nào đây?”
“Ngươi…” Tảo Tảo lúc này đã thật sự nổi giận, khuôn mặt nhỏ nhắn đỏ bừng, giãy giụa trong vòng tay Lục Y, “không được nói như vậy.”
“Ta thì sao”, Hoắc Khứ Bệnh cũng không hiểu vì sao mình lại đi tranh cãi với tiểu nha đầu này. Hắn vừa định nói tiếp thì Triệu Phá Nô đã kéo lại, “Chỉ là một tiểu nha đầu thôi, Khứ Bệnh, sao lại so đo với nó?”
Hắn hừ một tiếng, nhưng rồi cũng bỏ qua. Đúng vào lúc này, một toán nội thị từ đầu hành lang bên kia tiến tới, nói giọng eo éo, “Tuyên đọc khẩu dụ của Hoàng thượng.”
“Trần Tử Dạ, chủ nhân Tử Dạ y quán, không tuân lệnh Hoàng thượng, chống lại hoàng uy, chạy trốn, đánh phạt người nhà mười trượng, sung làm cung nô.”
Cả thao trường nhất thời yên lặng, mọi người cùng liếc qua thân hình nhỏ nhắn của Tảo Tảo, ngay cả Hoắc Khứ Bệnh cũng lộ vẻ thương cảm, cô bé nhỏ như vậy mà bị đánh mười trượng thì gần như chắc chắn sẽ mất mạng.
“Còn chưa bắt người?” Giọng nói the thé của gã nội thị vang khắp sảnh đường của cấm quân.
Lập tức có hai người tiến lên định lôi Tảo Tảo ra. Chợt từ ngoài điện vang lên một giọng phụ nữ uy nghiêm đầy sát khí, “Ai dám động đến công chúa của Đại Hán ta?”
Trưởng công chúa Quán Đào vội vàng lao vào trong điện. “Cái này…”, nội thị kinh hãi, “Trưởng công chúa”, gã khẽ khom lưng, “Người nói gì thế? Ở đây làm gì có công chúa.”
Trưởng công chúa Quán Đào không thèm trả lời gã. Bà nhìn cô bé mà nô tỳ Lục Y đang bế trong lòng, thấy mặt mũi giống hệt như A Kiều, không có vẻ sợ hãi, thì lưỡng lự gọi, “Sơ Nhi!”
Tảo Tảo sửng sốt, chậm rãi hỏi lại: “Bà là… bà ngoại à?” Nó thấy Lưu Phiếu gật đầu bèn nhảy bật lên nhào vào lòng bà. Trưởng công chúa Quán Đào nhất thời cảm thấy như cả thế giới đều dừng lại. Bà mỉm cười ôm lấy cái thân hình bé nhỏ trong lòng, luôn miệng nói: “Tốt rồi, tốt rồi!”
“Bà ngoại”, Tảo Tảo lại gọi một tiếng. “Mẫu thân nói rằng bà ngoại là mẫu thân của mẫu thân, bà ngoại rất thương mẫu thân, mẫu thân lại rất thương chúng con, cho nên bà ngoại cũng sẽ rất thương chúng con. Thế mới bảo là “yêu thì củ ấu cũng tròn’”, nó dương dương tự đắc nói.
“Bà ngoại cũng rất thương con mà.” Trưởng công chúa Quán Đào thấy nó đáng yêu xinh như ngọc, trắng như tuyết cười nắc nẻ, giữa lông mày lộ rõ vẻ cơ trí thì càng nhìn càng thích. Giờ mới hiểu tình cảm yêu thương ngày xưa mẫu hậu dành cho A Kiều.
Khi Tảo Tảo gọi mấy tiếng bà ngoại thì tất cả mọi người đều ngơ ngác. Trưởng công chúa Quán Đào chỉ có một con gái, cũng là phế hậu của đương kim Hoàng thượng. Trưởng công chúa Quán Đào vừa vào cửa đã quát lên: “Ai dám động đến công chúa của Đại Hán ta!” Ý tứ hàm xúc không phải nói cũng rõ.
Lưu Phiếu nheo mắt nhìn tên nội thị đến truyền chỉ phân người trở về cung Vị Ương báo cáo, mỉm cười bảo Tảo Tảo, “Sơ nhi, bà dẫn cháu đi tìm phụ hoàng được không?”
“Không được. Cháu muốn đi tìm mẫu thân và ca ca”, Tảo Tảo nhíu mày, nhạy cảm phát hiện ra chữ mấu chốt: “Phụ hoàng?”
“Cháu còn có ca ca à?” Lưu Phiếu cảm thấy hôm nay là một ngày hết sức kỳ quái, nghe được tin sau còn động trời hơn tin trước làm bà hết sức hài lòng. Một hoàng tử, một hoàng tử thuộc về Trần gia, đây chẳng phải là điều bà hy vọng trong suốt bao nhiêu năm mà không có được đó sao.
“Dạ!”, Tảo Tảo trang trọng gật đầu. “Ca Ca gọi Mạch Nhi nhé. Là chứ “Mạch” trong câu ‘Mạch thượng hoa khai hoãn hoãn quy’ ấy.” Nó sợ bà ngoại không hiểu rõ nên cố ý nói ra nguồn gốc. Trưởng công chúa Quán Đào vẫn như trước không hiểu rõ lắm về nguồn gốc nhưng cũng không cần để ý.
“Trưởng công chúa thứ tội”, gã nội thị kinh hoàng quỳ xuống.
“Hừ”, Lưu Phiếu vẫn còn chưa nguôi giận, đá cho gã một cái, “Dám làm thương tổn huyết mạch hoàng gia, lá gan của ngươi cũng không nhỏ đâu. Còn các ngươi nữa”, bà chỉ vào đám Kỳ Môn quân ở chung quanh, “Không một ai thoát tội.”
“Bà ngoại!”, Tảo Tảo nũng nịu kêu, “Bỏ qua đi. Mẫu thân thường nói là người không biết thì không có tội, không cần truy cứu nữa. “
Cô bé nhảy ra khỏi lòng Lưu Phiếu, đi tới trước mặt Lục Y bị tình huống ngoài dự tính làm cho sợ hãi mặt cắt không còn giọt máu, khẽ nói: “Dì Lục, không có chuyện gì đâu”, rồi trừng mắt nhìn Hoắc Khứ Bệnh, “Không phải ngươi nói rằng ta sẽ không sống qua tối nay sao?” Vóc người của nó tuy nhỏ nhưng khí thế lại rất uy nghi.
Hoắc Khứ Bệnh khẽ cười lạnh lùng, “Ngươi may mắn đấy.”
Trưởng công chúa Quán Đào liếc mắt nhìn Hoắc Khứ Bệnh, “Hôm nay nể tình tiểu công chúa nên tạm thời bỏ qua, sau này còn dám bất kính với tiểu công chúa thì ta sẽ không tha cho các ngươi.” Bà bế Tảo Tảo đi về hướng điện Tuyên Thất.
“Cái gì?” Khi nội thị bẩm báo tin tức mới phát sinh trong doanh trại Cấm vệ quân, bình tĩnh như Lưu Triệt mà cũng không khỏi run tay vẩy ra vài giọt mực, “Ngươi nói thật chứ?”
“Dạ!” Viên nội thị run rẩy trả lời. “Trưởng công chúa Quán Đào bế tiểu công chúa chắc sắp đến điện Tuyên Thất rồi.”
“Niếp Mông!” Lưu Triệt gọi lớn, “Chẳng phải là A Kiều ở cung Trường Môn sao?”
Niếp Mông sợ hãi quỳ xuống, “Bẩm bệ hạ, Trần hoàng hậu đúng là ở cung Trường Môn.”
“Nói nhảm!” Lưu Triệt đang định nổi trận lôi đình thì Dương Đắc Ý ở bên ngoài hô lớn,
“Trưởng công chúa Quán Đào cầu kiến.”
“Người đến cung Trường Môn xem đã xảy ra chuyện gì?” Lưu Triệt vội hạ thấp giọng căn dặn, ngẩng đầu nhìn lên thì Trưởng công chúa Quán Đào đã đứng ở ngoài rèm, đang bế một cô bé cười như nắc nẻ, tuy cách bức rèm che nhưng có thể thấy rõ mắt, mi đẹp như vẽ, nụ cười ngây thơ, đúng là rất giống hình dáng A Kiều khi còn nhỏ.
“Cái gì?” Vệ Tử Phu cũng nghe được tin tức tương tự, chén trà nhỏ trong tay rơi xuống đất vỡ tan tành.
“Trưởng công chúa Quán Đào đi đâu rồi?”, nàng ta hỏi.
“Lúc cháu rời đi thì Trưởng công chúa đang bế cô bé kia đi về hướng điện Tuyên Thất”, Hoắc Khứ Bệnh đáp, tỏ vẻ cũng không quá quan tâm.
“Tỷ tỷ, chúng ta phải làm gì bây giờ?” Vệ Thanh nghe được tin tức đó thì cũng rất kinh ngạc, cặp mày nhíu chặt, cảm giác bị uy hϊếp.
“Không cần gấp, chẳng qua là con gái mà thôi”, Vệ Tử Phu lẩm bẩm nói như tự an ủi.
“Chuyện này mấu chốt là ở chỗ thái độ của Hoàng thượng như thế nào.” Vệ Thanh phân tích: “Nếu Hoàng thượng vẫn như xưa không thích Trần hoàng hậu thì Trần A Kiều cũng chẳng gây ra sóng gió gì được, nếu ngược lại thì chúng ta phiền toái rồi.”
“Ta đến điện Tuyên Thất xem một chút.” Vệ Tử Phu bỗng nhiên đứng dậy.
“Tỷ tỷ!” Vệ Thanh liền vội vàng kéo nàng ta lại, “Chúng ta luôn luôn làm việc cẩn thận, lần này lại càng không được tùy tiện, có thể…?”
“Thanh đệ, đệ sai rồi”, Vệ Tử Phu nghiêm mặt, “Nếu người trở về lần này chính là Trần A Kiều thì tất nhiên ta sẽ không dễ dàng vượt qua nhưng đó chẳng qua chỉ là con gái của cô ta, muốn biết tâm ý của hoàng thượng thì còn có phương pháp nào tốt hơn chứ? Ta không thể để cho Trưởng công chúa Quán Đào biến tất cả thành chuyện đã rồi thì mới nghĩ đối sách được.”
“Cô cô hôm nay vào cung có chuyện gì quan trọng không?” Lưu Triệt buông tờ công văn trong tay xuống, ra vẻ bình thản, làm như không thấy Tảo Tảo đang được Trưởng công chúa Quán Đào bế trong lòng.
“Cũng không có chuyện gì quan trọng.” Trưởng công chúa Quán Đào thầm nuốt hận, bất đắc dĩ phải đánh bài ngửa với đứa cháu đang ngồi trên ghế rồng, “Nghe nói người hạ chỉ trừng phạt Sơ Nhi, bản cung chỉ tới đây xin Hoàng thượng bỏ qua cho nó.”
“Thế à?” Lưu Triệt từ ghế ngự sải bước xuống, “Nó là ai?”
“Cháu tên là Trần Sơ, bà ngoại gọi cháu là Sơ Nhi, mẫu thân thì gọi cháu là Tảo Tảo”, Tảo Tảo từ trong lòng Trưởng công chúa Quán Đào nhảy xuống, ngoan ngoãn đứng yên một bên, cười ngọt ngào, cố ý nhấn giọng hai tiếng “Thúc thúc.”
“…”
Lưu Triệt sững người, nhìn nụ cười ngọt ngào chen lẫn ánh mắt thoáng mang vẻ ác ý của cô bé. Dù cô bé tuổi còn nhỏ nhưng y dám khẳng định nó đã biết một chút về sự thật. Trước khi Trưởng công chúa Quán Đào bước vào đây, y vẫn luôn suy nghĩ xem cần phải xử trí về việc đột nhiên có thêm một đứa con gái như thế nào. Mặc dù chưa quyết định nhưng cũng không có nghĩa là y có thể chịu được con gái gọi mình là thúc thúc. Y nghĩ đến điều gì đó, nhìn vẻ mặt lúng túng của Trưởng công chúa Quán Đào thì xem ra đó cũng không phải ý tứ của cô cô. Như vậy, chẳng lẽ là Kiều Kiều đã dặn nó từ trước? Nàng định kɧıêυ ҡɧí©ɧ hay là còn có tính toán khách? Trong ký ức của y, Kiều Kiều luôn đơn thuần và thẳng thắn. Chẳng lẽ Kiều Kiều sau năm năm xuất cung đã thay đổi rồi sao?
“Sao thế ạ? Cháu gọi sai rồi sao?” Tảo Tảo phát hiện không khí kỳ lạ trên điện, “A, cháu biết rồi. Thúc Thúc gọi bà ngoại bằng cô cô, vậy cháu không nên gọi là thúc thúc mà gọi là biểu cữu. Biểu cữu, xin lỗi ạ.” Nụ cười của nó lại càng ngọt ngào, không hề có vẻ sợ hãi.
“Sơ Nhi, im miệng!” Trưởng công chúa Quán Đào trách mắng nhưng giọng nói lại hết sức hiền hòa.
Tảo Tảo nhún nhún vai, bĩu môi, “Im miệng thì im miệng!”
Nhất thời cả điện đều yên lặng, thoáng vẻ buồn tẻ. Lưu Triệt cùng Trưởng công chúa Quán Đào đều không nói lời nào. Trưởng công chúa Quán đào tất nhiên biết cháu gái ngoại của bà vừa rồi chủ tâm làm mất lòng đứa cháu họ hoàng đế nhưng cũng không biết phải cứu vãn tình thế ra sao. Còn Lưu Triệt thì cũng nhắm mắt làm ngơ xem chuyện này kết thúc như thế nào. Thật lòng thì bà cảm thấy khá hả hê đối với mấy lời vừa rồi của Tảo Tảo. Ai bảo Lưu Triệt ngươi ban đầu vứt bỏ người vợ kết tóc xe tơ nên hôm nay con gái ngươi mới không chịu nhận cha, âu cũng là báo ứng. Không khí trong điện Tuyên Thất căng thẳng, chỉ có Tảo Tảo vẫn ra vẻ vô can, đảo mắt quan sát đánh giá khắp bốn phía, dáng vẻ rất thoải mái.
Đúng vào thời điểm khó xử này thì bên ngoài điện có tiếng thông báo, “Hoàng hậu giá lâm!”
Tảo Tảo xị mặt, ra vẻ nghiêm túc, Lưu Triệt thấy vậy thì trong lòng thoáng rung động.
Vệ Tử Phu mỉm cười đi vào, cung kính hành lễ, “Thần thϊếp tham kiến bệ hạ.” Vì nàng ta xuất thân hèn mọn nên không bao giờ dám lơ là cẩu thả về mặt lễ nghi, quyết không để cho người khác nắm được một chút sai lầm.
“Miễn lễ!”, Lưu Triệt thản nhiên.
“Dạ!” Vệ Tử Phu theo lời đứng dậy, ánh mắt thoáng đảo qua trong điện nhìn thấy Tảo Tảo thì khẽ “ôi” một tiếng rồi mỉm cười nói, “Cô bé thật đáng yêu, nó là ai thế?”
“Nó là con gái của trẫm, tên Lưu Sơ.” Lưu Triệt xoay người bước lên ngự điện.
Trưởng công chúa Quán Đào nhướng mày, không nghĩ tới Lưu Triệt lại thừa nhận một cách đơn giản như vậy. Bà thấy Tảo Tảo cũng nhướng mày ra vẻ nghĩ ngợi, có lẽ vừa rồi phản ứng của Tảo Tảo đã chạm đến lòng tự ái của Lưu Triệt nên mới khiến y hạ quyết tâm trong nháy mắt như vậy.
Lần này Tảo Tảo lại không quấy rối mà yên lặng đứng một bên.
“Vậy à?” Nụ cười của Vệ Tử Phu như đông cứng, trong phút chốc khôi phục thái độ bình thường, “Thật à? Tiểu Công chúa thật là đáng yêu, Hoàng thượng định bố trí cho cô bé ở tại điện nào?”
Theo lệ thì hoàng tử và công chúa được phi tần nuôi dưỡng ở trong hậu cung, Trần A Kiều hiện giờ bị phế vào cung Trường Môn, nhưng Tảo Tảo xuất hiện khiến cho mọi người biết rằng cung Trường Môn đã xảy ra chuyện.
“Khoan đã!”, Tảo Tảo nhảy ra, “Cháu đến nhà bà ngoại ở là được rồi.”
“Sơ Nhi, cháu nói bậy gì đó?”, Trưởng công chúa Quán Đào ngồi xuống âu yếm nhìn cô bé, “Chờ khi mẫu thân cháu trở về hoàng cung thì dĩ nhiên là cháu và ca ca sẽ ở cùng với mẫu thân.”
Bà nói vậy có hai hàm nghĩa. Một là nhắc nhở Lưu Triệt đã nhận con gái thì phải nhận luôn cả mẫu thân của nó. A Kiều mặc dù bị phế nhưng vẫn là phi tần, theo lý phải được về sống trong cung. Hai là nói cho Vệ Tử Phu biết rằng Trần gia của bà còn có một hoàng tử lớn tuổi hơn Lưu Cứ, ra oai với đối phương.
Lưu Triệt và Vệ Tử Phu dĩ nhiên nghe ra ý của bà. Trong lòng Lưu Triệt hơi chấn động, mới rồi tên tiểu thái giám đến báo tin không nói về việc Tảo Tảo còn có một ca ca. Nếu biết trước thì có lẽ y sẽ không dễ dàng mở miệng như vậy. Dù sao ảnh hưởng của một hoàng tử cũng lớn hơn rất nhiều so với một công chúa. Thân hình Vệ Tử Phu khẽ run rẩy, mặc dù đã biết nhưng khi nghe tin vẫn cảm thấy rúng động, nhất thời không biết phải nói sao.
Tảo Tảo hếch mặt, đột nhiên bật cười, vẻ mặt láu lỉnh, “Bà ngoại, chẳng lẽ bà nghĩ mẫu thân còn ở lại kinh thành sao?
Trưởng công chúa Quán Đào oai phong ở Trường An đã nhiều năm nên rất tự tin vào bản thân. Bà đương nhiên nhận ra con gái mình còn có rất nhiều chuyện chưa nói nhưng những người thân bên cạnh nó thì không thể không nói ra. Vì thế khi Trần Lãng nơm nớp lo sợ nói Trần A Kiều mất tích thì Trưởng công chúa Quán Đào quả thực tức giận phát điên lên.
“Các ngươi làm việc sao vậy, cả một phụ nữ yếu ớt cũng không giữ được?”
“Mẫu thân không phải là phụ nữ yếu ớt đâu?”
Tảo Tảo cười hì hì vỗ phủi mấy mẩu vụn bánh ngọt dính trên tay rồi nhảy từ chỗ ngồi xuống. Lúc trước Lưu Triệt không trả lời dứt khoát về việc nó yêu cầu được về phủ Đường Ấp hầu, Lưu Phiếu thì lo lắng nó ở lại cung Vị Ương sẽ bị bắt nạt nhưng Lưu Triệt đã ra mặt thừa nhận thân phận của nó rồi thì cũng không sợ ý đổi ý nên dẫn nó về cùng.
“Trần bá bá, mẫu thân của cháu làm thế nào thoát được? Bá bá nói cho cháu nghe đi.”
“Dạ, công chúa Sơ”, Trần Lãng cúi người.
“Từ từ đã!” Tảo Tảo vội vàng khoát tay, “Không nên gọi cháu là Công chúa Sơ, cháu nghe không quen. Gọi…”, nó suy nghĩ một lát về vai vế của mình trong phủ Đường Ấp hầu, “…cháu là thiếu tiểu thư như dì Lục là được rồi.”
Lục Y sợ hãi chắp tay, “Nô tỳ không dám.”
“Cái gì mà không dám?” Tảo Tảo tò mò hỏi, “Chẳng phải dì Lục vẫn luôn gọi vậy sao?”
“Cháu là công chúa, sao có thể gọi một kẻ nô tỳ là dì được chứ?”, Trưởng công chúa Quán Đào trách mắng, “Công chúa là công chúa, đâu phải vì cháu không quen thì không phải nữa?”
“Được rồi!” Tảo Tảo phụng phịu nhưng vẫn thỏa hiệp, không muốn để bà ngoại tức giận. “Bá bá nói tiếp đi!”
“Sau khi Trưởng công chúa đi thì nương nương nói đợi trong phủ rất buồn bực, muốn đi lầu Thanh Hoan dùng cơm, nói cho chúng nô tài đi cùng là được rồi. Nô tài không dám làm trái đành phải cùng Dung Phi dẫn độ mười hộ vệ đi theo nương nương. Sau đó, Vân cô nương ở lầu Thanh Hoan đến gặp nương nương nói rằng hôm nay cô gái hát xướng ngã bệnh, kính xin nương nương hát giúp rồi được nương nương đồng ý. Lúc nương nương thay trang phục thì nô tài và Dung Phi vẫn ở bên cạnh. Trang phục là một bộ váy dài biểu diễn xanh biếc vô cùng xinh đẹp và một chiếc khăn lụa che mặt. Thế nhưng sau khi hát xong khúc hát thì lại là bà chủ Mai của lầu Thanh Hoan từ trên đài bước xuống. Nô tài vẫn luôn nhìn chằm chằm vào nương nương nhưng không biết xảy ra việc gì mà không thấy bóng dáng nương nương đâu nữa. Tuy nhiên chúng nô tài đã dẫn bà chủ Mai về đây.”
“Lục Y”, Trưởng công chúa Quán Đào cúi đầu nghĩ ngợi rồi gọi.
“Trưởng công chúa!” Lục Y sợ hãi quỳ gối hành lễ, “Có gì dặn bảo?”
“Tiểu thư nhà ngươi và lầu Thanh Hoan có quan hệ gì?”
“Việc này…”, Lục Y ra vẻ khó nói nhưng vẫn đáp, “Tiểu thư là chủ nhân của một nửa lầu Thanh Hoan.”Quyển 1 - Chương 19: Há vì ơn sinh thành mà quên chuyện năm xưaTrưởng công chúa Quán Đào thu xếp cho Tảo Tảo vào ngủ trong khuê phòng trước kia của Trần A Kiều rồi trở lại phòng mình, trằn trọc hồi lâu vẫn không ngủ được.
“Công chúa có tâm sự gì sao?” Sau lần trở mình thứ sáu của Lưu Phiếu, Đồng Yển tỉnh dậy, ánh mắt mơ màng hỏi.
“Ừm. Ta đang nhớ Kiều Kiều.” Trưởng công chúa Quán Đào không yên lòng đáp, “Mất tích năm năm, Kiều Kiều đã thay đổi rất nhiều rồi.”
“Thế à?” Đồng Yển nghiêng đầu, có vẻ chưa hiểu lắm. “Vậy nương nương thay đổi sẽ là tốt hay là xấu?”
“Ta cũng không dám khẳng định.” Bà chậm rãi nói, “Kiều Kiều trở nên thông minh, khoáng đạt quá. Nếu không phải ta là mẫu thân ruột của nó thì quả thực không tin Kiều Kiều hiện giờ chính là Kiều Kiều lúc trước. Nó sinh cho Trần gia thêm một hoàng tử, một công chúa, đó là việc tốt. Nhưng cách làm việc hiện giờ của Kiều Kiều không khỏi quá lộ liễu, dù có chỗ hay là ‘muốn bắt thì phải thả’ nhưng hiệu quả cuối cùng thế nào thì ta không đoán được.”
“Sau năm năm nó rời đi, ta cũng có những điều nhìn không thấu được nó nữa.”
“Đúng vậy… Nói ra, công chúa Sơ thật khiến người khác ưa thích.”
“May là thế.” Lưu Phiếu mỉm cười gật đầu, đột nhiên cảm thấy trong lòng bất an bèn đứng dậy mặc áo choàng ngoài.
“Công chúa, người đi đâu vậy?”
“Ta đi xem Sơ Nhi.”
Lưu Phiếu rất nhanh đi tới trước phòng Tảo Tảo. “Sơ Nhi!”, bà gọi khẽ, hỏi tỳ nữ bên cạnh, “Công chúa Sơ thế nào rồi?”
Nữ tỳ thi lễ đáp, “Buổi tối Công chúa uống một chén canh ngọt rồi ngủ sớm, đến bây giờ vẫn chưa thấy tỉnh.”
Lưu Phiếu vén mành trướng, lập tức biến sắc. Trên giường không có một bóng người, chỉ có một chiếc gối được nhét vào trong chăn để làm như thể có người đang ngủ.
“Công chúa đâu?” Bà trầm giọng hỏi.
Cả đám nữ tỳ kinh hãi nhất tề quỳ rạp xuống, “Nô tỳ đáng chết!”
“Các ngươi chết thì có ích lợi gì?” Lưu Phiếu cực kỳ giận dữ nhưng không mất đi lý trí, cao giọng gọi: “Người đâu?”
“Có thấy dấu vết Công chúa ra vào hay không?”
“Hoàn toàn không thấy”, Trần Toàn khom người đáp, ông ta là Đại tổng quản Trần phủ, hôm nay trong phủ xảy ra chuyện lớn như vậy, dĩ nhiên là ông ta phải xuất hiện.
“Ra lệnh cho tất cả mọi người trong phủ tìm khắp mọi nơi”, Lưu Phiếu ra lệnh, vẻ mặt hết sức khó đoán.
A Kiều, rốt cuộc con đang nghĩ gì? Sơ Nhi và Mạch Nhi đều do một tay con nuôi dưỡng, rốt cuộc con muốn để con gái thành ra thế nào? Lưu Phiếu ném cái gối xuống giường rồi phất tay bỏ đi.
Khi tất cả mọi người đều đã rời phòng thì một bóng người nhỏ nhắn từ dưới giường chui ra, nấp sau cửa sổ nhìn ra. Bên ngoài đèn đuốc sáng choang, từng tốp người chạy qua chạy lại khắp nơi trong phủ tìm kiếm tung tích của nó.
Tảo Tảo khẽ thở dài, nó đã được nghe mẫu thân kể về các loại chuyện chạy trốn nên biết rằng chỗ nguy hiểm nhất chính là chỗ an toàn nhất. Gian phòng ngủ đắt tiền này chính là điểm mù của bà ngoại. Đương nhiên, vấn đề là ở chỗ Trưởng công chúa Quán Đào không ngờ rằng một cô bé nhỏ tuổi lại có tâm kế sâu như vậy nên mới dễ dàng bị mắc lừa. Tuy thế còn phải đợi đến lúc gần sáng, mọi người đều mệt mỏi thì mới có thể lén lút rời đi.
Mẫu thân và ca ca nhất định ở ngoài thành đợi nó, nếu như nó trốn ra ngoài thành thuận lợi thì sẽ đoàn tụ với bọn họ, cả nhà rong chơi bốn biển. Chợt nhớ tới vị đế vương oai hùng mặc áo đen trên điện Tuyên Thất hôm nay, Tảo Tảo hơi chần chừ nhưng chỉ một giây sau nó lắc đầu gạt ra ngoài tâm trí.
“Trưởng công chúa có lệnh, tất cả mọi người ra ngoài phủ đi tìm tung tích của Công chúa Sơ.” Trời đã gần sáng mà vẫn không thấy bóng dáng Lưu Sơ đâu, Lưu Phiếu rốt cục mất hết kiên nhẫn mới ra mệnh lệnh như vậy.
“Dạ!” Mọi người nhận lệnh, rầm rập bước ra khỏi cổng phủ.
Một lát sau, cánh cửa khuê phòng Trần A Kiều khẽ hé mở, Tảo Tảo từ trong khe cửa chạy vụt ra, núp trong bóng tối quan sát thật kỹ lưỡng. Trên bầu trời bao la tối đen không có một ánh sao, chỉ có vầng trăng lưỡi liềm còn treo ở cuối chân trời tỏa ánh sáng bàng bạc. Phủ Đường Ấp hầu lớn như vậy nhưng không có một bóng người. Họ không phải là đã ra ngoài tìm Lưu Sơ thì cũng đã quá mệt mỏi trở về phòng thiu thiu ngủ. Lưu Sơ dễ dàng luồn ra cửa phía tây phủ Đường Ấp hầu rồi từ đó chạy ra ngoài đến một ngõ hẻm thật dài. Xuyên qua ngõ hẻm này, tiếp tục đi về hướng tây thêm một đoạn nữa là có thể đến được Tây Thắng Hoa môn. Trước đây, sau khi mẫu thân dẫn ca ca và nó đi ngang qua, nó và ca ca đã từng quay lại một chuyến để quan sát địa hình nơi này.
Mẫu thân và ca ca sẽ chờ mình ở một chỗ nào đó bên ngoài thành, Tảo Tảo nghĩ vậy bèn rảo bước nhanh hơn, không dừng lại ở đầu hẻm nữa.
Trời dần sáng, Tảo Tảo liếc thấy ở đầu hẻm có một người ăn xin nằm co quắp trên mặt đất, bên cạnh là một đứa trẻ ngồi co ro trong gió lạnh, cả hai đều xanh xao gầy guộc, áo quần rách nát. Lát sau, một cô bé mặc đồ ăn mày đi ra đầu ngõ, tuy vạt áo đang mặc có dấu vết bị dùng sức xé ra nhưng vì quần áo của người ăn xin vốn luôn rách rưới nên cũng chẳng ai chú ý. Trên mặt, trên tay cô bé đều được thoa một lớp bùn đất che kín làn da. Không ai tin rằng cô bé năm tuổi vừa mới có địa vị công chúa Đại Hán của bọn họ lại giả dạng làm ăn mày để lẻn ra khỏi thành! Cô bé vừa đắc ý thầm nghĩ vừa đi chầm chậm trên đường phố. Đường phố lúc này cũng chưa có mấy người, vắng tanh vắng ngắt. Một vài người nhận ra bầu không khí kỳ quái trong thành, thì thầm bàn tán với nhau.
Tảo Tảo theo sau một toán nông dân đi ra khỏi thành. Dần dần cũng đến gần cổng thành, từ xa đã có thể nhìn thấy lá cờ cắm trên cao bay phấp phới cho tới mặt mũi những binh lính oai hùng mặc áo giáp da trâu.
Tảo Tảo hơi cúi đầu, dường như đã có thể nhìn thấy mẫu thân đang đứng ở ngoài thành với khuôn mặt tươi cười, ca ca cũng cười bảo, “Tảo Tảo, ca ca chờ muội quá lâu rồi đó.”
Khi sắp đến gần cổng thành, nó bỗng va đầu vào một người. Nỗi vui mừng dần nguội lạnh, nó từ từ ngẩng đầu lên, thấy người này mặc bộ y phục tôn quý may bằng gấm màu đen có thêu hình mây và hoa văn như ý. Người trước mặt rất cao, Tảo Tảo cố sức, cố hết sức ngẩng đầu lên mới có thể nhìn thấy được dung mạo của y.
Đó là một gương mặt rất bình tĩnh không biết đang nghĩ gì, cặp lông mày rậm đen, đôi mắt sâu thăm thẳm không biểu hiện tình cảm, đôi môi mỏng rất mỏng, giống hệt như ca ca. Tảo Tảo bỗng nhiên không dám nhìn thẳng vào y. Nó hơi co người lại, cúi đầu xuống.
“Sao không bỏ chạy?”, Lưu Triệt hỏi giọng bình thản, nhìn xuống cô bé xinh đẹp mặt hoa da phấn ở dưới chân. Thân hình nó thật nhỏ, thật nhỏ, còn chưa cao tới đùi y, mặc bộ đồ rách rưới càng để lộ ra vẻ thanh đạm đáng thương. Quá giống, thật quá giống A Kiều khi còn bé.
Lưu Triệt nhớ lại đêm qua, Niếp Mông trở về phục mệnh.
“Người con gái trong cung Trường Môn là giả!”
Lưu Triệt nghe đến đáp án vừa bất ngờ vừa ở trong dự liệu thì lòng cảm thấy xốn xang, không biết cảm xúc phản ứng như vậy phải gọi là cảm khái hay tức giận.
“Thật vậy!”, Niếp Mông quỳ dưới đất bẩm báo, “Hôm qua thần phụng mệnh đến cung Trường Môn yết kiến Trần hoàng hậu nương nương. Nương nương tỏ vẻ bình tĩnh, nói đi thay y phục, sau đó thì bên trong vang lên tiếng nô tỳ hô hét kinh hãi là nương nương đã treo cổ tự vẫn. Nô tài đi mời lão má má có thâm niên sống trong cung mới kiểm tra thân thể, lão má má nói vị hoàng hậu nương nương này không phải là thật. Năm đo kiểm tra thân thể nương nương khi tiến cung, người ta đã đánh ký hiệu ở nơi nào đó trên người nương nương, người con gái trong cung Trường Môn lại không hề có ký hiệu này.”
Từ những biến cố phát sinh trong mấy ngày gần đây, hắn nhạy cảm nhận ra trong lòng Hoàng thượng đã lại có cảm giác với phế hậu. Mặc dù không biết cái cảm giác đó cuối cùng dẫn sự việc phát triểu theo hướng nào nhưng hắn vẫn gọi phế hậu là Hoàng hậu nương nương, và cũng thấy là Hoàng thượng không phản đối.
Lưu Triệt tất nhiên biết ký hiệu trên người Trần A Kiều nhưng vị trí quá mức nhạy cảm nên lão má má cũng không dám nói ra miệng.
A Kiều, nàng rời khỏi cung Trường Môn từ lúc nào chứ? Y chỉ còn biết tự trách bản thân vì đã quá tự tin rằng A Kiều sẽ không thể thoát khỏi lòng bàn tay mình, vì mình đã không đến Trường Môn, không nhận ra được nàng thật là giả… A Kiều bị phế rồi thì sống ở Trường Môn nhưng y không cho phép cô cô đến thăm vì sợ hai người phối hợp gây chuyện… Y nhắm mắt lại gạt bỏ hết những hối hận thương tiếc trong lòng, buồn phiền đi đi lại lại.
“Con cũng rất thông minh. Trẫm chờ ở chỗ này vốn không hy vọng sẽ gặp con nhưng con thật sự đã xuất hiện ở đây vào lúc này, đúng là không giống một đứa trẻ mới bốn tuổi rưỡi.”
“Hừ!” Tảo Tảo không đáp, cúi đầu nhìn xuống giày của mình.
Đôi giày thủng mấy lỗ, thậm chí có thể nhìn thấy ngón chân cô bé trắng hồng như ngọc, Lưu Triệt nhìn mà tức giận lại không có chỗ trút, răn dạy, “Con nhìn con đi, đường đường là công chúa Đại Hán mà bộ dạng thế này thì còn ra cái thể thống gì?”
“Ta đâu có muốn làm công chúa”, Tảo Tảo đột nhiên ngẩng mặt lên la lớn.
“Con…”, Lưu Triệt cảm thấy lòng như bị lửa đốt, vung tay lên nhưng lại trông thấy Tảo Tảo nhắm nghiền hai mắt, vẻ mặt sợ hãi, nước mắt giàn giụa trên đôi má mềm mại, khuôn mặt bé nhỏ không bằng bàn tay y nhòe nhoẹt như hoa lê dưới mưa thì không nỡ đánh.
Y buông tay, quay lại ra lệnh, “Đỡ công chúa lên xe.”
“Ta không lên, ta không lên.” Tảo Tảo ra sức giãy giụa nhưng không cưỡng lại được sức lực của cung nhân, cuối cùng vẫn bị kéo lên xe. Khi xe rời đi, Tảo Tảo tuyệt vọng òa khóc nức nở. Lưu Triệt vén rèm lên nhìn ra ngoài cửa sổ, không nói một câu.
Xe ngựa chạy qua bốn cây cầu trong kinh thành về phía cung Vị Ương. Cấm vệ quân cửa Bắc từ xa nhìn thấy chiếc xe ngựa trang trí hình rồng, biết là ngự giá liền mở cửa cung quỳ đón. Xe ngựa chạy thẳng vào cung, dừng lại trước điện Tuyên Thất. Dương Đắc Ý ở ngoài xe cung kinh, “Bệ hạ, đến rồi.”
Tảo Tảo vẫn còn khóc rấm rứt. Cô bé khóc đã lâu nên cảm giác trên mặt hơi dính, lấy tay áo lau lung tung, không may tay áo dính đầy cát bụi nên bị ho sặc sụa. Khi mành xe được vén lên, Dương Đắc Ý liếc mắt nhìn qua thì cũng không khỏi tấm tắc. Công chúa Sơ mặc dù còn nhỏ tuổi, y phục rách nát, ngồi mãi một chỗ khóc lóc vật vã trông nhếch nhác không chịu nổi nhưng vẫn thể hiện khí độ cao sang của một công chúa Đại Hán. So với cô bé thì ba công chúa chính thức do Vệ hoàng hậu sinh ra còn xa mới bì kịp.
Lưu Triệt quay đầu lại khe khẽ gọi, “Này”, nhưng thấy Tảo Tảo lén lén lút lút lùi lại thì nổi giận đùng đùng, một tay bế thốc thân hình bé nhỏ của Tảo Tảo lên vai trước tiếng kêu kinh ngạc của Dương Đắc Ý rồi nhảy xuống xe đi thẳng về hướng điện Tuyên Thất.
Tảo Tảo nhất thời không kịp phản ứng, chỉ cảm thấy trời đất điên đảo, đầu váng mắt hoa, vừa mới ngừng khóc lại òa lên, tay chân đấm đá loạn xạ. Lưu Triệt cứ thế vác Tảo Tảo bước lên bậc thang, mặc kệ các cung nhân bên cạnh trợn mắt há mồm đứng trông. Chợt y trông thấy Vệ Trường công chúa Lưu Phỉ đang đứng trên đó.
“Vệ Trường?”
“Phụ Hoàng”, Lưu Phỉ vội vàng hành lễ, “Mẫu hậu nói bệnh của đệ đệ đại biến chứng, muốn mời phụ hoàng đến thăm.” Cô vốn bị mẫu thân phái tới chầu chực ở trước điện Tuyên Thất, hy vọng mời được Lưu Triệt đến điện Tiêu Phòng thăm mẫu thân con mình và đệ đệ nhưng tình cảnh trước mắt đã khiến cho một người luôn giữ lễ như cô suýt nữa quên mất phải ăn nói như thế nào.
“Để lát nữa trẫm sẽ qua”, Lưu Triệt đáp gọn, không hề chú ý tới sắc mặt tái nhợt của Lưu Phỉ, “Con hãy về đi!”
“Dạ!” Lưu Phỉ cúi đầu đáp, khi ngẩng đầu lên thì Lưu Triệt mặc y phục gấm đen đã biến mất vào trong cổng chính điện Chiêu Dương.
Lưu Triệt quăng Tảo Tảo xuống mặt thảm dày, không để ý đến những vết bẩn trên y phục mình, lạnh lùng hỏi: “Con làm loạn đã đủ chưa?” Tảo Tảo nhanh như chớp từ trên mặt thảm bò dậy. Một miếng ngọc bội lộ ra khỏi vạt áo, nó vội vàng giấu kỹ lại rồi vô cùng thận trọng quan sát y: “Ông thả ta ra khỏi thành thì ta sẽ không làm loạn nữa.”
“To gan, lâu lắm rồi không ai dám nói chuyện với trẫm như con. Gọi phụ hoàng mau.”
Lưu Triệt nheo mắt, vừa rồi y bất chợt chú ý. A Kiều có tài lực không thể khinh thường ở kinh thành thì Tảo Tảo có một miếng ngọc bội cũng không phải là lạ, nhưng vừa nãy y đã trông thấy rõ ràng là miếng ngọc bội này có ký hiệu của hoàng gia.
“Ta không gọi”, Tảo Tảo lớn tiếng chống đối, “Gọi thế thì chẳng phải là thừa nhận…” Nó vội vã dừng lại, suýt nữa thì cắn phải đầu lưỡi.
Lưu Triệt thoáng đắc ý, “Trẫm cần con thừa nhận sao? Trẫm vốn chính là phụ hoàng của con.”
“Ông không phải!” Tảo Tảo kích động cơ hồ nhảy dựng lên, “Khi ta và ca ca khóc đòi phụ thân thì ông ở đâu chứ? Khi bọn chúng nói chúng ta không có phụ thân thì ông ở nơi nào?” Nó cho rằng sáng nay đã khóc đủ nhiều rồi nhưng sau một khắc lại phát hiện nước mắt một lần nữa đang rơi xuống như mưa khiến điện Tuyên Thất hoa lệ bỗng chốc trở lên nhạt nhòa.
Lưu Triệt chấn động. Lần đầu tiên y đã được nếm trải cái cảm giác muốn nói chuyện mà lại không biết nói gì, mãi lâu sau mới lên tiếng: “Không phải là con còn có người mẫu thân rất khó lường sao?”
“Mẫu thân có tốt thế nào chăng nữa thì cũng không phải là cái gì cũng giúp được chúng ta.” Tảo Tảo thút thít, “Khi chúng ta ngồi xe từ Đường Cổ Lạp Sơn đến Trường An, có một ngày nghỉ chân ở trạm dịch, chơi với những đứa trẻ khác trong trạm dịch, bọn chúng hỏi ta rằng phụ thân chúng ta là ai”, nó quệt nước mắt, “Ca ca bỏ ra ngoài không trả lời. Bọn chúng liền cười chúng ta, ca ca rất tức giận, đánh nhau với bọn chúng. Mặc dù ca ca học võ công nhưng vẫn còn nhỏ. Bọn họ bắt nạt ta thì ca ca bảo vệ ta. Ca ca dặn không được nói cho mẫu thân làm mẫu thân đau lòng.”
“Sau đó ta đi hỏi mẫu thân là tại sao ta không có phụ thân. Khi đó ta chỉ cho rằng phụ thân đã chết rồi, trong lòng thật là đau khổ, thật là đau khổ. Thế nhưng mẫu thân nói phụ thân không cần chúng ta, nói rằng phụ thân không cần mẫu thân, cũng không cần đến ca ca và ta ở trong bụng mẫu thân. Mẫu thân đã khóc rất nhiều. Ta bị ca ca mắng vì hỏi chuyện chọc mẫu thân khóc. Ca ca nói, chúng ta có mẫu thân là đủ rồi, chúng ta không cần có phụ thân vì phụ thân không cần chúng ta trước. Phụ thân không cần chúng ta trước, không cần mẫu thân, không cần ca ca, cũng không quan tâm đến ta.”
“Hu hu… Là ông không cần chúng ta trước.”
Trong khoảng khắc đó, Lưu Triệt đứng trơ ra giữa ngôi điện trống trải, cảm thấy một lưỡi dao rất cùn chậm chạp cứa đi cứa lại trong lòng rõ ràng không thấy đau đớn bao nhiêu nhưng lại nhận biết rằng lòng mình đau như cắt. Kể từ sau khi lên ngôi hoàng đế, y chưa từng hối hận về những chuyện đã làm. Lúc phế bỏ A Kiều, y cũng nghĩ rằng mình sẽ không hối hận. Y cho rằng y đã chán ghét nàng. Náng quá kiêu ngạo, quá đơn giản nên phế đi cũng không tiếc. Tuy nhiên việc đó đã khiến cho nàng phải lưu lạc ở bên ngoài, một cô gái kiêu căng như nàng thì làm sao có thể cầu sinh trong cuộc đời chìm nổi, lại còn nuôi dưỡng hai đứa con trai, gái? Thế nhưng giờ khắc này thì y nghe được rõ ràng tiếng lòng mình đau. A Kiều thuở ấy cũng đau như thế này sao? Thì ra là nỗi đau của nàng vẫn có thể khiến y phải đau theo.
Lưu Phỉ đứng ở ngoài điện cũng cảm thấy lòng mình cứ trầm xuống, trầm xuống mãi, tựa như từ trên trời cao cứ thế rơi xuống chẳng biết đến đâu là tận cùng. Nước mắt từng giọt từng giọt nhỏ ướt sũng vạt áo, cô lê từng bước chậm chạp leo lên cầu thang, buồn đau thẫn thờ, thầm nghĩ, có lẽ, mẹ con mình đã mất phụ hoàng rồi.
Tảo Tảo bỗng nhiên ngã nhào xuống, không kịp kêu lên một tiếng. Trong suốt một ngày một đêm qua, nó đã trải qua quá nhiều biến cố, mặc dù từ nhỏ đã được Tiêu Phương giúp điều dưỡng thân thể nhưng cuối cùng vẫn không chịu được mà phát bệnh. Lưu Triệt lặng người, ôm lấy cô bé, hô lên: “Truyền ngự y!”
“Công chúa Sơ chỉ vì hỏa khí công tâm, lao lực quá độ nên bệnh cũ tái phát, thảo dân châm cho Công chúa mấy mũi thì không có gì đáng ngại nữa rồi.” Trong điện Chiêu Dương, Tiêu Phương mặc đồ trắng hào hoa anh tuấn bắt mạch cho Tảo Tảo rồi thu tay về, điềm đạm nói.
“Thật vậy sao?” Lưu Triệt hỏi lại, “Rốt cuộc thì nó bị bệnh gì?”
“Cơ thể người mẹ lúc mang thai đã bị tổn thương quá nặng, lại là ca khó sinh nên mạch bị hao tổn, khí huyết bẩm sinh đã không đủ.” Tiêu Phương lắc đầu, “Bệnh này bảo nặng thì không phải nặng nhưng muốn trị tận gốc lại cực kỳ khó khăn, đành phải điều dưỡng lâu dài, không thể để mệt nhọc, tránh xúc động quá lớn.”
Lưu Triệt nhướng mày, trong mắt lóe lên vẻ u ám nguy hiểm, “Cơ thể mẹ tổn thương quá nặng có nghĩa là gì?”
“Năm đó khi thảo dân tới điều trị thì nương nương đã bị thương nặng, nghe nói là bị người đuổi gϊếŧ.”
“Vậy à…”, Lưu Triệt hơi trầm tư, lại mỉm cười khen, “Y thuật của Tiêu tiên sinh quả thật là cao minh.”
Tiêu Phương trả lời nước đôi, “Không dám, chỉ bình thường mà thôi.”
“Nếu như y thuật của Y Kiếm song tuyệt Tiêu Phương của Triêu Thiên môn mà chỉ là bình thường thì ngự y trong cung sẽ tính là cái gì?”, Lưu Triệt nói, đám ngự y đang quỳ ở ngoài rèm run như cầy sấy, dập đầu lia lịa.
Lưu Triệt nhìn chăm chú vào hắn hồi lâu, xoay người phất tay, “Đi theo trẫm đến đây.”
Điện Tiêu Phòng.
Vệ Tử Phu đi ra ngoài nghênh đón, “Thần thϊếp tham kiến Hoàng thượng.” Nụ cười của nàng ta dịu dàng nhưng lại thoáng vẻ miễn cưỡng.
“Ừm.” Lưu Triệt hỏi tiếp, “Cứ Nhi như thế nào?”
“Uống thuốc xong thì ngủ say rồi.”
“Thảo dân tham kiến Hoàng hậu nương nương.” Tiêu Phương quỳ xuống hành lễ.
“Miễn lễ!” Vệ Tử Phu nghi ngờ hỏi, “Vị này là?”
“Tiêu Phương”, Lưu Triệt cũng không để tâm, ngồi xuống nói, “Ngũ Diệp Trầm Thủy hương chỉ có thể giảm bớt chứng bệnh của Cứ Nhi, trẫm tin tưởng ngươi…”, y khẽ quay đầu nhìn Tiêu Phương đầy thâm ý, “…nhất định có thể chữa khỏi nhanh chóng.”
Tiêu Phương ôm hòm thuốc quỳ lạy, vẻ mặt kính cẩn, “Thảo dân sẽ cố gắng hết sức.”
Hắn đi vào trong phòng quan sát kỹ lưỡng sắc mặt Lưu Cứ, ánh mắt thoáng hiện vẻ thấu hiểu, đưa tay chẩn mạch rồi xoay người quỳ xuống bẩm, “Cứ điện hạ không phải bị cảm lạnh.”
Lưu Triệt nhướng mày, “Vậy là bệnh gì?”
Tiêu Phương cười khẽ, “Chẳng qua là ăn đồ gì đó không sạch mà không thể bài tiết ra được. Thảo dân viết phương thuốc, theo đó điều trị mấy hôm sẽ khỏi.”
“Cứ theo lời ngươi đi. Sau này ngươi ở phòng ngự y chăm sóc sức khỏe cho Tứ công chúa.”
Tiêu Phương sững người, chắp tay từ chối, “Thảo dân đã quen sống tiêu dao tự do tự tại, không thích hợp với chốn cung đình.”
“Ý trẫm đã quyết”, Lưu Triệt thản nhiên, không cho hắn có cơ hội cự tuyệt, “Chừng dăm ba ngày nữa thì Tiêu tiên sinh hãy tiến cung đi.”
Tiêu phương trầm mặc một lát rồi thi lễ nói: “Tuân mệnh!”Quyển 1 - Chương 20: Khúc hát nghiêng thành vang danh thiên hạ“Tiêu huynh”, Tang Hoằng Dương bước vào, “Nghe nói ít ngày nữa Tiêu huynh sẽ vào cung nhậm chức, Hoằng Dương vội bước tới chúc mừng.”
Tiêu Phương đặt cuốn sách trong tay xuống một bên, quay sang bảo, “Lộng Triều, đi ra ngoài canh chừng không cho ai đến gần.”
Lộng Triều vâng lời đi ra ngoài cửa phòng.
“Mặc dù ta biết chắc rằng mẹ con Nhạn Nhi tất không phải là người thường nhưng cũng không nghĩ tới thân phận này của bọn họ. Tang công tử chắc là biết từ lâu rồi phải không?”, Tiêu Phương ngồi trên ghế, khẽ ngẩng đầu lên nhìn Tang Hoằng Dương, ánh mắt của hắn rất sáng nhưng lại ẩn chứa một tia ủ dột.
“Đúng thế!” Tang Hoằng Dương thẳng thắn thừa nhận, với tay tự rót cho mình một tách trà, “Là ta cố ý nhắc tới Tử Dạ y quán trước mặt Hoàng thượng nên Hoàng thượng mới phái người đến mời nàng ta.”
“Tại sao vậy?”
“Ta biết Nhạn Nhi không muốn.” Tang Hoằng Dương cười khổ:
“Không biết tiên sinh đã bao giờ nghĩ, nếu nàng ta chỉ có một thân một mình thì nàng ta muốn sống tiêu dao tự do tự tại cũng không sao, ta sẽ không nói nửa câu. Nhưng nàng ta lại có Mạch Nhi và Tảo Tảo, thân phận hoàng tử và công chúa của bọn chúng nàng ta nói không được là không được hay sao? Nếu một ngày bị người ta phát hiện ra thì Mạch Nhi và Tảo Tảo sẽ gặp phải tai ương.
Nhạn Nhi lẩn tránh đã quá lâu rồi. Chuyện ta làm chỉ để cho mọi chuyện trở nên rõ ràng, ép nàng ta phải đối mặt và cho mọi người có liên quan một cơ hội quyết định hướng đi, cũng tranh thủ cho nàng ta một thế cục tốt nhất. Đi đâu về đâu phải do chính nàng ta quyết định. Chúng ta tự để lộ ra còn tốt hơn so với bị người khác phát hiện, đến lúc đó sẽ trở tay không kịp. Cho nên ở lầu Thanh Hoan, ta trông thấy nàng ta bỏ chạy nhưng không lên tiếng. Ta không cho là ta làm sai. Tiêu tiên sinh, tiên sinh thì sao?”
“Ta tuyệt đối không đồng ý cách đó nhưng việc đã đến nước này rồi”, Tiêu Phương thở dài, “thì có nói gì cũng đều vô ích. Điều duy nhất là cầu nguyện cho Nhạn Nhi bên ngoài có thể bình an, Tảo Tảo cũng sống tốt.”
“Yên tâm!” Tang Hoằng Dương trấn an, “Nhạn Nhi không phải là người tự đầy đọa bản thân, hơn nữa nhiều bằng hữu ở bên cạnh nàng ta như vậy, họ sẽ chăm sóc tốt cho nàng ta. Về phần Tảo Tảo, có Trưởng công chúa Quán Đào quan tâm nên sẽ không việc gì. Nói thế nào thì…”, hắn do dự hồi lâu, chọn từ để nói, “Chúng nó cũng là cốt nhục của Hoàng thượng nên không việc gì đâu.”
“Vậy đi”, Tiêu Phương cũng bỏ qua chuyện này, từ từ ngồi thẳng lên, ánh mắt trở nên sắc bén, “Chúng ta nói đến chuyện vị hoàng tử ở điện Tiêu Phòng kia một chút chứ?”
“Công tử yên tâm, có Lộng Triều ở ngoài canh chừng thì sẽ không một ai nghe thấy đâu.”
Tang Hoằng Dương bật cười, “Chuyện này thật đúng là ta làm không được đàng hoàng cho lắm. Tiêu tiên sinh cao minh nhìn ra Hoằng Dương bội phục.”
“Nếu Tiêu mỗ không nghiên cứu y thuật nhiều năm thì quả thực không có cách nào nhìn ra được. Chỉ là Tiêu mỗ không rõ, Tang công tử cũng chưa từng nghiên cứu về y thuật sao lại có thể bố trí cục diện như thế, có người tương trợ hay không?”
“Tiêu tiên sinh cũng quá xem nhẹ Hoằng Dương rồi.” Tang Hoằng Dương thong thả bước mấy bước trong phòng rồi nói tiếp, “Hoằng Dương cũng may biết một thứ mà tuy rằng chúng ta không nhìn thấy được, nhưng khi xâm nhập vào cơ thể thì sẽ làm giảm sức đề kháng của con người, trong khi lại gần như không có ảnh hưởng đối với súc vật. Hoàng Dương đã bắt tay vào chuẩn bị từ trước đó rất lâu. Phía đông thành Trường An, gần thôn trang mà Tiêu tiên sinh ở trước đây, có một trại chăn nuôi gia súc. Sữa bò mà vị hoàng tử đó của điện Tiêu Phòng sử dụng hàng ngày được cung ứng từ đây. Từ năm ngoái ta đã âm thầm nhúng tay vào trại chăn nuôi, đối với nước uống sạch dành cho bò sữa thành nước sông có pha một lượng cực nhỏ thứ này, sau một thời gian ngắn thì đổi lại như cũ. Do Hoàng hậu nương nương cho Hoàng tử sử dụng hương vào đúng quãng thời gian ta đã đổi lại nước như cũ nên mới tưởng là Ngũ Diệp Trầm Thủy hương có hiệu quả. Thật ra mấy cây hương tầm thường như thế thì có thể chữa được bệnh gì cơ chứ?”
“Coi như công tử túc trí đa mưu, chỉ cần xóa sạch dấu vết thì dù Hoàng thượng có điều tra đến tận trại chăn nuôi thì chẳng qua cũng là chuyện một đám người tranh đoạt mối làm ăn cung cấp nước mà thôi.” Tiêu Phương nheo mắt, “Thế nhưng công tử không nghĩ rằng vị Hoàng tử điện hạ kia có tội gì chứ? Công tử nỡ lòng đối phó với một đứa trẻ như vậy sao?”
“Tranh đấu ở chốn hậu cung căn bản là không chết không thôi.” Tang Hoằng Dương cũng không quá quan tâm, “Mẫu thân của nó từng làm cho Nhạn Nhi khổ sở, ta trả lại trên người đứa con mà cô ta yêu thương nhất cũng không có gì là quá đáng. Huống chi nó chỉ bị cảm lạnh hơn một tháng, cũng không phải là thương tổn gì quá lớn. Nếu ta độc ác hơn một chút, tăng thêm liều thuốc thì mạng nó đã không còn. Chỉ là…”, hắn cười khẩy, “thắng như vậy quá đơn giản, rất không có ý nghĩa. Ta cũng không phải là người lòng dạ độc ác.”
Mãi đến khuya Tang Hoằng Dương mới đẩy cửa bước ra, bước chân đi có vẻ nặng nề. Lộng Triều ở trong đình viện ngạc nhiên quay đầu lại nhìn, ánh mắt tràn đầy vẻ khó hiểu đối với biểu hiện khác lạ của hắn.
“Lộng Triều”, Tang Hoằng Dương xoa xoa đầu Lộng Triều khiến hắn bực bội tránh ra. Cho dù thế sự xoay vần thế nào thì người thiếu niên này vĩnh viễn vẫn giữ được vẻ trong sáng.
“Lộng Triều cảm thấy”, hắn hơi lưỡng lự hỏi, “Ta có phải là một người xấu hay không?”
“Tang ca ca đối xử với Lộng Triều rất tốt.” Lộng Triều nghiêng đầu nhìn hắn, gương mặt đầy vẻ khó hiểu.
Tang Hoằng Dương cảm thấy phiền muộn, “Đệ nói rất đúng, chỉ cần đối xử tốt với những người mình quan tâm là được rồi.”
Mùa xuân năm Nguyên Sóc thứ sáu rốt cuộc đã tới. Dân chúng thành Trường An không thể nào hiểu nổi những biến hóa kỳ lạ trong cung Vị Ương. Những ngày này dần chúng luôn sôi nổi hào hứng thảo luận về chuyện Đại Hán bỗng nhiên có thêm một công chúa. Có người nói Công chúa là đứa con mà đương kim Hoàng thượng gửi lại trong dân gian thuở còn thiếu niên phong lưu. Cũng có người nói là con của một vị nương nương không được sủng ái sinh ra trong lãnh cung, nhiều năm không ra khỏi Dịch đình[1]. Hoàng thượng tình cờ gặp mặt mới nhận ra.
[1] Dịch đình: Nơi ở của cung nữ, phi tần bị tội trong nội cung
“Nói bậy bạ gì thế?” Trên lầu Thanh Hoan, thiếu gia Trần Thương của phủ Đường Ấp hầu ném chén rượu xuống, “Đó rõ ràng là cháu của ta, con gái của Hoàng hậu nương nương Đại Hán.”
Cả tầng lầu bỗng chốc lặng ngắt, mọi người đều lộ vẻ kỳ quái. Trong phòng bao, Đường Ấp hầu Trần Việt lập tức trừng mắt nhìn đệ đệ. Trần Thương bị ánh mắt sắc bén dọa cho gần tỉnh rượu, hiểu ra rằng không được nhiều chuyện. Trần Việt gõ bàn nói, “Cũng tốt. Cũng nên để cho người Trường An biết đã đến thời của Trần gia chúng ta rồi.”
Một lúc lâu sau, lầu dưới có người nói, “Nói đến lầu Thanh Hoan, ca khúc mà bà chủ Mai hát vài ngày trước thật khiến cho người ta hâm mộ.”
“Đúng vậy!” Bầu không khí lặng ngắt lại được khuấy động, có người tiếp lời: “Ta đã hỏi ông chủ Vân, ca khúc đó tên là Giai nhân khúc, bà chủ Mai cũng thật xứng đáng với chữ tuyệt sắc giai nhân.” Gã mơ màng:
“Liếc một cái nghiêng thành
Ngoảnh nhìn nghiêng đất nước.
Không có người thương mến.
Chỉ tiếc…”
Gã đột nhiên im bặt, mấy vị thiếu gia của phủ Đường Ấp hầu đang ở trên lầu. Mai Ký Giang sau khi xuống đài liền bị người của phủ Đường Ấp hầu bắt đi chẳng còn tin tức gì nhưng ông chủ lầu Thanh Hoan lại hoàn toàn không để ý, cứ như không có chuyện gì xảy ra.
Cùng lúc đó, Tiêu Phương đang cùng Lộng Triều đi ra ngoài Trần phủ, chuẩn bị vào cung dưới sự giám hộ của Kỳ Môn quân.
Một chiếc xe ngựa hoa lệ từ góc phố chạy tới, nắng chiếu khiến Tiêu Phương nheo mắt lại, nhớ chuyện năm xưa Hàn Nhạn Thanh bị chính chiếc xe này va phải mà sinh non. Mặc dù bệnh trong người Tảo Tảo cũng không phải hoàn toàn do vậy nhưng đây cũng là một nguyên nhân trọng yếu.
“Tiêu tiên sinh!” Trưởng công chúa Quán Đào vịn vào tay Đổng Yển, mỉm cười bước xuống xe, dáng vẻ oai vệ. Kỳ Môn quân bên cạnh đều quỳ xuống tham bái.
“Đa tạ tiên sinh đã chăm sóc cho mẹ con Kiều Kiều trong những ngày qua.”
“Nương nương thông tuệ hơn người”, Tiêu Phương khom người nói: “Tiêu Phương tự thấy tiến cung không chăm sóc được gì nhiều lắm.”
“Cho dù thế nào thì cũng phải đa tạ tiên sinh.” Lưu Phiếu hỏi vẻ quan tâm, “Bản cung nghe nói năm đó Kiều Kiều xuất cung đã phải chịu rất nhiều đau khổ.”
“Lần này xuất kinh, Kiều Kiều mang theo một số người quen. Tiên sinh là ân sư truyền nghề cho Kiều Kiều, sư công của Sơ Nhi. Lần này tiến cung, sức khỏe của Công chúa Sơ chỉ biết trông cậy vào tiên sinh. Bản cung lo lắng cho con gái, muốn biết chuyện của Kiều Kiều những năm gần đây, kính xin Tiêu tiên sinh giúp toại nguyện.”
“Không dám nhận”, Tiêu Phương vội vàng quỳ xuống hành lễ, “Khắp thiên hạ đều biết lòng yêu thương của Trưởng công chúa đối với nương nương.”
Tháng Hai năm Nguyên Sóc thứ sáu, tại điện Tuyên Thất, Tứ hoàng nữ Lưu Sơ chính thức được phong hào Duyệt Trữ, ban cho ở điện Chiêu Dương.
“Công chúa Duyệt Trữ à?” Trong điện Tiêu Phòng, Vệ Tử Phu từ từ nhắm mắt, khẽ hỏi lại. Vệ Trường công chúa bế Lưu Cứ ngồi bên cạnh lặng lẽ ngẩng đầu nhìn sang hướng mẫu hậu của mình, định lên tiếng rồi lại thôi.
“Đúng vậy!”, Thượng Viêm nói. Gã là tiểu thái giám thường theo hầu thánh giá, mặc dù không có quyền cao chức trọng bằng Ngự tiền tổng quản Dương Đắc Ý nhưng cũng là một nhân vật không thể coi thường. Lúc này gã đang quỳ trước mặt Hoàng hậu nương nương. “Từ trước đến nay, hoàng tử hoàng nữ tôn thất nhà Hán đều ở cùng mẫu phi, nếu không có mẫu phi thì ở trong cung điện của một phi tần rảnh rỗi. Công chúa Duyệt Trữ còn quá nhỏ tuổi mà Hoàng thượng đã ban cho ở điện Chiêu Dương một mình, danh nghĩa không thua kém các phi tần khác.”
Móng tay của Vệ Tử Phu bấm sâu vào da thịt trong lòng bàn tay, “Thanh đệ, lúc trước đệ nói đúng, việc ta đến hiện trường đã buộc Hoàng thượng phải quyết định rồi. Trên cõi đời này, khó khăn nhất là đoán ý của đế vương, cho dù là Hoàng hậu A Kiều năm xưa hay là ta hôm nay cũng đều như thế.”
Vệ Tử Phu từng chút từng chút nới lỏng tay, “Thượng Viêm!” Nàng ta đứng dậy, chậm rãi bước xuống điện. “Ngươi phải nhớ kỹ rằng ngươi cũng góp phần vào việc phế hậu năm xưa, nếu Trần A Kiều thực sự trở lại, cô ta chắc chắn sẽ không bỏ qua ngươi.”
“Thế nhưng…” Thượng Viêm sợ hãi ngẩng đầu, “dù sao cô bé cũng là công chúa do Hoàng thượng sắc phong mà.”
“Năm xưa, ngay cả mẫu thân của nó ta cũng đã đấu.” Dưới ánh mặt trời, trên dung nhan mỹ lệ của Vệ Tử Phu hiện lên một nét nhăn nhúm. Thượng Viêm không tin, chớp mắt mấy cái, lại thấy là một gương mặt dịu dàng hòa nhã: “Huống chi một tiểu nha đầu miệng còn hơi sữa chứ?”
“Bên cạnh Hoàng thượng không thể thiếu ngươi. Ngươi về trước đi.” Vệ Tử Phu điềm nhiên bảo.
“Dạ!” Thượng Viêm lui ra.
“Phỉ Nhi. Hôm đó, lúc phụ hoàng dẫn Lưu Sơ về cung con ở bên ngoài điện Tuyên Thất, phụ hoàng đối xử với con bé đó thế nào?”
Lưu Phỉ co rúm người lại, “Nó khóc thảm thiết, phụ hoàng không nói được câu nào.” Cô trông thấy rõ ràng mặt mẫu hậu tái đi thì lòng kinh hãi, tay căng ra khiến cho đệ đệ đang ở trong lòng bỗng cảm thấy khó chịu, ngẩng đầu lên nhìn lẩm nhẩm kêu: “Tỷ tỷ!”
“Cứ Nhi!” Vệ Tử Phu đi vài bước đến ngồi xuống trước mặt con trai, ánh mắt có vẻ đau thương, “Ta cho là nhờ có con mà năm mẹ con chúng ta mới có thể an tâm, ai ngờ…”
Trần A Kiều, tại sao ngươi trở về cơ chứ?
“Miếng ngọc bội này là một trong những thứ trẫm ban thưởng năm xưa phải không?”
“Dạ!” Niếp Mông quỳ trước vương án. “Năm Quang Nguyên thứ sáu, Trưởng công chúa Quán Đào vào cung cầu kiến Trần nương nương, bệ hạ không đồng ý, chỉ ban thưởng cho một số châu báu, miếng ngọc bội này nằm trong số đã ban thưởng. Trên đường về nhà, Trưởng công chúa đã va vào một người phụ nữ có thai ở ngoài phố, dùng miếng ngọc bội này để bồi thường. Người phụ nữ có thai chính là cô gái trước kia lấy tên giả Hàn Nhạn Thanh chơi tửu lệnh với Hoàng thượng ở lầu Văn Nhạc, sau này khôi phục lại họ Trần.”
Lưu Triệt vuốt ve miếng ngọc bội trong tay, sắc mặt lúc sáng lúc tối không biết là vui hay giận.
Niếp Mông vờ như không thấy, tiếp tục bẩm báo, “Sau đó nương nương bị động thai khó sinh. Bà đỡ kể lại rằng tình hình lúc ấy rất nguy hiểm, nếu không có Tiêu tiên sinh ra tay thì rất có thể nương nương đã thành một xác ba mạng rồi, nhưng cũng vì thế mà lưu lại mầm bệnh cho Công chúa Duyệt Trữ.”
“Tiêu tiên sinh?” Lưu Triệt bất chợt ngừng tay, ngẩng đầu nhìn hắn.
“Tiêu Phương của Triêu Thiên môn, biệt hiệu là Y Kiếm song tuyệt. Nương nương năm xưa bái vào môn phái của hắn nên về sau mới có Tử Dạ y quán danh tiếng.”
“Tang Hoằng Dương.” Lưu Triệt nhắc đến cái tên này thì liền nổi giận, “A Kiều năm xưa làm thế nào mà chạy thoát khỏi cung Trường Môn được? Trong hậu cung của trẫm sao lại có thể xuất hiện một kẻ giả danh Hoàng hậu chứ, hừ?” Lưu Triệt nheo mắt, chuyển sang hỏi vấn đề khác, giọng điệu ẩn chứa nguy hiểm.
“Bẩm Hoàng thượng”, mồ hôi lăn dài trên trán Niếp Mông. Năm xưa khi phế hậu, Lưu Triệt đã tỏ ra vô tình đến mức tàn nhẫn nên bọn thị vệ dĩ nhiên cũng không quá chú ý đến sự an toàn của cung Trường Môn, mới xảy ra chuyện như vậy. Mặc dù chúng sai nhưng không phải là không có nguyên nhân. “Cuối mùa thu năm Quang Nguyên thứ năm, điện Tuyên Thất từng bị hỏa hoạn, mọi người trong cung tập trung cứu hỏa, chắc là đúng vào lúc đó có người mang Trần nương nương ra khỏi cung rồi đưa nương nương giả mạo vào trong.”
“Chúng thần đã điều tra ra Trần nương nương vừa mới rời khỏi cung đã bị một thế lực không rõ đuổi gϊếŧ, trúng một đao vào ngực làm trọng thương, sau đó mất tích ở bãi sậy ngoài thành Trường An. Lúc bấy giờ bãi sậy cũng cháy lớn, mọi người phát hiện được một thi thể bị cháy thui và một vài món đồ của Trần nương nương nên liền cho rằng nương nương đã chết, còn đắp một nấm mộ cho nương nương đó. Chúng thần đã đào nấm mộ này lên, khám nghiệm thấy trong đó là một bộ hài cốt đàn ông.”
Nếu lúc này Niếp Mông ngẩng đầu lên thì sẽ phát hiện ra cánh tay trái của Lưu Triệt đang buông thõng bên người đã nắm lại thật chặt, thậm chí có thể trông thấy nổi gân xanh.
Khi đó y còn tức giận A Kiều kiêu ngạo nên đi đến cung Vị Ương cũng không thèm quay đầu liếc mắt nhìn về phía Trường Môn, nhưng y nào biết rằng A Kiều lại bị đuổi gϊếŧ ở ngay sát nách, suýt nữa còn bỏ mạng. Y cũng không phân biệt rõ được loại tâm trạng này của mình là đau lòng hay là giận dữ vì sự tôn nghiêm bị mạo phạm, “Ngươi có biết ai là người đuổi gϊếŧ Trần hoàng hậu không?”
Niếp Mông kinh ngạc, đây là câu thừa nhận thân phận của A Kiều do chính miệng Hoàng thượng nói ra, hắn không dám chậm trễ, “Lúc ấy, Lưu Lăng, con gái của Hoài Nam vương đang ở trong thành Trường An.”
“Lưu Lăng!”, Lưu Triệt lặp lại cái tên này. Theo ngôi thứ trong hoàng tộc thì Lưu Lăng là em gái họ của y, ấn tượng của y đó là một cô gái xinh đẹp có khuôn mặt trái xoan. Năm Kiến Nguyên thứ nhất, y thành thân với A Kiều, vì là tôn thất nên nàng ta đã lặn lội đường xa từ Hoài Nam tới dự. Cũng năm đó vì tính tình trẻ con, không chịu được cảnh chư hầu thế lớn uy hϊếp quyền lực của Hoàng đế nên y đã cố tình quyến rũ nàng ta để làm nhục Hoài Nam vương. Lưu Lăng khi đó chỉ là một thiếu nữ mới lớn, trong lòng ngưỡng mộ Trường An phồn hoa thì làm sao có thể cưỡng lại được bậc đế vương anh tuấn trẻ tuổi?
Sau nhiều lần lén lút hẹn hò, nàng ta hỏi y, “Chàng muốn ta làm gì?” Y cười lạnh lùng, có thể làm gì đây? Cả hai đều là con cháu Hán Cao Tổ, họ có cùng một chữ Lưu. Song y không nói, nàng ta thì cứ chờ, chờ mãi đến lúc không chịu nổi đã chọn cách bùng phát.
Một lần, nàng ta trở lại Trường An, hẹn y ra gặp mặt. Hai người chia tay không vui vẻ. Khi từ đình viện của nàng ta đi ra, y trông thấy A Kiều mặt mũi đang tái nhợt. Chung quy lại thì họ vẫn là con cháu Hán Cao Tổ! Cho dù không ở cung đình, thậm chí không ở Trường An thì vẫn là dòng dõi quyền thế. Y không tránh khỏi xung đột với A Kiều. A Kiều kiêu ngạo là thế, đã trút hơn nửa phần giận lên người cô gái có khuôn mặt trái xoan đặc trưng của vùng Hoài Nam kia.
Y luôn cho rằng được làm vua thua làm giặc, việc mình gây ra thì mình phải gánh chịu mọi hậu quả. Vì thế Lưu Lăng không có tư cách để oán hận. Khi nàng ta lựa chọn phương pháp cá chết lưới rách dẫn A Kiều lúc ấy còn là mẫu nghi thiên hạ tới biệt quán của mình thì nàng ta nhất định phải gánh chịu những ghen tuông của vợ người ta. Nhưng y thừa nhận rằng mình không hiểu tâm sự của nữ nhân. Y không hiểu tại sao năm đó A Kiều biết rõ là không sáng suốt nhưng vẫn liều chết phản đối sự tồn tại của Tử Phu ở cung Vị Ương, cũng như y không thể hiểu tại sao Lưu Lăng lại lựa chọn cách trăm hại không có lấy một lợi đối với mình là vào lúc A Kiều thất thế đã dám phạm trọng tội, đuổi gϊếŧ nàng cho bằng được.
Những năm gần đây, y cũng biết rằng người con gái có khuôn mặt trái xoan, thần sắc tươi tắn như hoa đào ấy đã dần trưởng thành, trở thành một kẻ thông minh xảo trá, nhưng trong ký ức, y vẫn luôn nhớ về ánh mắt bẽn lẽn thuần khiết năm nào.
Phụ nữ trên thế gian, hết thảy đều là loại sinh vật cảm tính.
“Có thể xác định được không?”
“Thuộc hạ đã tra ra là vào đêm điện Tuyên Thất bị hỏa hoạn, một trong Hoài Nam bát công bên cạnh Lăng quận chúa là Ngũ Bị có hành tung không rõ, thủ hạ của biệt viện cũng bị điều đi hết. Ngày đó có một thị vệ của biệt viện mất tích một cách bí ẩn, Lăng quận chúa đã bồi thường một khoản tiền để người nhà của hắn không truy cứu nữa”, Niếp mông bẩm.
“Sau khi rời khỏi cung, Trần nương đã kết giao với nghĩa mẫu họ Thân, sư phụ Tiêu Phương và cả nghĩa huynh Tang Hoằng Dương, Liễu Duệ, sinh ra Hoàng tử Mạch và Công chúa Duyệt Trữ, rồi sau đó đi theo Tiêu Phương đến Đường Cổ Lạp Sơn, năm ngoái mới trở lại Trường An và mở Tử Dạ y quán.”
Niếp Mông im lặng chờ Hoàng thượng cho biết cách xử trí cuối cùng với Trần Hoàng hậu, mãi lâu sau hắn mới nghe thấy vị đế vương nói giọng yếu ớt, “Phái người theo dõi A Kiều và… Mạch Nhi, nhưng không được để cho họ biết.”
Phủ Đường Ấp hầu.
“Thả ta ra!” Mai Ký Giang ngồi bệt dưới địa lao phủ Đường Ấp hầu, thi thoảng lại gào lên mấy tiếng.
Cửa địa lao được mở ra, nàng ta lấy lại tinh thần, hỏi châm chọc, “Bản thân ta vẫn chưa được biết rằng phủ Đường Ấp hầu đã có thể tùy tiện bắt người cơ đấy?”
Người vừa đến lên tiếng, “Hầu phủ thì không thể nhưng trẫm lại có thể.”
Mai Ký Giang kinh hãi quay đầu lại, thấy một người đàn ông mặc áo đen đang bước xuống bậc thang, gương mặt mờ ảo trong địa lao tối tăm nhưng có thể cảm nhận rõ ràng khí thế nghiêm trang sát phạt.
“Dì Mai!” Một thân hình nhỏ bé từ sau người đàn ông lao vụt ra phía trước. Đó chính là Tảo Tảo đang nhướng mày quát: “Thả dì Mai ra.”
Tên lính mới coi ngục đang quỳ bái nhìn lên Lưu Triệt, thấy y khẽ gật đầu mới tiến tới mở cửa lao.
Mai Ký Giang ôm chầm lấy Tảo Tảo, nghi ngờ nhìn người đàn ông ngoài cửa lao lẫn đám nội thị đang tiến vào. Dương Đắc Ý tiến lên bẩm, “Hoàng thượng, nơi này ngột ngạt ẩm thấp, hay là chúng ta lên trên?”
“Không việc gì.” Lưu Triệt đưa mắt nhìn chằm chằm cô gái trong lao, “Trẫm hỏi ngươi, người lên đài hiến nghệ ngày đó ở trong lầu Thanh Hoan rốt cuộc là Trần hoàng hậu hay là ngươi?”
“Trần hoàng hậu à?” Nàng ta kinh ngạc hỏi lại. Tảo Tảo ở trong lòng nàng ta ngẩng đầu lên, cười hì an ủi, “Dì Mai, không phải sợ đâu.”
“Tất nhiên là tiểu nữ…” Mai Ký Giang trả lời giọng run run, chợt nghe thấy một người phía sau Lưu Triệt hừ một tiếng, “Mai cô nương, cô nương cần phải trả lời cho rõ ràng, nếu không phạm vào tội khi quân thì không một ai bảo vệ cô nương được đâu.”
“Là Nhạn Nhi!” Nàng ta do dự một lúc rồi nói.
Người kia “ồ” lên một tiếng, lại hỏi, “Làm thế nào mà Trần hoàng hậu rời đi được?”
“Sàn diễn của lầu Thanh Hoan đã được thiết kế đặc biệt.” Mai Ký Giang như thể đã nói ra được câu then chốt nên sắc mặt cũng dần dần trở lại bình thường, “Hôm đó Nhạn… khi Trần nương nương hát xong đi xuống đài, rèm cửa kéo ra, tôi và nương nương mặc y phục giống nhau đổi người ở chỗ cánh cửa bí mật. Hôm đó, nếu ông chú ý…”, nàng ta khẽ cười, quay sang bảo Trần Lãng đang đứng ở bên cạnh, “sẽ nhìn thấy ánh nến trên sàn diễn thoáng chập chờn như bị gió thoảng qua.”
“Lão nô sơ ý.” Trần Lãng tính khí vô cùng tốt nên không hề tức giận, “Như thế này thì lão nô phải xin chịu tội với Trưởng công chúa rồi.”
“Mẫu thân của con ngày đó hát bài gì?” Tảo Tảo ló đầu ra từ trong lòng Mai Ký Giang hỏi. Nó không cảm thấy hứng thú với bất kỳ cái gì nhưng đối với việc này lại cực kỳ hăng hái.
“Là… Trần nương nương hát lần đầu tiên nên ta cũng không biết tên”, Mai Ký Giang lưỡng lự nói.
“Ồ!” Lưu Triệt thốt lên, không thấy rõ vẻ mặt của y, “Mai cô nương đã được gọi là ca cơ đệ nhất lầu Thanh Hoan thì hát lại khúc hát đó chắc không khó phải không?”
Mai Ký Giang cảm giác bất đắc dĩ, vì trong tay không có đàn tỳ bà nên đành phải hát chay. Mặc dù nàng ta bị giam trong địa lao tối tăm suốt một ngày đêm nhưng không bị ngược đãi, vẫn mặc bộ y phục màu xanh thiên thanh giống như của Hàn Nhạn Thanh ở lầu Thanh Hoan ngày đó, giọng hát cũng vẫn trầm bổng, du dương:
“Phương Bắc có giai nhân,
Thế gian này chỉ một,
Ngoảnh đầu lại nghiêng thành,
Ngoái lần nữa nghiêng nước.
Chẳng cần biết nghiêng thành hay nghiêng nước,
Khó gặp lại giai nhân?”[2]
[2] Bài hát Giai nhân khúc.
Nàng ta hát xong một lúc lâu, Trần Lãng nhẩm một câu, “Không hay bằng nương nương hát hôm đó.” Ông nhớ hôm đó, khi Hàn Nhạn Thanh hát ở trên sàn diễn thì cả lầu Thanh Hoan đều im lặng, đều bị sự tao nhã tuyệt trần của nương nương chinh phục, mà cũng vì vậy nên ông mới không phát hiện ra chuyện đổi người.Quyển 1 - Chương 21: Trong cung Vị Ương không có gió trăngSóng gió vừa mới dấy lên đầu năm Nguyên Sóc thứ sáu thì đã chìm nghỉm đi khi cuộc chiến Hán Hung bùng nổ trở lại.
Tháng Hai.
Đệ đệ của Hoàng hậu, Đại tướng quân Vệ Thanh dẫn mười hai vạn kỵ binh xuất phát từ quận Định Tương, dưới trướng có bảy tướng gồm Công Tôn Ngao, Công Tôn Hạ, Triệu Tín, Tô Kiến, Lý Quảng, Lý Tự, Liễu Duệ. Đại tướng quân hạ lệnh cho Công Tôn Ngao, Công Tôn Hạ làm tiên phong; Triệu Tín, Tô Kiến bên cánh trái; Lý Tự, Liễu Duệ bên cánh phải; Lý Quảng làm hậu quân, tiến đánh Hung Nô.
Liễu Duệ đi trong hàng quân, suy ngẫm về câu chuyện biến đầu năm. Hắn bàng quan không nhúng tay vào, cũng không bàn luận gì, cuối cùng đi tới bước này tuy không cam lòng nhưng cũng là may mắn. Những người khác có thể dễ dàng buông xuôi cho qua trận phong ba nhưng hắn thì không thể, Vệ Thanh cũng không thể. Cho nên, trong cuộc chiến tranh này, hai người càng lúc càng xa. Dù sao, Vệ Thanh cũng là đệ đệ của Vệ Tử Phu còn hắn lại là ca ca của Nhạn Nhi. Hắn còn phải biết ơn vì Vệ Thanh không hề lấy việc công để trả thù riêng, bằng không mà nói thì chiến trường là nơi dễ dàng nhất để khiến cho một người biến mất.
“Tướng quân!”, Tiết Thực hỏi nhỏ, “Trần thiếu gia thật sự là Hoàng hậu nương nương trước kia sao?”
“Đúng vậy!”, Liễu Duệ hồi tỉnh lại, khẽ trả lời.
“Thật là không thể hiểu nổi!”, Tiết Thực thở dài, chậc lưỡi, “Trần nương nương tốt như vậy mà tại sao Hoàng thượng lại phế bỏ nương nương nhỉ?”
Liễu Duệ bật cười, trên thế gian thật sự có bao nhiêu chuyện được đen trắng rõ ràng như trong mắt thiếu niên này đâu. “Đi thôi!”, Liễu Duệ rút roi ngựa, “Trên chiến trường nào có thể nói phải trái.”
Trong chiến dịch này, mấy ngàn quân Hán đã bị chết trận.
Lưu Triệt đang dạo bước trong hành lang cung Vị Ương thì nhận được tin chiến báo, nghe vậy cũng chỉ “ừ” một tiếng. Trong cuộc chiến tranh Hán Hung từ những năm cuối Nguyên Quang trở lại đây đã thắng nhiều bại ít nên lần này Lưu Triệt nghe tin nhưng không hề tức giận, thậm chí tâm trạng y còn trở nên sáng láng hơn, cảm giác nắng xuân trong vườn ngự uyển bỗng nhiên rực rỡ hơn ngày thường rất nhiều.
“Ngươi tên Hoắc Khứ Bệnh? Tên nghe kỳ quái nhỉ.” Y nghe thấy giọng nói của một cô bé mềm mại như oanh vàng líu lo trong ngày xuân.
Dưới ánh mặt trời, giọng nói lạnh lùng của Hoắc Khứ Bệnh truyền đến, “Tên của Công chúa thì hay hơn gì chứ?”
Là công chúa nhỏ nhất của Hoàng triều Đại Hán nhưng có lẽ do lưu lạc ở trong dân từ thuở nhỏ nên tính tình Công chúa Duyệt Trữ hòa nhã hiếm thấy, không giống như Dương Thạch và Chư Ấp quen được nuông chiều. Đương nhiên, hoàng trưởng nữ của đế quốc Đại Hán là Vệ Trường công chúa cũng có tính tình dịu dàng nhưng không thể cởi mở hồn nhiên bằng Công chúa Duyệt Trữ. Mặc dù năm xưa đã từng tranh chấp với Hoắc Khứ Bệnh tại thao trường của Kỳ Môn quân nhưng Công chúa Duyệt Trữ không hề ghi hận. Một cô bé ở chốn cung Vị Ương đầy rẫy cạm bẫy này mà không có mẫu thân ở bên cạnh nhưng vẫn có thể sống bình an, chưa hề sai một ly, chưa từng bước nhầm một bước thì không khỏi khiến cho những người trong cung phải tấm tắc cho là lạ.
“Tên của ta có hàm ý đấy.” Lưu Sơ cười tít mắt, “Mẫu thân nói bà đặt tên này cho ta theo ý của một bài thơ, “Nhân sinh nhược chích như sơ kiến”, nó khoan thai ngâm nga, “Thế nào? Có phải nghe rất êm tai hay không?”
“Ta bình sinh không thích thơ văn, nhưng nghe câu này đúng là rất hay đấy!” Hoắc Khứ Bệnh trầm ngâm một lát, tuy tính cách cương cường nhưng cũng không khỏi rung động trước ý thơ.
“Thật à?” Lưu Sơ kiêu ngạo cười vang, “Cả bài thơ là như thế này:
Đời người nếu mãi như vừa gặp
Gió thu có khiến quạt hoa sầu?
Bỗng nhiên chối bỏ bè bạn cũ
Lại nói lòng người thay đổi mau
Từ biệt ra đi giữa đêm thâu
Lệ rơi chan chứa trách ai đâu
Cần gì bạc bẽo như chàng Sở
Sát má kề môi vẫn nguyện cầu.”
“Chẳng qua là một bài thơ ai oán trong chốn cung đình mà thôi.” Giọng của Hoắc Khứ Bệnh lạnh lùng trở lại, “Không có gì thú vị!”
“Cỏ cây hoa lá cũng đều có tình.” Lưu Sơ cũng không tức giận, “Mẫu thân nói người viết bài thơ này là một nhà thơ nổi tiếng, là một người có tính cách chân thành, phần lớn những bài thơ của ông đều chí tình chí nghĩa. Có bài thơ này chắc ngươi sẽ thích. “ Nó lại cất giọng ngâm:
“Núi chạy quanh,
Sông chảy quanh,
Đi đến Du Quan mỗi một mình.
Sao đêm ngàn cánh lung inh.
Gió một canh,
Tuyết một canh,
Rạo rực tình quê mộng chửa thành.
Vườn xưa lạnh vắng tanh.”[1]
[1] Bài Trường tương tư của Nạp Lan Tính Đức.
“Sao đêm ngàn cánh lung linh”, Hoắc Khứ Bệnh hình dung đến cảnh tượng như vậy hào khí trong lòng không ngừng sôi sục, cười dài, “Uống rượu mạnh, cưỡi ngựa hay, giày xéo Hung Nô, đao chém cuồng Hồ, đại trượng phu phải là như thế.” Hắn ghếch chân lên hòn giả sơn bên cạnh, ưỡn ngực ra đón gió.
“Hừ. Rõ ràng là thơ về một người nơi đất khách mà ngươi cũng có thể nghe ra như vậy?” Lưu Sơ giận đến tái mặt, cúi gằm xuống, “Ngươi chỉ biết đến ‘Thịt giặc Hồ, khi đói quyết ăn. Máu Hung Nô, khát thời cười uống’[2], nào có biết, ‘Nhất tướng công thành vạn cốt khô’[3], nào có biết, ‘Tiếc thay xương gửi bờ Vô Định. Mà chốn khuê phòng vẫn mộng xuân’[4]”
[2] Trích bài thơ Mãn giang hồng của Nhạc Phi.
[3] Trích bài Kỷ hợi tuế của Tào Tùng.
[4] Trích bài Lũng Tây hành – kỳ 2 của Trần Đào.
Hoắc Khứ Bệnh ngẩn ra rồi cười xòa, “Tiểu nha đầu, nghĩ ngợi quá rồi đấy.” Hắn nghiêm mặt, “Bọn Hung Nô thường xuyên xâm phạm biên cương của ta, gϊếŧ con dân ta, bắt phụ nữ và trẻ em ta làm nô ɭệ, vậy không nên cưỡi ngựa giày xéo sao?”
“Ta đâu nói là không nên”, Lưu Sơ nhỏ giọng lẩm bẩm, “Chỉ là muốn ngươi nhớ, đằng sau ngươi còn có vô số mạng người, không được tùy tiện hoang phí.”
Hoắc Khứ Bệnh khẽ xoa đầu cô bé, trong lúc lơ đãng chợt trông thấy tại hành lang đầu ngọn giả sơn có một bóng người đang chậm rãi xoay lưng, ống tay áo dài rộng phất phơ trong gió, màu gấm vàng sậm thể hiện là thân phận tôn quý trong cung Vị Ương, cũng chỉ có một người đủ tư cách được mặc. Nụ cười của hắn dừng nơi khóe miệng, cúi đầu nhìn xuống cô bé ngây thơ thông tuệ, những biến chuyển lần này là tốt hay xấu?
Vệ Thiếu Nhi ở trong đình nghỉ chân cách đó không xa, nhìn sang phía ngọn giả sơn hỏi vẻ nghi hoặc, “Nương nương, người để Khứ Bệnh tiếp xúc với Công chúa Duyệt Trữ là có ý đồ gì?”
“Nhị tỷ yên tâm”, Vệ Tử Phu ngồi quay lưng lại phía ngọn giả sơn, thị nữ cầm bình tới rót trà cho nàng ta, Vệ Tử Phu cầm chén lên nhấp một ngum, “Khứ Bệnh là đứa cháu ngoại mà Hoàng thượng và bản cung coi trọng nhất, bản cung tuyệt đối không có ý khiến cho nó bất lợi.”Nàng ta đặt chén trà xuống, trong mắt thoáng vẻ âm u, “Trần A Kiều cho rằng đưa một đứa con gái vào cung là có thể xoay chuyển được tâm tư Hoàng thượng, bản cung càng muốn thấy cô ta chôn chung cùng với con gái.”
“Nương nương cần gì phải lao tâm khổ tứ như thế”, Vệ Thiếu Nhi nói vẻ xem thường, “Chỉ có mỗi một đứa trẻ con, lại ở trong cung Vị Ương, nương nương là hoàng hậu thì chẳng phải muốn nó thế nào sẽ như thế ấy hay sao?”
“Tỷ tỷ!” Vệ Tử Phu quát lớn, thấy Vệ Thiếu Nhi sợ đến tái mặt thì dịu lại, buồn rầu nói, “Tỷ tỷ, may là vừa rồi chỉ có toàn người mình, sau này chớ có nói như thế.”
“Người trên cõi đời này đều gọi ta là Hoàng hậu, tôn sùng đến cực điểm nhưng nào biết rằng Hoàng hậu có lớn đâu chăng nữa thì bên trên vẫn còn có Hoàng thượng. Năm xưa Hoàng hậu A Kiều thế mạnh như vậy mà còn chẳng phải nói phế là phế đi sao? Lưu Sơ được đón vào cung là Hoàng thượng muốn nó sống tốt, nếu ta làm sai thánh ý thì đối với Vệ gia chính là tai họa diệt tộc. Nhưng Khứ Bệnh thì khác. Khứ Bệnh tuổi trẻ tài cao, rất dễ làm những cô gái trẻ say mê, chẳng phải hai biểu muội kiêu căng nhất của hắn đều rất ngoan ngoãn trước mặt hắn hay sao? Trần A Kiều dám cho con gái một mình vào cung, ta muốn cô ta nhận được kết quả bất hòa với con gái của mình.”
Sắc mặt Vệ Thiếu Nhi trở nên kỳ lạ, “Ý nương nương, chẳng lẽ là… Công chúa Duyệt Trữ mới chỉ là một đứa trẻ con hơn năm tuổi mà thôi.”
“Phương pháp dễ để cho người ta nhìn thấu nhất cũng là phương pháp hữu hiệu nhất.” Vệ Tử Phu mỉm cười, “Sao nào, tỷ không có lòng tin đối với Khứ Bệnh chăng?”
“Thế nhưng …”, Vệ Thiếu Nhi ngập ngừng, “Tỷ sợ tính tình Khứ Bệnh ương ngạnh sẽ không đồng ý làm như vậy.”
Vệ Tử Phu không nói thêm, ánh mắt thâm sâu, “Nó phải đồng ý, bởi vì nó phải hiểu rằng, dù thế nào nó cũng là người Vệ gia. Vệ gia còn thì nó mới quanh vinh”, nàng ta dịu dàng âu yếm Lưu Cứ trong lòng, “Vệ gia mà thương tổn thì nó cũng bị tổn hại.”
“Tỷ tỷ”, nàng khinh nga[5] họ Hình mỉm cười bước đến gần Lý Chi đang nhàn rỗi ngồi cho cá ăn trong ao Quan Lan, “Tiểu muội vừa mới đến điện Phu Hương gặp Hoành điện hạ về đây thì đã thấy mỹ nhân tỷ tỷ ở chỗ này. Tỷ tỷ thật đúng là nhàn nhã quá đi.”
[5] Trong hậu cung nhà Tây Hán, từ Hoàng hậu trở xuống có mười chín chức danh.
Phi tần: chiêu nghi, tiệp dư, khinh nga, dung hoa, mỹ nhân;
Nữ quan: bát tử, sung y, thất tử, lương nhân, trưởng sử, thiếu sử, ngũ quan, thuận thường;
Cung nhân: vô quyên, cộng hòa, ngu linh, bảo lâm, lương sứ, dạ giả.
Lý Chỉ nhẹ nhàng rắc chút thức ăn cuối cùng trong tay cho cá, mỉm cười đỡ cái bụng bầu lớn xoay người lại. Nàng đã có mang bốn tháng, đón lấy chiếc khăn lụa do thị nữ Văn Tâm bên cạnh đưa tới, nhẹ nhàng lau tay, “Hoành điện hạ khỏe không?”
Hình khinh nga than thở nhìn người con gái trước mặt, dù rằng cùng có duyên phận được hậu hạ quân vương bao nhiêu ngày tháng nhưng nàng vẫn mày cong như núi, tóc bồng như mây, hình dáng cử chỉ giống như liễu mềm lả lơi trong gió. Chính bởi vì có thần thái phong lưu như thế nên mới được Hoàng thượng yêu thương ngay cả khi có người con gái thường dân thần thoại Vệ hoàng hậu và Vương phu nhân độc chiếm ân sủng của Hoàng thượng suốt bao nhiêu năm.
“Hoành điện hạ rất khỏe nhưng Vương tỷ tỷ thì có chút…”, Hình khinh nga cân nhắc từng câu từng chữ, “Từ sau khi Công chúa Duyệt Trữ hồi cung thì thứ tự của các hoàng tử hoàng nữ trong cung đã thay đổi.” Nàng ta bĩu môi, “Hận nhất có lẽ là người trong điện Tiêu Phòng kia.”
Lý Chỉ che miệng, “Muội muội đã chân thành như vậy thì tỷ tỷ cũng nói một câu thật lòng, đây là cuộc tranh giành giữa hai hoàng hậu, chúng ta làm phi tần thì đừng nên tham dự vào đó. Văn Tâm, loại mơ này không tệ, lần tới bảo nhà bếp mang đến nhiều một chút.”
“Dạ!”, Văn Tâm quỳ gối đáp.
“Tỷ tỷ có mang biểu hoàng tử nên đương nhiên là nói như vậy rồi.” Hình khinh nga không cam lòng, thở dài, “Cũng không biết làm sao mà Trần hoàng hậu trước kia lại may mắn như vậy, có thể sinh được một vị hoàng tử trưởng.”
“Muội muội chắc là vào cung muộn nên chưa từng trông thấy Trần hoàng hậu nhỉ?” Lý Chỉ không có sức để đứng lâu, níu tay Văn Tâm, đỡ lấy eo lưng ngồi xuống, nhìn Hình khinh nga với vẻ đầy hàm ý, “Năm đó, khi Trần hoàng hậu còn đang tại vị, ở thời kỳ đỉnh cao, ngay cả Hoàng thượng… cũng phải e ngại! Trần hoàng hậu cùng Hoàng thượng có giao tình với nhau từ nhỏ, cho dù bị phế nhưng nơi nàng ta xuất thân vẫn còn đó. Trưởng công chúa Quán Đào yêu con tha thiết, khó biết sẽ làm ra những chuyện gì. Ta còn nhớ vào ngày đại biến giỗ tổ, Trần hoàng hậu mặc điển phục[6] xuất hiện ở bên cạnh Hoàng thượng, khí thế đó, hừm”, nàng nói vẻ coi thường, “Vệ hoàng hậu khó có thể đạt được.”
[6] Điển phục: Lễ phục.
“Ý của tỷ tỷ là…” Trong mắt Hình khinh nga thoáng hiện vẻ kinh ngạc, “Chuyện đã đến nước này mà Trần hoàng hậu vẫn còn đủ sức đánh một trận sao?”
“Có sức để đánh một trận ư?” Lý Chỉ gật đầu,, “Muội muội nói không sai. Cung Vị Ương chính là một bãi chiến trường mà ai thắng ai thua thì chỉ Hoàng thượng mới phân định được. Trần hoàng hậu lần này quyết đánh đến cùng, nếu không có bài tẩy trong tay thì sao lại tin tưởng như thế? Cuộc chiến tranh này”, nàng cho một quả mơ vào miệng, “Muội, ta, còn cả Vương mỹ nhân trong điện Phu Hương chỉ cần khoanh tay đứng nhìn là được rồi.”
“Hì hì”, Hình khinh nga nhìn về bóng người mặc sắc phục hoàng hậu và Vệ Thiếu Nhi ở ngọn giả sơn xa xa, “Xem ra Trần hoàng hậu chưa hồi cung thì trận chiến này đã khai hỏa rồi.”
“Muội muội nói sai rồi”, Lý Chỉ cải chính, “Phải nói là, cuộc chiến trong cung Vị Ương chưa từng kết thúc.”
Năm Nguyên Sóc thứ sáu có thể nói là một năm đầy biến động. Tháng Tư, Đại tướng quân Vệ Thanh dẫn Giáo úy Trương Khiên thông thạo tình hình Tây Vực vừa gia nhập và cả Hoắc Khứ Bệnh mới được phong làm Phiêu kỵ giáo úy, xuất quân tiếp tục bước đường chinh phục Hung Nô. Trương Khiên biết rõ trên sa mạc nơi nào có đồng cỏ và nguồn nước nên quân Hán không thiếu nước uống.
Trung quân của Vệ Thanh gặp quân Hung Nô, vừa chém đầu vừa bắt làm nô ɭệ hơn vạn người. Phía bên cánh trái, Tô Kiến, Triệu Tín thống lĩnh hơn ba ngàn kỵ binh tao ngộ với quân chủ lực của Thiền vu Hung Nô ở trên thảo nguyên, kịch chiến nửa ngày, bị tổn thất hơn một nửa quân số. Trường Tín hầu Liễu Duệ, Trung lang tướng Lý Quảng từ hai bên phải trái kéo về yểm trợ. Ba đoàn quân hợp một, Tô Kiến lại có nỏ lớn nên Triệu Tín tinh thần phấn khởi đánh quân Thiền vu đại bại, buộc Thiền vu phải bỏ chạy, chém đầu bắt làm nô ɭệ gần một vạn. Phiêu kỵ giáo úy Hoắc Khứ Bệnh dẫn tám trăm khinh kỵ binh[7] dưới quyền tập kích vào doanh trại khiến Hung Nô tổn thất nặng nề, bắt sống nhiều quý tộc.
[7] Kỵ binh thường được dùng trong nhiều công tác khác nhau: do thám, vu hồi, dẫn dụ, bọc hậu, hộ tống. Trong đó, khinh kỵ binh được trang bị giáp nhẹ khi chiến đấu, sở hữu năng lực tác chiến khá và cực kỳ cơ động.
Tin tức truyền về Trường An, Vũ Đế vui mừng ban thưởng cho tất cả mọi người, thăng Trương Khiên làm Bác Vọng hầu, Hoắc Khứ Bệnh làm Quan Quân hầu. Lý Quảng nhờ có quân công nên được phong làm Chấn Viễn hầu, cuối cùng cũng thoát được cái số “Lý Quảng khó phong” trong lịch sử.
Tháng Tư năm đó.
Một chiếc xe ngựa chậm rãi tiến vào thành Tức Mặc, thủ đô nước Giao Đông.
Hàn Nhạn Thanh thở phào nhẹ nhõm, “Cuối cùng cũng đến được một thành lớn.” Nàng cười, “Có thể được ăn một bữa ngon và nghỉ ngơi chút rồi.”
“Chẳng phải là do phương pháp chọn đường quái dị của muội hay sao.” Quách Giải dội một gáo nước lạnh. Hắn chưa từng thấy quyết định chọn đường nào như thế bao giờ, cứ đến ngã ba thì nàng lại tung một đồng Tam Thù, thấy chỉ về hướng nào thì đi theo đường đó.
“Như thế mới có thể khiến người khác mông lung chứ?” Hàn Nhạn Thanh không hề mếch lòng, “Ngay cả chính bản thân chúng ta cũng không biết mình muốn đi đâu thì sẽ không một ai đoán được.”
Quách Giải nhìn nàng hồi lâu, không nhịn được quát, “Vậy thì có tác dụng gì? Kẻ đằng sau trang điểm thì cứ trang điểm, người phía trước bị chặn cướp thì cứ đánh gϊếŧ. Muội thử tính xem dọc đường chúng ta bị chặn cướp bao nhiêu lần?”
“Sao thế, có cần phải so đo như vậy không?” Nàng chớp chớp mi, nói vẻ vô tội, “Không phải là chúng ta đã có huynh rồi sao? Đám giặc cướp hại dân hại nước đó thì cứ đánh đuổi hết đi là được rồi.”
Trên đường từ Trường An tới đây, bọn họ gặp cướp tổng cộng ba lần, lần sau khó khăn hơn lần trước. Lần đầu tiên nàng còn thảnh thơi ngồi trên xe tay cầm tay dạy Trần Mạch cầm cung nỏ bắn kẻ địch, lần thứ hai đã không dám liều như vậy còn lần thứ ba thì ngay cả bản thân cũng không thể không xung trận.
“Mẫu thân!” Trần Mạch từ trong xe thò đầu ra, “Hôm nay chúng ta ở đâu?”
“Tìm một khách sạn nào đó ở thôi.” Hàn Nhạn Thanh vén rèm xe lên gọi, “Nghĩa mẫu, Tiểu Hổ Tử, ra ngoài đi!”
Thân Hổ đỡ Thân đại nương xuống xe, nhìn chằm chặp về phía Hàn Nhạn Thanh, nàng nhạy cảm phát hiện thấy nên dịu dàng hỏi: “Sao vậy?”
“Tỷ…”, Thân Hổ cảm giác mồm miệng khô khốc, “Tỷ thật sự là…?”
Cậu không dám nói tiếp mấy chữ còn lại.
“Ngốc ạ”, Hàn Nhạn Thanh không nhịn được gõ đầu Thân Hổ, “Cho dù tỷ là ai chăng nữa thì vẫn là tỷ tỷ của đệ”, nàng ngẩng lên nhìn nghĩa mẫu, “và cũng là con gái ngoan của nghĩa mẫu.”
“Nhạn Nhi”, Thân đại nương cảm động thốt lên, “Nhưng mà”, bà lưỡng lự nhìn nàng rồi lại nhìn Trần Mạch, “Chúng ta như thế này có phải là tốt không?”
“Chẳng có gì không tốt”, Hàn Nhạn Thanh khúc khích, “Chúng ta ở Trường An lâu quá rồi, nghĩa mẫu không muốn ra ngoài xem phong cảnh khắp nơi sao?” Nàng trợn mắt nhìn Trần Mạch, “Cũng may là tiểu tử này thức thời biết về nhà đón mọi người cùng đi.”
Trần Mạch ưỡn ngực, vênh mặt, rồi bỗng co rúm người lại, vuốt ngực, “May quá, con chỉ sợ mẫu thân mắng.”
Hàn Nhạn Thanh không nhịn được, giơ tay xoa xoa gáy con trai, xẵng giọng, “Đồ láu cá!”, rồi nói tiếp vẻ cảm khái, “Nếu không thế mẫu thân sẽ rất lo lắng cho mọi người.”
“Nói đến chuyện lo lắng”, Thân đại nương xót xa, “Không biết Tảo Tảo thế nào? Nó nhỏ như thế lại phải ở kinh thành một thân một mình.”
Hàn Nhạn Thanh đỏ hoe mắt, “Sẽ không sao đâu.” Nàng thốt lên tựa như nói với chính mình, “Có mẫu thân… của con thì Tảo Tảo sẽ không việc gì. Huống chi…”, nàng trấn an, “Sư phụ cũng sẽ chăm sóc cho nó. Có câu ‘Hổ dữ không ăn thịt con’, mà con cũng chưa nhận được tin tức gì xấu, thế… là được rồi.”
“Mẫu thân”, Trần Mạch kéo vạt áo nàng, “Con nhớ muội muội quá!”
“Mạch Nhi!” Hàn Nhạn Thanh ngồi sụp xuống, nhìn thẳng vào mắt con, “Chúng ta sẽ trở về, cuối cùng sẽ có một ngày chúng ta trở về đón Tảo Tảo.”
Chỉ có đi trên đường phố Tức Mặc mới thật sự hiểu được nhịp sống thành thị của nơi nay.
Gió cuốn cát vàng mù mịt thổi táp vào mặt, cho dù đã đeo một tấm mạng che mặt nhưng Hàn Nhạn Thanh vẫn cảm thấy hanh khô. “Tức Mặc, Tức Mặc không phải là tĩnh mịch sao?”, nàng phân tích ý nghĩa hàm chứa trong cái tên này. Quốc chủ nước Giao Đông Lưu Ký, người quen biết cũ của nàng, là con thứ mười hai của Cảnh Đế Lưu Hằng, em khác mẫu thân của Lưu Triệt, em họ của nàng. Thuở nhỏ hai người thường xuyên gặp nhau ở cung Vị Ương, giao tình không thể bảo là sâu nhưng cũng không thể coi là nông. Trong ấn tượng, A Kiều thời thiếu nữ kiêu căng, ngạo mạn, ỷ được cậu ruột sủng ái, sau lại có thân phận thái tử phi nên cho dù là hoàng tử cũng chưa chắc đã coi vào đâu. Nàng từng có va chạm, cũng không thể nói là quá lớn với Lưu Ký nhưng hôm nay lưu lạc ở bên ngoại, dù không sợ hãi nhưng vẫn phải giữ gìn cẩn thận một chút. Thành Tức Mặc cũng không phải là tĩnh mịch, mặc dù không phồn hoa như đế đô Trường An nhưng lại mang một vẻ chất phác riêng biệt của Sơn Đông, còn có ngã ba sông Triêu Thiên trù phú.
“Mẫu thân ơi”, Mạch Nhi gặm bánh nướng đặc sản Giao Đông, tay cầm một viên kẹo hồ lô, kêu toáng lên, “thơm lắm, mẫu thân có muốn ăn thử không?”
Hàn Nhạn Thanh mỉm cười, cúi xuống lau mấy hạt vừng dính bên mép Mạch Nhi, âu yếm bảo, “Mạch Nhi thích ăn là được rồi, mẫu thân không ăn đâu.”
Mạch Nhi nhìn về phía trước, thấy một đám người quây tròn, thỉnh thoảng lại phát ra tiếng la hét cổ vũ vang trời có vẻ vô cùng náo nhiệt, quay sang làm nũng, “Mẫu thân ơi, chúng ta qua đó xem đi.”
Hàn Nhạn Thanh chiều con, khẽ gật đầu.
Đi tới nơi thì thấy là một gánh diễn võ rong. Một ông lão đang múa thương, ngọn thương lóe sáng như con rồng bạc vẫy vùng, ánh lên rực rỡ. Những người vây quanh xem đồng thanh ồ lên trầm trồ khen ngợi. Ông lão khẽ mỉm cười, đồng bạn[8] đứng bên cạnh bèn lấy chiếc khay trúc ra, lên tiếng, “Kính xin các vị cổ vũ.”
[8] Đồng bạn: đồng nghiệp, người cùng làm ăn.
Cả bãi tức thời lặng ngắt, phần lớn mọi người len lén bỏ đi, chỉ có lác đác vài người quẳng tiền vào khay. Hàn Nhạn Thanh đang định móc ra chút ít tiền Tam Thù thì chợt nghe thấy một tiếng nói trong trẻo, “Hay cho lão già kia, chỉ với chút công phu đó mà cũng đòi tới Tức Mặc diễn võ?” Một cô gái áo xanh tách đám người đi ra, chẳng hiểu làm thế nào mà đã bay vυ't lên rồi nhẹ nhàng đáp xuống giữa bãi đất.
Du côn tới thu phí bảo kê à? Hàn Nhạn Thanh đầu tiên nghĩ như vậy, nhưng khi trông thấy rõ thiếu nữ này thì hiểu ngay. Thiếu nữ mặc võ phục, người dong dỏng, mặt mũi thanh tú, mặc dù có vẻ hung dữ nhưng không có khí chất du côn, thật sự không giống người xấu. Điều khiến Hàn Nhạn Thanh suy nghĩ chính là mặt mũi tác phong của thiếu nữ này làm cho nàng có cảm giác quen thuộc tựa như đã từng gặp ở đâu đó nhưng nhất thời lại không nhớ ra.
Tới phá phách sao? Mọi người sửng sốt vài giây, rồi bốn phía rộn lên tiếng trầm trồ khen ngợi gấp mấy lần ban nãy. Kể cả những người dân Tức Mặc đã tản đi cũng lập tức ào trở lại.
“Vị cô nương này”, ông lão sửng sốt, nhưng khi thấy rõ mặt cô gái áo xanh thì trên khuôn mặt ngăm đen lại nở nụ cười hiền từ, nheo mắt thầm đánh giá cô gái, đồng thời giơ tay ra hiệu cho hai người đồng bạn đừng nóng vội, ôn tồn hỏi, “Xin hỏi cô nương là…?”
“Bản cô nương ngồi không đổi họ, đi không đổi tên, thường gọi là Di Khương.” Di Khương nhìn quanh một vòng rồi nhướng mày lên, bừng bừng khí thế, “Rốt cuộc lão có đánh không?”
“Ra ngoài kia, chúng ta…” Ông lão chưa dứt lời thì một thanh loan đao lá liễu đã chém thẳng vào mặt. Ông ta kinh hô lên một tiếng, nhanh chóng lui lại một bước, hoa ngọn thương lên. “Choang!” một tiếng, tia lửa bắn tóe ra tứ phía.
“Hay.” Bốn phía ồ lên cổ vũ, hiển nhiên thiếu nữ xuất hiện rất hợp ý đám đông.
Ông lão cả giận nói, “Cái con nhóc này! Không hiểu quy định sao?”
Di Khương phì một tiếng, khinh thường, “Quy định cái gì?” Cô ta vừa dứt lời liền xuất chiêu Thôi song vọng nguyệt, lao mấy bước lên trước, tay vung đao chém vù vù tấn công. Ông lão không dám phản kích mà chỉ phòng thủ, trong thời gian ngắn không có dấu hiệu thất bại. Mọi người chăm chú theo dõi, không để ý hai người kia một lần nữa giơ khay trúc ra, tiền Tam Thù được quăng vào tới tấp.
“Mẫu thân à”, Trần Mạch giật giật gấu áo Hàn Nhạn Thanh, ngẩng đầu lên, khuôn mặt nhỏ nhắn đầy vẻ nghi hoặc, “Tại sao ông và tỷ tỷ đánh nhau kỳ quái như vậy?”
Hàn Nhạn Thanh nói khẽ, “Bởi vì bọn họ biết nhau.”
Nàng đã nhận ra ba nam một nữ đằng kia là cùng một nhóm, cố ý để một người tới gây loạn, làm chút mánh lới để tăng cảm xúc của người xem. Trên đài, hai người đao thương đánh đấu, phối hợp vô cùng ăn ý từng chiêu thức ghìm, cản, quay, đỡ, điểm, xoắn, thả… cứ như đang luyện chiêu với nhau. Người dưới đài chỉ thấy đánh đẹp chứ đâu biết một bước một chiêu của hai người trên đài đều như nước chảy mây trôi, không hề có một chút nguy hiểm.
“Mạch Nhi”, Hàn Nhạn Thanh kéo tay con trai, lơ đãng nói, “Ăn thì đã ăn rồi, náo nhiệt cũng xem rồi, Thân bà bà và Quách bá bá đang lo lắng, chúng ta trở về thôi.”
Nàng dắt tay con trai rời đi, khi quay người đã cảm thấy rõ ràng cô gái có tên Di Khương kia từ trên đài đang dõi mắt nhìn theo mình.
Tóc dựng lên vì giận,
Tựa lan can,
Gió mưa đã tạnh
Vọng phương trời,
Ngẩng mặt hét vang.
Hùng tâm mãnh liệt,
Ba mươi tuổi chẳng thiết công danh,
Tám ngàn dặm dầm sương dãi nắng.
Đợi chờ chỉ khiến đầu xanh bạc trắng,
Chẳng than van.
Nhục Tĩnh Khang,
Chưa rửa sạch.
Hận thù này,
Thuở nào tan.
Cưỡi chiến xa,
Đạp bằng dãy núi Hạ Lan.
Thịt giặc Hồ, khi đói quyết ăn
Máu Hung Nô, khát thời cười uống.
Để mai đây giành lại cả giang san,
Báo hoàng ân.
(Mãn giang hồng – Nhạc Phi)
Thề diệt Hung Nô chẳng tiếc thân
Bụi Hồ đắp mộ năm nghìn quân
Tiếc thay xương gửi bờ Vô Định
Mà chốn khuê phòng vẫn mộng xuân.Quyển 1 - Chương 22: Đau buồn đường đời không tri kỷ“Ta đã đoán rằng tối nay sẽ có người tới nhưng không đoán ra nổi người đó lại là cô?”, Hàn Nhạn Thanh nhìn người vừa tới, kinh ngạc nói.
“Khiến cho Trần công tử không đoán được chính là vinh hạnh của tôi.” Mi Vũ đứng trước thư án, điềm nhiên đáp. Mấy tháng không gặp, hôm nay nàng ta mặc một chiếc áo choàng bằng vải đoạn màu xanh sẫm, khuôn mặt vẫn quyến rũ nhưng lại thiếu đi tia lửa khói, trông tựa như một đại tiểu thư con nhà giàu không nhiễm bụi trần.
“Không cần phải nói những câu này.” Hàn Nhạn Thanh vuốt ve chiếc trâm phượng trong tay. Trâm phượng được chế tạo cực kỳ tinh xảo, đắt tiền, trạm hình phượng hoàng ngũ sắc, mỏ ngậm một viên ngọc trai, dùng hai chóp cánh đỡ lấy, đầu đuôi tiếp xúc với nhau thành một khối trọn vẹn, nhìn thoáng qua trông tựa một đóa mẫu đơn diễm lệ. Cặp mắt phượng hoàng lại càng hiếm có, được khảm bằng hai viên ngọc đều là ngọc trai đen đương thời khó cầu.
“Trâm phượng.” Nàng thở dài một hơi, quẳng chiếc trâm phượng lên trên án thư.
Mi Vũ tán thưởng nhìn động tác thanh thoát của nàng, “Hôm nay coi như tôi đã phục”, nàng ta cười thành tiếng, “Nếu không phải Quận chúa đã nói cho biết thì Mi Vũ không thể nào tin rằng Trần công tử lại có thân phận tôn quý như thế. Ngay cả vị ở điện Tiêu Phòng hôm nay cũng không thể nào coi thường trâm phượng như vậy được.”
Từ trước đến nay, phượng hoàng chính là đại diện cho bậc mẫu nghi thiên hạ. Vừa rồi Quách Giải đi vào nói có người cầm trâm phượng cầu kiến nàng. Chiếc trâm phượng này chính là chiếc mà A Kiều mang trên người khi Nhạn Thanh mới vừa tỉnh lại, sau được để lại trên người áo đen bị chết, cũng là chiếc trâm mà Hoàng thái hậu cài trên búi tóc của nàng vào năm nàng thành thân với Lưu Triệt. Sau đó nàng bị phế về Trường Môn thì phải giao nộp lại tất cả áo mão ấn tín dành cho Hoàng hậu, nhưng chiếc trâm phượng này năm xưa Hoàng thái hậu đã tuyên bố là cho cháu gái ngoại A Kiều nên không phải giao nộp. Sau khi dung hợp ký ức của A Kiều, nàng tự nhiên biết được thân phận của kẻ áo đen năm đó.
Nàng thở dài, lúc trông thấy cô gái có tên là Di Khương, nàng lập tức hiểu rằng câu chuyện này đã trở nên phiền phức, nhưng chưa bao ngờ được nó lại vượt quá cả dự liệu,
“Vậy à!” Hàn Nhạn Thanh đứng dậy nhìn Mi Vũ, “A Vũ có bằng lòng nói cho ta biết là ai đã sai cô mang chiếc trâm phượng đến đây hay không?”
“Trần công tử cứ đi theo Mi Vũ một chuyến thì chẳng phải sẽ biết đáp án sao?”
Hàn Nhạn Thanh tự thấy mình không phải là người dễ dàng mạo hiểm nhưng chỉ một câu nói của Mi Vũ lại khiến nàng ngoan ngoãn đi theo.
Lúc đó, Mi Vũ che miệng cười, khe khẽ ngâm nga.
“Chớ lo phía trước không tri kỷ
Thiên hạ mấy ai chửa biết chàng?”[1]
[1] Trích bài thơ Biệt Đổng Đại (Tiễn biệt Đổng Đại) của Vương Xương Linh.
Vừa trông thấy người con gái mặc váy dài bó eo tay áo rộng trắng như tuyết đang chống tay nhìn ra ngoài cửa sổ, đầu cúi hơi thấp để lộ một khoảng gáy nõn nà còn có phần trắng hơn cả trang phục, Hàn Nhạn Thanh hơi chần chừ rồi lên tiếng thử gọi, “Tạp Tạp?”
Cô gái quay đầu lại, đôi mắt rất sáng, tóc tết đuôi sam, trông khá lạnh nhạt nhưng lại toát lên vẻ cao quý. Trong khoảnh khắc, Hàn Nhạn Thanh bừng tỉnh. Trong linh hồn nàng có hai dòng ký ức, một dòng thì cho biết đây là Quận chúa Lưu Lăng, con gái của Hoài Nam vương nhà Đại Hán, dòng ký ức kia thì lại báo nàng đó chính là Quý Đan Tạp ở thành cổ Tây An của thời hiện đại vào hai ngàn năm sau.
Lưu Lăng nhìn Hàn Nhạn Thanh, trong ánh mắt thoáng một nét cười. Nàng vịn vào tay thị nữ Lưu Quang bên cạnh, chầm chậm bước tới, yêu kiều khoác tay, “A Kiều tỷ, kể từ lúc chia tay ở Trường An, chúng ta đã bao nhiêu năm không gặp nhau rồi.”
Mọi người trong phòng biểu hiện các loại vẻ mặt khác nhau, ai nấy đều ít nhiều đã nghe qua về chuyện xích mích giữa Hoàng hậu Trần A Kiều và Hoài Nam quận chúa Lưu Lăng ở thành Trường An năm đó. Không ai có thể tưởng tượng rằng sau nhiều năm không gặp, A Kiều lại dám một mình tới dây, các nàng lại có thể khoác tay thân mật, bộ dạng còn rất tương đắc.
Lưu Lăng xoay người ra lệnh, “Các ngươi lui xuống hết cả đi.”
Hàn Nhạn Thanh đánh giá phản ứng của tất cả bọn họ. Đứng bên tay trái của Lưu Lăng là một người mặc đồ trắng đang ôm kiếm nhìn nàng chằm chặp, nàng chạm phải ánh mắt lạnh như băng của hắn thì bất giác rùng mình như thể bị ánh mắt âm độc lạnh lẽo của loài rắn thôi miên.
“Người vừa rồi là Lôi Bị, một trong Hoài Nam bát công. Chắc A Kiều tỷ cũng nhận ra, hắn là người có uy quyền rất lớn trong quân Hoài Nam”, Lưu Lăng mỉm cười ra dấu, “A Kiều tỷ, mời ngồi.”
Hàn Nhạn Thanh cũng không từ chối, nàng nghiêng đầu, trong mắt ánh lên vẻ nghịch ngợm, “Với giao tình của chúng ta trong quá khứ, thật sự chưa đủ để ngồi nói chuyện với nhau gần như thế này đâu.”
“Nhưng bây giờ thì đủ giao tình rồi, không phải sao?” Lưu Lăng hất cằm, “Mặc dù Bích Nhưỡng Xuân của lầu Phong Mãn nổi danh khắp thiên hạ nhưng Đào Hoa trang của Hoài Nam cũng là hạng nhất trong các loại rượu dành cho phụ nữ, A Kiều tỷ có muốn thử một chút hay không?” Nàng vỗ tay, thị nữ thân cận Lưu Quang ở bên cạnh cúi chào, hiểu ý bước ra ngoài.
Cả gian phòng chỉ còn lại hai người. Hàn Nhạn Thanh vẻ nghiêm túc trở lại, “Muội giỏi lắm…, khụ khụ, muội biết về tỷ từ lúc nào thế?”
“Cho dù muội không biết đi nữa thì cứ nhìn lầu Phong Mãn ở Ngũ Nguyên cũng biết.” Lưu Lăng nằm trên mặt thảm, đôi mắt lúng liếng, quyến rũ lòng người.
“Phong Mãn Lâu, Mãn Lâu Phong”, Hàn Nhạn Thanh thì thầm, nhớ tới tấm bảng nhìn thấy bên ngoài viện lúc vừa tiến vào, “Nếu tỷ để ý nghe ngóng sớm một chút thì cũng không đến nỗi bị Mi Vũ đùa giỡn làm cho kinh ngạc.”
“Mấy ngày hôm trưóc, muội đã cho Mi Vũ rời Ngũ Nguyên về Tức Mặc”, Lưu Lăng giải thích, “Ngôi lầu ở Tức Mặc có vẻ như cùng kiểu với lầu Phong Mãn ở Ngũ Nguyên nhưng vẫn có khác biệt, vì thế muội đổi thứ tự các chữ một chút. Phong Mãn Lâu, Mãn Lâu Phong.” Nàng cười khẽ, chu miệng lên châm chọc, “Có phải là ở trong câu ‘Sơn vũ dục lai phong mãn lâu’[2] không?”
[2] Dịch: Mưa núi sắp rơi gió lộng lầu. Đây là câu thơ trong bài Hàm thành đông lâu (Lầu phía đông thành Hàm Dương) của tác giả Hứa Hồn.
“Vậy muội cũng không tới…” Nhạn Thanh lúc đầu còn định kể oán nhưng nàng hiểu rõ rằng với thân phận Lưu Lăng, nếu bọn họ gặp nhau thì chắc chắn sẽ không thoát khỏi tai mắt của triều đình. Kết giao phiên vương bên ngoài vốn là điều kiêng kỵ nhất đối với người trong cung.
“Tạm thời dừng những chuyện ngoài lề vậy đã”, Hàn Nhạn Thanh nghiêm mặt nói. Bên ngoài hành lang vọng vào tiếng chân bước nhẹ nhàng, Lưu Quang đẩy cửa đi vào, khom người rót trà. Lưu Lăng gật đầu, “Lưu Quang, vị A Kiều tỷ tỷ này là tỷ muội tốt của ta. Ngươi phải nhớ kỹ từ nay về sau, ngươi nghe lệnh ta thế nào thì phải nghe lệnh của tỷ ấy như thế đó, coi tỷ ấy như chủ biết chưa?”
Lưu Quang nghe vậy, khẽ liếc nhìn Hàn Nhạn Thanh với vẻ kinh ngạc rồi cúi đầu nhẹ nhàng đáp, “Dạ!”
“Ừ, ngươi lui xuống trước đi.”
“A Lăng”, Hàn Nhạn Thanh hỏi thẳng, “Ngày đó, ngày đầu tiên chúng ta tới, người áo đen truy sát tỷ là… Lôi Bị sao?”
“Ừ.” Lưu Lăng nhẹ nhàng gật đầu, nhìn nàng vẻ biết lỗi, “Khi muội tỉnh lại thì tất cả đã thành ra hoàn cảnh đối địch như vậy, xin lỗi.”
“Không cần thiết.” Hàn Nhạn Thanh mỉm cười uống cạn chén rượu, vị chua chua ngọt ngọt này quả nhiên là khẩu vị ưa thích của Đan Tạp. “Cũng không phải là chủ ý của muội.” Vào ngày chạy trốn khỏi bãi sậy, trong lòng nàng bất an vì cho dù đối phương có xem thường năng lực của một phế hậu thì đến khi điểm lại nhân số, phát hiện thấy thiếu một người, bằng bất cứ giá nào cũng sẽ quay lại đuổi gϊếŧ. Nàng luôn canh cánh nỗi lo này nhưng lại không thấy người tới, nỗi nghi hoặc đó tới hôm nay coi như mới được giải đáp thỏa đáng.
“Lúc ấy muội rất ngạc nhiên khi Lôi Bị trình lên chiếc trâm phượng mà hắn tìm được.” Lưu Lăng cũng bắt đầu uống rượu, “Đương nhiên là dù trước kia có ân oán gì với tỷ lúc đó cũng coi như là không biết gì, đành phải đánh trống bỏ dùi mà thôi. Muội giải quyết xong chuyện gã người hầu mất tích đó thì liền lên đường trở về Hoài Nam. Nếu lúc ấy biết là tỷ, có lẽ…” Nàng than một tiếng, có lẽ cái gì chứ? Ngay lúc đó nàng có thể đem phế hậu A Kiều về Hoài Nam được sao?
“Việc này…” Hàn Nhạn Thanh không yên lòng, nhìn chén rượu, “Hôm nay muội ra mặt gặp tỷ là có chuyển biến gì sao?”
“Đúng vậy.” Lưu Lăng gật đầu, ánh mắt ôn hòa, “Còn nhớ những tiểu thuyết về chuyện xuyên không trước kia chúng ta từng xem không? Mặc dù không biết tại sao, nhưng theo như định luật xuyên không mà chúng ta tổng kết lại khi đó thì những linh hồn xuyên không luôn gắn liền với thân phận được nhập vào.”
Nàng u oán nhìn Hàn Nhạn Thanh, giọng trầm trầm, “Tại sao số mệnh chúng ta lại khổ sở như vậy chứ? Một người thì xuyên không thành vị phế hậu có số phận bi thảm trong lịch sử, một thì trở thành Lưu Lăng nổi danh là gián điệp chuyên dùng sắc đẹp, cuối cùng tự sát hay bị chém đầu?”
“Chậc… Vấn đề này, tỷ cũng không biết.” Mặc dù rượu rất thơm ngọt nhưng Hàn Nhạn Thanh cảm giác mình đã hơi say, nàng bỗng nhiên cao giọng, “Có lẽ trời cao muốn xem chúng ta làm thế nào để thay đổi vận mệnh của mình đấy thôi. Tỷ không cam lòng bị giam cầm trong cung Trường Môn; muội không cam tâm trước vận mệnh phải đi trên con đường dẫn đến cái chết. Lịch sử…”, nàng ngẩng đầu, nâng chén lên mời bầu trời ngoài khung cửa sổ, “là cái gì? Tạp Tạp”, đây là lần đầu tiên sau khi xác định thân phận đối phương, nàng gọi theo cái tên trong kí ức. “Trước kia nếu muội nói cho tỷ biết sẽ lâm vào tình cảnh này thì có chết tỷ cũng không tin. Nhưng mà bây giờ, bây giờ”, nàng lắc đầu, “Chúng ta cùng nhau làm một trận chiến có được hay không? Có được hay không?”
“Được.” Lưu Lăng cũng giơ chén, tửu lượng của nàng mạnh hơn Hàn Nhạn Thanh một chút nhưng uống rượu pha loãng là do những năm gần đây nàng phải đề phòng người ngoài, giờ có bạn tốt bên cạnh nên trở thành tùy ý, “Có tỷ ở bên cạnh, muội thật sự rất vui vẻ. Ít nhất không phải chiến đấu một mình, tính kế với những người bên cạnh đúng là mệt chết đi được.”
“Thế à”, Hàn Nhạn Thanh cũng không để ý rồi hỏi tiếp, “Muội tính kế cái gì?”
“Tỷ cũng biết đấy”, giọng Lưu Lăng biến thành lạnh lẽo, đôi mắt cũng dần dần tỉnh táo, “Trong lịch sử, Hoài Nam vương mưu phản liên lụy đến mấy ngàn ngươi.” Nàng lạnh lùng nói, “Lưu Lăng thuở trước không nhận ra được nhưng muội thì biết rõ rằng thời đại này, quốc lực của Hán Vũ Đế đang cường thịnh. Trình Bất Thức, Lý Quảng, Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh, Công Tôn Hoằng, Lý Thái, Cấp Ảm… Còn chưa tính đến Tang Hoằng Dương, trận doanh khổng lồ như vậy thì Hoài Nam làm sao có thể đối chọi nổi. Cho dù, cho dù hợp lực cả mấy người chúng ta lại mà miễn cưỡng liều mạng thì cũng chỉ quấy đảo quốc gia một trận mà thôi, lại khiến cho Hung Nô có cơ hội nhúng tay. Mặc dù muội chẳng coi lương tâm là cái gì, nhưng cũng không phải là không có, vẫn tràn đầy lòng ái quốc.”
“Ha ha”, Hàn Nhạn Thanh cười phá lên, “Mời muội”, nàng giơ chén rượu lên, “Ít nhất là chúng ta vẫn có nhận thức giống nhau ở điểm này.”
“Nói về bản chất, muội rất lười, những thứ như quyền lợi tiền bạc chỉ cần đủ dùng là được”, Lưu Lăng đón chén rượu mời, “Nếu như có thể ném Hoài Nam cho Lưu Triệt để y cung cấp tiền bạc tiêu xài, bản thân lại còn có thể ở cùng một chỗ với các tỷ làm mưa làm gió tại Trường An, cớ sao muội lại không làm chứ?”
Một giọt mồ hôi lạnh từ trên trán Hàn Nhạn Thanh chảy xuống, “Muội tính kế với y? Chà chà”, nàng thoáng chột dạ, “Không phải muội muốn ‘bảo hổ lột da’ đấy chứ[3].” Nàng phát hiện đám bạn của nàng ai nấy đều lớn mật, đều muốn tính kế với cái con người đứng đầu thiên hạ ở trong cung Vị Ương cung kia. Nói cho cùng, trong lòng những kẻ đến từ thời hiện đại như bọn họ, đều không có khái niệm gì về quân quyền thần thánh không thể xâm phạm, nếu có sợ thì là sợ danh tiếng lưu lại trong sử sách của Lưu Triệt mà thôi. Chỉ cần có thể nắm bắt được tâm lý hoàng đế thì trong mắt bọn họ, Hán Vũ Đế cũng có thể sống chung. Nàng bất giác rùng mình, từ xa tính kế đối phó với y thì còn cảm thấy hứng thú, bảo nàng đối mặt, lại còn lấy thân phận hoàng hậu mà chung đυ.ng với y thì quả là khó khăn.
[3] Ý câu này muốn khuyên: Đừng có hy vọng đối phương đồng ý việc gì có liên quan đến chính sự sống còn của người đó.
“A Lăng”, Hàn Nhạn Thanh buồn bã, “Muội còn có thể nhớ được chuyện của bản thân mình trước kia không?”, nàng cân nhắc từng câu từng chữ hỏi, “Ở Trường An ấy?”
Gương mặt Lưu Lăng thoáng chốc nặng nề, “Cũng biết được một chút.” Thông qua việc hỏi đám người bên cạnh suốt mấy năm qua, nàng cũng đại khái về những chuyện cũ kia, “Cô ấy là cô ấy, muội là muội”, nàng cau mày, phủ nhận con người đã tồn tại thuở trước, “Chuyện muội làm không liên quan đến cô ấy.”
“Lưu Triệt có hai điều lo lắng, một là Hung Nô, hai là chư hầu. Lần này muội lấy Giao Đông, Giang Đô, Hành Sơn, tính cả Hoài Nam của muội là bốn nước giao cho y, chẳng lo y không cười mà đón nhận”, Lưu Lăng lắc lắc chén rượu trong tay, nói như việc đã định.
“Hoài Nam của muội giống như ‘gân gà’[4]” Nàng thấy vẻ mặt kinh ngạc của Hàn Nhạn Thanh thì mỉm cười, “Giữ Hoài Nam trong tay, ắt có một ngày thanh đao của Lưu Triệt sẽ nhắm tới. Đến lúc đó nước nhà cũng khó bảo vệ, chi bằng lúc này hào phóng trao cho y. Lưu Triệt nhìn vào công lao này sẽ đối xử tử tế với nhà muội.”
[4] Gân gà: Những thứ vô bổ, không mang lại ích lợi gì.
“Muội nghĩ như vậy nhưng Hoài Nam Vương có nghĩ như vậy không? Hoài Nam thái tử có nghĩ được như vậy không? Mẹ của muội có nghĩ được như vậy không? A Lăng”, Hàn Thanh Nhạn không khỏi lo sợ, “Muội không được quá ngây thơ, lại càng không được… quá tàn nhẫn.”
Lưu Lăng nói giọng cương quyết, “A Kiều, tỷ biết không? Muội đã không còn đường lui.”
Nàng đứng dậy mở cửa sổ, nhìn vào một chỗ đèn đuốc náo nhiệt trong thành, chỉ tay, “Ở vương phủ Giao Đông đang tổ chức yến hội. Ca ca của muội, Hoài Nam thái tử Lưu Thiên rất muốn đi dự tiệc.”
“Muội đã giành ba năm để bố trí cục diện, không cho phép có bất trắc xảy ra.”
“Phụ thân và ca ca thật sự đều rất thương muội, chính vì thế muội càng muốn cứu bọn họ khỏi lưỡi đao.”
“Quan trọng hơn là bởi vì, có lẽ chỉ có làm như thế, Nhạn Thanh, thì muội mới có thể không đối đầu với tỷ.”
Từ khi Hoắc Khứ Bệnh nhập ngũ rời khỏi Trường An, điện Chiêu Dương trở nên tĩnh lặng. Mặc dù Hoàng thượng thể hiện rõ thánh sủng đối với vị Công chúa Duyệt Trữ bằng cách liên tục gửi những món đồ ban thưởng đến, nhưng bản thân Lưu Sơ lại không hề để ý đến chúng. Cô bé thường ôm cây đàn tỳ bà. Nghe nói cây đàn này là do hoàng hậu đời trước mang về phủ Đường Ấp hầu, được Trưởng công chúa Quán Đào đưa từ ngoài cung tới. Lưu Sơ ngồi ở trước điện, dõi cặp mắt đầy tâm trạng về phương xa, cứ như làm vậy sẽ thực hiện được hết thảy mong ước. Nếu không làm thế thì lại thui thủi một mình trong phòng niệm những câu kinh Phật mà chưa ai từng nghe thấy.
Khi Trưởng công chúa Quán Đào bước vào thì thấy Lưu Sơ đang ở trong tình trạng như vậy. Từ khi A Kiều bị phế danh hoàng hậu, trục xuất về cung Trường Môn bà không còn được gặp con gái mình. Mãi sáu năm sau, khi Hàn Nhạn Thanh hoảng hốt xông vào phủ Đường Ấp hầu, bà mới trông thấy khuôn mặt vẫn như ngày nào của con gái thì bỗng nhiên cảm thấy năm tháng như thoi đưa. Đúng vậy, năm tháng như thoi đưa. Ngay cả A Kiều năm xưa còn sà vào lòng bà ngây thơ gọi mẫu thân bây giờ cũng đã là mẫu thân có hai đứa trẻ thì bà đương nhiên cũng đã già rồi.
A Kiều là đứa con tốt nhất trên đời, cho dù là lúc nàng còn tại vị, làm hoàng hậu ngây thơ không biết đến tháng ngày bên ngoài, thì bà vẫn luôn cho là như vậy. A Kiều ngang ngược, nhưng thiện lương, mộc mạc, hiếu thảo. Đôi lúc bà nghĩ nếu A Kiều có một nửa trí thông minh của mình thì kết quả sẽ như thế nào? Bà là con gái của Hán Văn Đế, là chị gái của Hán Cảnh Đế, nay lại là cô cô của Hoàng thượng, thuộc dòng dõi thiên hoàng cao quý. Vậy thì vì sao con gái của bà lại có thể thua một ca cơ ti tiện? Ánh mắt Công chúa Quán Đào bỗng chốc trở nên sắc lẹm, đầy sát khí.
Lưu Sơ như cảm nhận được điều gì, quay đầu lại trông thấy là bà liền nhoẻn miệng cười, “Bà ngoại!”
“Sơ Nhi!”, Trưởng công chúa Quán Đào mỉm cười, dù ban đầu bà có giận Lưu Sơ bỏ trốn bao nhiêu chăng nữa thì với tiếng gọi này cũng đều tiêu tan hết. Bà trìu mến cầm tay Lưu Sơ dịu dàng hỏi, “Cháu đang đọc cái gì thế?”
Lưu Sơ giơ quyển sách trên tay ra đáp, “Kinh Phật ạ.” Cô bé giải thích, “Sư công và mẫu thân cháu nói thân thể của cháu yếu ớt nên phải đọc kinh Phật để tu tâm dưỡng tính.”
Trưởng công chúa Quán Đào cảm giác đau nhói, “Sơ Nhi!” Bà hỏi giọng lưỡng lự, “Trên cổ cháu có đeo một miếng ngọc bội phải không?”
“Dạ!”, Lưu Sơ gật đầu, moi miếng ngọc bội đeo trên cổ ra, “Mẫu thân đeo cho cháu miếng ngọc bội này từ lúc cháu mới ra đời, nói là để tai qua nạn khỏi.”
Lưu Phiếu vuốt ve miếng ngọc bội màu xanh biếc lóng lánh, trong lòng vô cùng hối hận. Đúng là miếng ngọc bội này! Năm xưa bà đi ngang qua đầu phố ở thành Trường An, đυ.ng phải con gái của mình, làm hại A Kiều sinh non nên Sơ Nhi hôm nay mới đau ốm như vậy. Vận mệnh đúng thật là kỳ diệu. Lúc đó bà đang ở trên xe rồng tưởng nhớ con gái của mình thì A Kiều lại ở bên ngoài xe cách bà có gang tấc, đang chuẩn bị sinh nở.
“Sơ Nhi!” Lưu Phiếu đột nhiên ôm lấy thân hình bé nhỏ yêu kiều của cô bé. “Sau này cháu có nguyện vọng gì thì bà ngoại bằng mọi giá cũng phải giúp cháu thực hiện.”
“Bởi vì coi như bà nợ cháu”
Lưu Sơ chẳng thể biết được suy nghĩ của bà ngoại, chỉ nũng nịu nép vào lòng Lưu Phiếu, “Vậy thì nếu bà ngoại có nguyện vọng gì Tảo Tảo cũng nhất định giúp bà bằng được.”
Lưu Phiếu bật cười, cốc yêu cháu gái, “Được rồi.” Giọng con trẻ non nớt của Lưu Sơ làm cho bà cảm thấy ấm áp tận đáy lòng, “Sơ Nhi, bà muốn đi điện Tuyên Thất gặp phụ hoàng của cháu, cháu…”, nói đến đây bà buồn cười nhìn Lưu Sơ chu miệng tỏ vẻ hờn dỗi, “Tại sao cháu lại ghét bỏ phụ hoàng cháu đến như vậy?”
“Bởi vì ông ấy làm cho mẫu thân đau lòng”, Lưu Sơ gằn giọng “Mẫu thân tốt thế mà phụ thân lại không cần mẫu thân, nhất định là phụ thân có mắt không tròng.”
Trưởng công chúa Quán Đào chẳng biết nói sao, “Thật ra thì”, bà thận trọng tìm từ, “Chuyện năm đó…”
“Mẫu thân của cháu nói rằng”, Lưu Sơ nhảy dựng lên, giọng lanh lảnh, “Một người đàn ông làm cho người mình yêu đau lòng thì tuyệt đối không phải là người đàn ông tốt.”
Lưu Phiếu im lặng, năm đó A Kiều nghĩ như vậv sao? Bà thong thả bước đi bước lại trong phòng, “Sơ Nhi, cứ cho những gì mẫu thân cháu nói là đúng, nhưng cháu có nghĩ rằng mấy năm qua mẫu thân cháu sung sướиɠ hay không?”
Lưu Sơ sững người, “Tất nhiên là mẫu thân cháu vui vẻ rồi.” Cô bé miễn cưỡng trả lời, “Mỗi lần nhìn ca ca và cháu thì ánh mắt mẫu thân rất trìu mến.”
“Thế còn mỗi lần nhắc tới phụ hoàng của cháu thì sao?”
Lần này thì Lưu Sơ nín lặng, nó nhớ rõ ràng rằng thỉnh thoảng mẫu thân vẫn nhìn về hướng Trường An, trong mắt hiện lên vẻ ảm đạm lẫn thương cảm.
“Sơ Nhi, ‘Hà sự tây phong bi họa phiến’, vậy ‘họa phiến’[5] chỉ cái gì?”
[5] Họa phiến: Quạt hoa.
“Lụa Tề mới cắt xong
Trắng tinh như tuyết sương
Quạt hợp hoan may lại
Tròn vạnh tựa trăng rằm
Chàng giữ trong tay áo
Phe phẩy gió mơn man
Thường sợ mùa thu đến
Heo may thế nắng tràn
Xếp xó trong rương cũ
Nửa đường tình dở dang.”[6]
[6] Bài thơ Oán ca hành (Bài ca si oán) của Ban tiệp dư.
Lưu Sơ buồn bã ngâm thơ, vì nó đã từng hỏi mẫu thân nên nhớ rất rõ ràng những tứ thơ này.
“Còn ‘Tỷ dực liên chi’[7] thì sao?”
[7] Dịch: Liền cánh liền cành. Nói việc vợ chồng gắn bó thương yêu lâu dài, mãi mãi có nhau.
Lưu Sơ lại ngâm:
“Trong điện Trường sinh ngày trùng thất
Nửa đêm quạnh vắng nói một mình
Trên trời xin nguyện chim liền cánh
Dưới đất cầu mong cây liền cành
Trời cao đất rộng rồi cũng mất
Riêng hận triền miên vẫn chẳng tan.”[8]
[8] Trích bài Trường hận ca của Bạch Cư Dị.
“Chắc năm đó mẫu thân cháu rất yêu phụ hoàng của cháu”, Trưởng công chúa Quán Đào ôm chặt Lưu Sơ, đột nhiên nhớ lại những chuyện xưa, “Khi đó A Kiều nhào về phía bà rồi nói: “Mẫu thân à, Triệt Nhi rất tốt.” Hôm nay, sau rất nhiều năm, liệu A Kiều nhớ lại thuở ban đầu có thể nói những lời tương tự nữa không?”
Lưu Sơ nhớ lại mẫu thân thường ở bên cạnh giường kể chuyện cổ tích cho nó và ca ca, chuyện Lương – Chúc hóa thành bướm còn muốn được bay chung đôi và cả chuyện nàng tiên cá xinh đẹp vứt bỏ cả tính mạng trường sinh của mình, nhảy vào biển rộng, tan thành bọt sóng. Ngày đó, rõ ràng là mẫu thân đã nhỏ lệ.
“Mẫu thân, mẫu thân có tình nguyện làm một nàng tiên cá như vậy hay không?”
Khi đó, mẫu thân đã trả lời, “Mạch Nhi, Sơ Nhi nhớ rằng trong cuộc sống này cần phải quan tâm đến người yêu thương của các con, không phụ bạc họ, lại càng không được làm điều gì có lỗi với họ.”
Lưu Sơ còn nhớ rằng có một khoảng thời gian mẫu thân thường hát một bài ca u hoài.
“Cả cuộc đời này không thể tránh câu oan gia ngõ hẹp, lòng bàn tay bỗng nhiên thêm một đường chỉ tay rối tung; Từ khi gặp gỡ đến lúc động lòng có quá một ngày không? Giữ chẳng được tính không ra câu chuyện tình năm xưa.”[9]
[9] Bài hát Lưu niên do ca sĩ Vương Phi trình bày.
Người đó có lẽ chính là điểm yếu trời sinh của mẫu thân. Cả cuộc đời mẫu thân cũng không thể may mắn thoát khỏi người đã là oan gia ngõ hẹp chăng?
“Bà ngoại”, Lưu Sơ nói giọng yếu xìu, “Bà để cho cháu suy nghĩ thêm đã.”
“Được rồi”, Lưu Phiếu cũng sợ bệnh tình cô bé tái phát, lúc này không nỡ làm trái ý bèn đứng dậy bảo, “Bà ngoại đi nhé. Cháu nghỉ ngơi đi, không cần tiễn đâu.”
Lưu Sơ gật đầu, cầm cuốn kinh Phật lên tiếp tục tụng niệm. Cuốn kinh nó đọc chính là cuốn Dược sư Lưu ly quang Như Lai bản nguyện công đức kinh mà Hàn Nhạn Thanh thời hiện đại đặc biệt yêu thích. Khi Trưởng công chúa ra khỏi điện Chiêu Dương thì cô bé đang ngân nga, “Đại nguyện thứ hai: Con nguyện kiếp sau được làm Bồ Đề, thân như lưu ly, trong ngoài sáng tỏ, không một tỳ vết; Quang minh trải rộng, công đức l*иg lộng, thân thiện yên tĩnh, quầng sáng nghiêm trang hơn cả nhật nguyệt; chúng sinh U Minh, bỏ mê là hiểu, tùy theo ý muốn, làm nên sự nghiệp.”
Trưởng công chúa không nhịn được quay đầu nhìn lại, cảm giác cô bé ngồi trong điện chắp tay tụng niệm gần giống như một pho tượng trang nghiêm nên không dám kinh động.
Ngàn dặm mây vàng trời tối tăm
Gió mùa xua nhạn tuyết giăng giăng
Chớ lo phía trước không tri kỷ
Thiên hạ mấy ai chửa biết chàng?
(Biệt Đổng Đại – Vương Xương Linh)
Lêи đỉиɦ lầu cao vạn nỗi sầu,
Cỏ lau dương liễu tựa dòng châu.
Mây sông vừa nổi trời chui các,
Mưa núi sắp rơi gió lộng lau.
Canh lối vườn Tần chim trốn đậu,
Thu vàng cung Hán ve buồn kêu.
Qua đường chớ hỏi chuyện xưa cũ,
Sông Vị về Đông cuốn nước theo.Quyển 1 - Chương 23: Công chúa Duyệt Trữ tự suy xét thiệt hơnĐiện Tuyên Thất.
“Triệt Nhi, cháu hãy nói thật cho cô cô biết Kiều Kiều bây giờ ra sao?”
Trưởng công chúa Quán Đào vừa vào đã hỏi ngay khiến Lưu Triệt nhất thời im lặng. Lát sau y do dự ngẩng đầu, “Chắc là cô cô phải hỏi chính A Kiều? Ngày đó người rời khỏi Trường An chính là nàng, sao hôm nay lại tìm trẫm để hỏi?”
Trưởng công chúa vẫn chưa thôi, “Hoàng thượng, chúng ta hãy nói chuyện thẳng thắn với nhau. Kiều Kiều bỏ đi mà Hoàng thượng lại bỏ mặc không quản chút nào sao?” Bà khẽ cau mày, “Ta chỉ quan tâm đến con gái của mình. Nó đã bỏ đi được mấy tháng rồi. Kiều Kiều từ nhỏ đã không phải chịu khổ, dù cho những năm trước đây lưu lạc bên ngoài thì có quý nhân phù trợ. Hôm nay nó gần như là cô độc ở bên ngoài, Hoàng thượng bảo cô cô ta làm sao yên tâm được chứ?”
Trưởng công chúa Quán Đào có bao nhiêu năm kinh nghiệm sống nên biết rõ bản tính độc đoán của đứa cháu đang ngồi trên ngai rồng, không chịu nổi việc năm xưa bà cậy công uy hϊếp. Từ đó suy ra, nếu muốn y hồi tâm chuyển ý thì phải dùng cách lạt mềm buộc chặt từ từ mưu tính. Điểm này A Kiều và Lưu Sơ đã làm rất tốt bà cũng không có ý thọc gậy bánh xe.
Lưu Triệt cười nhạt, “Cô cô có thể thật sự yên tâm.” Y đứng dậy đi xuống điện, chắp tay nói, “A Kiều đã có thể sống bên ngoài suốt sáu năm thì không thiếu bản lĩnh để lần thứ hai sống thêm sáu năm nữa. Nàng bây giờ đang ở Giao Đông.”
“Giao Đông?” Lưu Phiếu kinh ngạc, “Lưu Ký đâu có giao tình gì với nó chứ?”
“Có giao tình với tiền Tam Thù là được rồi.” Lưu Triệt siết chặt nắm tay. Lúc thị vệ theo dõi A Kiều báo cáo về phương pháp chọn đường không thể tưởng tượng nổi của nàng thì y đã vặn hỏi một lúc lâu. A Kiều trước kia không có tính tùy tiện như vậy. Rốt cuộc là sai ở chỗ nào, hoặc là nỗi đau khổ thật sự có thể làm thay đổi một con người đến mức như thế sao?
Trưởng công chúa Quán Đào khẽ liếc nhìn Lưu Triệt, không biết cháu mình có phát hiện ra y ngày càng quan tâm đến A Kiều hơn so với bình thường hay không. Xem ra có những chuyện vốn tưởng rằng đã nắm chắc trong lòng bàn tay bỗng nhiên lại phát sinh biến hóa khó lường khiến cho đứa cháu này của mình không thể nào tiếp nhận nổi.
Bà hiểu sâu sắc đạo lý nhún nhường, liền dừng lại, “Đã thế thì ta về trước đây. À phải rồi”, bà làm bộ muốn cất bước nhưng như chợt nhớ ra điều gì lại quay người hỏi, “Khi mang thai Mạch Nhi và Sơ Nhi, A Kiều vẫn là hoàng hậu, cho dù thế nào thì Hoàng thượng cũng sẽ không để cho mọi người hoài nghi về địa vị công chúa của Sơ Nhi chứ?”
“Loại nghi lễ này phải do triều thần bàn luận mới có thể quyết định.” Tất nhiên Lưu Triệt biết Trưởng công chúa Quán Đào nói về Lưu Sơ nhưng trên thực tế lại ám chỉ Lưu Mạch ở Giao Đông xa xôi kia, tuy thế y vẫn kín như bưng, “Cô cô cũng không cần phí tâm sức.”
Giao Đông vương Lưu Ký lúc này đang có tâm trạng rất tốt. Hắn vốn là con thứ mười hai của Hán Cảnh Đế thuộc dòng chính của Hoàng đế Cao Tổ, được ngự phong làm Giao Đông vương cai quản mười ba thành phía đông sông Giao Lai. Nếu không có Tô Gia, có lẽ thật sự đời hắn sẽ vui vẻ làm một vương gia.
“Năm Nguyên Sóc thứ hai, triều đình ban ‘Thôi ân lệnh’ để phân hóa chư hầu, cứ như vậy thì chư hầu yếu thế quy phục Hoàng thượng hết cả rồi”, Tô Gia nói vậy. Lưu Ký rất tán đồng, thỉnh giáo đối sách, Tô Gia làm bộ tùy ý nói một câu, “Năm đó Hoàng thượng trước lúc lên làm thái tử cũng đã được phong làm Giao Đông vương đấy.”
Lưu Ký cảm giác hùng tâm tráng chí bốc lên hừng hực. “Tiên sinh…”, hắn nuốt nước miếng, “Mời ngài phân tích tình thế hiện giờ cho ta.”
Tô Gia mỉm cười, nho nhã đoan chính, “Vương gia.” Hắn chắp tay nói, “Thật ra thì chư hầu ngoài mặt có vẻ như phục tùng triều đình nhưng trong lòng ai chẳng có tham vọng tiến thêm một bước, đứng đầu trăm họ? Không nói những thứ khác….” Hắn chỉ vào tấm bản đồ Đại Hán trong trung đường của mật thất, “Giang Đô, Hành Sơn, Hoài Nam, nếu ngày ấy có chư hầu nào đó nguyện đứng lên thì chắc chắn ba chỗ này sẽ hưởng ứng.”
Trần Thắng, Ngô Quảng ngày đó cũng dám đứng lên hỏi, “Vương hầu khanh tướng cũng phải có dòng có giống sao?” Lưu Ký ta cũng là con của Cảnh Đế, có chỗ nào thua kém Lưu Triệt ở thành Trường An kia chứ? Lưu Ký thầm nghĩ như vậy.
“Vương gia nên biết, quyết đoán mới có thể thành công, cần phải có thực lực thật mạnh thì mới ngồi lên trên chiếc ghế đó được.” Tô Gia nói ra câu cuối cùng.
Lưu Ký cho là đúng, bái Tô Gia làm tướng của Giao Đông. Trong ba năm, âm thầm chế tạo binh khí, huấn luyện quân đội, tích lũy lực lượng.
Năm Nguyên Sóc thứ sáu, Đại tướng quân Vệ Thanh sắp xuất chinh lần thứ hai. Tô Gia nói thời cơ đã đến. Lúc này quân đoàn phương bắc tinh nhuệ của triều đình đã bị Vệ Thanh dẫn đi hết, nếu liên hiệp hành động một lần thành công, thì Vệ Thanh kéo quân về cứu cũng đã muộn. Lưu Ký theo đó phái người liên hiệp các vương gia của Giang Đô, Hành Sơn, Hoài Nam mưu đồ khởi sự. Giang Đô vương Lưu Kiến, Hành Sơn Vương Lưu Tứ đều nghe theo, duy chỉ có Hoài Nam vương Lưu An còn có ý lưỡng lự. Lưu Ký nôn nóng hỏi kế Tô Gia, “Lúc trước tiên sinh nói ta chư hầu này chắc chắn hưởng ứng nhưng giờ Lưu An lại lưỡng lự, vậy phải làm thế nào?”
Tô Gia phe phẩy quạt lông, nghi hoặc, “Hoài Nam vương Lưu An có thù với cha con Lưu Triệt, nếu lúc trước Vương gia dám đứng lên thì hắn chắc chắn không bàng quan, còn với tình hình hiện giờ thật sự không biết thế nào.” Hắn trầm giọng, “Vương gia, việc đến nước này coi như đã cưỡi trên lưng hổ, nếu Lưu An đem báo lên cho Hoàng thượng ý đồ của ngài, thì ngày này năm sau chính là ngày giỗ của cả nhà Vương gia. Chi bằng”, hắn đưa tay ra hiệu, nói giọng thâm độc, “Đã làm thì phải làm tới cùng.”
Lưu Ký vội vàng phản đối, “Nếu mới đầu đã gϊếŧ hại người họ Lưu thì chỉ khiến cho chư hầu ly tán, mọi việc của ta sẽ hỏng hết.”
Tô Gia cười ha hả, “Vương gia quả thật là anh minh.” Hắn thoáng dừng lại rồi nói tiếp, “Đã như vậy, Vương gia lấy danh nghĩa của mình mời Thái tử Lưu Thiên của Hoài Nam đang trên đường vào kinh tới gặp mặt ở Tức Mặc, sau đó bắt hắn giam lỏng rồi dùng lời ngon ngọt để khuyên bảo. Với tâm tính thiếu niên của Lưu Thiên thì việc có thể thành, tiếp đó sẽ dùng hắn để khuyên cha hắn. Cho dù không được, có Lưu Thiên trong tay, Hoài Nam vương sẽ không dám làm càn, cũng có thể được việc.”
Sắc mặt Lưu Ký không ngừng biến đổi, hắn biết Hoài Nam vương Lưu An không giống huynh đệ Lưu Tứ, rất coi trọng con trai và con gái của vợ cả, cuối cùng cắn răng vỗ án, “Cứ theo như lời tiên sinh nói.”
Ba ngày trước, Lưu Ký mở yến tiệc ở vương phủ Giao Đông, mời Giang Đô vương Lưu Kiến, Thái tử Lưu Thiên của Hoài Nam vương, và người con trai được Hành Sơn vương sủng ái nhất là Lưu Hiếu. Qua ba tuần rượu, Lưu Ký bảo những người khác lui ra, chỉ lưu lại tâm phúc, hỏi Lưu Thiên về đại kế, Lưu Thiên vẫn trả lời lập lờ như trước. Lưu Ký sầm mặt, ném chén rượu làm hiệu, quân binh bốn phía xông lên định bắt Lưu Thiên. Thủ vệ bên cạnh Lưu Thiên phản kháng, chém chết mấy người nhưng cuối cùng ít không thể thắng nhiều, thất thủ bị bắt. Cho tới bây giờ, mọi chuyện vẫn nằm trong tay hắn, chư hầu bốn phía dù tự nguyện hay không thì cũng đã bị trói chung trên một con thuyền, lần này hợp sức cùng có thể liều mạng với triều đình. Hắn nhếch mép, Lưu Triệt ắt không thể chống đỡ được công kích của một nửa số huynh đệ cùng mẹ với mình.
Hắn trầm tư, dạo bước đến đầu một con phố ở Tức Mặc, lơ đãng dừng lại thì phát hiện mình đang đứng trước một tòa lầu trang trí tinh xảo, giăng đèn kết hoa rực rỡ.
“Ôi chà, Vương gia Giao Đông”, ma ma của Mãn Lâu Phong tươi cười ra đón, “Đã lâu ngài không tới chơi, Mi Vũ cô nương của chúng tôi nhớ ngài đến tiều tụy rồi đấy.”
Lưu Ký cười nhạt, “Chẳng phải ta tới rồi sao.” Hắn nhớ tới sự phong lưu quyến rũ của Mi Vũ, cảm giác trong lòng hơi rạo rực, cất bước lên lầu, nói với người sau lưng, “Không cần dẫn đường.”
Mãn Lâu Phong mới khai trương ở Tức Mặc ba tháng trước, nghe nói có cùng nguồn gốc với Phong Mãn lầu của thành Ngũ Nguyên nổi tiếng vùng biên cương. Trường Tín hầu Liễu Duệ mới nổi lên trong triều chính cũng xuất thân từ Ngũ Nguyên. Cô nương Mi Vũ trong lầu nghe nói là đứng đầu bảng của Phong Mãn lầu lúc trước. Hơn một tháng trước, hắn cùng với Tô Gia từng đến Mãn Lâu Phong tìm hiểu, quả nhiên cảm thấy chỗ này có sự khác biệt, chưa nói tới rượu và cách bài trí, chỉ riêng Mi Vũ cô nương đã không hổ danh, quyến rũ đa tình, phong lưu động lòng người, sau mấy lần gặp mặt đã trở thành một nơi tâm sự của hắn.
“Vương gia!” Tang ma ma gọi níu hắn lại, lộ vẻ khó khăn, “Trong phòng Mi Vũ có khách, hay là ngài để tôi vào thông báo trước một tiếng?”
“Ma ma thật to gan”, sắc mặt Lưu Ký sa sầm, “Mi Vũ đã được bản vương bao trọn rồi, sao ngươi dám để nàng tiếp khách?”
“Vương gia hiểu lầm”, Tang ma ma liên tục kêu oan, “Người khách mà Mi Vũ gặp là nữ.” Bà ta thấy bộ dạng nghi ngờ của Lưu Ký thì nói thêm “Vị nữ khách này cũng không phải là nhân vật đơn giản, Vương gia đã từng nghe nói về lầu Thanh Hoan ở thành Trường An chưa?”
“Dĩ nhiên rồi, bản vương mấy năm trước vào kinh đã từng đến đó, quả nhiên không hổ danh. Chẳng lẽ vị khách này có liên quan đến lầu Thanh Hoan?”
Tang ma ma cười toét miệng, “Đúng rồi. Mi Vũ cô nương của chúng tôi mắt cao hơn đầu, nếu là nhân vật bình thường thì làm sao phải tự mình tiếp đãi chứ?” Bà ta chỉ vào Lan Chỉ hiên của Mi Vũ ở lầu trên, “Ca vũ của lầu Thanh Hoan nổi danh thiên hạ, vị này chính là người đứng đầu trong đó đấy. Mấy ngày trước chính vị này đã hát Giai nhân khúc truyền khắp thiên hạ.”
“À”, thân là vương gia, Lưu Ký dĩ nhiên nghe được sóng gió ở thành Trường An mấy tháng trước, lập tức cảm thấy hứng thú, “Chính là đệ nhất ca kỹ Mai Ký Giang của lầu Thanh Hoan sao?”
Tang ma ma lắc đầu, “Thật ra thì Mai Ký Giang làm sao có thể so sánh với vị này? Nhưng người ta là con gái nhà lành, không tiện xuất hiện nên mới để cho Mai Ký Giang giương danh đấy!”
“Nhân vật truyền kỳ như thế bản vương lại càng muốn thấy.” Lưu Ký làm bộ muốn lên lầu, Tang ma ma hoảng hồn vội kéo hắn lại, “Vương gia, Trần cô nương dù sao cũng là con gái nhà lành, vì ái mộ danh tiếng của Mi Vũ của Ngũ Nguyên nên mới chịu hạ mình tới Mãn Lâu Phong, làm sao có thể gặp thêm đàn ông bên ngoài?” Bà ta thấy khuôn mặt không hài lòng của Lưu Ký thì vội vàng xoa dịu, “Nếu Vương gia mời Trần cô nương tới vương phủ dự tiệc, đối đãi đúng lễ độ thì lão thân sẽ nguyện thay Vương gia hỏi ý của nàng.”
Lưu Ký suy nghĩ một lát, “Cứ để cho ta gặp mặt Mi Vũ rồi nói sau.”
Lan Chỉ hiên.
“Nhiều ngày không gặp, thϊếp còn tưởng rằng Vương gia đã quên mất thϊếp rồi chứ? Vương gia nhất định phải tự phạt ba chén bồi tội với thϊếp.” Mi Vũ rót rượu, dịu dàng dựa vào ngực Lưu Ký nũng nịu nói.
“Được rồi”, Lưu Ký cảm giác một thân thể mềm mại thơm tho nõn nà như sáp dựa vào ngực thì hồn xiêu phách lạc. Hắn giơ chén uống cạn, khen ngợi, “Bích Nhưỡng Xuân của Phong Mãn lâu cũng chỉ mạnh và êm như thế này mà thôi.” Hắn nói rồi lại si mê ngắm người đẹp trong lòng, đưa ngón tay vuốt ve lông mày của Mi Vũ, “Hôm nay Vũ Nhi vẽ lông mày rất khác.”
Mi Vũ che miệng cười, “Đây là Trần muội muội vừa mới vẽ cho thϊếp, gọi là ‘Viễn Sơn mi’, ý nói chân mày như núi xa. Mi Vũ thật là hâm mộ tư chất cao nhã thanh khiết của Trần muội muội, búi tóc của thϊếp cũng là do muội ấy búi cho, gọi là ‘Trục Nguyệt Phi Tình’. ngài đã từng thấy qua hay chưa?”
“Quả nhiên đẹp mắt.” Người đẹp trước mặt quyến rũ đa tình như vậy nhưng Lưu Ký hơi có cảm giác không yên lòng, thuận miệng khen, “Theo như nàng nói thì Trần cô nương này quả là một người kỳ diệu.”
Mi Vũ thầm thở dài, “Mi Vũ vốn tự nhận nhan sắc hơn người nhưng khi gặp Trần muội muội mới biết lời cổ nhân nói ‘tay như cỏ mềm, mắt đẹp rạng ngời’ là thật.
Lưu Ký nghe vậy thì trong lòng rung động, lúc rời đi còn lặng lẽ bảo Tang ma ma, “Vào buổi tối ba hôm nữa, bản vương thiết yến trong phủ mời các chư hầu tới chung vui, mong ma ma thay mặt gửi lời tới Trần cô nương, nếu như chịu tới thì vui không kể xiết.”
Trên Tư Tồn các của Mãn Lâu Phong, Hàn Nhạn Thanh nhìn ra ngoài cửa sổ, than một tiếng, “Xem ra kết cục đã định.”
“Muội điên rồi”, Quách Giải ôm kiếm, ngồi ở đối diện, nói vẻ khó hiểu, “Ta thật không thể tin được, muội tại có thể ở cùng một chỗ với chư hầu.”
Hàn Nhạn Thanh quay đầu lại, “Muội cũng không muốn nhưng còn có cách nào đâu.”
“Mẫu thân!” Lưu Lăng dắt tay Mạch Nhi đi tới, Mạch Nhi nhào vào trong lòng Hàn Nhạn Thanh, rầu rĩ, “Con vừa đánh hai tư điểm[1] với dì Lăng, con thua rồi.”
[1] Là một trò chơi có thể rèn luyện phép tính nhẩm. Yêu cầu của trò chơi là dùng bốn chữ số, tiến hành tính toán bằng các phép toán nhân chia cộng trừ (cho phép sử dụng dấu móc) để có được kết quả hai mươi tư.
Lưu Lăng bật cười gõ gõ trán nó, “Tiểu tử ngốc, thua thì cũng thua rồi, còn mách với mẫu thân à.”
Mạch Nhi giận dỗi tránh tay nàng, lắc đầu, “Đâu phải là con mách chứ? Mẫu thân”, rồi quay lại, “Tại sao chúng ta phải tới đây?” Cậu bé nhăn mày nhăn mặt, “Người ở nơi này đều quái lạ thế nào ấy.”
Hàn Nhạn Thanh bật cười “Bọn họ đều là… bằng hữu, sau này Mạch Nhi lớn lên thì sẽ quen thôi.” Nàng sửa sang tóc mái trên trán của Mạch Nhi, dặn dò, “Ngày kia con phải ở yên trong Tư Tồn các với Thân bà bà và Hổ cữu cữu nhé. Không được chạy lung tung đấy.”
Thân Hổ đứng ở đằng sau hỏi dò, “Tỷ, tỷ… đến lúc đó có tính toán gì sao?”
Hàn Nhạn Thanh gật đầu, “Tiểu Hổ Tử, tỷ giao nghĩa mẫu và Mạch Nhi cho đệ. Đệ phải bảo vệ bọn họ cho tốt đấy.”
Thân Hổ im lặng gật đầu.
Lưu Lăng lên tiếng, “Được rồi, ta đã tính toán chu đáo, sẽ không xảy ra chuyện gì đâu”, sau đó liếc thấy Quách Giải đang nhìn mình vẻ không hài lòng thì ngấm ngầm cười lạnh.
Nếu điện Tiêu Phòng là nơi hoàng hậu của các triều Hán ở thì cung Trường Nhạc là cung điện dành cho ngươi phụ nữ tôn quý nhất ở trong cung Vị Ương chuyển sang. Sau khi Đậu thái hoàng thái hậu qua đời, tòa cung điện này dành cho Vương Chí, mẫu thân ruột của đương kim Hoàng thượng, hoàng hậu thứ hai của Hoàng đế Hiếu Cảnh.
Khi Lý Chỉ ưỡn cái bụng cao vượt mặt bước vào cung Trường Nhạc thì Hoàng hậu Vệ Tử Phu và Vương mỹ nhân đã có mặt ở bên trong, đương kim Hoàng thượng đăng cơ đã hơn mười năm, ở những phương điện khác thì khá tàn độc nhưng với mẫu hậu lại rất hiếu thảo. Vì vậy mặc dù Thái hậu Vương Chí chỉ ở hậu cung không quản việc gì nhưng địa vị vô cùng cao. Các phi tần trong hậu cung thường xuyên tới cung Trường Nhạc thỉnh an, không ai dám trễ nải.
Lý Chỉ bước tới trước mặt Thái hậu thì buông tay Văn Tâm ra, quỳ xuống thi lễ, “Nô tỳ thỉnh an Thái hậu.”
Vương thái hậu phất tay, “Miễn lễ, con mang trong người dòng giống của đế vương, sau này không cần quá câu nệ những nghi thức xã giao này.”
Lý Chỉ đứng dậy, cũng không biện bác gì mà bước sang ngồi xuống một bên, Vương mỹ nhân ở bên cạnh lên tiếng, “Nếu Chỉ muội muội lần này mang thai công chúa thì sẽ là Tứ công chúa của Hoàng triều Đại Hán ta rồi”, cô ta cố nặn ra vẻ ảo não, “Muội xem trí nhớ của ta đấy, phải là Ngũ công chúa mới đúng chứ.”
Toàn điện tức thì lặng ngắt. Hoàng hậu Vệ Tử Phu ngồi bên cạnh Thái hậu vẻ mặt bình thản, không thấy có biến hóa gì. Lý Chỉ động lòng, than thầm Vương mỹ nhân cứ ỷ vào việc mình cũng sinh được một hoàng tử, đối với Vệ hoàng hậu luôn một mực dịu dàng ngoan ngoãn, còn với người khác thì lại ngang ngược càn rỡ. Trước mặt Thái hậu và Hoàng hậu mà nói về Công chúa Duyệt Trữ ở điện Chiêu Dươmg, thì có ích lợi gì đối với cô ta chứ?
Quả nhiên, Vương thái hậu nhíu mày nhưng chỉ nói mấy câu bâng quơ, “Nhắc đến mới nói, Công chúa Duyệt Trữ cũng là một đứa trẻ đáng thương không có mẫu thân bên cạnh.” Bà quay sang bảo Vệ Tử Phu, “Tử Phu, con phải trông nom săn sóc con bé nhiều hơn.”
Vệ Tử Phu cung kính đứng dậy, cúi đầu “dạ” một tiếng đáp lời. Nàng ta tự biết vì xuất thân thấp hèn nên mình không được Vương thái hậu quan tâm nhiều như đối với Trần A Kiều trước kia. Sau khi nàng ta được tấn phong làm hoàng hậu thì bà mới hiền hòa hơn đôi chút nhưng chủ yếu là do vị nể đứa cháu trưởng Lưu Cứ. Những năm gần đây, mẹ con nàng ta vẫn luôn lấy lòng vị chủ nhân cung Vị Ương này vì thái độ của người đàn ông kia rất quan trọng đối với địa vị của bọn họ trong cộng đồng, nhờ đó mà bình an vô sự. Nhưng liệu việc Công chúa Duyệt Trữ trở về có phá vỡ sự cân bằng này hay không thì trong lòng nàng ta cũng không biết. Dù sao thì sau lưng Công chúa Duyệt Trữ không chỉ có Trưởng công chúa Quán Đào Lưu Phiếu vốn giao tình sâu đậm với Vương thái hậu, mà còn có cả Trần A Kiều và Hoàng tử Lưu Mạch chưa từng gặp mặt nhưng cũng đã ảnh hưởng đến mẹ con nàng ta. Từ khi Công chúa Duyệt Trữ về cung, Hoàng thượng chưa từng nói rõ ra nhưng đám người giỏi đoán ý trong cung đã chỉ gọi Cứ Nhi của nàng ta là điện hạ chứ không ai gọi là Hoàng tử trưởng nữa.
Vệ Tử Phu giấu kín đôi bàn tay đang siết chặt vào nhau trong tay áo để không ai nhìn thấy, ở chốn cung Vị Ương nay, nàng ta luôn luôn có tiếng là hiền lành đức độ, kính trọng lễ phép, nếu đối xử tử tế với Lưu Sơ thì không sao nhưng nếu để cô bé phật lòng thì chắc chắn tất cả sẽ xúm vào đổ tội. Tuy nhiên chính bản thân Lưu Sơ chưa từng có chút ý nguyện tiếp nhận sự trông nom của nàng ta, chẳng cần biết nàng ta có muốn điều đó hay không!
Vệ Tử Phu đứng trên đại điện của cung Trường Nhạc trang nghiêm cổ kính, bỗng nhiên nảy ra một ý nghĩ kỳ quái. Hoàng hậu A Kiều năm đó vào tựa vào khung cửa sổ điện Tiêu Phòng nhìn bóng Hoàng thượng tuyệt tình bỏ đi. Lúc đó nàng ta đang bế đứa con gái đầu tiên của Hoàng thượng, Vệ Trường, chờ Hoàng thượng tươi cười đến bên cạnh. Ngày ấy, có phải tâm tình của A Kiều cũng như thế này hay không?
Trên điện, Vương thái hậu đang quay sang ra lệnh cho nội thị đứng hầu ở bên, “Mời Công chúa Duyệt Trữ tới đây cho ta gặp.”
Dưới điện Lý Chỉ kín đáo quan sát vẻ mặt đắc ý không che đậy nổi của Vương mỹ nhân, chợt hiểu dụng ý của Vương Thấm Hinh là muốn Lưu Sơ ra nơi đầu sóng ngọn gió. Mấy ngày nay, không rõ do nguyên nhân gì mà Hoàng thượng luôn dễ dàng tha thứ cho Công chúa Duyệt Trữ. Nhưng Lưu Sơ vì mẫu thân lại luôn mang lòng oán hận đối với Hoàng thượng và Vệ hoàng hậu. Người trong hậu cung ngại từ thân phận cho tới thánh ý nên cũng không thể ra mặt khuyên nhủ. Thế nhưng nếu Lưu Sơ cứ theo tính tình thường ngày mà đắc tội với Thái hậu ở nơi đây thì ngay cả những phi tần được sủng ái cũng không đảm đương nổi cái tội danh như vậy, huống chi Lưu Sơ chỉ là một cô bé không có mẫu thân bên cạnh?
Nàng thở dài nhìn theo Minh Đạt đã đi xa, cầu nguyện Lưu Sơ tự lo được cho bản thân.
“Thái hậu vời ta đến cung Trường Nhạc à?” Trong điện Chiêu Dương, Lưu Sơ hỏi vẻ kinh ngạc, sau đó làm mặt đau khổ, trông chừng không có ai bèn len lén hỏi tiếp, “Ta không đi có được không?”
“Điện hạ”, Giai La nghiêm mặt trả lời, “Điện hạ hãy tự suy nghĩ đi, không thể nào đâu. Nếu điện hạ lo lắng thì nô tỳ có thể sai người báo cho Trưởng công chúa để người đến cung Trường Nhạc đón điện hạ.”
Không cần làm phiền bà ngoại đâu, ta chỉ hỏi cho biết thôi mà, được rồi”, Lưu Sơ le lưỡi, mỉm cười quay đầu đi, lúc quay lại thì thần thái hoàn toàn đổi khác. Giai La kinh ngạc, giờ khắc này Lưu Sa rất chín chắn, không hề giống như một cô bé chưa đầy bảy tuổi.
“Đứng dưới mái hiên, sao có thể không cúi đầu”, Lưu Sơ khẽ nháy mắt, “Giai La, thay y phục cho ta.”
“Dạ!” Giai La cho Lưu Sơ một bộ y phục bằng sa tanh trắng như tuyết do chính tay người đứng đầu phường may Tạp Môn, Hạ Đông Trữ cắt. Bộ xiêm y cực kỳ xinh đẹp khiến cho khuôn mặt như châu như ngọc của Lưu Sơ càng nổi lên vẻ thanh tao rực rỡ. Lưu Sơ ngắm nghía một hồi rồi nói, “Đi thôi.” Cô bé tự bước ra khỏi phòng, mỉm cười chào hỏi, “Minh công công, làm công công phải đợi lâu.”
Minh Đạt không tỏ vẻ gì, khom người nói, “Chờ Công chúa Duyệt Trữ là chức trách của lão nô. Xin mời Công chúa.” Lão tỏ vẻ khiêm tốn hoàn toàn không giống một nội thị tổng quản bên cạnh Thái hậu.
Lưu Sơ hấp tấp chạy ra ngoài, leo lên long xa. Xe lốc cốc chuyển bánh đi về hướng cung Trường Nhạc. Theo lễ nghi trong cung Hán, long xa của phi tần, hoàng tử, công chúa có quy cách khác nhau, vì Duyệt Trữ được Hoàng thượng sủng ái nên long xa hoa lệ kiêu sa hơn nhiều nhưng cô bé cũng không để ý. Long xa chạy loanh quanh một vòng thì tới cung Trường Nhạc.
Tin tức bất lợi loan truyền khắp trong ngoài cung Vị Ương, khi Trưởng công chúa Quán Đào biết được thì Công chúa Duyệt Trữ đã đến cung Trường Nhạc rồi. Lưu Phiếu bồn chồn đi đi lại lại vài bước trong phủ Đường Ấp hầu rồi bỗng thở dài, “Mặc kệ đi. Mặc dù Triệt Nhi tàn độc nhưng Thái hậu vẫn còn nhớ tới tình xưa nghĩa cũ, cũng sẽ nể mặt mình nên chắc sẽ không quá gây khó dễ cho Sơ Nhi đâu.”
“Trưởng công chúa, nghe người nói kia”, Đổng Yển đón ý, “Công chúa Duyệt Trữ cũng là đứa bé thông minh lanh lợi, làm sao có thể đắc tội với Thái hậu được chứ?”
“Sơ Nhi có lanh lợi đến đâu thì cũng chỉ là một đứa trẻ chưa đầy bảy tuổi.” Lưu Phiếu thở dài, “Nếu có kẻ cố tình bày kế hãm hại thì nó nhất định không đỡ nổi. Có điều ngươi nói cũng đúng”, bà lắc đầu, “Cũng nên để cho Sơ Nhi tự đối phó trên chiến trường mà chính nó phải đối phó. Năm đó, cũng bởi vì A Kiều chưa từng bị thua thiệt cho nên cuối cùng mới chịu thất bại thê thảm như vậy. Dặn người ở trong đó phải chú ý tới phản ứng của Hoàng thượng về chuyện này.”
“Trưởng công chúa”, Đổng Yển liếc ngang liếc dọc hai bên. Lưu Phiếu thấy vậy liền bảo mọi người lui ra, “Yển Nhi có chuyện gì?”
Đổng Yển thấp giọng, “Yển không hiểu tính toán của Công chúa, Công chúa Sơ ở trong cung tuy được Hoàng thượng ân sủng nhưng rốt cuộc vẫn không có nương nương ở bên cạnh. Yển nghĩ nương nương tất sẽ trở về, nhưng sau khi trở về thì câu chuyện sẽ đi đến đâu chứ?”
Nét cười dần biến mất trên gương mặt Lưu Phiếu, bà nói nghiêm túc, “Ta muốn con bé lên chấp chưởng hậu cung. Thấy Đổng Yển tỏ vẻ kinh ngạc, tâm tình Lưu Phiếu đột nhiên lại khá hơn, “Yển Nhi không tin ta có bản lĩnh như vậy sao?”
“Việc này…”, Đổng Yển lắp bắp, tất nhiên hắn không muốn làm trái ý Lưu Phiếu nhưng bảo tin vào những lời chắc như đinh đóng cột đó thật sự là không nói nên lời. Còn may Lưu Phiếu cũng không làm khó hắn, xoay người lại nói, “Có lẽ ta thật sự không có bản lĩnh này, nhưng mà bản cung tin tưởng rằng Kiều Kiều có, Mạch Nhi cũng có.” Bà cười thành tiếng, “Xét từ Sơ Nhi mà ra, Lưu Mạch là anh em ruột thịt cùng mẫu thân sinh ra với nó nên nhất định là đứa trẻ tốt, có thể yên tâm được. Có một người thừa kế tốt, Yển Nhi, ngươi có biết đối với một bậc quân vương hùng tâm tráng chí, điều đó hấp đẫn đến thế nào không? Bản cung chỉ cần quản lý tốt mọi ngươi trên dưới trong Trần gia vào thời điểm thích hợp thì nâng đỡ Kiều Kiều một chút.” Sắc mặt bà bỗng nhiên trở nên âm trầm, “Một Vệ Tử Phu nho nhỏ thì có gì đáng sợ chứ?’
Lưu Sơ vừa bước vào cung Trường Nhạc thì Vương thái hậu ngồi ở trên điện liền sửng sốt. Cô bé còn nhỏ thế này mà mặt mày đã giống hệt như A Kiều năm xưa. A Kiều thuở nhỏ vào cung thường mặc cung trang tươi tắn, kiêu ngạo khinh người. Bà nhìn kỹ lại thì nhận thấy đó chỉ là một bộ y phục trắng đơn giản nhưng lại càng tôn lên vẻ cao quý xinh đẹp của cô bé. Không đúng, dù hai mẹ con nó đều kiêu ngạo như nhau nhưng Lưu Sơ hôm nay làm sao có thể so sánh với Quận chúa Đường Ấp Trần A Kiều được muôn vàn ân sủng ở cung Vị Ương năm đó? A Kiều thời ấy được Công chúa Quán Đào yêu thương bảo hộ, Đậu thái hậu thương mến, Hiếu Cảnh hoàng đế ân sủng, đi tới đâu cũng đều được mọi người tươi cười chào đón, chưa từng phải đối mặt với sự xảo trá của các phi tần khắp trong điện. A Kiều cũng không cần trầm mặc đứng thẳng người, cố làm ra vẻ quật cường, lạnh lùng cô quạnh.
Trong lòng bà bỗng thoáng dâng lên lòng thương cảm, Nhìn cô bé thực hiện cung lễ, nói câu “Sơ Nhi tham kiến Thái hậu”, vừa đúng quy củ vừa không thừa nhận là họ Lưu mà cũng không cố ý chọc giận ai, bà tươi cười, vẫy tay gọi, “Sơ Nhi, lên đây cho ai gia xem nào.” Bà nắm tay Lưu Sơ, ngắm nghía vầng trán mềm mại bóng mịn của cô bé rồi bỗng nhiên thở dài hỏi, “Sơ Nhi thoạt nhìn cũng giống với người đó đấy nhỉ?”
Các phi tần ngoảnh mặt nhìn nhau, sau đó Hình khinh nga khẽ nói, “Tất nhiên là Công chúa Duyệt Trữ giống mẫu thân rồi.”
Vương thái hậu bật cười, “Con gái giống mẫu thân là đương nhiên, ai gia còn phải cố ý nói ra sao?” Bà thầm nghĩ họ Hình này là một cô gái thẳng thắn bộc trực, chả trách đến bây giờ mới chỉ là khinh nga, nhưng trong cung Vị Ương chẳng có mấy người thuần phác như vậy, giữ lại cũng tốt.
Mọi người giật mình, đoán thêm mấy người nữa nhưng đều không đúng, ngay cả Lưu Sơ thấy thế cũng tỏ vẻ khá tò mò. Vương thái hậu có chút u buồn, khẽ nói, “Thôi vậy, không đề cập tới những chuyện thương tâm này nữa. Sơ Nhi lại đây, ở trong cung cháu có thiếu thứ gì không? Nếu có thì nói cho ai gia biết đi.”
Lưu Sơ cúi đầu, nói giọng nhỏ nhẹ, “Cháu nhớ mẫu thân.”
Vương thái hậu nhẹ giọng, “Quả là một cô bé hiếu thuận.” Bà bèn ban thưởng một ít đồ trân quý, lại cho Lưu Sơ lên ngồi cùng, rõ ràng tỏ ý vô cùng sủng ái.Quyển 1 - Chương 24: Thành Tức Mặc nghiêng ngả tâm tưĐiện Tuyên Thất.
Lưu Triệt đặt tờ công văn trong tay xuống như có điều gì phải suy nghĩ, “Giống ai?” Y thầm cân nhắc câu nói của mẫu thân. Ngay từ khi Thái hậu phái người triệu Lưu Sơ đi thì y là bậc đế vương phải biết ngay nhưng lại không có phản ứng gì. Không ai hiểu rõ hơn y việc mẫu thân có thể từ một vị phu nhân chốn hậu cung leo lên ngôi hoàng hậu, trợ giúp cho con mình đoạt được ngôi vị hoàng đế. Đó phải là một người khôn khéo đến bao nhiêu, thậm chí có lúc còn lý trí hơn y. Phải cư xử với Lưu Sơ như thế nào thì tự bà sẽ có chừng mực. Y chậc lưỡi, cho dù bà có trách phạt Lưu Sơ thì có lẽ Lưu Sơ cũng chỉ phải chịu khổ một chút thôi. Những tin tức trái ngược từ cung Trường Nhạc truyền đến khiến y cảm thấy rất thú vị. Giống ai à? Ai là người có thể làm cho Vương thái hậu phải tỏ sắc mặt u buồn rồi lại chuyển sang vô cùng sủng ái Lưu Sơ được chứ?
Y vừa chợt hiểu ra thì đúng lúc nội thị ở ngoài cửa truyền báo: “Quan Nội đình Trương Thang cầu kiến.”
“Truyền vào.”
Một lát sau. Trương Thang đã vào đến nơi, vẻ mặt khá trầm trọng, bái lạy xong liền bẩm, “Thần Trương Thang bẩm báo Hoàng thượng, con trai thứ của Hoài Nam vương Lưu An là Lưu Kiến hôm qua báo lên việc ba nước Giao Đông, Hành Sơn, Giang Đô định mưu phản, bắt giam Hoài Nam thái tử Lưu Thiên. Hoài Nam vương muốn tỏ rõ ý chí của mình đã đặc biệt sai người báo cáo lên Hoàng thượng, xin Hoàng thượng cử binh bình định và cứu Hoài Nam thái tử Lưu Thiên.”
Lưu Triệt liền cảm thấy một luồng lửa giận xông lên tận óc, luôn miệng nói: “Được, được.” Khi trấn tĩnh lại y liền hỏi, “Trương khanh có biết việc này thật giả thế nào không?”
Trong lúc Duyệt Trữ công chúa Lưu Sơ đang nhớ mẫu thân thì Hàn Nhạn Thanh ôm tỳ bà bước xuống lầu, khom người chui vào xe ngựa dùng để đãi khách của vương phủ Giao Đông. “Di Khương”, nàng bảo “Vén rèm xe lên một chút cho thoáng gió.”
“Dạ!” Hôm nay Di Khương trông rất xinh đẹp hoạt bát trong bộ y phục màu vàng nhạt, nhanh nhẹn cuốn rèm xe lên, mỉm cười với phu xe. Phu xe của vương phủ Giao Đông phải chờ đợi dưới lầu quá lâu đang cực kỳ bực bội nhưng vừa trông thấy nụ cười này thì lập tức tiêu tan lửa giận, ngây ra một khắc, thở dài than: Một nữ tỳ đã xinh đẹp hút hồn như vậy thì thật sự khó tưởng tượng nổi phong thái của ngưòi đẹp trong xe.
Vườn Đông Uyển nằm trên hồ trong vương phủ Giao Đông được soi rõ trong ánh sáng nhu hòa của những ngọn nến to bằng cánh tay. Dạ tiệc long trọng đã bắt đầu được một lúc khá lâu, Giao Đông vương Lưu Ký mất kiên nhẫn uống cạn chén rượu trong tay, gõ nhè nhẹ lên án. Mi Vũ nheo mắt cười thầm, đi qua dựa sát vào, nũng nịu: “Vương gia chớ vội, Mi Vũ thấy Trần muội muội không giống người dễ nuốt lời, muội ấy nói nhất định sẽ tới”, nói rồi nàng ta quay người lại gọi, “Phi Hoằng, rót rượu cho Vương gia.”
Phi Hoằng khom người tiến lên rót đầy chén rượu cho Lưu Ký. Đang nói chuyện, con thứ của Hành Sơn Vương là Lưu Hiếu ngồi ở ghế khách bên phải trêu đùa, “Trần cô nương có thể hớp hồn người được như Mi Vũ cô nương không?” Ánh mắt da^ʍ tà của gã đảo qua trên thân thể uyển chuyển của Mi Vũ đầy vẻ thèm khát. Mọi người trên bàn đều cười ha hả, Mi Vũ trong lòng căm tức nhưng không hề thể hiện trên nét mặt. Nàng ta đang định rủa thầm một câu thì nghe có người tới báo, “Trần tiểu thư đến.”
Tham gia bàn tiệc lần này ngoại trừ Giao Đông vương Lưu Ký thì thân phận tôn quý nhất thuộc về Lưu Hiếu là thế tử của Hành Sơn vương. Giang Đô vương Lưu Kiến rốt cuộc cũng là chủ của một nước, sau khi bàn xong công việc thì đã sớm rời khỏi Giao Đông từ ngày hôm trước. Giai nhân xuất hiện, ngay cả hạng ăn chơi như Lưu Ký, Lưu Hiếu cũng im bặt như e ngại làm nàng kinh sợ. Một giọng nói dịu dàng ngọt ngào bảo kéo rèm lên rồi có người bước vào. Mọi người quay ra nhìn nhau, cảm thấy thiếu nữ áo vàng này tuy xinh đẹp duyên dáng nhưng cũng không đến mức có thể gọi là giai nhân. Tuy nhiên tất cả đều có một cảm giác kỳ lạ không thể nói thành lời.
“Nô tỳ Di Khương ra mắt các vị đại nhân.” Di Khương khom người thi lễ một vòng rồi nhìn khắp lượt, cười tươi tắn, “Tiểu thư nhà tôi nói, được lọt vào mắt xanh của các vương gia thế tử là vô cùng vinh hạnh. Nàng từ nhỏ có tập làm thơ, lập ra quy định là nếu ngươi nào thắng được nàng về thi từ thì sẽ ra gặp mặt.
Mọi người lúc này mới biết thiếu nữ tên gọi Di Khương này chỉ là nô tỳ của người kia. Tất cả đang ngồi đây đều là những con cháu dòng dõi, trẻ tuổi, có học vấn, ít nhiều cũng đã từng làm một vài bài thơ, thấy cô gái kia kiêu ngạo như vậy thì càng sinh lòng ngưỡng mộ, không ai dám lấy thế bức bách, sợ người khác chê cười. Lưu Ký vui vẻ, “Nếu như thế, kính xin được thấy thủ bút của cô nương.”
Di Khương đưa ra một tờ giấy. Lúc đó sản phẩm giấy mực của Tức Lam các tại Trường An đã danh chấn cả nước, những nhà giàu có sử dụng hàng ngày. Tờ giấy này tuy không phải thượng phẩm nhưng lại có hương thơm nhè nhẹ, mặt giấy vẽ hoa đào bằng những nét chấm phá đơn giản nhưng sinh động trông càng toát lên vẻ lịch thiệp trang nhã. Bên trên tờ giấy có viết một bài thơ, nét chữ nắn nót, màu mực đen nhánh, chính là dùng mực Tùng Giang thượng đẳng để viết:
“Nhìn cánh sen băng giá
Giai nhân nhớ chốn xưa
Chia lìa một bóng ảnh
Tan nát những đường tơ
Biển thẳm sâu ngăn trở
Chàng ngơ ngẩn giã từ
Ngoái đầu trao nhẫn cỏ
Nàng bỗng nguyện theo về.”
Bài thơ này dĩ nhiên không tệ, lấy ý nguyên bản ở trong thiên “Kiêm gia” của Kinh Thi.
Mọi người trầm ngâm một hồi rồi lần lượt viết ra giao cho Di Khương này mỉm cười cúi chào rồi quay trở về, vén rèm đưa vào trong xe. Qua một khắc, chỉ nghe bên trong có tiếng ngâm nga khoan thai rồi một giọng nữ du dương hỏi, “Bài thơ Gió tây thổi mộc diệp là của vị tiên sinh nào viết vậy.
Tô Gia ngồi ở vị trí thấp nhất than nhẹ một tiếng, chắp tay đứng lên, “Là kẻ bất tài này.”
Cô gái ngân nga,
“Gió Tây cuốn lá bay
Qua biển đến Giao Đông
Giao Đông không giặc giã
Trên gác khảy tơ đồng
Hát ca khi rảnh rỗi
Chỉ mỗi người nghe không
Khúc Giai nhân vẳng tới
Mới hay người cũ mong.
Tiên sinh tâm tính hào sảng đường hoàng, nếu ta từ chối thì thật khó nghĩ.”
Lời ngâm còn chưa dứt, một cô gái mặc áo xanh ôm cây đàn tỳ bà, mặt đeo mạng bằng lụa, mái tóc đen vấn cao như kiểu Xuân Sơn[2], đôi mắt như mộng ảo vén rèm xe xuất hiện trước mặt mọi người.
[2] Kiểu búi tóc của phụ nữ Trung Quốc có từ thời Hán, mái tóc được quấn hình dáng núi.
“Đã chịu xuất hiện rồi mà tại sao còn phải đeo mạng che mặt? Chi bằng tháo ra cho chúng ta nhìn xem có đáng giá để chúng ta đối đãi như thế này hay không.” Lưu Hiểu cũng uống khá nhiều nên buông lời trêu chọc.
Trong mắt cô gái thoáng hiện vẻ giận dữ nhưng chưa bùng phát đã kịp che giấu đi. Mi Vũ đang ở bên cạnh chủ nhân Lưu Ký mỉm cười đứng dậy nói, “Có đáng giá hay không thì Giang Đô vương xem qua ca vũ của Trần muội muội sẽ biết.” Nàng ta quay đầu cười hỏi Lưu Ký, “Chỗ Vương gia có chiếc khay tinh xảo nào không?”
“Dĩ nhiên là có.” Lưu Ký vỗ vỗ tay, liền có người hầu mang tới. Mi Vũ cười nhận lấy, nhìn chiếc khay tròn đúng là làm từ ngọc Hoa Điền thượng hạng, trong suốt lóng lánh, chỉ lớn bằng bàn tay thì nhướng mày cười nói, “Vậy là đủ rồi.” Nàng ta bước tới nói với Hàn Nhạn Thanh, “Muội muội có thể bắt đầu được rồi.”
Hàn Nhạn Thanh khẽ than một tiếng, thầm nguyền rủa Lưu Lăng không biết bao nhiêu lần. Nàng nhẹ bước gót sen tới bên cạnh Mi Vũ. Không ai hiểu làm thế nào mà nàng có thể bước lên chiếc khay ngọc ở trên tay Mi Vũ. Mọi người hoa mắt chóng mặt, lúc này mới thấy rõ nàng đang mặc trên mình một bộ đồ màu xanh, tay áo dài, vong eo nhỏ nhắn thắt chặt. Tà váy của nàng trùm qua mắt cá, chân đi một đôi giày bệt từ tơ cùng màu với trang phục. Sau chừng một tuần hương ngồi thuyền từ bờ hồ vương phủ tới Đông Uyển, nàng còn phải đi qua một dãy hành lang, cũng may, dãy hành lang này không dài lắm nên giày tơ của nàng không hề dính bụi.
Mi Vũ bê chiếc khay ngọc nhưng vẫn cười tươi tắn. Tuy nàng ta là nữ nhi yếu đuối khi nâng trên tay toàn bộ trọng lượng của cả một con người lại không hề có chút run rẩy, giống như người con gái trên khay ngọc kia chỉ là một chiếc lông vũ phất phơ. Hàn Nhạn Thanh thể hiện một tư thế cực kỳ tự nhiên, đeo chiếc đàn tỳ bà cầm trong tay lên trên lưng, tay trái phất nhẹ, một tiếng “Tinh” dài thánh thót vang lên khiến tất thảy đều kinh ngạc. Trong lòng nàng lạnh toát, trình độ của mình cũng chỉ có thể đạt tới như vậy. Không phải ai cũng có thể biểu diễn “Phản đạn tỳ bà”[3], nhất là khi còn phải chú ý thi triển khinh công nhảy múa trong khay. Nàng thu cây đàn tỳ bà về ép sát vào người, khẽ gảy một khúc, uyển chuyển ngâm nga,
“Vượt sông hái phù dung
Dòng lan lắm cỏ thơm
Hái để tặng ai nhỉ?
Nhung nhớ tận ngàn phương
Mắt dõi về quê cũ
Đường trải dài mông lung
Yêu thương nhưng cách trở
Buồn đau se thắt lòng.”[4]
[3] Là một kỹ thuật gảy tỳ bà kết hợp với vũ đạo, trong đó người nghệ sĩ vừa nhảy múa vừa để cây đàn sau lưng để gảy.
[4] Bài thơ Thiệp giang thái phù dung (Qua sông hái phù dung) trong tập thơ Cổ thi thập cửu thủ (Mười chín bài thơ cổ).
Trong một khắc, gió hồ thổi l*иg lộng khiến y phục dính sát vào người nàng, thân thể như tiên nữ trên trời phiêu lãng bay trong không trung. Dáng hình nàng lả lướt như gió thổi tuyết bay, vòng eo trong lúc biểu diễn uốn cong mà không gãy, tựa như gió thổi qua đầu cành khiến hoa run rẩy, như khép như nở, dao động mà không rơi, như thiên thần bay lượn trên liễu phủ ngàn xanh đất Giang Nam, như hoa đào đua nở trên núi xuân trong mộng Trường An,
Đó là một vũ điệu khiến người xem có cảm giác như đã “từng qua biển biếc”[5], khắc sâu vào tâm tư của mỗi người theo từng chuyển động của năm ngón tay hồng, thon dài đẹp như ngọc. Rất nhiều năm sau, vì đã được xem điệu múa ở khoảng cách cực gần nên Mi Vũ vẫn luôn nghĩ thế.
[5] Từng qua biển biếc: Ý nói những người đã trải qua nhiều biến cố, sóng gió trong cuộc đời thì sẽ không còn bị chi phối bởi những chuyện nhỏ nhặt.
Lúc Hàn Nhạn Thanh gảy đến thanh âm cuối cùng, xoay người lại thì thấy vương phủ Giao Đông đang chìm trong ánh lửa ngất trời. Ngay cả Lưu Ký đang ngây ngất cũng tỉnh táo lại, trông thấy ánh lửa đang bốc lên ở nơi giam lỏng Hoài Nam thái tử Lưu Thiên thì sắc mặt lại càng khó coi, cả giận, “Có chuyện gì vậy?” Hắn đứng phắt dậy ra lệnh, “Theo ta qua đó xem thế nào.”
“Các vị đại nhân, còn muốn đi sao?” Mi Vũ cười khanh khách, trong dáng điệu quyến rũ toát ra luồng sát khí sắc bén.
Lưu Ký ngẩn ra, nỗi sợ hãi lập tức xộc lên đầu, “Ngươi….” Hắn khàn giọng hét lên.
Từ chỗ hành lang bên ngoài cửa vang lên mấy tiếng kêu đau đớn, đám thị vệ canh gác Đông Uyển đã bị giải quyết xong.
Hành Sơn thế tử Lưu Hiếu vẫn cố tự trấn định, “Đám nữ nhân yếu ớt các ngươi thì có thể làm nên chuyện lớn gì chứ?” Hắn phất tay ra lệnh cho những thị vệ bên người, “Bắt hết bọn chúng lại.”
Đám thị vệ của Lưu Ký nối nhau xông đến. Nghênh đón bọn chúng là tiểu nha đầu trông không có gì nổi bật Phi Hoằng. Theo lý thì thị vệ vương phủ đều không phải hạng kém cỏi nhưng Phi Hoằng lại sử dụng nhuyễn kiếm, chiêu thức cũng vô cùng quỷ dị, thoáng cái đã gϊếŧ chết mấy tên.
Hàn Nhạn Thanh thấy thế thì có chút không đành lòng cau may bảo: “Phi Hoằng, kiềm chế lại.”
Phi Hoằng cười lãnh đạm, nhưng lại rất nghe lời, dù vẫn không để ai sống sót nhưng ra tay đã nhẹ đi rất nhiều.
Tô Gia khẽ mỉm cười, “Trần tiểu thư quả là thiện tâm.”
Mi Vũ quỳ gối hành lễ, “Ngũ tiên sinh muốn đứng đây xem hay muốn qua sông đi tìm Quận chúa?”
“Dĩ nhiên là qua sông”, Tô Gia bình thản.
Lưu Ký mặt trắng bệch, gắng gượng thốt lên, “Ngũ tiên sinh!”
“Vị này là Ngũ Bị, đứng đầu trong Hoài Nam bát công của chúng ta”, Di Khương mỉm cười đi vào, trên thanh kiếm trong tay còn dính vài vết máu nhỏ. Cô ta cũng hành lễ, “Người ở phía ngoài đã giải quyết xong, số du thuyền trên hồ cũng chỉ chừa lại hai chiếc. Ngũ tiên sinh muốn qua sông, mời theo tôi.”
Lưu Hiếu vẫn đứng đó bỗng nhiên gằn giọng, “Phiên vương mưu phản, tướng quốc cũng không thể thoát tội. E rằng Ngũ tiên sinh cũng không thể tránh khỏi cái chết.”
Ngũ Bị kinh ngạc, “Thế tử nói thế nào vậy? Mọi người đều biết những năm qua Ngũ Bị vẫn luôn ở Hoài Nam, có đến Giao Đông lúc nào chớ?” Hắn nói xong thì quay người rời đi.
Hàn Nhạn Thanh cảm thấy trong lòng khó chịu, lên tiếng, “Ta đi cùng với ngươi.”
“Gượm đã”, Lưu Ký gọi giật giọng, “Bản vương cảm thấy ngươi rất quen, Trần cô nương có thể nói cho bản vương biết rốt cuộc ngươi là ai hay không?” Hắn biết lần này khó tránh khỏi kiếp nạn nhưng nhìn người con gái này vẫn có một cảm giác quen thuộc khó hiểu. Tuy hắn chưa từng gặp người nào có phong thái như vậy nhưng cứ nhìn vào đôi mắt kia thì lại như đã quen biết từ xưa.
Hàn Nhạn Thanh thoáng sững người, quay đầu nói vẻ bất đắc dĩ, “Có đôi khi, không biết lại tốt hơn là biết rất nhiều.” Nàng từ từ tháo tấm mạng che xuống, để lộ ra dung nhan xinh đẹp như sương tuyết.
“Là tỷ”, Lưu Ký kêu lên thất thanh, “Tại sao lại có thể là tỷ.” Lưu Kiến và Lưu Hiếu đều là thế hệ sau nên chưa từng gặp mặt người con gái được sủng ái nhất Trường An này, nhưng hắn thì lại cùng lớn lên cùng nàng. “A Kiều biểu tỷ”, Lưu Ký thở hắt ra, không quan tâm đến vẻ mặt kinh ngạc của những người xung quanh. “’Ta không ngờ tỷ lại là một người như vậy,.. Y đối đãi với tỷ như thế mà tỷ lại còn giúp.”
“Ta không phải muốn giúp y” Hàn Nhạn Thanh nhìn hắn thương hại nếu như không phải Lưu Lăng sắp đặt thì hắn sao có thể lâm vào bước đường này? Trong lịch sử, vào năm Nguyên Thú đầu tiên, hai nước Giang Đô và Hoài Nam làm phản, Giang Đô và Giao Đông ầm thầm hỗ trợ. Ba nước chư hầu kia bị bãi nước, còn Lưu Ký thì rơi vào kết cục phải tự sát.
“Ta không muốn chỉ vì các ngươi mà khiến cho cả quốc gia phải chịu tổn thất.” Nàng xoay người đi không hề quay đầu lại nữa.
Khi tám trăm quân Hoài Nam bí mật tập hợp ở thành Tức Mặc thì Quách Giải cũng đang lặng lẽ không một tiếng động lẻn vào phủ Giao Đông vương tìm kiếm tung tích của Hoài Nam thái tử Lưu Thiên nhưng thấy phủ Giao Đông vương hành lang chằng chịt, phòng ốc dọc ngang thì bất chợt cau mày. Hắn núp trong bóng tối, chờ một nô tỳ của vương phủ đi ngang qua liền xông ra nhanh như chớp, kề kiếm ngang cổ gằn giọng, “Lưu Thiên đang ở đâu?”
Nữ tỳ bị dọa sợ đến mức không thể mở miệng, run lẩy bẩy chỉ về một hướng. Quách Giải đánh cho cô ta ngất xỉu, giấu vào trong hòn giả sơn rồi dùng khinh công lướt đi.
Quách Giải tới nơi thì thấy đó là một đình viện tĩnh mịch âm u tàng cây lắc lư che khuất cửa sổ. Hắn sợ có gian trá bèn lấy cây sáo trúc mà Lưu Lăng đưa thổi lên mấy tiếng nhưng bên trong lại không có động tĩnh gì. Đang hoài nghi định rút lui thì chợt nghe bên trong vang lên tiếng cười lạnh lẽo, rồi một bóng người màu hồng đào như quỷ mị lướt ra, nhằm thẳng mặt hắn bổ một chưởng mang theo cả những tiếng gào rít. Quách Giải biết là cao thủ nên không dám chậm trễ, trường kiếm đâm ra nhắm vào huyệt Lao Cung của đối phương, rồi cứ chiếu theo chưởng thế chập chờn của người đó nửa tấc không rời. Người mặc y phục màu hồng phấn lui lại nửa bước, cười lạnh, “Thì ra ngươi là môn đồ của Triêu Thiên môn.”
Dưới ánh trăng, Quách Giải quan sát đối phương, thấy hắn là một người đàn ông trạc ngoài bốn mươi tuổi, thân hình gầy nhẳng, dung mạo tuấn tú nhưng đầy tà khí, cặp mắt đào hoa như cười như không thì lập tức lòng sáng như gương, chậm rãi nói, “Ngươi là Sở Phi Hiên”
Nét mặt Sở Phi Hiên lập tức trở nên âm trầm. Trước đó hắn vốn chỉ dùng bảy phần công lực nhưng lúc này lại bộc phát toàn lực, quát lên: “Chịu chết đi!”
Quách Giải trước đó đã ở bên sư phụ và sư tổ mấy năm liền nên công phu tiến bộ cực nhanh, nếu thật sự phải liều mạng thì chưa chắc đã không đánh lại, nhưng hắn không muốn dây dưa kẻo nhỡ bị người kia cuốn lấy thì không thể thoát thân.
Sở Phi Hiên thay đổi chưởng pháp, chiêu thức chợt biến, cườm tay trái chém xuống. Quách Giải tránh không kịp, bị chém đứt bay một mảnh tay áo, hắn cả kinh không còn dám phân tâm, tập trung tinh thần chiến đấu. Qua thời gian chừng độ uống hết một chén trà, ánh lửa đột nhiên bùng lên ở hậu viện phủ Giao Đông vương. Quách Giải ngạc nhiên. Hắn vốn ước định với Lưu Lăng là sau khi thành công thì sẽ đốt lửa làm hiệu, nhưng bản thân hắn lúc này còn đang bị khốn ở đây thì tại sao lại có lửa cháy ngút trời thế kia?
Sở Phi Hiên cũng lập tức hiểu ngay mình trúng kế điệu hổ ly sơn. Hắn thu hồi song chưởng, xoay người chạy đi. Hai người nối nhau chạy tới chỗ đám cháy, thấy những thị vệ canh giữ tù nhân ngã trong đám cháy nhưng không còn thấy bóng dáng ai ở trong phòng.
Chỉ cần lấy đi chiếc du thuyền trên hồ là chia cách được Đông Uyển với vương phủ, ba cô gái ở lại cũng không phải hạng xoàng xĩnh, vì thế Hàn Nhạn Thanh rất yên tâm rời đi.
“Ta tuyệt đối không nghĩ rằng Trần nương nương là một cô gái như vậy,” Ngũ Bị khẽ lắc đầu than thở.
Vì không có người chèo thuyền nên hắn đành phải tự mình ra tay, tuy dáng vẻ thư sinh nho nhã nhưng động tác chèo thuyến lại có vẻ rất thành thạo. Hàn Nhạn Thanh không khỏi kinh ngạc, “Ngũ tiên sinh quả nhiên có nhiều tài nghệ.”
Trong bóng đêm, Ngũ Bị trầm mặc. Hàn Nhạn Thanh nhìn không rõ ánh mắt của hắn, một lúc sau nàng mới nghe hắn lên tiếng, “Khi còn bé khổ đã quen, có chuyện gì không làm được chứ?”
Đông hồ là hồ trong phủ Giao Đông vuơng nên rất nhỏ, bọn họ nhanh chóng vượt qua. Hàn Nhạn Thanh lên bờ, nhìn khắp chung quanh liền thấy phủ Giao Đông vương đã hoàn toàn hỗn loạn. Không có ai chỉ huy, cả đám người chạy tứ tán trên các hành lang nên quân Hoài Nam rất dễ dàng tấn công.
“Tô tướng quân!” Một người của phủ Giao Đông vương trông thấy Ngũ Bị liền vội vàng chạy tới, “Vương gia thế nào rồi? Bọn giặc lọt vào, Tô tướng quân mau nghĩ cách đi.”
Ngũ Bị trầm tĩnh gật đầu, “Chớ hoảng sợ. Vương phi và tiểu Vương tử ở đâu?”
“Ở trong mật thất phía nam.” Người nọ trả lời không chút nghi ngờ.
“Tốt. Việc quan trọng nhất hiện giờ là bảo vệ Vương phi và tiểu Vương tử, ta đi trước. Đợi lát nữa Vương gia tới thì đám loạn thần tặc tử kia sẽ chẳng là gì đâu”, Ngũ Bị nói nước đôi đầy ẩn ý, nháy mắt với Hàn Nhạn Thanh rồi tự mình chạy đi.
Hàn Nhạn Thanh quan sát phương hướng đám cháy rồi đi xuyên qua vương phủ, nhưng đến dưới một mái hiên bỗng dừng bước. Nàng cúi xuống nhặt lên một miếng tay áo rách, chắc là bị chưởng lực chém đứt, nàng như ngừng thở khi nhận ra mảnh vải này bị chém đứt ra từ y phục của Quách Giải. Phủ Giao Đông vương có nhân tài đủ khả năng đánh một trận với Quách Giải sao? Nàng chạy ra ngoài vương phủ, thấy thành Tức Mặc cũng đã hỗn loạn. Dân chúng không rõ chuyện gì xảy ra nên nhà nào nhà nấy đóng cửa kín mít, lặng câm như hến. Dân Hoài Nam tác phong dũng mãnh, những người theo Lưu Lăng lẻn vào lần này lại càng nhanh nhẹn. Quân đội Giao Đông bị tập kích bất ngờ nên đội ngũ rối loạn, chỉ còn biết đánh giáp lá cà. Quân Hoài Nam chiếm ưu thế áp đảo, tình thế đã định nhưng vẫn không hề thấy bóng dáng cao thủ nào. Nàng vừa kinh ngạc vừa hoài nghi, chợt nhớ tới một nơi đáng lo nhất bèn vội vàng quay lại.
Lưu Lăng cười khanh khách đứng trên tường thành Tức Mặc nhìn Quách Giải bay vυ't đến.
“Đã xảy ra chuyện gì?”, Quách Giải cả giận hỏi.
“Ta đúng là không thể gửi trứng cho ác”, Lưu Lăng nháy mắt “Để đảm bảo, ta đã cho người vào theo, thấy huynh bị tên kia cuốn lấy nên đành phải nghĩ biện pháp khác.”
“Cô…”, Quách Giải bực mình, nhìn nàng chằm chằm, nói giọng mang chút mỉa mai, “Quả nhiên là thông minh hơn người.”
“Quá khen, quá khen!”, Lưu Lăng không hề nhún nhường. Khắp nơi trong thành đều truyền đến tin chiến thắng nhưng nàng vẫn có cảm giác mọi chuyện ở đây diễn ra thuận lợi quá mức tưởng tượng, dễ dàng tới mức đáng ngờ, nhưng lại không biết phải phản ứng thế nào. “Rốt cuộc là ta đã bỏ sót việc gì chứ?”, nàng khẽ hỏi.
“Cô giảo hoạt như quỷ thế này thì sẽ bỏ sót việc gì chứ?”, Quách Giải ôm kiếm lạnh lùng nói.
Nàng đột nhiên hỏi, “Người mặc y phục màu hồng phấn vừa mới giao thủ với huynh đi đâu rồi?”
Quách Giải giật mình, “Ta thấy Lưu Thiên đã được cứu liền quay người bỏ đi, để ý làm được?”
Lưu Lăng liền biến sắc mặt biết ngay điểm không đúng ở chỗ nào. Người lặn giỏi chết vì nước, người giỏi về bày thế cũng thường không nhận thấy điểm chết trong bàn cờ của mình. Điểm chết của bọn nàng chính là Mãn Lâu Phong. Đại bản doanh này của các nàng chính bởi có một cao thủ nên đã trở thành mục tiêu nghi vấn lớn. Điều đau đầu chính là Lưu Thiên, nhân vật quan trọng nhất của bọn nàng đã được đưa về Tư Tồn các, Sở Phi Hiên chỉ cần bám theo dấu vết thì chắc chắn ngay cả mẫu thân họ Thân và con trai Lưu Mạch của Hàn Nhạn Thanh đang ẩn náu ở đó cũng sẽ gặp nguy hiểm. Cho dù Sở Phi Hiên không phát hiện tung tích của Lưu Thiên, nhưng chỉ cần hắn biết vị thế tử vương gia chưa ra khỏi Đông hồ là cũng có thể kết luận được rằng Mãn Lâu Phong có cái gì đó không bình thường. Mặc dù Tư Tồn các tách biệt hẳn với Mãn Lâu Phong, thiết kế ban đầu cũng khá bí ẩn nhưng nếu Sở Phi Hiên chịu khó suy xét thì vẫn có thể phát hiện ra.
“Quách Giải”, nàng cố giữ bình tĩnh, mặc dù giọng nói đã trở nên run rẩy, “Chúng ta lập tức trở về Mãn Lâu Phong.”
Cả hai về đến nơi thì đã muộn, Mãn Lâu Phong đã thành một nơi hoang tàn.
Lưu Lăng giận tái mặt, chạy xuyên qua tiền đường tới Tư Tồn các. Ngọn đèn trên các sáng rực, không gian ngập tràn sát khí. Sở Phi Hiên mặc bộ y phục màu hồng phấn đứng ở chính giữa, eo lưng còn ghim một lưỡi chủy thủ[6] đen nhánh đang rỉ máu, tay bóp chặt yết hầu Lưu Mạch, vẻ mặt rất kỳ quái. “Ngươi giỏi thật!”, hắn gằn giọng.
[6] Chủy thủ: con đao nhỏ.
“Mạch Nhi!” Hàn Nhạn Thanh đứng cách đó khoảng mười bước chân nhưng không dám tiến đến, gấp giọng gọi.
“Mẫu thân!” Trần Mạch vẫn tỏ vẻ bình tĩnh, cố không làm rối chuyện, “Con không sao.”
Lưu Lăng ở ngoài các nheo mắt đánh giá tình thế bên trong. Thân Hổ nằm gục ở cửa ra vào, còn hôn mê bất tỉnh, trên người không có nhiều vết máu, đoán chừng không bị thương nặng lắm. Ca ca Hoài Nam thái tử Lưu Thiên của nàng thì đang ở trong các, được Hàn Nhạn Thanh giấu ở sau lưng, bộ dạng khá nhếch nhác.
Nàng đảo mắt một vòng liền hiểu rõ từ đầu đến cuối. Có lẽ Sở Phi Hiền không biết thân phận của Trần Mạch, hắn chỉ có mục đích là bắt Lưu Thiên làm con tin để chống cự với quân Hoài Nam, Thân Hổ ra tay ngăn chặn nhưng đâu phải là đối thủ của hắn. Ngược lại Trần Mạch tuy còn nhỏ nhưng không hiểu làm cách nào lại có thể đâm trúng Sở Phi Hiên một đao. Thanh chủy thủ ghim ngang hông Sở Phi Hiên chính là vũ khí Trần Mạch hàng ngày vẫn mang theo để phòng thân.
Chẳng phải là cha nào con nấy sao? Lưu Lăng than thầm trong lòng, xoay người lại nháy mắt với Quách Giải, ý hỏi có thể chắc chắn cứu Trần Mạch mà không làm cậu bé bị thương không? Quách Giải lắc đầu, võ công của hắn chỉ tương đương với Sở Phi Hiên, trong tình thế Trần Mạch nằm trong tay Sở Phi Hiên thì hắn cũng hết đường xoay xở. Cục diện lâm vào thế bế tắc.
“Họ Sở kia, ngươi bắt nạt một đứa trẻ con thì là anh hùng hảo hán cái gì?” Hàn Nhạn Thanh cũng biết cách nói này không mấy tác dụng nhưng nàng vẫn là phải nói nhằm làm Sở Phi Hiên phân tâm.
“Ta chưa từng nói ta là anh hùng hảo hán cóc khô gì.” Sở Phi Hiên cười nhạt, quay đầu lại quan sát nàng, chậm rãi nói, “Ta đã nhớ ra ngươi. Ngày đó ngươi ở bên cạnh Tiêu Dung Nam.”
Hàn Nhạn Thanh hất hàm, “Vậy thì sao?”
Sở Phi Hiên thoáng chốc tràn ngập vẻ thù hận, “Hắn ở đâu?” Tay hắn từ từ tăng thêm lực đạo: “Nếu ngươi không nói, ta sẽ bóp chết nó.”
Hàn Nhạn Thanh cắn môi, nhìn con trai trong tay Sở Phi Hiên sắc mặt dần dần tái nhợt.
“Sở Phi Hiên”, Quách Giải ở ngoài các không còn kiên nhẫn thêm được nữa, cất bước tiến vào, “Muốn tìm sư thúc ta thì phải hỏi thanh kiếm trong tay ta trước đã.” Một luồng hàn quang đột nhiên lóe lên trong tay hắn, đâm thẳng vào mặt đối phương.
Sở Phi Hiên đẩy Trần Mạch trong tay ra, rõ ràng là muốn dùng đứa nhỏ để che kiếm. Quách Giải bất đắc dĩ đành thu kiếm chuyển thế công. Cùng lúc, ba mũi tên bất ngờ xé gió bắn đến sau lưng Sở Phi Hiên. Sở Phi Hiên xoay tay trái ra đằng sau chụp gọn như có mắt. Hắn đang muốn phá lên cười thì Quách Giải và Hàn Nhạn Thanh đã phối hợp công tới. Kiếm thế của Quách Giải trùng điệp, Hàn Nhạn Thanh lại chuyên về “chiêu thức xảo trá”, hơn nữa toàn tập kích sau lưng, Sở Phi Hiên cũng phải luống cuống tay chân. Trần Mạch thừa dịp ngã xuống lăn ra phía sau. Sở Phi Hiên biết rằng không chiếm lại được ưu thế bèn gầm lên giận dữ, nhất quyết liều mạng, dù bị thương nặng cũng phải lưu lại trên người Trần Mạch một chưởng.
Hàn Nhạn Thanh kinh hãi thét lên: “Mạch Nhi”. Đột nhiên tay chân nàng bủn rủn, muốn xông lên phía trước nhưng không kịp nữa. Đúng lúc ấy, một bóng người từ sau lao đến ôm lấy Trần Mạch, xoay một vòng, đưa lưng ra đỡ đòn của Sở Phi Hiên, ngươi đó chính là Lưu Lăng.
Sở Phi Hiên thất thủ, liền dùng thân pháp quỷ mị bỏ chạy. Hàn Nhạn Thanh không còn lòng dạ truy đuổi, đỡ Lưu Lăng dậy, hốt hoảng kêu lên: “A Lăng, muội có làm sao không?”
Lưu Lăng chỉ cảm thấy lưng bắt đầu nóng lên, nhưng không phải là nóng rát mà ngược lại cảm giác rõ ràng trong cái nóng rát có một làn khí lạnh băng. Làn khí lạnh băng đó nhanh chóng lan khắp cơ thể, áp chế cơn nóng rát rồi dần dần trở về yên tĩnh.
“Muội…”, Lưu Lăng có vẻ nghi ngờ, “không sao cả!”
Hàn Nhạn Thanh bắt mạch cho Lưu Lăng, sắc mặt rất khó coi. Nàng không để ý là ở đây có người khác, xé toạc lưng áo của Lưu Lăng ra. Quách Giải tự biết không nên nhìn nên xoay người đi. Lưu Thiên xông lên hỏi, “Thế nào?”
“Là ‘Trùng hoa độc’.”
“Trùng hoa độc”, Quách Giải cả kinh hỏi, “Mấy trùng mấy hoa?”
“Tam trùng tứ hoa.”
“Dì Lăng”, Mạch Nhi chạy lại, vô cùng lo lắng nhìn Lưu Lăng, “Mẫu thân à, dì Lăng sẽ không sao chứ?”
“Ngươi không được qua đây”, Lưu Thiên bảo vệ Lưu Lăng, cả giận nói, “Nếu không vì cứu ngươi thì Lăng muội đâu có bị thương chứ?”
Trần Mạch đang tự trách mình, nghe vậy lại càng đau đớn, nhìn về phía mẫu thân đầy vẻ cầu khẩn. Hàn Nhạn Thanh tức giận, liền sổ toẹt, “Ngươi thì có tư cách gì mà nói? Nếu không vì cứu ngươi, Mạch Nhi sao có thể lọt vào tay hắn?”
Lưu Thiên cứng họng. “Mọi người không nên quá lo lắng”, Quách Giải an ủi, “Sư thúc nhất định có cách đối phó với trùng hoa độc, tam trùng tứ hoa cũng không phải là khó đối phó lắm.”
Hàn Nhạn Thanh nhíu mày, cuối cùng miễn cưỡng nói: “Có thể như thế. Muội sẽ đưa A Lăng trở lại kinh thành.” Nàng hướng về Lưu Thiên nói: “Ngươi đi xử lý hậu quả đi.”
“A Lăng là muội muội của ta”, Lưu Thiên ngăn lại, “Để ta đưa nó đi.”
“Lưu Thiên”, giọng Hàn Nhạn Thanh lạnh lẽo. Lưu Thiên im bặt, cảm giác cô gái trước mặt đột nhiên trở nên vô cùng tôn quý khiến hắn không dám cưỡng lại. Nàng nhìn thẳng vào mắt hắn: “Thứ nhất, đó là sư phụ của ta. Thứ hai, quân Hoài Nam ở thành Tức Mặc cần ngươi chỉ huy.”
Lưu Thiên chán nản phất tay rời đi.
Lát sau, một chiếc xe ngựa lao nhanh ra khỏi thành Tức Mặc.
“Nhạn Nhi, muội cảm thấy Lưu Thiên có thể gánh nổi trách nhiệm nặng nề đó không?”, Quách Giải hỏi.
“Có Ngũ Bị rồi,” Hàn Nhạn Thanh lo lắng nhìn Lưu Lăng đã hôn mê, buông thõng, “muội còn gì không yên lòng nữa đây?”Quyển 2 - Chương 25: Gió mây biến chuyển tụ về Trường AnKhi tin tức về biến cố ở Giao Đông truyền tới Trường An thì Lưu Triệt đã rời cung Vị Ương đến cung Cam Tuyền tránh nóng. Những người đi theo, ngoài Duyệt Trữ công chúa Lưu Sơ thì trong đám phi tần chỉ có vị khinh nga họ Hình được may mắn theo hầu thánh giá.
Hình Nhược nhắm nghiền mắt ngồi ở sâu trong cung Cam Tuyền, dường như có thể nghe thấy tiếng từng giọt nước đang nhỏ xuống. Cái nóng của ngày hè Trường An có vẻ không hề ảnh hưởng đến tòa cung điện này. Suốt mấy ngày qua nàng ta nghỉ đêm cùng với Hoàng đế tại điện Hàm Chương trong cung Cam Tuyền. Mỗi lần gió đêm thổi tấm rèm lụa bay phấp phới, ánh nến chập chờn thì nàng ta lại có ảo giác rằng vị hoàng đế đang nằm bên cạnh nàng ta đây dường như chỉ thuộc về một mình nàng ta.
Hình Nhược bật cười tự giễu, ngay cả Trần hoàng hậu năm xưa mà còn không thể một mình sở hữu người đàn ông này, nàng ta chỉ là một khinh nga xuất thân từ cung nữ thì làm sao có thể như thế được chứ? Chỉ cần mở mắt ra, thoáng thấy người đàn ông này thì lại sợ chết khϊếp.
Lưu Triệt mặc bộ trang phục may từ gấm đen dành riêng cho bậc đế vương đang đứng ở cửa điện nhìn Hình Nhược. Ánh mắt của y dường như… nàng ta không dám tin vào những gì mình thấy, nhưng rồi lại hiểu rằng mình trông thấy chính xác. Ánh mắt của Lưu Triệt có một tia kỳ lạ, một tia nghi hoặc.
Hình Nhược đứng dậy tham kiến thánh giá, vẫn còn kinh sợ nên chân tay hơi luống cuống. Lưu Triệt khong hề để ý, “Nhược Nhi!”. Y thong thả bước vào trong điện, “Nếu có một người con gái cướp đoạt…”, y hơi chần chừ rồi hỏi tiếp vẻ khó khăn, “phu quân của nàng thì nàng có thật lòng giao hảo với người con gái ấy không?”
“Hoàng thượng”, Hình Nhược hoảng hốt, gần như quỳ sụp xuống, “Nhược Nhi hầu hạ thánh giá, tự thấy đã tận tâm tận lực, cũng không có chỗ bất hòa vói các tỷ muội khác…” Nàng ta cho rằng sẽ không còn cách trả lời nào khác, thế nhưng lại nghe được tiếng thở dài của Lưu Triệt, “Thôi bỏ đi!” Y bước ra khỏi điện Hàm Chương, đột nhiên quay đầu lại nhìn chằm chằm vào nàng ta, gằn giọng từng chữ, “Chuyện hôm nay, không được kể lại cho ai biết.”
“Thần thϊếp xin nhớ”, Hình Nhược cúi đầu thật thấp.
Chiếc xe ngựa dính đầy bụi đất chạy về tới thành Trường An. Hàn Nhạn Thanh nhìn hàng chữ viết theo kiểu chữ Triện cổ xưa trên cổng thành, thở ra một hơi dài.
Một đội Vũ Lâm quân từ trong cổng thành tiến ra nghênh đón, đồng loạt hô lớn rồi quỳ xuống bái chào, “Tham kiến Trần nương nương, tham kiến Lăng quận chúa.”
Bên trong xe ngựa, Hàn Nhạn Thanh nhíu mày. “Các vị tướng sĩ”, Di Khương vén rèm, cười ngọt ngào, “Quận chúa của chúng ta bị thương, xin mau mời đại phu Tiêu Phương tới khám, được không?”
Một viên nội thị từ trong Vũ Lâm quân bước ra, lắc đầu, nói giọng eo éo, Tiêu tiên sinh hiện giờ không có trong thành Trường An.”
“Không có trong thành Trường An?”, Di Khương kinh ngạc.
Cong chúa Duyệt Trữ theo Hoàng thượng tới cung Cam Tuyền, Tieu tiên sinh là đại phu của Công chúa thì dĩ nhiên phải đi theo bên cạnh. Thủ lĩnh Vũ lâm quân thấy Di Khương nhíu mày thì vội nói, “Nhưng Mạnh lão tiền bối đang ở trong Tử Dạ y quán.”
“Mạnh lão tiền bối?”
“Chính là chưởng môn của Triêu Thiên môn hiện giờ, lão tiền bối Mạnh Tắc Nhiên.”
“Vậy thì tới Tử Dạ y quán luôn.” Trong xe truyền ra giọng của Hàn Nhạn Thanh, Di Khương gật đầu không nói thêm nữa, quay vào bên trong.
“Làm cái gì vậy?” Cô ta bực bội, “Bao nhiêu cấm quân canh chừng cứ như canh giữ phạm nhân vậy.”
Hàn Nhạn Thanh bật cười, chẳng phải là như thế sao?
Xe ngựa chạy băng băng trên phố Trường An, rất nhanh đã đến cửa Tử Dạ y quán. “Tiểu thư, tiểu thiếu gia.” Lục Y từ bên trong lao ra, nhìn thấy Mạch Nhi và Hàn Nhạn Thanh lần lượt xuống xe thì mừng đến phát khóc.
“Nha đầu ngốc”, Hàn Nhạn Thanh âu yếm vuốt tóc cô, dịu dàng, “Chẳng phải là trở về rồi sao?”
Một lão tiên sinh râu tóc bạc phơ từ trong quán nhảy ra hét toáng: “Không trị nữa, không trị nữa. Không nhìn thấy tấm bảng treo ở đây sao: Không khám quá mười người, đến trưa không tiếp khách.” Lão nhìn Hàn Nhạn Thanh từ trên xe ngựa bước xuống thì ồ lên một tiếng, phùng mang trợn mắt “Nha đầu, đây là quy củ do chính ngươi tự đặt ra, chẳng lẽ lại tự tay mình phá đi?”
Mắt Hàn Nhạn Thanh bỗng nhiên đỏ hoe, dáng vẻ như sắp ngã ngồi xuống đất. Mạnh Tắc Nhiên kinh hãi, vội vàng đỡ lấy, “Ngươi đừng như vậy, ta chữa là được chứ gì.” Bỗng nhiên lão im bặt, thì ra là Hàn Nhạn Thanh đã ghé tai nói mấy câu rất khẽ.
Di Khương bước lên bế Lưu Lăng đi vào.
“Lăng quận chúa thế nào rồi?”, viên nội thị đang đứng hầu ở bên cạnh hỏi. Mạnh Tắc Nhiên thu cánh tay bắt mạch lại, vẻ mặt nghiêm trọng, đang định lên tiếng thì chợt nghe tiếng bước chân rầm rập rồi một giọng nói có âm điệu kỳ quái vang lên, “Dương Đắc Ý phụng ý chỉ Hoàng thượng, tham kiến Trần nương nương và Lăng quận chúa.”
Thanh âm vừa dứt thì Dương Đắc Ý đã cầm ống giấy lụa đẩy cửa bước vào. Hàn Nhạn Thanh bất đắc dĩ phải quỳ xuống theo mọi người, trong lòng thầm khinh bỉ.
“Hoài Nam quận chúa Lưu Lăng có công bình định Giao Đông lại còn cứu con trẫm, xét thấy nên khen ngợi, ban thân phận Trưởng công chúa, hiệu là Phi Nguyệt, Trần thị ở hậu cung vì lưu lạc nhân gian nay may mắn bình yên, lệnh về lại Trường Môn.”
“Những năm qua Trần nương nương có mạnh khỏe không?” Dương Đắc Ý, nở nụ cười chân thành. Hắn hầu hạ Lưu Triệt nhiều năm, hiểu tâm ý thật sự của y hơn người khác rất nhiều nên biết rằng Lưu Triệt vẫn còn mấy phần tình cảm không thể nói rõ đối với người phụ nữ này. Nếu không thì đã không phái một Ngự tiền tổng quản như hắn ra roi thúc ngựa chạy từ cung Cam Tuyền tới nơi này để truyền ý chỉ.
Hắn không ngăn nổi mình liếc nhìn Trần Mạch đang đứng bên cạnh Hàn Nhạn Thanh một cái. Vì đi xe ngựa vất vả nên mặt mày Mạch Nhi hơi có vẻ tiều tụy nhưng vẫn không thể giấu được vẻ hiên ngang thanh tú nhìn kỹ thì thấy quả nhiên có nhiều nét rất giống với Lưu Triệt, nhất là cặp môi mỏng.
“Vẫn khỏe!”, Hàn Nhạn Thanh lạnh nhạt đáp.
“Vậy thì tốt. Lăng quận chúa thế nào rồi?” Hắn quay sang hỏi Mạnh Tắc Nhiên. Mạnh Tắc Nhiên quen ở trong chốn núi rừng hoang dã, chỉ vì tất cả học trò con cháu đều không ở Đường Cổ Lạp Sơn, không chịu được tịch mịch nên mới tới kinh thành. Lưu Triệt đã từng nghe nói về tính cách của lão, căn dặn Dương Đắc Ý từ trước nên vừa rồi Mạnh Tắc Nhiên không quỳ xuống hành lễ nhưng Dương Đắc Ý cũng không để ý.
“Không tốt.” Mạnh Tắc Nhiên vuốt chòm râu bạc nói gọn.
“Ối!” Mạch Nhi hoảng hốt, buột miệng kêu khẽ, lo lắng nhìn Lưu Lăng rồi gọi: “Thái sư công…”
“Tiểu Mạch Nhi đừng gấp”, Mạnh Tắc Nhiên liếc mắt nhìn Mạch Nhi, trong bụng thầm lo lắng, với tính tình lương thiện của nó thì làm sao có thể sinh tồn tại một nơi tranh đấu khốc liệt như hoàng gia, thân phận của nó lại càng nhạy cảm.
“Độc của côn trùng và hoa dù mạnh nhưng ta vẫn có thể giải được. Chỉ là…”, lão dừng lại một lát, “độc nhập vào cơ thể quá lâu, có thể sẽ lưu lại chút hậu quả, ảnh hưởng đến đâu thì ta không thể chắc chắn.”
Mọi người nghe vậy thì mặt ai cũng dần giãn ra. Hàn Nhạn Thanh cắn răng, “Nếu như thế xin sư công ra tay cứu A Lăng.”
Mạnh Tắc Nhiên gật đầu, lấy kim ra đâm vào mấy huyệt Nhân Trung, Hợp Cốc của Lưu Lăng khiến nàng bật lên một tiếng rồi dần dần tỉnh lại.
“Lưu cô nương!” Mạnh Tắc Nhiên nói, “Cô nương trúng độc trùng hoa, cần dùng thuốc giải đặc chế của môn phái chúng ta, phối hợp dùng lửa đốt miệng vết thương để ép chất độc ra ngoài. Cô nương cần phải giữ được tỉnh táo, nếu không khó tránh khỏi thất bại trong gang tấc, rõ chưa?”
Lưu Lăng khẽ gật đầu. “Được!”, Mạnh Tắc Nhiên lấy ra cây đèn đồng nhỏ tinh xảo rồi nói: “Nhạn Nhi ở lại. Ngươi, ngươi”, lão chỉ vào Lục Y va Di Khương, “hai nha hoàn ở lại, những người khác thì ra ngoài hết đi.”
“Nô tài là hoạn quan”, Dương Đắc Ý cười nói, “Hoàng thượng căn dặn rằng nô tài phải có tin tức về thương thế của Trưởng công chúa Phi Nguyệt thì mới được trở về. Nô tài phải ở lại đây chờ xem.”
“Tùy ngươi!” Mạnh Tắc Nhiên buông thõng, cũng không để ý. Trong y quán có đầy đủ mọi thứ, rất nhanh thuốc đã được sắc và bưng lên. Di Khương đỡ Lưu Lăng uống xong thì Lưu Lăng dần toát mồ hôi trán, sắc mặt hồng rực. Mạnh Tắc Nhiên ra hiệu cho nàng nằm xuống chiếc giường nhỏ, cắt bỏ mảng áo sau lưng để miệng vết thương lộ ra. Hàn Nhạn Thanh thốt lên một tiếng, đã nhiều ngày trôi qua nên vết thương chuyển thành đen kịt, có hình dáng một cánh bướm.
“Nếu cánh bướm này lan rộng ra hết cả lưng thì có là thần tiên cũng khó cứu.” Mạnh Tắc Nhiên lắc đầu. Lão đổ nước thuốc lên cây đèn đồng, châm đèn cháy lên ngọn lửa màu lam nhạt bập bùng rực rỡ rồi dặn: “Ráng chịu đựng một chút!”
Lưu Lăng hít sâu một hơi. Ngọn lửa màu lam nhạt liếʍ vào miệng vết thương. Mọi người nhìn vào đều run rẩy, cảm giác nếu phải chịu dựng đau đớn thế này thì chi bằng chịu một đao một thương còn hơn.
“A Kiều!” Nàng rêи ɾỉ, khuôn mặt méo mó.
“Ừ?” Hàn Nhạn Thanh lo lắng đến sát trước mặt, “Làm sao vậy?”
Lưu Lăng túm được tay trái của nàng thì hung hăng cắn vào, “Đau…”, Hàn Nhạn Thanh đau giãy nảy lên nhưng vẫn không hất ra. Tay còn lại của nàng quờ quạng giữa không trung cũng không biết bắt được cổ tay người nào nhưng trong khoảnh khắc này nàng chỉ có một ý nghĩ là làm sao giảm bớt đau đớn ở tay trái. “Đau quá!”, ngưòi hô lên lúc này lại chính là Dương Đắc Ý.
Những người ở bên ngoài nghe tiếng hô của vị công công này thì trợn mắt há hốc miệng. Sau đó Mạnh Tắc Nhiên thở phào để cây đèn đồng xuống, cười ha hả nói: “Ta thường dùng cách phối hợp nước lửa để trị thương cho đám người luyện võ, chỉ quên mất rằng đám con gái quý tộc như các người chưa từng phải chịu đau đớn.”
Hai cô gái xinh đẹp cùng trừng mắt nhìn lão.
Hàn Nhạn Thanh cười tươi tắn ngồi một bên, nếu không thấy chiếc khăn lụa băng kỹ trên tay nàng thì không ai biết được chuyện xảy ra vừa rồi.
“Dương công công!” Nàng nhìn vẻ áy náy, há miệng hồi lâu không biết nói thế nào cho phù hợp với tình thế biến hóa kỳ lạ hiện giờ.
“Trưởng công chúa Phi Nguyệt khỏe lại, nô tài cũng yên lòng rồi.” Tay của Dương Đắc Ý cũng đã băng xong, nụ cười ấm áp không hề tỏ vẻ miễn cưỡng, dường như hành động vừa rồi của hai cô giá tôn quý không có gì vượt quá lễ nghi. “Về phần chỗ ở của Trưởng công chúa Phi Nguyệt, Hoàng … Thái hậu nương nương sẽ thu xếp.”
“Lăng Nhi không ở cùng ta sao?”, Hàn Nhạn Thanh nhướng mày.
“Trần nương nương nói đùa rồi, quy tắc hậu cung sao có thể để Trưởng công chúa ở với phi tần của Hoàng thượng?”, Dương Đắc Ý không hề nhăn mặt, thản nhiên đáp lời.
“Bản cung tất nhiên biết quy tắc hậu cung”, Hàn Nhạn Thanh cười nhạt, “Nhưng có chỉ dụ của Hoàng thượng thì cứ làm theo là được rồi.”
“Hả?” Dương Đắc Ý nhướng mày, mỉm cười, “Hoàng thượng chưa từng có chỉ dụ như vậy?”
“Tại sao không có? Bản cung nghe rất rõ, Hoàng thượng sắc phong Lăng Nhi danh hiệu Trưởng công chúa, lại an ủi bản cung lưu lạc nhiều năm, cho chúng ta trở về cung Trường Môn.”
“Việc này…”, Dương Đắc Ý tròn mắt ngớ ra nhìn Hàn Nhạn Thanh vừa mỉm cười vừa đứng dậy, đôi mắt phượng lạnh lùng chớp lên giống như lúc còn ngồi trên ngai hoàng hậu nhiều năm trước, khí thế tôn quý, ngay cả Hoàng thượng cũng phải lùi bước.
“Đã có chỉ dụ như thế của Hoàng thượng”, một giọng nữ nhu hòa vang lên, Lưu Lăng vịn Di Khương đi ra, “Mặc dù có vi phạm quy định trong cung thì Lưu Lăng cũng chỉ có thể tuân theo.” Âm điệu của nàng dường như hơi ấm ức nhưng trong mắt lộ rõ một tia tinh nghịch.
“Lưu Lăng tạ ơn A Kiều tỷ tỷ và Dương công công”, nàng làm bộ hành lễ, “Vì thương thế của Lưu Lăng, làm phiền nhị vị, thật là áy náy.”
“Nói gì vậy?” Dương Đắc Ý kính cẩn cúi đầu, “Hết sức với Trưởng công chúa là vinh hạnh cho nô tài.”
“Đáng tiếc…” Lưu Lăng liếc nhìn chiếc khăn lụa trắng băng trên cổ tay Dương Đắc Ý, thở dài sâu kín.
“Đáng tiếc cái gì?”
“Không có gì”, nàng nở nụ cười không rõ ý tứ.
Đáng tiếc không phải là Lưu Triệt đích thân tới đây, nếu không A Kiều cắn xuống càng thêm thoải mái. Nàng thú vị nghĩ, cô bé Ân Ly trong Ỷ Thiên Đồ Long ký bị Trương Vô Kỵ cắn một miếng vào mu tay, từ đó nhớ mãi không quên nhưng cuối cùng khi nhận ra nhau thì Trương Vô Kỵ lại không còn là Trương Vô Kỵ mà cô ta vẫn nhớ nhung trong lòng. Thật ra thì biểu ca vẫn là biểu ca, chỉ là Ân Ly nghĩ sai mà thôi. Nếu giờ Lưu Triệt tới thì biểu tỷ A Kiều của y cũng không còn là A Kiều trước kia nữa rồi.
Năm Nguyên Sóc thứ sáu quả nhiên là một năm không tầm thường.
Đại tướng quân Vệ Thanh chinh chiến ở ngoài biên cương quá xa xôi nên khi dẫn quân trở về Trường An thì biến cố tam vương mưu phản chấn động cả nước đã hạ màn.
Đầu mùa hè năm Nguyên Sóc thứ sáu, Giang Đô vương Lưu Kiến tự sát ở nước phong, nước Giang Đô bị giải trừ đổi thành quận Quảng Lăng.
Hành Sơn vương Lưu Tứ tự sát ở nước được phong, các con Lưu Sảng, Lưu Hiếu cho tới Vương hậu đều có tội, bị chém bêu đầu thị chúng.
Giao Đông vương Lưu Ký trên đường bị Hoài Nam thái tử Lưu Thiên áp giải về kinh vô cùng sợ hãi phát bệnh mà chết. Hoàng thượng thương xót tình huynh đệ, ban tên thụy là Khang Vương Giao Đông nhưng vì tội mưu phản nên giải trừ nước Giao Đông. Các con Lưu Hiền, Lưu Kiến, Lưu Xương, Lưu Duyên Niên, Lưu Khánh đều được đối xử tử tế.
Hoài Nam vương Lưu An tự lấy làm hổ thẹn về việc huynh đệ Lưu Tứ mưu phản, thương con gái Lưu Lăng vây hãm Giao Đông suýt nữa bỏ mạng nên tâm tàn chí lạnh, tự xin trả lại đất phong, về định cư ở Trường An làm một phú ông. Hoàng thượng không chịu, dùng lời lẽ an ủi nhưng Lưu An vẫn từ chối, cuối cùng thì đành ta thán chuẩn y, giải trừ nước Hoài Nam, lập thành quận Cửu Giang, phong Lưu An làm Mạt Lăng hầu, được hưởng thực ấp vạn thạch, phong con trưởng Lưu Thiên làm Đan Dương hầu, con vợ kế Lưu Bất Hại làm Lạc Dương hầu, cả nhà vinh hiển.
Trong một thành nhỏ cách Trường An khoảng hơn ba ngày đường, Đại tướng quân Vệ Thanh ngồi trong thư phòng trang nhã được chủ thành chuẩn bị riêng, đọc bản báo công của triều đình rồi thở dài.
“Cữu cữu à”, một thiếu niên tràn đầy anh khí xông vào chẳng hề thông báo, Vệ Thanh không tức giận, ngẩng đầu lên hỏi, “Khứ Bệnh, đi đường về mệt mỏi, sao cháu không nghỉ ngơi đi?”
“Một chút thế này thì có là cái gì ạ?”, Hoắc Khứ Bệnh nhướng mày, không thèm để tâm. Hắn tùy tiện nhặt lấy trái cây bày sẵn trên bàn trước mặt Vệ Thanh nhai rau ráu, “Cữu cữu thấy Hoài Nam vương, à không, bây giờ phải gọi là Mạt Lăng hầu, có kỳ lạ không chứ? Rõ ràng là công lớn nhưng lại tự xin giải trừ đất nước, tại sao thiên hạ có thể có người như vậy chứ?”
“Cháu thì biết cái gì?” Vệ Thanh quát lên, nghiêm mặt nói, “Lưu An mới thực sự là người thông minh. Ông ta là phiên vương số một số hai. Hoàng thượng tâm hùng chí lớn làm sao có thể dung thứ các phiên quốc cát cứ không tuân thượng lệnh, sớm muộn gì cũng sẽ khai đao với Hoài Nam. Ông ta rút lui ở thời điểm đỉnh cao thì mới có thể giữ đuợc mấy đời phú quý. Hoàng thượng muốn lấy ông ta làm gương, chư hầu nhường lại phiên quốc vẫn có thể chết già. Sau này Hoàng thượng sẽ nhớ ân tình, chỉ cần không phạm trọng tội mưu phản thì vẫn tha thứ hay nương nhẹ được mấy phần.”
“Thật không hiểu nổi những người này, bụng dạ thật phức tạp,” Hoắc Khứ Bệnh quệt mép, “vẫn không bằng đi đánh Hung Nô, vung đao thực chiến sảng khoái hơn nhiều.”
“Lần này chẳng qua là cháu gặp may thôi.” Vệ Thanh lên mặt dạy bảo: “Đánh giặc há có thể là trò đùa. Cháu thế nào cũng là người của Vệ gia nên cần phải học những điều này, tương lai, nếu ta mất đi thì cháu sẽ là người phải gánh vác trọng trách bảo vệ gia tộc.”
“Cữu cữu sẽ không sao đâu”, Hoắc Khứ Bệnh tái mặt.
Vệ Thanh cười khỏa lấp, “Ta chỉ nói ví dụ thôi. Còn nữa, khi trở về Trường An thì không được qua lại quá thân mật với Công chúa Duyệt Trữ nữa. Dù sao đó cũng là… con gái Trần gia.”
“Công chúa mang họ Lưu.” Hoắc Khứ Bệnh nói không thèm để tâm, “’Chẳng qua là một con bé sáu tuổi thì có thể làm gì chứ?”
“Thế nhưng con bé đó còn có ca ca, còn có bà ngoại là bậc tiền bối được Hoàng thượng tín nhiệm,” Trong phòng, Vệ Thanh lo lắng nhìn về phía Trường An, “Nếu Trần gia của họ đắc thế, chúng ta… chắc là không ổn đâu.”
“Cữu cữu quá lo lắng rồi.” Hoắc Khứ Bệnh đứng lên, nhướng mày nói: “Cữu cữu nói là cháu không hiểu, cháu sẽ phân tích cho cữu cữu nghe. Trần…”, hắn bồi hồi nhớ đến cô bé có nụ cười đáng yêu, nhiều suy tư kỳ lạ, lưỡng lự một chút rồi nói: “Trần nương nương dù sao cũng lớn hơn Hoàng thượng hai tuổi thì làm sao bì kịp với dì và những mỹ nhân nhan sắc trong chốn hậu cung hôm nay? Hơn nữa”, hắn hỏi ngược, “chẳng lẽ năm xưa Hoàng thượng phế hậu thật sự vì chuyện “Vu cổ” hay sao? Chỉ là vì lo lắng chuyện Trần gia thế lớn khó nắm mà thôi. Cho dù hôm nay Trần nương nương có trở lại thì có thể thay đổi được tình thế đó không?”
Vẹ Thanh sững sờ nhìn đứa cháu trai ngoại đã cao bằng mình, vui mừng nói: “Khứ Bệnh, cháu thật sự đã trưởng thành”, rồi lại chuyển sắc mặt, “Chúng ta vẫn phải lo lắng thì hơn. Khứ Bệnh, nếu Vệ hoàng hậu thất thế thì cháu cho rằng chúng ta còn có thể không phải kiêng dè thống lĩnh quân đội lấy vó ngựa đạp Hung Nô hay sao?”
“Không đâu.” Hoắc Khứ Bệnh cũng biến sắc, “Hoàng thượng tài cao trí lớn, sẽ không vì…” giọng hắn nhỏ dần, có lẽ ngay cả bản thân cũng không tin vào điều mình nói.
Tháng Bảy năm Nguyên Sóc thứ sáu.
Đại tướng quân Vệ Thanh trở về Trường An, phụng mệnh đến cung Cam Tuyền yết kiến Thánh thượng.
Bác Vọng hầu Trương Khiên vào đến cung Cam Tuyền không khỏi cảm thấy sự oi bức của mùa hè đã bị tòa cung điện cổ kính này ngăn lại. Đại tướng quân Vệ Thanh và Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh đang chầu ở điện Chương Tức. Lão chờ đợi ngoài hành lang nhưng không hề nhỏ một giọt mồ hôi.
“Ông cầm cái gì đó?” Lão nghe thấy một giọng trẻ con trong trẻo hỏi vẻ tò mò, rồi một cô bé mặc cung trang đang đi từ góc hành lang đi đến. Cô bé chừng sáu bảy tuổi, mặt hoa da phấn, ánh mắt sáng ngời.
“Còn không thỉnh an Công chúa Duyệt Trữ ư”, cung nữ theo hầu trách mắng.
Lão cúi đầu cung kính chào hòi. Sau khi trở lại kinh thành, lão đã nghe nói về cô công chúa được sủng ái này nhưng không ngờ trông cô bé lại đáng yêu như vậy.
“Đứng lên đi!” Lưu Sơ cuối cùng cũng quen với hành động thỉnh an của mọi ngươi, vẫn còn tò mò hỏi tiếp, “Ông cầm cái gì trên tay đó?”
“Là trái nho thần mang từ Tây Vực về mấy năm trước đây.” Trương Khiên mỉm cười đáp, “Những năm qua thần cho người trồng, bây giờ đã lớn cho quả rồi, Thần mang đến cho bệ hạ thưởng thức một chút, Công chúa có muốn nếm thử khóng?”
“Ồ… đây chính là cây nho à.” Lưu Sơ cười cười, vẻ háo hức muốn được nếm thử.
“Bóc vỏ ra là có thể ăn được. Tại sao Công chúa lại ở chỗ này?”
“Ừm”, Lưu Sơ cau mày, “Hơi chua nhưng vẫn ngọt, mùi vị không tệ.”
“Nếu Công chúa thích thì hôm khác thần sẽ mang thêm tới cho Công chúa.”
“Công chúa Duyệt Trữ.” Dương Đắc Ý từ trong điện Chương Tức bước ra, mỉm cười nói, “Hoàng thượng nghe tiếng Công chúa liền lệnh cho vào,” Hắn xoay người nói giọng nhàn nhạt, Bác Vọng hầu cũng vào đi.”
Trương Khiên cúi đầu, theo Dương Đắc Ý vào điện, quỳ lạy thỉnh an Thánh thượng. Lúc này Vệ Thanh và Hoắc Khứ Bệnh đã tấu xong, lui sang đứng một bên. Hoàng thượng yêu quý Hoắc Khứ Bệnh, thậm chí ban cho hắn được ngồi xuống ghế. Lưu Sơ trông thấy Hoắc Khứ Bệnh thì rất vui vẻ, gọi, “Hoắc ca ca.” Hoắc Khứ Bệnh đáp một tiếng, mặt không biểu lộ gì.
“Trương ái khanh lần này theo quân, lập công rất lớn.” Lưu Triệt mở tập tấu chương trong tay, lên tiếng.
“Hoàng thượng có mắt nhìn người, thần không phụ hoàng ân không dám tranh công.”
Lưu Sơ chán nản quan sát điện Chương Tức, liếc thấy Dương Đắc Ý đứng sau lưng Lưu Triệt, trên tay có dấu vết thì tò mò hỏi, “Dương công công, tay công công làm sao vậy?”
Dương Đắc Ý về Trường An tuyên chỉ đến giờ đã gần nửa tháng, đã bỏ miếng băng gạc trên tay đi nhưng vẫn còn lưu lại mấy dấu vết mờ mờ.
Điện Chương Tức bỗng nhiên lặng ngắt. Trương Khiên len lén ngước mắt quan sát, sắc mặt Lưu Triệt ngồi trên ghế ngự tối sầm.
“Cái này…” Dương Đắc Ý lúng túng cười nói, “Công chúa Duyệt Trữ….”
“Sơ Nhi!” Lưu Triệt bỗng nhiên lên tiếng cắt ngang, nhìn sang con gái như đang cân nhắc điều gì đó, từ tốn nói, “Mẫu thân con đã trở về thành Trường An rồi.”
Cặp mắt Lưu Sơ đột nhiên sáng rực. “Thật sao?” Cô bé cười tủm tỉm.
“Trẫm đã nói sai bao giờ chưa?” Lưu Triệt bực bội.
“Thế thì con phải về Trường An ngay lập tức.”
“Không được!” Lưu Triệt ngắt lời, thấy mặt Lưu Sơ biến sắc liền nói. “Mấy ngày nữa trời dịu đi, trẫm sẽ bãi giá trở về Trường An.”Quyển 2 - Chương 26: Gặp nhau không nhắc chuyện năm xưaTrưởng công chúa không giống như phi tần nên Lưu Lăng mặc dù ở Trường Môn nhưng vẫn được tự do ra vào cung cấm. Một hôm, nàng đi gặp Tang Hoằng Dương vừa rời thân phận thị trung nhậm chức đại tư nông[1] vào năm ngoái và Liễu Duệ vừa mới theo Đại tướng quân Vệ Thanh trở về Trường An. Lúc trở lại Trường Môn, nàng nghe thấy tiếng người ồn ào ở điện Đông Thiên liền đến gần xem, thì ra là Trưởng công chúa Quán Đào đến thăm con gái.
[1] Đại tư nông: Tương đương với Bộ Tài chính ngày nay.
“Kiều Kiều, Hoàng thượng cho con về cung Trường Môn, tại sao con có thể bình thản như thế này được? Trở về Trường Môn chẳng phải rất tốt sao, chính cung đẹp đẽ như vậy thì không ở lại đi chọn điện Thiên chật chội thế này.”
“Thật ra nếu không coi cung Trường Môn là lãnh cung thì ở đây là tốt rồi.” Trần A Kiều[2] nhìn Lưu Phiếu, “Mẫu thân”, nàng khẽ cúi đầu: “Lui bước mới hay trời cao đất rộng, phong cảnh dạt dào dõi mắt trông.”
[2] Lúc này Trần A Kiều (Hàn Nhạn Thanh) đã trở về sống trong cung nên bắt đầu từ đây xin được gọi nhân vật là Trần A Kiều xuyên suốt tới cuối truyện.
Lưu Phiếu chợt thấy lòng mềm lại, ngọn lửa trong mắt càng rực lên: “Con bảo Vệ gia dung thứ cho con lui bước sao? Chúng ta dù sao cũng phải suy nghĩ vì Mạch Nhi. Mạch Nhi cản trở đường tiến của bọn họ thì làm sao bọn họ có thể dung tha chứ?” Bà quan sát điện Đông Thiên do A Kiều đích thân bài trí, “Con nhìn xem, bên ngoài cửa sổ toàn là trúc, che hết không còn trông thấy ánh mặt trời nữa.”
“Cây trúc cũng được mà.” A Kiều thở dài, lấy ra hai trang giấy, viết sột soạt. Trưởng công chúa Quán Đào trông thấy đó rõ ràng là hai câu đối:
“Chén ngọc trà trong xông khói lục, Song thưa cờ vãn lạnh tay ngà.”[3]
[3] Vế đối của Lâm Đại Ngọc trong Hồng Lâu Mộng.
“A Kiều tỷ tỷ định học Lâm muội muội sao?” Lưu Lăng vui vẻ bước vào điện, trông thấy rõ ràng Trưởng công chúa Quán Đào trong nháy mắt làm mặt lạnh.
Lưu Phiếu tất nhiên biết Hoài Nam quận chúa Lưu Lăng, năm xưa A Kiều từng khóc lóc kể lể với bà là ngày hôm đó chính mắt trông thấy nàng có cử chỉ âu yếm với Lưu Triệt. Lúc ấy bà thương xót con gái nên làm sao thấy thuận mắt với quận chúa của vua một nước chư hầu. Phủ Đường Ấp hầu từ đó về sau trở mặt với Hoài Nam vương phần nhiều cũng vì nguyên nhân đó. Hơn nữa những dấu hiệu về việc năm xưa A Kiều bị người đuổi gϊếŧ rồi mất tích ở Trường Môn cho thấy Trưởng công chúa Phi Nguyệt này mới được phong không khỏi có liên quan. Tuy Lưu Lăng hôm nay lại có quan hệ tốt với A Kiều, nhung bà là mẫu thân nên vẫn cứ nghi ngờ. Lưu Phiếu tuyệt đối không tin rằng hai cô gái từng như nước với lửa lại có thể quan hệ tốt với nhau như không hề có sự ngăn cách. Huống chi, hai người đó hôm nay đều là những người có tâm tư nhạy bén xoay chuyển trăm chiều.
“Lăng Nhi”, Trần A Kiều thân thiết khoác tay Lưu Lăng, quay đầu nói: “Mẫu thân, con và Lăng Nhi đã cùng trải qua cửa ải sống chết những chuyện ngày trước đều như mây khói, bỏ qua hết đi.”
Lưu Lăng cũng đổi ánh mắt, tươi cười trở lại, “Trưởng công chúa không phải lo lắng, Lưu Lăng lần này được A Kiều tỷ tỷ cứu nên muôn vàn cảm khái, những chuyện hôm qua coi như đã chết từ hôm qua, những chuyện hôm nay coi như mới sinh ra hôm nay. A Kiều tỷ tỷ vẫn biết rõ những lo lắng của Trưởng công chúa, chỉ là ở chỗ này thì động không bằng tĩnh. Nếu nói hậu phát chế nhân thì tiên phát sẽ bị người chế ngự. Chúng ta cứ một mực yên lặng, để xem ai là người không chịu nổi trước, chẳng phải cũng rất tốt sao.”
Trưởng công chúa Quán Đào im lặng, thấy hai cô gái trước mặt đều cười khanh khách, sóng mắt long lanh, mười phần ăn ý khiến cho một người lão luyện như bà cũng không nhìn ra một chút dấu vết giả dối.
Bà thở dài, “Trước mắt cũng chỉ có thể làm được như vậy.”
Cuối tháng Bảy, tiết trời nóng nực ở Trường An rốt cuộc đã dịu đi, Lưu Triệt hạ lệnh khởi giá hồi cung.
Trong chiếc long xa hoa lệ dành cho phi tần ở giữa đoàn nghỉ trượng dài dằng dặc, cung nữ Oanh Hương bưng một khay trái cây đưa sang cho Hình Nhược, “Nương nương ăn chút trái cây đi. Trong này có loại quả gọi là ‘quả nho’ mà Bác Vọng hầu mới dâng lên, Hoàng thượng dành riêng đưa đến cho nương nương đấy.”
“Không ăn.” Hình Nhược miễn cưỡng chống người ngồi dậy nhưng không có vẻ mệt mỏi mà lại rầu rĩ than thở, “Hoàng thượng đã không nhớ đến ta thì ta cần gì phải ăn thứ nho bỏ đi ấy chứ?”
“Nương nương sao vậy chứ?” Oanh Hương cười giả lả hỏi, lúm đồng tiền trên má như ẩn như hiện. “Nếu Hoàng thượng không có ý nhớ tới nương nương thì tại sao còn bảo đưa nho đến đây?”
Hình Nhược không nói thêm lời nào, khẽ vén rèm lên. Cách đó không xa là long xa đóng bằng gỗ lim toát tên vẻ tôn nghiêm quý phái, thân xe có chạm hình rồng, chính là long giá của Hoàng thượng.
“Oanh Hương, trước kia khi Hoàng thượng đến cung Cam Tuyền tránh nắng đều là ở đến tháng Chín, hết cái nóng đầu mùa thu mới quay về Trường An. Năm nay lại lên đường vào lúc này, ngươi có biết tại sao không?”
“Nghe nói là Công chúa Duyệt Trữ biết tin mẫu thân trở về nên nằng nặc đòi quay về Trường An, Hoàng thượng dỗ dành không được nên mới lên đường trước thời hạn. Ánh mắt Oanh Hương lộ vẻ ngưỡng mộ. “Công chúa Duyệt Trữ quả nhiên được Thánh thượng sủng ái.”
“Hừ!” Hình Nhược thở phì phì, “Công chúa Duyệt Trữ được Thánh thượng sủng ái? Nếu chỉ vì nó thì chỉ cần phái người đưa về cũng được, phải tự mình quay về?” Nàng ta trầm ngâm, “Chỉ sợ là chính bản thân Hoàng thượng cũng muốn quay về. Nói ra thì nguyên nhân bên trong khiến Công chúa Duyệt Trữ được sủng ái như thế, truy cứu ra rất có ý vị đấy.”
Nàng ta nhẹ nhàng vuốt ve tay áo, thầm nghĩ, “Ngao cò tranh nhau, ngư ông đắc lợi. Lý tỷ tỷ, có lẽ tỷ nói đúng, để cho chúng ta một lần làm ngư ông, xem trận tỷ thí này giữa hai hoàng hậu sẽ kết thúc như thế nào.”
“Mẫu thân!” Trong điện Bát Nhã nằm ở phía đông cung Trường Môn, Trần A Kiều nghe thấy giọng nói vừa quen thuộc lại vừa hơi xa lạ liền kinh ngạc quay đầu lại, quả nhiên nàng trông thấy một bóng dáng nhỏ bé từ ngoài chạy ào vào.
“Tảo Tảo!” Nàng nghẹn ngào, ôm con vào lòng, muốn nói mà nước mắt lại tuôn trào.
“Mẫu thân, con đã nghĩ mẫu thân không thương con nữa. Mẫu thân và ca ca bỏ con một mình ở lại Trường An, hu hu.” Lưu Sơ vốn không có ý oán trách nhưng trong khoảnh khắc nhìn thấy mẫu thân thì nhịn không được ấm ức, nức nở một hồi.
“Mẫu thân xin lỗi.” Nàng ôm lấy con gái, thì thầm, “Sau này mẫu thân sẽ không làm như thế nữa. Tảo Tảo!” Nàng âu yếm vuốt lại mấy lọn tóc trước trán cho Lưu Sơ. “Trần nương nương!” Nội thị Thượng Vô Câu cúi người hành lễ, “Hoàng thượng bảo nô tài đưa Công chúa Duyệt Trữ đến cung Trường Môn gặp nương nương. Một lát nữa sẽ có cung nhân đem tráp của Công chúa Duyệt Trữ đến. Hai mẹ con nương nương đã lâu không gặp chắc có nhiều chuyện muốn nói, nô tài xin cáo lui.”
Trần A Kiều đứng lên, gật đầu nhìn viên nội thị khom người thối lui, mặt hiện vẻ lạnh nhạt. Lưu Sơ trông thấy thì không nén nổi rùng mình, gọi nàng bằng giọng run run, “Mẫu thân!”
Nàng cúi đầu, thần thái dịu xuống, âu yếm hỏi, “Tảo Tảo, nửa năm qua con sống ở Trường An có tốt không?”
Lưu Sơ rúc đầu vào lòng nàng, “Cũng không tệ lắm. Bà ngoại rất thương yêu con”, cô bé ngập ngừng, “Ông ấy… đối với con cũng rất tốt.”
Trần A Kiều nhếch miệng vẻ khinh thường nhưng trong lòng vẫn thoáng vui mừng. Nàng nghĩ, Tảo Tảo là một đứa bé ngoan như vậy, làm sao để cho người xử tệ? Nhưng nàng biết rõ Lưu Triệt là loại người nào, y có thể làm như vậy thì hẳn trong lòng cũng có chút tình cảm đấy chứ? Tất nhiên đây là cốt nhục của y nhưng nếu có một ngày ba mẹ con nàng, lại một lần nữa uy hϊếp lợi ích của y thì y sẽ có lựa chọn ra sao? Lòng nàng dần dần lặng đi. Nàng đã xem bao nhiêu là sách sử nên sớm biết rõ ràng đáp án.
“Mẫu thân, hôm nay mẫu thân phải ngủ cùng với con đấy.” Con gái kéo tay nàng làm nũng.
“Được rồi!” Nàng âu yếm gật đầu.
“Mẫu thân phải bảo ca ca nghe lời con.”
Nàng buồn cười véo mũi Lưu Sơ, “Ca ca vốn đã rất nghe lời con rồi.”
“Nào có?” Lưu Sơ bất mãn oán trách, nhìn sang hai bên, “Ca ca đâu rồi?”
“Ca ca là con trai, sao có thể nhàn rỗi như con chứ?” Nàng cười giễu, “Tự nhiên có người lấy đủ các loại lý do để lôi kéo nó rời khỏi mẫu thân.”
“Gì cơ?” Lưu Sơ nhảy dựng lên, “Có người dám bắt nạt ca ca, con tìm bọn họ tính sổ.”
“Lại đây!” Nàng không nhịn được cười, “Mạch Nhi sao dễ để bị bắt nạt chứ? Cứ để cho bọn chúng diễn trò đi. Mẫu thân đã bảo Khương cô cô theo sát, không xảy ra chuyện gì đâu. Chỉ có con đó, ở yên một lát đợi dì Lưu Lăng và ca ca trở lại, chúng ta cùng đi làm xích đu. Được không nào?”
Lưu Triệt ở trong điện Tuyên Thất xử lý rất nhiều sự vụ phức tạp của quốc gia, giao công việc cho mọi người xong thì bãi giá về cung Trường Nhạc để thăm mẫu hậu của mình. Y còn chưa vào trong cung Trường Nhạc thì đã nghe thấy một giọng nữ thánh thót vừa quen thuộc vừa lạ lẫm, “Thái hậu minh giám có thể vì độc tố còn sót lại nên Lưu Lăng không nhớ hết được những chuyện trước kia. Nếu có chỗ nào đắc tội mong được Thái hậu bao dung.”
“Lăng Nhi cứu người mà bị trúng độc, ai gia cảm động trước công đức của Lăng Nhi, làm sao có thể trách tội được chứ?” Trong cung Trường Nhạc, Vương thái hậu đang vỗ về Lưu Lăng, “Chẳng biết có thể trị hết được không?”
“Đa tạ Thái hậu quan tâm”, Lưu Lăng đỡ trán ra vẻ choáng váng, ngồi xuống mặt tái nhợt đi đáp: “Lưu Lăng cũng muốn trị cho dứt hẳn nhưng Mạnh lão tiền bối nói có thể giành lại mạng sống từ trùng hoa độc đã là may mắn lắm rồi, mất đi chút trí nhớ cũng là bình thường.” Nàng thở dài, “Y thuật của Mạnh lão tiền bối đứng đầu trong cả nước, người đã nói như vậy thì Lưu Lăng cũng không nên mong ước xa vời.”
Thì ra là Lưu Lăng vừa mới được phong làm Trưởng công chúa Phi Nguyệt tới vấn an Thái hậu, thấy Lưu Triệt đi vào liền đứng dậy hành lễ, mỗi cử chỉ đều tuân thủ quy củ lễ tiết.
Lưu Triệt cười nói, “Mời Trưởng công chúa Phi Nguyệt đứng lên đi. Hôm nay chúng ta đã là huynh muội, không cần quá để ý.”
“Nếu như vậy Lưu Lăng đa tạ bệ hạ.” Lưu Lăng đáp tạ rồi quay người ngồi xuống.
“Lâu rồi không gặp, Hoàng thượng sức khỏe chứ?” Trên ghế Vương thái hậu nghiêng người hỏi thăm.
“Không hề đáng ngại. Chỉ có Sơ Nhi cứ luôn quấy phá đòi về, trẫm không chịu được phiền toái nên chẳng thể làm gì khác hơn là trở về trước thời hạn”, Lưu Triệt trả lời. “Làm phiền mẫu hậu phải lo lắng là lỗi của trẫm.”
Vương thái hậu phì cười, “Sơ Nhi làm trò như vậy chắc là nhớ mẫu thân của nó đây mà.” Bà quay đầu hỏi Lưu Lăng, “Mấy ngày nay, Công chúa Duyệt Trữ ở cung Trường Môn có tốt không?”
Lưu Lăng cung kính đáp, “Công chúa Duyệt Trữ gặp lại người thân thì rất vui vẻ, làm gì có chuyện không tốt. Nhưng cũng phải nói là vài ngày trước, Công chúa Duyệt Trữ nghe nói ở chỗ của Thái hậu có một vật rất là yêu thích.”
“Thế à?” Vương thái hậu liếc nhìn Lưu Triệt, “Vệ hoàng hậu đã đặc biệt quan tâm, căn dặn phải cấp đủ các thứ cho cung Trường Môn. Công chúa Duyệt Trữ còn có thể thiếu thứ gì sao?”
“Thái hậu nói đúng”, Lưu Lăng cụp mắt ẩn giấu cơn phẫn nộ, “Cung Trường Môn có Trưởng công chúa Quán Đào chăm nom nên không thiếu thứ gì, còn có cả phụ thân và ca ca của Lưu Lăng nữa, không phải phiền đến Vệ hoàng hậu. Nhưng Công chúa Duyệt Trữ nghe nói ở chỗ Thái hậu nương nương có một bộ cờ vây bằng ngọc thạch nên rất thích.”
“Chỉ mấy ngày không gặp mà trẫm lại không biết rằng Sơ Nhi có hứng thú với cờ vây?” Lưu Triệt bên cạnh hỏi vẻ hứng thú, chú tâm tìm một phản ứng rất nhỏ của Lưu Lăng song nàng không hề để lộ sơ hở, vẫn nhẹ nhàng nói: “Hoàng thượng không biết, ngoài điện Bát Nhã của cung Trường Môn toàn là chậu trúc, A Kiều tỷ tỷ sợ nóng nên mang vào, còn viết một đôi câu đối, phân ra treo ở hai bên chính đường trong điện, như sau: ‘Đỉnh quý trà xanh xông khói lục. Song thưa cờ vãn lạnh tay ngà’. Sơ Nhi rất thích, hơn nữa ở dưới hai câu đó còn bày một bộ ấm trà nên cũng muốn có một bộ cờ cho hợp với hai vế đối. Nghe nói Thái hậu có một bộ cờ vây ngọc thạch kỳ lạ chạm tay vào sẽ có cảm giác lạnh như băng rất là phù hợp với ý cảnh trong hai câu này nên rất ước ao.”
Nàng nói xong thì thấy trong cung Trường Nhạc lặng ngắt. Một lát sau Lưu Triệt lên tiếng, “Trẫm nhớ rằng trước đây không phải là chính điện thì A Kiều sẽ không chịu ở. Điện Bát Nhã chẳng qua là điện phía đông của cung Trường Môn, sao A Kiều lại chọn ở nơi đó.”
Đã bị bãi về cung Trường Môn rồi mà còn cố giữ những thứ đó thì có ý nghĩa gì chứ? Lưu Lăng thầm oán nhưng trên mặt vẫn giữ nụ cười, “Lưu Lăng cũng biết được nguyên do trong đó, chỉ là không nói ra mà thôi.”
“Có chuyện gì mà không thể nói, huống chi còn đang ở trước mặt Hoàng thượng.” Vương thái hậu lập tức lên tiếng. Lưu Lăng cảm giác ánh mắt bà sắc bén như một cơn gió lạnh. Tất nhiên, một người phụ nữ thắng trong cuộc tranh đấu chốn nội cung thì làm sao có thể là nhân vật đơn giản được. “Cho dù như thế nào thì A Kiều vẫn luôn là đứa cháu gái ngoại được Tiên hoàng cưng chiều nhất, chỉ với điều này, ai gia sẽ không cho phép bất kỳ ai đốí xử bất lợi với nó”, Thái hậu dằn từng tiếng.
“Cũng không có gì!” Lưu Lăng không hề sợ hãi, vẫn nói với giọng điệu thản nhiên như trước, “Lưu Lăng thấy đại khái là vào năm Nguyên Quang thứ năm, A Kiều tỷ tỷ bị người truy sát tại chính điện của cung Trường Môn nên vẫn có ấn tượng với chỗ đó, không chịu chuyển tới.”
Lưu Triệt nghe vậy không khỏi nhìn lại nàng. Gần như có thể khẳng định việc truy sát phế hậu Trần A Kiều năm đó là do tay của người con gái xinh đẹp quyến rũ trước mặt. Chẳng qua là vì năm xưa chính y đã phụ bạc nàng, và sự việc đó đã qua mà không có chứng cứ xác thực, thêm nữa là mọi người ở Hoài Nam vừa lập công lớn nên lúc này Lưu Triệt mới không truy cứu. Theo biểu hiện lúc này thì A Kiều không phải không nhìn ra chuyện này. Nhưng nếu vậy thì tại sao A Kiều lại ý hợp tâm đầu với một cô gái đã từng muốn hại mình. Thậm chí y còn không thể tìm ra trong quan hệ giữa hai người con gái này có chỗ nào dối trá.
Như vậy, Lưu Triệt chợt hiểu rằng phải có một lợi ích nào đó lớn tới mức đủ để khiến các nàng vứt bỏ thù hận chứ? Ánh mắt của y dần trở nên lạnh lẽo.
“Trưởng công chúa Phi Nguyệt!” Vương thái hậu ngồi trên điện, mỉm cười nhìn nàng đầy ngụ ý, “Mạnh thần y thật sự nói con mất trí nhớ sao?”
“Đúng vậy!”, Lưu Lăng đáp.
“Như vậy…” Vương thái hậu quay sang ra lệnh, “Đem bộ cờ vây ngọc thạch giao cho Trưởng công chúa Phi Nguyệt.”
“Dạ!” Minh Đạt khom người đi ra.
Lưu Lăng cúi đầu, “Đa tạ Thái hậu. Lưu Lăng xin lui.” Nàng nhận lấy bộ cờ vây từ tay Minh Đạt, xoay người bước ra không hề liếc mắt nhìn lại một lần.
Qua tháng Bảy, tiết trời dịu đi mấy ngày rồi chuyển sang cái nóng của mùa thu. Khi đợt nóng cuối cùng này qua đi, tháng Chín năm thứ sáu đã đến gần mà gió thu chưa hẳn đã thổi lạnh lòng người trong cung Vị Ương.
Điện Tiêu Phòng.
Sau khi theo thánh giá trở về Trường An, Trường Bình hầu Vệ Thanh mấy lần vào cung thăm tỷ tỷ của mình, thấy tỷ tỷ ở trên điện nhan sắc vẫn xinh đẹp tuyệt trần nhưng không thể che lấp nét ưu sầu lẩn khuất giữa đôi lông mày.
“Thanh đệ!” Vệ Tử Phu trông thấy đệ đệ đã lâu không gặp thì cuối cùng cũng nở nụ cười vẻ chân thành, để lộ ra đôi lúm đồng tiền. Bao năm qua, hai tỷ đệ cùng phối hợp trợ giúp Vệ gia, về mặt tin cậy lẫn nhau thì không ai có thể bằng được. Nàng ta bảo người hầu lui ra đi xuống nắm tay đệ đệ mừng rỡ, “So với năm ngoái thì đệ đen hơn một chút đấy.”
“Cuộc chiến với người Hung Nô gian khổ mệt mỏi, đen hơn một chút cũng là bình thường.” Vệ Thanh bình thản, tiện đà hỏi, “Tỷ, tại sao cô ta lại về phe với Quận chúa Lưu Lăng được chứ?”
Vệ Tử Phu sầm mặt, nhìn quanh hai bên một vòng thấy ngay cả nữ nhi Lưu Phỉ và thị nữ tâm phúc cũng đã đi hết thì mới lên tiếng: “Ta cũng đang băn khoăn vấn đề này, nghĩ trăm bề vẫn không giải thích nổi.” Nàng ta lại trầm ngâm, “Năm xưa ta và Lưu Lăng bắt tay hợp tác, hơn nữa Hoàng thượng cũng mắt nhắm mắt mở phối hợp nên mới lật đổ được Trần hoàng hậu. Xung đột như thế mà cô ta lại vẫn gắn bó khăng khít với Lưu Lăng. Mấy ngày nay Hoàng thượng không về cung, ta đã suy xét thật khách quan mà vẫn không thể nào thông suốt được.”
“Chuyện này đúng thật là rất không hợp với lẽ thường.” Vệ Thanh suy nghĩ một chút, thở dài nói, “Nếu năm xưa Công chúa Phi Nguyệt đuổi gϊếŧ Trần A Kiều thành công thì hôm nay chúng ta sao có thể bị động thế này. Phải rồi, tỷ tỷ, Hoàng thượng hồi cung cũng được mấy ngày rồi, có đến cung Trường Môn không?”
Vệ Tử Phu lắc đầu.
“Như vậy thì rõ ràng là Hoàng thượng không có hứng thú đối với cô ta, chúng ta không cần phải lo lắng nữa” Vệ Thanh khá bất ngờ nhưng cũng được an ủi đôi chút.
“Thanh đệ, đệ lầm rồi”, Vệ Tử Phu phản bác, vẻ mặt nghiêm trọng, “Đệ còn không biết về Hoàng thượng của chúng ta. Y xưa nay chưa từng làm việc gì bản thân không nắm chắc. Mấy ngày nay y luôn thờ ơ lạnh nhạt quan sát việc làm của hai người đó ở cung Trường Môn. Nếu có một ngày y hiểu ra thì lúc đó hoặc sẽ là đền bù cho, hoặc là bồi đắp thêm ân sủng. Một khi cô ta có thừa ân sủng thì nhất định sẽ chèn ép Vệ gia chúng ta.”
Vệ Thanh mở miệng nhưng lại không nói được gì. Tỷ tỷ của hắn bắt đầu ở bên cạnh Hoàng thượng từ giữa những năm Kiến Nguyên đến giờ đã được hơn mười năm, chia sẻ, giúp Hoàng thượng vượt qua những lúc ngã lòng nhất. Nếu nói về việc hiểu lòng Hoàng thượng thì hắn tin rằng mình không thể bằng tỷ tỷ.
“Thanh đệ, đệ đã từng gặp Trần A Kiều sao?”
“Đệ đã gặp một lần từ năm Kiến Nguyên, lâu lắm rồi. Khi đó long xa hoàng hậu chạy qua cung Kiến Chương… chẳng qua cũng chỉ là một cô gái tầm thường thôi. Gương mặt tuyệt đẹp nhưng kiêu ngạo ngất trời.”
Vệ Thanh không thể hiểu câu hỏi của Vệ Tử Phu nhưng vẫn đáp lời.
“Vậy đệ đã trông thấy Trần A Kiều hôm nay chưa?”
Hắn lắc đầu, “Đệ vừa mới trở về, mà ngoại thần không được gặp cung phi thì làm sao có thể trông thấy được?”
“Ta cũng chỉ trông thấy từ xa được một lần.” Vẻ mặt Vệ Tử Phu trầm lắng, “Nếu như nói…”, nàng ta thoáng cân nhắc, “Trần A Kiều năm xưa là một đóa hoa mẫu đơn kiều diễm bề ngoài nhưng bên trong nông cạn, thì hôm nay…” Ánh mắt nàng ta thoáng qua một tia tuyệt vọng, “Nếu Hoàng thượng gặp được sẽ tuyệt đối không thể rời xa.”
Thế nhưng, Trần A Kiều, nàng ta thề với lòng mình, ta đã ở trên vị trí này thì nhất định sẽ không trơ mắt nhìn ngươi đứng lên trở lại cung Vị Ương. Đây là trận chiến đấu giữa hai chúng ta, tất nhiên là ta đã thắng trong lần đầu tiên thì tuyệt đối sẽ không thua trong lần thứ hai.Quyển 2 - Chương 27: Không cần phải dừng xe ở Trường MônCung Trường Môn.
Do hoàng hậu đời trước Trần A Kiều ra khỏi cung Trường Môn bị phát hiện, tất cả thị nữ lẫn nội thị cung Trường Môn đều bị trừng phạt hay điều chuyển. Đến khi A Kiều và Trưởng công chúa Phi Nguyệt Lưu Lăng trở lại cung Trường Môn, Trưởng công chúa Quán Đào đưa tới hai thị nữ sinh ra ở phủ Đường Ấp hầu, Vương thái hậu thì chọn hai thị nữ, ba nội thị từ cung Trường Nhạc. Trần A Kiều ban tên cho bon thị nữ Mạc Thất, Mạc Vong, Mạc Ưu, Mạc Sầu.
“Người nào có thể làm được như thế..” Mạc Ưu vẫn nhớ như in nét mặt của Trần nương nương lúc quay đầu lại mỉm cười nói lời này, “thì cũng có thể nói là hạnh phúc.” Cô tiến cung vào năm Nguyên Sóc nên chưa từng trông thấy Trần nương nương giai đoạn cuối cùng. Trần nương nương hiện giờ lại không kiêu ngạo bá đạo như những lời đồn đại! Ngược lại nàng và Trưởng công chúa Phi Nguyệt đều rất hiền hoà, bình dị, gần gũi, thân thiết. Mặc dù nàng thường khoác vẻ cao quý xa cách trước mặt người ngoài nhưng đối xử với người bên mình lại rất thân thiện. Tại sao một cô gái xinh đẹp lương thiện như vậy lại phải chịu kết quả là bãi về Trường Môn?
Cô thừa dịp các chủ nhân không có nhà để dọn dẹp quét tước, ngoảnh đầu lại gọi; “Mạc Sầu, cô vào…” Cô bỗng nhiên ngừng bặt khi trông thấy một bóng người bên ngoài cửa cung.
Đứng trước Ngự tiền tổng quản Dương Đắc Ý là một người đàn ông anh tuấn, mặc bộ y quan bằng gấm đen thêu chỉ vàng, đang nhướng mày nhìn vào cung Trường Môn trống hoác. Mạc Ưu, Mạc Sầu, Thành Mẫn, Thành Liệt cuống quýt quỳ xuống nói, “Nô tỳ tham kiến hoàng thượng.”
Dương Đắc Ý liếc mắt dò xét vẻ mặt Lưu Triệt, tiến lên hỏi, “Chủ nhân của các ngurơi đâu?”
“Trần nương nương và Trưởng công chúa Phi Nguyệt dẫn Hoàng tử Mạch và Công chúa Duyệt Trữ đi ra ngoài từ sáng sớm, chúng nô tỳ không biết.”
Bốn người đang quỳ bị kinh sợ đến toát mồ hôi, không ai ngờ rằng Hoàng thượng lại không hề báo trước, đi đến cung Trường Môn thăm hoàng hậu đời trước đã bị đích thân mình phế bỏ. Lưu Triệt lạnh lùng nhìn bọn họ, vẻ mặt không chút thay đổi, “Thế nào? Chẳng lẽ các ngươi còn muốn trẫm tự đi tìm sao?” Bốn người vội vàng dập đầu, “Nô tỳ xin đi ngay”, rồi sấp ngửa chạy ra khỏi cung Trường Môn.
Lưu Triệt lẳng lặng đứng ở trước cửa cung, một cơn gió thu thổi ào qua làm xiêm áo của y bay lất phất. Dương Đắc Ý đứng phía sau hầu hạ, cẩn thận hỏi, “Hoàng thượng, có muốn vào trong nghỉ một chút hay không?” Lưu Triệt không lên tiếng. Mãi một lúc lâu sau, khi hắn cho là Lưu Triệt không trả lời nữa thì chợt nghe thấy tiếng “ừ” khe khẽ. Lưu Triệt đi vào cung Trường Môn trống trơn không một bóng người, nhưng không vào chính cung mà đi tới điện Bát Nhã ở chái đông.
Thì ra là Hoàng thượng vẫn còn nhớ Trần nương nương. Dương Đắc Ý đi theo Hoàng thượng, ánh mắt thể hiện vẻ thấu hiểu.
Cung Trường Môn tuy gọi là cung nhưng kích thước trên thực tế thì không lớn, Điện Bát Nhã là điện phụ nhưng lại hết sức đẹp đẽ tinh xảo. Lưu Triệt bước vào, thấy ngoài cửa sổ có một hàng trúc tỏa bóng xuống làm cho cả gian điện mát mẻ. Trên bàn đặt một đỉnh trà phong cách cổ kính vừa mới pha, khói phảng phất bay lên cũng nhiễm màu xanh lục, khung cảnh ngầm thiết kế theo câu: “Chén ngọc trà trong xông khói lục. Song thưa cờ vãn lạnh tay ngà” Chính giữa trung tâm điện treo một bức họa chỉ vẽ toàn trúc xanh, dáng thẳng tắp thanh cao, dạt dào sức sống, dấu Triện thanh mảnh, hẳn là của người vào cung từ đất Thục, họ Trác tên Văn Quân. Chữ đề hai bên bức tranh chân phương rõ ràng có ba phần phong thái của A Kiều lúc trước nhưng nét chữ đã đẹp hơn nhiều.
Gió thổi nhè nhẹ, bóng trúc phơ phất, từ xa vọng đến tiếng cười nói. Lưu Triệt nghe thấy bèn đi tới trước cửa sổ, bất giác lặng đi.
Sâu trong vườn trúc có một chiếc bàn đá, ánh mặt trời chiếu qua tán lá thành những điểm sáng nhạt nhòa râm mát. Hai cô gái ngồi đối diện nhau ở hai bên bàn đá đánh cờ, người quay lưng về phía y chính là Lưu Lăng, cô gái cùng chơi bị cành trúc che kín khuôn mặt chỉ nhìn được loáng thoáng không rõ lắm. Một cậu bé, hai cung nữ đứng xúm xít quanh Lưu Sơ, một nội thị đứng ở phía sau, tay cầm chung rượu. Từ đó thỉnh thoảng vang lên tiếng cười nói vui vẻ nhàn nhã.
Trần A Kiều cầm quân trắng, Lưu Lăng lấy quân đen, hai ngươi hạ cờ cực nhanh, chắc hẳn không hề suy nghĩ. Lưu Triệt cau mày, thấy các nàng đặt quân cờ không hề giống cách chơi cờ vây mà cũng chẳng ra phương pháp gì. Lưu Sơ vỗ tay hô hào ủng hộ mẹ cố gắng lên, Lưu Mạch thì lại ở bên mỉm cười quan sát không nói gì, Trần A Kiều cười khanh khách, “Tảo Tảo, con chưa nghe câu ‘Xem cờ chẳng nói là quân tử’ à?”
Lưu Sơ phụng phịu, “Đó là nói về cờ tướng chứ, mọi người có phải đang chơi môn ấy đâu.”
“Cho dù là cờ gì thì cũng đều như vậy.” Trần A Kiều nói chuvện nên bị phân tâm, sơ sẩy hạ nhầm một quân cờ, vì vậy tỏ vẻ ảo não, vội vàng hoãn lại, “Nước này không tính nhé.”
Lưu Lăng đưa tay ngăn lại, “A Kiều tỷ tỷ, tiếp theo câu ‘Xem cờ chẳng nói là quân tử’ là câu gì?”
Trần A Kiều ớ ra, đành phải chịu thua nước này. Lưu Lăng hạ xuống một quân cờ và thu về năm quân đen rồi đắc ý, “Ván này tỷ lại thua, phạt uống một chén.”
Nàng cười ngất, rót một chén rượu đưa cho Trần A Kiều. A Kiều đón lấy, đang định uống cạn thì nghe thấy tiếng lá trúc sột soạt, Thành Liệt chạy đến quỳ xuống báo, “Nương nương, Trưởng công chúa”, thở hổn hển, “Hoàng thượng, Hoàng thượng đến cung Trường Môn.”
Trần A Kiều nghiêng đầu nhìn lại. Đúng vào lúc này, một cơn gió thu thổi qua, cành trúc trên đỉnh đầu dạt đi khiến nàng bắt gặp ánh mắt sắc lẹm vừa xa lạ vừa quen thuộc đang nhìn xoáy xuống của Lưu Triệt ở trong điện Bát Nhã. Nụ cười trên mặt nàng dần dần nhạt đi, khuôn mặt trở lại nét đoan trang mà xa cách.
“Thần thϊếp bái kiến Hoàng thượng.” Nàng cúi đầu.
“Ca ca”, Tảo Tảo ở bên cạnh hỏi, “Vế sau của câu ‘Xem cờ chẳng nói là quân tử’ là gì?”
“Xuống nước không hồi ấy trượng phu”, tiếng Lưu Mạch trả lời truyền đi theo làn gió.
Điện Bát Nhã.
“Không biết Hoàng thượng tới đây, thần thϊếp không kịp tiếp đón từ xa, mong được thứ tội.”
Lưu Triệt nhìn A Kiều. Nàng tỏ ra lễ độ nhưng lạnh nhạt. Trong lòng bỗng nhiên nổi lên một cảm giác cực kỳ xa lạ. Chẳng lẽ đây chính là A Kiều người con gái đã lớn lên cùng y, người thường không thể che giấu được vui buồn hờn giận, người đã yêu y không hề suy tính, yêu, hận đều rất cực đoan đó sao? Y bỗng nhiên hoài nghi, nhưng hàng lông mày đó, cặp mắt đó đúng là của A Kiều, không ai quen thuộc hơn y, không thể nhầm lẫn.
Bảy năm không gặp, tháng năm ưu ái nàng nên không lưu lại bao nhiêu dấu vết trên khuôn mặt. Vẫn là dung nhan rực rỡ như hoa đào năm xưa nhưng ẩn đi vẻ rạng ngời, lắng đọng một phần sắc sảo, an tĩnh ẩn mình như đóa hoa sen. Vì trận cờ hôm nay nên đoán chừng nàng đã uống chút rượu. Vị của Bích Nhưỡng Xuân mặc dù thuần khiết nhưng vì được chưng cất nên mạnh hơn loại rượu nhất phẩm thời sơ Hán rất nhiều. Một dải đỏ thẫm bắt đầu từ má nàng kéo dài đến cổ, đẹp như hoa đào chớm nở, lại thêm đôi mắt long lanh như nước hồ thu.
“A Kiều tỷ nói đùa rồi, trẫm làm sao có thể trách tội bởi một chuyện nhỏ như vậy được chứ?” Lưu Triệt đứng tựa lưng vào song cửa sổ, đột nhiên bật cười.
Nàng cảm giác cả người mình run lên, cố hết sức mới có thể áp chế được cơn rùng mình. Nàng nhìn Lưu Triệt vẻ khó hiểu. Người trước mặt nàng đây đã đủ tàn nhẫn để phế bỏ nàng, vậy mà sao khi gặp lại, y vẫn có thể gọi nàng bằng cái tên ấm áp lúc thơ bé kia?
“Trước kia A Kiều tỷ không khách sáo như vậy.” Lưu Triệt nhìn nàng ánh mắt sâu thẳm.
“Người ta sẽ không thể ngây thơ sau khi đã bị ngã vỡ đầu chảy máu.” Nàng thản nhiên đáp, không hề đổi sắc.
“Đây chính là Mạch Nhi?” Lưu Triệt thong thả bước về phía đứa con lần đầu gặp mặt.
Lưu Mạch đưa mắt nhìn y, đôi mắt đen láy sáng lóng lánh. Đây là lần đầu tiên Lưu Triệt nhìn con trai ở khoảng cách gần như vậy. Y cảm thấy mặt mũi rất quen thuộc, giống mình hơn so với Lưu Cứ, Lưu Hoành. Lòng mềm lại, y dịu giọng, “Qua đầu năm trẫm sẽ lập Bác Vọng hiên, dạy các hoàng tử viết chữ luyện võ, Mạch Nhi cũng tới đó đi.”
“Đa tạ Hoàng thượng ra ân.” Trần A Kiều xoay người đối diện với Lưu Mạch nhắc nhở: “Còn không mau tạ ơn với Hoàng thượng.”
Lần đầu nhìn thấy Lưu Triệt, Lưu Mạch biết người đàn ông này là hoàng đế Đại Hán, cũng là phụ thân của mình. Nó đứng trong điện, thấy trong lòng vừa ngăn cách vừa hoảng sợ. Rõ ràng là phụ thân của nó và muội muội nhưng hồi đó đã bất chấp tất cả làm tổn thương mẫu thân, bỏ mặc mẫu thân nhiều năm lưu lạc. Được đoàn tụ sau bao ngày xa cách, phụ thân vẫn tiếp tục đẩy mẹ con họ vào chốn cung đình đầy rẫy cạm bẫy, bị cung nhân phi tần lén cười nhạo, thậm chí gặp nhau rồi còn lấy giọng xa cách như thế để hỏi han, phê bình, thăm dò, hoặc theo nói như mẫu thân là “thi ân.” Nhưng dù sao nó vẫn là đứa bé có lý trí, không nông nổi đòi quyền lợi như Lưu Sơ nên cúi đầu, không tự ti cũng không kiêu ngạo nói, “Tạ ơn Hoàng thượng!”
Lưu Triệt bỗng cảm giác rõ ràng rằng có một bức màn vô hình đang ngăn cách, khiến hai bên không thể tiến gần lại với nhau. Y cảm thấy hơi buồn cười, thấy Lưu Sơ đang hết nhìn mình rồi lại quay sang nhìn mẫu thân, lúng túng không biết phải làm sao. A Kiều, đã nhiều năm trôi qua, nàng đã trưởng thành đến độ này rồi sao? Lạt mềm buộc chặt thì cũng phải có mức độ chứ, nếu quá đi thì sẽ lại thành trồng nứa ra lau.
Y dò hỏi, “Nhiều năm không gặp, bây giờ thấy giao tình giữa A Kiều tỷ và Lăng Nhi tốt lên, thật đáng mừng nhỉ?” Năm xưa trong biệt viện của Hoài Nam vương ở phía đông thành Trường An, y gọi một tiếng Lăng Nhi, khi xoay người, lại nhìn thấy A Kiều đứng ở ngoài viện, khuôn mặt trắng bệch như tuyết. Một chút áy náy của y nếu có thì cũng như mây khói tiêu tan mất trước cơn tức giận trách than của A Kiều. Lúc đó, nàng là con gái của Trưởng công chúa Quán Đào, cháu gái ngoại yêu nhất của Đậu thái hậu, còn y chỉ là một hoàng đế mới lên ngôi chưa có thực quyền. Nhưng một người như y làm sao có thể chịu đựng bị người khác kiềm chế, khuất nhục? Vì thế mà y mới thích cô gái có dung nhan và tính cách dịu dàng như Vệ Tử Phu, chán ghét Trần A Kiều kiêu căng ngạo mạn, cho dù vẫn biết thật ra trong lòng nàng rất yêu mình.
Thế rồi có một ngày, nàng không khóc nữa, không gây náo loạn nữa nhưng nàng đứng yên lặng ở đó lạnh nhạt với y, giữ lễ mà lại xa cách…Dường như tất cả những gì trong quá khứ của hai người chỉ là khoảnh khắc nhất thời, thậm chí nàng cùng với người con gái có tình tỷ muội nhưng từng quan hệ tình ái với phu quân của mình trong chớp mắt đã coi y như người xa lạ. Nếu như có thể thừa nhận, thì giờ khắc này thật sự trong lòng y có một loại cảm giác gọi là ‘lòng dạ rối bời’. Bởi vì chính y đã ruồng bỏ nàng trước.
Trần A Kiều vẫn nhẹ nhàng, “Duyên phận của con người rất kỳ lạ. Năm xưa thϊếp cũng không thể tưởng tượng đến.” Nàng cúi đầu bảo con, “Mạch Nhi, con dẫn Tảo Tảo ra ngoài tìm dì Lăng chơi.”
Lưu Mạch lo lắng nhìn mẹ rồi quay người dẫn Lưu Sơ ra khỏi điện Bát Nhã. Lưu Triệt nhìn điện Bát Nhã trong nháy mắt chỉ còn lại có hai người khẽ ngâm ngợi: “‘Đời người như lúc mới gặp nhau’, A Kiều tỷ, nàng oán trẫm sao?”
“Sấm sét hay mưa móc đều là ơn vua.” Nàng quay đầu nhìn thẳng vào mắt y gằn từng chữ, “Cho nên, thϊếp không oán.”
“Nếu như A Kiều tỷ năm đó cũng có thể nghĩ được như vậy thì chắc là chúng ta sẽ không đi đến nước này đâu nhỉ?” Lưu Triệt hỏi khẽ, quay đầu nhìn sang chỗ khác.
“Triệt Nhi!” Trần A Kiều không phải là không hiểu, nếu muốn đẩy y xa cách thì có quá nhiều cách, hoặc là kiêu ngạo ngất trời giống như lúc trước, hoặc là rụt rè khép nép, thế nhưng… nàng nhìn Lưu Triệt cảm thấy người đàn ông này vừa xa lạ lại vừa thân thiết. Nàng đồng thời có cả linh hồn của Hàn Nhạn Thanh và Trần A Kiều nên không thể nào sắm vai ngu xuẩn như trước kia. Lần đầu tiên gặp mặt Lưu Triệt kể từ khi sống lại, cảm xúc lẫn lộn giữa yêu thương ngập tràn và oán hận đồng thời dấy lên khiến nàng có một khao khát được phơi bày sự thực trần trụi trước mặt y, khiến cho y phải kinh ngạc, khiến cho y phải hối hận, cho dù làm cho y tổn thương một mà bản thân mình có phải trả giá lớn gấp ba lần, nàng cũng cam lòng. Dường như chỉ có như thế mới an ủi được Trần A Kiều đã thiệt thòi yêu thương đơn phương suốt bao năm.
“Cho dù không còn tình phu thê thì chúng ta vẫn còn là biểu tỷ và đệ đệ. Vì điểm này, Hoàng thượng hãy để cho thϊếp được gọi mấy tiếng Triệt Nhi, nhưng từ sau hôm nay trở đi thϊếp sẽ không bao giờ gọi nữa.” Nàng cười trào phúng, lạnh lùng nhìn y, “Nếu năm đó thϊếp có đủ dịu dàng hay lễ độ thì chúng ta sẽ không đi đến bước này thật sao?”
“Trong mắt A Kiều trước kia chỉ có một mình người, nàng vì người thậm chí có thể làm trái ý mẫu thân ở một mức độ nào đó. Nếu người chịu khó tâm sự với nàng thì chưa chắc nàng đã không chịu giúp người, giúp người ngăn chặn bên ngoại Trần gia, giúp người lấy lại những thứ người muốn. Chỉ cần người chịu yêu thương nàng. Được rồi, người không chịu cũng được, nhưng sao người lại có thể vừa lợi dụng nàng vừa lạnh lùng nhìn nàng cười nói, khi không còn lợi dụng được nữa thì lập tức ban ra một đạo chiếu thư phế bỏ luôn nàng?” Trần A Kiều nheo mắt, giọng nói lạnh băng, dường như động tới người bên cạnh thì không thể nào áp chế được tâm tình.
“Tất cả mọi người đều nói rằng A Kiều tỷ trở về lần này thông minh hơn trước kia.” Nàng lờ mờ thấy Lưu Triệt đang nhếch miệng, nói vẻ châm chọc lẫn khinh miệt, “Nhưng trong bản chất, A Kiều tỷ vẫn là người đơn giản như vậy.”
Lửa giận bốc lên, nàng cố gắng kiềm chế để không bốc đồng cào cấu y như trong quá khứ mà chỉ đáp: “Những năm thϊếp ở bên ngoài đã nghe thấy mọi người truyền tụng một bài thơ, còn chưa đọc xong thì đã rơi nước mắt.”
“Thế à?”
“Không biết Triệt Nhi đã từng được nghe hay chưa?”
“Vua Hán chuộng A Kiều, xây cung vàng khóa chặt
Tiếng ho động trời xanh, vui bảo là tiếng nhạc
Nuông quá làm thương hết, ghen nhiều khiến tình tan
Trường Môn một bước ngang, xe không buồn ghé tới
Mưa nào ngược lên trời, nước đổ rồi khó hốt
Tình chàng và ý thϊếp, chia hai ngả tây đông.
Xưa là đóa phù dung, nay thành cỏ đứt rễ
Sắc mê người có thể, được bao sâu, bao lâu…”
Nàng ngâm nga từng câu từng chữ, nhìn phản ứng của Lưu Triệt, “Khi đó thϊếp liền thề với lòng mình là sẽ không bao giờ để phải bi thảm như vậy nữa, tự mình hại mình còn bị người khác chê cười.”
“Triệt Nhi, người tự vấn lòng xem trong suốt bao nhiêu năm qua người đã từng dừng xe trước cung Trường Môn lấy một lần hay chưa. Vậy thì hôm nay có quay đầu lại cũng đã muộn rồi.”
“Trước kia, A Kiều vẫn nghĩ, Vệ Tử Phu có gì tốt khiến người nhẫn tâm ruồng bỏ biểu tỷ thanh mai trúc mã của mình, tình nguyện chịu thiệt ở với một ca cơ hèn mọn? Sau này nàng hiểu, đàn ông đã phụ bạc thì đâu cần phải có lý do gì, huống chi còn có quá nhiều suy tính chính trị bên trong đó. Chỗ tốt của cô ta chẳng qua là biết đúng mực. Bản tính của Hoàng thượng quá lạnh lùng, chưa từng có một cô gái nào khiến người thực sự yêu thương. Vì thế thϊếp đành buông bỏ. Một A Kiều quá yếu ớt không thể gánh chịu nhiều áp lực như vậy, dứt khoát không làm được. Hiện giờ thϊếp cũng đã có thể làm một người biết đúng mực, sẽ an phận thủ thường ở cung Trường Môn, không làm ra chuyện mất thân phận hoàng gia, chỉ cần người vĩnh viễn đừng dừng xe trước cung Trường Môn nữa. Lúc trước đã không dừng thì sau này vĩnh viễn cũng không cần dừng.”
Lưu Triệt nhìn người con gái đối diện đang dõi ánh mắt đau thương nhìn về phía mình, bỗng nhiên có cảm giác tê tái, trong lòng mờ mịt như đã vĩnh viễn đánh mất đi một thứ gì đó khiến y vô cùng đau đớn nhưng không thể nào cứu vãn được nữa, cho dù y đã từng vứt bỏ nó như một chiếc dép hỏng.
“Triệt Nhi, người là hoàng đế, cũng là phu quân của một nữ nhi. Rất nhiều năm sau, A Kiều mới nhận ra rằng thuở trước nàng đã quá ngu ngốc chỉ nghĩ người là trượng phu của nàng mà không nhìn thấy thân phận hoàng đế của người nên mới chọc giận người. Thế nhưng người cũng đã phá đi hình ảnh trượng phu trong mắt nàng nên từ nay về sau nàng chỉ có thể xem người là Hoàng thượng đương triều, ngoài ra chỉ là người xa lạ.”
Nàng cúi đầu nói khẽ: “Chúng ta nên như khi sáu tuổi hồi trước, người không biết trên đời có thϊếp, thϊếp không biết trên đời có người, như vậy chẳng phải rất tốt sao? ‘Đời người nếu mãi như vừa gặp’, thật ra thϊếp thích câu ‘Gặp nhau chẳng bằng không gặp’ hơn. Đã không gặp nhau thì sao còn có chuyện thương tâm ngày hôm nay.” Giọng của nàng lãnh đạm, nghe như một lời ai điếu.
“Hai người ở chung nhất định sẽ có một người bị tổn thương, dĩ nhiên là người đã không quan tâm đến thϊếp thì thϊếp cũng không nhớ tới người. Người thắng thϊếp thua, được làm vua thua làm giặc, đã dám đánh cuộc thì phải chấp nhận thắng thua.”
Đó là nỗi oán hận của Trần A Kiều mà cũng là nhận thức của Hàn Nhạn Thanh. Dù thế nào thì Trần A Kiều cũng cảm thấy nên có một cách xử trí, một cái kết cho cuộc tình duyên này. Nàng không muốn tranh đấu với một đám nữ nhân trong nội cung hiểm ác, tình nguyện bày tỏ tất cả tâm sự của mình để dù có chịu tai họa ngập đầu thì cũng không thẹn với lòng.
“A Kiều, nàng say rồi.” Nàng cảm giác như Lưu Triệt vừa đứng dậy, bước tới, “Có lẽ những gì nàng vừa nói đều là đúng nhưng nàng dựa vào cái gì để nhận định rằng trẫm sẽ làm theo ý của nàng?” Giọng nói trầm thấp quen thuộc vang lên bên tai khiến cả người nàng cứng ngắc. Nàng còn chưa kip phản ứng thì Lưu Triệt đã chắp tay đi ra khỏi điện Bát Nhã.
Nửa sau năm Nguyên Sóc thứ sáu, phế hậu Trần A Kiều dẫn Hoàng tử trưởng Lưu Mạch trở về đế đô Trường An, Hoàng thượng ban cho về ở Trường Môn gây sự chú ý của mọi người. Tháng Chín năm Nguyên Sóc thứ sáu, Hoàng thượng đến Trường Môn, khi ra về không vui. Mọi người thấy A Kiều không được Thánh thượng sủng ái lần nữa thì hết sức lo lắng.Quyển 2 - Chương 28: Luyện cưỡi ngựa bắn cung cũng nổi phong baĐiện Tuyên Thất.
“Hoàng thượng, Đại Hán chúng ta mấy lần đại chiến với Hung Nô, mặc dù chiếm thế thượng phong nhưng không hoàn toàn tiêu trừ được hậu họa, lần này chúng vẫn…”, Hoắc Khứ Bệnh chỉ vào hành lang Hà Tây trên bản đồ quân sự, “uy hϊếp bên sườn chúng ta. Khứ Bệnh thiết nghĩ trong vòng vài năm tới cần phải tiến hành thêm một cuộc chiến với Hung Nô, đánh đuổi hoàn toàn chúng khỏi hành lang Hà Tây.”
“Vậy à”, Lưu Triệt lật tờ công văn trong tay nói, “Dạo này Khứ Bệnh nghiện đánh giặc rồi?”
“Những gì thần nói đều là thật.” Thiếu niên không phục đáp, “Hoàng thượng cũng không thích có một con cọp ở bên cạnh có thể cắn chúng ta bất cứ lúc nào phải không ạ?”
“Trước hết khanh hãy rèn luyện Phiêu kỵ binh của mình đi đã. Nếu có thể hơn được Khâu Trạch kỵ của Liễu Duệ thì trẫm sẽ cho khanh cầm quân trong lần xuất binh đánh Hung Nô sắp tới.”
“Hoàng thượng!” Hoắc Khứ Bệnh cười lộ hàm ràng trắng bóng, “Huấn luyện phiêu kỵ cần phải có thời gian, thần rất bội phục Liễu tướng quân, Hoàng thượng cho thần và Liễu tướng quân so tài một trận. Nếu thần thắng, Hoàng thượng sẽ ban thưởng như vừa mới hứa có được không?”
“Được!” Lưu Triệt rốt cuộc vẫn còn máu nóng của tuổi trẻ nên cũng khá hăng hái, “Dương Đắc Ý tuyên Trường Bình hầu Vệ Thanh và Trường Tín hầu Liễu Duệ vào cung.”
Dương Đắc Ý tiến lên bẩm, “Hoàng thượng quên mất là trước đây đi phân công Trường Tín hầu dạy Hoàng tử trưởng Lưu Mạch công phu cưỡi ngựa bắn cung, vậy nên Liễu hầu lúc này vẫn còn ở Bác Vọng hiên.”
Vị Tam hoàng tử Lưu Hoành còn quá nhỏ, hiện giờ chỉ có Hoàng tử trưởng Lưu Mạch và Nhị hoàng tử Lưu Cứ đến Bác Vọng hiên học tập.
“Vậy sao?” Lưu Triệt suy nghĩ một thoáng rồi cũng không để ý “Vậy bảo cả hai hoàng tử cùng tới đây.”
“Dạ”, Dương Đắc Ý khom ngươi lui ra.
Lưu Triệt dẫn Hoắc Khứ Bệnh tới thao trường cưỡi ngựa bắn cung trong cung Vị Ương, Trường Tín hầu Liễu Duệ và hai vị hoàng tử đã chờ sẵn ở đó, ngoài ra còn có cả Công chúa Duyệt Trữ Lưu Sơ không rời xa ca ca lấy một bước. Lát sau, Trường Bình hầu Vệ Thanh cũng chạy tới. Hắn nhìn Liễu Duệ đứng giữa thao trường mỉm cười mà lòng bồi hồi bởi năm đó Liễu Duệ bắt đầu phất lên cũng chính từ thao trường cưỡi ngựa bắn cung này. Hắn nhìn hai đứa trẻ trạc tuổi nhau đứng trước Liễu Duệ, một đứa là cháu ngoại hắn, còn đứa kia… Hắn nheo mắt lại nhìn những vết tím bầm hằn lên trên người Lưu Mạch, không rõ là do bị người của cung Vị Ương ngược đãi hay là do Trần gia cố ý lấy hình dáng này xuất hiện trước mặt Thánh thượng nhằm đạt được một mục đích gì đó? Nhưng nếu là như vậy thì tại sao lại không thấy Công chúa Duyệt Trữ, với tính cách không hề biết kiêng nể, có dấu hiệu nổi giận hay bảo vệ? Nhìn kỹ lại thấy không đúng, người khác thì không nói làm gì, nhưng ngay đến Lưu Cứ cũng nhìn về phía ngươi anh cùng cha khác mẹ của mình với ánh mắt có vẻ kính sợ.
“Trọng Khanh đã tới rồi.” Lưu Triệt tỏ vẻ mặt như thường không hề biểu lộ một dấu hiệu gì, nói giọng đều đều, “Khứ Bệnh muốn khiêu chiến Trường Tín hầu, khanh là cậu thì thấy thế nào?”
“Khứ Bệnh trẻ người non dạ, không biết nặng nhẹ nhưng nghé con đâu biết sợ hổ chứ? Nếu Liễu tướng quân nguyện ý chỉ giáo cho một chút thì Trọng Khanh cảm kích khôn cùng.” Vệ Thanh chắp tay cười nói ôn hòa.
“Suốt ngày đánh đánh gϊếŧ gϊếŧ thì có ra gì đâu”, Lưu Sơ kéo tay ca ca, bĩu môi nói.
“Ái” Lưu Mạch co tay lại, Lưu Sơ lập tức buông ra và nói: “Ca ca đau à, để muội thổi cho.” Cô bé không quên lườm Liễu Duệ. Liễu Duệ trông thấy rõ ràng, bật cười nói, “Con trai bị đau một chút có là cái gì? Năm xưa ta tập luyện lăn lê bò toài còn bị thương nghiêm trọng hơn nhiều. Người khác thì không biết chứ chính mẫu thân và dì Lăng của cháu năm xưa cũng bị huấn luyện khổ cực hơn nhiều các cháu bây giờ.”
“Nói bậy!”, Lưu Sơ trừng mắt nhìn hắn, “Mẫu thân và dì Lăng trước kia có thân phận gì mà phải luyện cưỡi ngựa bắn cung chứ?”
“Thôi nào”, Lưu Mạch an ủi muội muội, “Không đau lắm đâu. Lúc trở về mẫu thân trông thấy sẽ rất đau lòng, muội không được đổ dầu vào lửa đấy.”
“Đau lòng thì sao, không phải là ngày mai mẫu thân sẽ lại bắt ca ca ra ngoài à?”
Vệ Thanh và Hoắc Khứ Bệnh đưa mắt nhìn nhau, cùng hiểu rằng những vết bầm trên người Lưu Mạch đều là do luyện tập cưỡi ngựa bắn cung bị ngã mà có. Xem ra Liễu Duệ tuy là nghĩa huynh của Trần A Kiều, cháu ngoại lại có thân phận tôn quý nhưng cũng không quá thương xót. Thậm chí bản thân Trần A Kiều là mẫu thân nhưng cũng bỏ mặc đứa con cơ hồ là bùa bộ mạng của cả gia tộc họ Trần phải chịu khổ như vậy. Cũng may Lưu Mạch là một đứa trẻ có hiểu biết, nếu không chắc sẽ oán trách muốn chết. Hoắc Khứ Bệnh thở dài, thầm nén nỗi thất vọng mơ hồ đối với đứa em họ Lưu Cứ của mình. Lưu Cứ cũng được gia tộc họ Vệ coi là vận mệnh nhưng từ nhỏ đến lớn luôn được nuông chiều, được mẫu thân giữ rịt, nâng niu trong lòng bàn tay sợ té ngã. Nếu đứa trẻ như vậy sau này trở thành hoàng đế Đại Hán… Hắn lắc đầu dù sao cũng là em họ của mình nên cũng không thể thật sự hoàn toàn bỏ mặc được.
“Nhưng Công chúa Duyệt Trữ nói cũng có phần đúng.” Liễu Duệ ngẩng đầu nói, “Tranh đấu cá nhân chỉ là cái dũng của kẻ thất phu, đối với quân nhân như chúng ta thì thật ra thắng cũng không đáng để huênh hoang.”
“Ừm”, Vệ Thanh gật đầu, “Liễu tướng quân nói cũng có lý, quân nhân có cái gì phải so đo chứ?”
“Hoàng thượng”, Liễu Duệ xoay người bái lạy nói, “Nếu Hoàng thượng cho phép thần sẽ đấu chiến thuật với Hoắc tiểu giáo úy có được không?”
“Các khanh đều có hứng thú, trẫm sẽ đứng bên xem cuộc chiến nhé.” Lưu Triệt khoanh tay, xoay người lại nói, “Khứ Bệnh, nếu khanh thắng thì lời hứa của trẫm vẫn có hiệu lực.”
Hoắc Khứ Bệnh nóng lòng muốn thử sức, bèn hỏi, “Phương pháp thi đấu như thế nào?”
Liễu Duệ mỉm cười, gọi một nội thị tới căn dặn mấy câu. Nội thị gật đầu chỉ lát sau đã bê một chiếc mâm đựng rất nhiều đất cát trở lại.
Lưu Sơ cúi xuống bên cạnh Liễu Duệ, le lưỡi trêu chọc, “Xấu mặt chưa. Liễu bá bá lớn thế rồi vẫn còn nghịch đất sao?”
Liễu Duệ trong phút chốc nổi xung lên muốn gõ cho cô bé một cái vào đầu nhưng thấy Lưu Triệt ánh mắt lấp lánh đang nhìn mình chằm chằm thì cuối cùng cũng kiềm chế lại. Liễu Duệ đắp đất cát trong mâm thành địa thế hành lang Hà Tây, chưa đắp xong đã nghe Hoắc Khứ Bệnh “ồ” lên một tiếng thì hiểu rằng Khứ Bệnh đã nhìn ra. Hắn ngẩng đầu lên thì thấy Hoắc Khứ Bệnh hai mắt sáng ngời, nói, “Phương pháp này cũng hay, thoáng trông cũng biết là hành quân đánh giặc.”
Lưu Triệt và Vệ Thanh trong phút chốc cũng hiểu ra. Lưu Triệt nhìn về phía Liễu Duệ với ánh mắt đầy suy tư. Y liếc mắt nhìn ba con. Lưu Mạch đang nhìn sa bàn, khẽ mỉm cười như có thu hoạch còn Lưu Cứ và Lưu Sơ thì chỉ ngơ ngác nhìn nhau.
Liễu Duệ lấy vài lá cờ cắm xuống đánh dấu địa hình và binh lực của hai bên rồi giải thích, “Đây là bản đồ địa hình hành lang Hà Tây. Nếu cuộc chiến Hán Hung lại xảy ra thì trước tiên tất phải ở nơi này. Hoắc tiểu tướng quân, ta và ngươi chia làm hai bên, ngươi nắm quyền thống soái của Đại Hán, ta tạm giả làm quân đội Hung Nô, chúng ta diễn luyện một trận trên sa bàn.”
Hoắc Khứ Bệnh thốt lên một tiếng “Được”, rồi nhổ lá cờ của mình lên, đột nhiên từ Ô Sao Lĩnh tập kích hành lang Hà Tây. Liễu Duệ chia một vạn người ra chặn đường. Quân đội hai bên gặp nhau ở dưới chân núi Yên Chi.
“Nếu ta hành quân với tốc độ rất nhanh”, Hoắc Khứ Bệnh xoa xoa cằm nói, “thì hoàn toàn có thể tới đó trước khi Hung Nô kịp phản ứng.” Hắn chỉ vào Cao Lan ở cách núi Yên Chi hơn nghìn dặm, “Chuyện thắng hay bại trong ác chiến với Hung Nô phụ thuộc vào quân số, quân ta lại đông hơn nhiều.”
Liễu Duệ cười vang thưởng thức, quả nhiên là danh tướng thiên tài Hoắc Khứ Bệnh. Hắn nói “Chiến thuật người Hung Nô am hiểu chẳng qua là luồn sâu tập kích. Nếu quân Hán mạnh hơn bọn chúng ở điểm này thì lo gì Hung Nô không bị tiêu diệt.”
“Đúng thật là vậy” Hoắc Khứ Bệnh đáp xoay người lại bẩm, “Hoàng thượng, cuộc tỷ thí này giữa thần và Liễu tướng quân coi như là hòa thôi.”
“Tất nhiên là Hoắc phiêu kỵ thắng”, Liễu Duệ mỉm cười, “Làm sao Hung Nô có thể chống được Đại Hán chúng ta chứ?” Hắn nói hàm nghĩa sâu xa.
“Khứ Bệnh, chuyện trẫm đã đáp ứng cho khanh thì tất sẽ không nuốt lời.” Lưu Triệt nhìn Liễu Duệ nói, “Suy nghĩ của Liễu khanh về chiến tranh quả thật là không thể kể hết.”
“Đó chẳng qua là trách nhiệm của tiểu thần.” Liễu Duệ cúi đầu đáp.
Lưu Triệt quay sang nhìn hai đứa con trai của mình và hỏi, “Không biết công phu cưỡi ngựa bắn cung của hai vị hoàng tử như thế nào rồi?”
“Cứ điện hạ không phải là do vi thần đích thân dạy nên vi thần không dám nói bừa.” Liễu Duệ mỉm cười nói, “Về phần Mạch điện hạ”, hắn liếc mắt nhìn Lưu Mạch một cái rồi nói tiếp, “vi thần dám khẳng định là đã đạt yêu cầu rồi.”
“Liễu khanh muốn được ban thưởng gì không?”
“Việc này…”, Liễu Duệ lưỡng lự, “Những việc vi thần làm đều nằm trong bổn phận trách nhiệm nên không dám kể công. Nhưng Hoàng thượng đã nói vậy thì vi thần cũng cả gan cầu xin.” Hắn nói, “Vi thần và Đại tư nông Tang Hoằng Dương đại nhân, Trần nương nương và Trưởng công chúa Phi Nguyệt có tình cảm kết nghĩa anh em. Thần khẩn cầu Hoàng thượng chấp thuận cho thần và Tang đại nhân được đến Trường Môn yết kiến một lần.”
Một lúc lâu không nghe thấy Lưu Triệt đáp lời, Liễu Duệ khẽ liếc thì thấy vẻ mặt y cực kỳ âm trầm, đột nhiên y lên tiếng, “Trẫm tạm thời không hỏi đến tình nghĩa giữa các khanh ở bên ngoài, nhưng trẫm vẫn muốn biết…”, y nheo mắt, “Liễu Duệ, khanh thì không sao nhưng trẫm nhớ rằng Tang Hoằng Dương còn nhỏ hơn trẫm một tuổi thì làm sao có thể xưng huynh gọi muội với tỷ tỷ A Kiều của trẫm?”
Liễu Duệ ấp úng giờ mới phát hiện thấy chỗ sơ hở từ mình. Vì bọn họ đều coi A Kiều hiện tại là Hàn Nhạn hiện đại nên theo thói quen vẫn thường xem nàng là tiểu muội muội. Dù sao lúc xảy ra chuyện vào năm đó thì Hàn Nhạn Thanh và Quý Đan Tạp đều chỉ là những nữ sinh mới hai mươi tuổi, coi là những đứa trẻ lớn vừa mới tốt nghiệp trường cảnh sát. Tuy nhiên họ lại quên Trần A Kiều đã hai mươi tám tuổi. Hiện giờ sau khi trải qua bảy năm ở thế giới này, tuổi thực của Trần A Kiều đã là ba mươi lăm.
Hắn rùng mình, nghĩ rằng nếu nhắc tới số tuổi của A Kiều trước mặt nàng thì chắc nàng sẽ phát điên lên mất. Phụ nữ từ xưa đến nay đều giống nhau ở điểm này, chẳng thể nào chịu được việc mình đột nhiên bị mất đi tám năm đẹp nhất của đời người. Hơn nữa, nhìn nàng căn bản không giống người ở độ tuổi đó.
“Lúc Trần nương nương lưu lạc ở chốn dân gian, có lẽ vì sợ bị truy sát nên cũng không nói tuổi thật, hơn nữa nhìn dung nhan của Trần nương nương không thể đoán ra tuổi nên Tang Hoằng Dương mới ngộ nhận là nghĩa muội. Dù hôm nay biết rồi nhưng thói quen nhất thời chưa bỏ được. Bệ hạ đã nhắc nhở, vi thần trở về sẽ nói lại cho Tang Hoằng Dương biết để cư xử như tỷ đệ mới đúng”, hắn khom người bẩm, đang nghĩ tới bộ dạng Tang Hoằng Dương và Trần A Kiều gầm gừ, với nhau thì đã nghe Lưu Triệt cười phá lên, “Vào lúc này thì các khanh cũng không tìm thấy được nàng đâu.”
“Đa tạ Hoàng thượng.” Lúc Liễu Duệ khấu tạ, hoàn toàn không biết hiện giờ Trần A Kiều đã không còn ở trong cung Trường Môn mà đã xuất hành ra ngoài cùng với Lưu Lăng.
Phủ Mạt Lăng hầu.
Lúc phu nhân Kim Nga của Đan Dương hầu nghe thấy người hầu vào báo là Phi Nguyệt Trưởng công chúa Lưu Lăng trở về phủ thì nhíu mày vẻ kỳ lạ nhưng vẫn không giấu nổi vui mừng. Bản thân Kim Nga dù không có huyết thống hoàng gia nhưng ngoại tổ mẫu[1] lại là đương kim Vương thái hậu nên cũng xem là cháu ngoại gái của Hoàng thượng.
[1] Ngoại tổ mẫu: Bà ngoại.
Nói đến thân thế của nàng ta thì phải nói lại chuyện riêng tư của Vương thái hậu lúc còn trẻ.
Vương thái hậu trước khi tiến nhập phủ của Hoàng đế từng được gả cho một nhà họ Kim, vợ chồng hòa thuận, sinh ra một người con gái, sau này chính là Tu Thành quân. Đoạn ẩn tình được giấu giếm rất lâu cho đến khi Hán Vũ Đế lúc tuổi còn trẻ nghe được, đích thân ngự giá đi đón người tỷ tỷ khác cha của mình về. Lúc đó người tỷ tỷ này nghĩ sẽ khó giữ được mạng, vô cùng lo sợ. Sau khi trở về Trường An thì nhận phong Tu Thành quân, được Hoàng thượng đối xử tử tế. Thái hậu tự thấy mình mắc nợ nên cực kỳ yêu thương, thậm chí còn sủng ái Kim Nga, đứa cháu ngoại của mình hơn cả quận chúa của các chư hầu. Tuy nhiên cũng vì thế mà thân phận ba mẹ con, bà cháu họ lại rất khó xử. Thái hậu muốn cho con gái yêu tìm được một chỗ dựa nên không câu nệ lễ nghi vai vế gả cháu gái Kim Nga cho thái tử Lưu Thiên của nước Hoài Nam trước kia để lỡ có chuyện gì thì Hoài Nam vương còn có thể đủ sức bảo đảm cho cả nhà Tu Thành quân an khang.
Những việc này đều là lịch sử chân thật trước kia nhưng vì có Lưu Lăng tham dự mà ngoặt sang một hướng khác. Trong lịch sử, Hoài Nam vương Lưu An sợ Kim Nga là mật thám do Hoàng thượng và Thái hậu phái tới Hoài Nam nên bảo Lưu Thiên không được quá thân mật. Lưu Thiên tuân lời, chung sống ba tháng mà không chịu vào phòng. Kim Nga không chịu nổi nhục nhã, tự yêu cầu ra đi.
Lun Thiên, Lưu Lăng là anh em cùng mẹ, tình cảm rất tốt. Nói công bằng thì Lưu Thiên dù có tác phong nhu nhược, tính tình hà khắc nhưng với phong độ của con cháu chư hầu thì cũng có thể coi là một công tư tốt. Kim Nga vừa gặp đã xiêu lòng, lại có nàng em chồng Lưu Lăng đối xử thân thiện, ra sức làm cầu nối giữa hai bên nên dù Lưu Thiên đã có hai ngưòi thϊếp trước khi thành thân với Kim Nga nhưng vợ chồng vẫn hòa thuận. Kim Nga cảm ân đức của Lưu Lăng nên quan hệ giữa hai người chị dâu em chồng này rất gắn bó.
Vào năm Nguyên Sóc thứ sáu, sau khi Giao Đông làm phản, bố chồng Lưu An xin từ bỏ phong hiệu Hoài Nam vương, Hoàng thượng cuối cùng đồng ý, cho Lưu An làm Mạt Lăng hầu, phu quân Lưu Thiên làm Đan Dương hầu, em trai Lưu Bất Hại ở cùng với cha tại phủ Mạt Lăng hầu, thánh ân nồng hậu. Tuy nhiên, Kim Nga bị mất địa vị vương phi Hoài Nam trong tương lai nên cũng oán thán một hồi khiến Vương thái hậu phải phái người tới khuyên giải thì mới nguôi ngoai. Dù sao nếu cuối cùng có một ngày vị cữu cữu làm hoàng đế đối địch với phu quân và bố chồng thì ở giữa nàng ta sẽ rất khó xác định lập trường. Huống chi có thể trở về Trường An, được thường xuyên gặp gỡ với mẫu thân và huynh đệ thì Kim Nga cũng cảm thấy được an ủi rồi.
Kim Nga mỉm cười ra ngoài nghênh đón, “Lăng muội muội vẫn còn nhớ về thăm nhà cơ đấy. Mấy ngày trước phu quân và công công nói chuyện với nhau có nhắc tới muội muội, nói muội muội quên chúng ta rồi.” Lưu Lăng nhìn một vòng trong phòng rồi lại quay lại cười tươi tắn. Theo hầu bên cạnh nàng chính là người thị nữ được sinh ra trong phủ, tên gọi là Di Khương và còn có một thiếu niên mặc đồ trắng. Tuy nói là thiếu niên nhưng làn da như tuyết, dung nhan như hoa, còn xâu cả lỗ tai, chắc là nữ nhân tuyệt sắc cải trang. Y phục của người này hết sức sang trọng, dĩ nhiên không phải người thường.
“Thì ra là đây chính là Nga Nhi à.” Cô gái nhìn qua đánh giá Kim Nga, “Nhã nhặn trầm tĩnh, dung nhan xinh đẹp, quả nhiên có phong thái của Thái hậu khi còn trẻ. Nhìn kỹ càng không giống là cháu ngoại của Thái hậu mà phải là cháu nội thì đúng hơn.”
Kim Nga đỏ bừng mặt, trong lòng tự dưng có cảm tình, dè dặt hỏi, “Vị này là?”
“Nga Nhi mặc dù chưa từng gặp ta nhưng chắc đã nghe qua.” Ánh mắt cô gái thoáng hiện vẻ xa vắng, thoạt nhìn vô cùng xinh đẹp “Ta tên là Trần A Kiều.”
“Thì ra là…”, Kim Nga kinh hãi nhưng đã kịp thời trấn tĩnh lại. Sau khi nàng ta gặp Hoàng thượng thì vẫn luôn gọi là cữu cữu như được dặn dò. Mẹ con nàng ta được đón về hoàng gia trong những năm Nguyên Sóc, Trần hoàng hậu đã bị phế nên nàng ta chưa từng gặp mặt A Kiều. Tuy nhiên làm sao Kim Nga lại có thể chưa từng nghe tích Kim ốc tàng Kiều được chứ? Khi còn bé, nàng ta ở cùng với mẫu thân thủ tiết, chứng kiến cảnh mẫu thân rơi lệ cả đêm, rõ ràng có người thân tôn quý nhất thiên hạ nhưng lại không thể công khai thừa nhận. Vào năm A Kiều bị phế, mẫu thân cũng rơi lệ, nói người cùng cảnh thì thương nhau, hai người đều giống nhau.
Thế nhưng về sau Hoàng thượng tự mình đến Kim gia đón ba mẹ con nàng ta về, lòng nàng ta liền nghiêng về cữu cữu mình, nghĩ chắc là cô gái này kiêu căng ngang ngược như trong lời đồn mới khiến cho cữu cữu mình không chịu được mà phải phế đi. Nàng ta cũng đã được gặp Vệ Tử Phu ngồi trên ngai vị hoàng hậu hôm nay, thấy đó là một cô gái xinh đẹp dịu dàng dễ mến, đối xử với mình như với người thân thiết bên cạnh.
“Nga Nhi đã là tỷ muội với Lăng Nhi nên chúng ta cũng không cần giữ lễ tiết, cứ gọi ta một tiếng tỷ tỷ đi”, A Kiều lên tiếng khỏa lấp không khí lúng túng, tinh nghịch thè lưỡi, “Gọi như bình thường xem như ta già lắm rồi, thật không vui.”
“Nga Nhi không dám”, Kim Nga thi lễ, “Sao Trần nương nương lại xuất cung?”
“Lén chạy ra ngoài đấy chứ”, Lưu Lăng nháy mắt, làm bộ sợ hãi, “Tẩu tẩu, tẩu đừng tố cáo với vị cữu cữu hoàng đế kia của tẩu đấy nhé.” Nói xong không đợi Kim Nga lên tiếng đã hỏi tiếp, “Phụ thân và ca ca đâu?”
Đại tư nông Tang đại nhân mở tiệc lớn đón khách, phụ thân, tướng công và Bất Hại đều đi cả rồi.” Kim Nga trả lời “Chỉ có Thiến Nhi ở nhà với mẫu thân.”
Lưu Lăng nắm tay Trần A Kiều, “A Kiều tỷ tỷ theo muội đi gặp mẫu thân nào”, rồi không để Trần A Kiều kịp nói gì thêm đã kéo nàng vào trong. Kim Nga nhìn theo bóng lưng hai người hồi lâu vẫn không thể hiểu nổi. Nàng ta vốn đã nghe chuyện giữa cô em chồng và Trần A Kiều nhưng chỉ cười mà coi đó là chuyện đùa, lúc này tận mắt nhìn thấy hai người thân thiết đến mức chẳng cần giữ lễ tiết thì bất giác không thể tin nổi. Trong gia tộc đế vương còn có tình cảm chân thành này sao?
Trần A Kiều theo Lưu Lăng vào nội viện, đi qua cửa ngách thì thấy một dãy hành lang ngang dọc dẫn tới phòng chính. Các rường, các cột của phòng chính quả nhiên được chạm trổ tráng lệ, phía trên treo một tấm biển viết ba chữ “Lưu Hương cư”, nét bút như rồng bay phượng múa, lạc khoản phía dưới đề là Hoài Nam Lưu An. Trần A Kiều thở dài Lưu An dù có muôn vàn điều không phải nhưng luôn đối xử hết sức chu đáo với người vợ kết tóc xe tơ của mình. Quý tính của Đồ vương phi chẳng phải bắt đầu từ chữ “Hương” sao?
Đồ phu nhân của Mạt Lăng hầu đã có tuổi nhưng trông dáng ngồi phong thái thật thùy mị, khi mỉm cười thì khóe mắt hiện lên những nếp nhăn mảnh, cong cong dịu dàng. Ngồi phía dưới là một thiếu nữ mặc đồ xanh ngọc, trông giống Lưu Lăng nhưng không có vẻ cởi mở như nàng mà khép nép dịu dàng như những sợi tơ hồng.
Lưu Thiến trông thấy mấy người đi vào thì vội vàng đứng dậy cúi đầu chào, “Thiến Nhi tham kiến tẩu tẩu, Lăng tỷ tỷ.”
Đồ phu nhân ngồi tại chỗ, cất giọng hiền từ, “Thiến Nhi, ta đã nói với con nhiều lần là người một nhà thì không cần phải khách sáo như vậy.” Bà nhìn sang Lưu Lăng trách yêu, “Con còn biết về đây đấy… Trần nương nương.” Dường như lúc này bà mới nhìn thấy A Kiều, lên tiếng đúng lễ nghi. Đồ phu nhân là vương phi của Hoài Nam vương suốt bao nhiêu năm, vốn có xuất thân thế tộc nên tất nhiên là đã từng gặp Quận chúa Đường Ấp danh chấn Trường An năm xưa.
“Đồ phu nhân!” Trần A Kiều cười ý nhị, “Nhiều năm không gặp, phong thái phu nhân vẫn không khác trước.”
“Dù sao cũng già rồi.” Đồ phu nhân cười xòa, ánh mắt sắc sảo quét qua hai người, “Người trẻ tuổi tự có phúc của người trẻ tuổi, cho dù các ngươi nghĩ gì thì cũng đừng để bản thân phải hối hận về sau.”
“Mẫu thân!” Lưu Lăng dựa sát vào người mẫu thân, hờn dỗi, “Dù thế nào thì con vẫn là con gái ngoan của mẫu thân mà.”
Đồ phu nhân âu yếm khẽ vuốt ve mái tóc của Lưu Lăng.
“Phải rồi, Thiến Nhi!” Lưu Lăng đứng lên nói, thấy Lưu Thiến vội vàng đứng nghiêm thì mấy lần chau mày kín đáo, “Tỷ muội một nhà, không cần đa lễ. Tỷ trả lại nha đầu Di Khương cho muội. Tuổi muội cũng không còn ít nữa, cũng nên tìm một mối hôn sự ở thành Trường An đi.”
Kim Nga che miệng cười, “Muội còn nói Thiến Nhi nữa, bản thân muội chẳng cần gấp hơn sao? Nếu đã có người trong lòng còn không mau gả cho xong?”Quyển 2 - Chương 29: Vợ chồng vốn là chim liền cánhĐang nói chuyện thì bỗng nghe phía ngoài có tì nữ vén rèm lên bẩm, “Phu nhân, Ngũ tiên sinh tới.”
Lưu Thiển khẽ “a” một tiếng rồi ngẩng đầu lên, gương mặt thoáng ửng hồng, mọi người đều thấy rõ và đều ngầm hiểu. Đồ phu nhân liền dặn bảo: “Lão gia chưa về, xin mời Ngũ tiên sinh chờ ở phòng chái đông, hầu hạ thật chu đáo không được chậm trễ.” Tỳ nữ vâng lời, nhẹ nhàng lui ra.
Trần A Kiều, liền đứng dậy cáo từ, “Ta không thể ở lại quá lâu, ta đi về trước đây.” Nàng đưa cặp mắt trong veo như nước hồ thu nhìn Lưu Lăng. Lưu Lăng biết ý cũng đứng dậy, “Mẫu thân, con sẽ lại về thăm”, rồi chỉ vào A Kiều nói, “giờ đưa vị này trở về trước đã.”
Di Khương cũng khom người nói, “Di Khương đa tạ Lăng tiểu thư và Trần nương nương đã chiếu cố suốt mấy ngày qua.” Cô ta chưa nói dứt lời thì mắt đã đỏ mọng lên, cực kỳ lưu luyến không muốn rời xa.
“Ngốc ạ”, Lưu Lăng an ủi, “Di Khương, ngươi chăm sóc nhị tiểu thư cho tốt là ta biết ơn ngươi rồi.”
Trần A Kiều dắt tay Lưu Lăng rời đến chỗ giao giữa trong và ngoài viện thì thấy dưới tàng cây ở cuối hành lang chạy xuyên qua vườn hoa và những tán liễu có một người áo trắng mặt mày điền đạm, khí phách hiên ngang đang quay đầu nhìn lại. Đó chính là Ngũ Bị đứng đầu Hoài Nam bát công ngày xưa.
“Tham kiến Trần nương nương. Tham kiến Trưởng công chúa Phi Nguyệt.”
“Ngũ tiên sinh từ chái đông đến à?”, Lưu Lăng khom người hỏi, thái độ thanh nhã đoan trang
“Ngũ Bị nghe nói Trưởng công chúa Phi Nguyệt trở về phủ nên cố ý chờ ở nơi này.” Ngũ Bị cũng khẽ gật đầu thi lễ. Trần A Kiều quay đầu nói: “Lăng nhi, tỷ đi về trước đây.” Nàng buông tay Lưu Lăng, tươi cười rời đi.
Năm Nguyên Quang thứ năm, Hoàng hậu Trần A Kiều bị bãi về cung Trường môn. Với thân phận phế hậu, nàng cả đời không được rời khỏi cung nếu không có thánh chỉ. Tuy nhiên bảy năm sau, nàng dẫn theo Hoàng tử trưởng và công chúa Duyệt Trữ quay về Trường Môn, Lưu Triệt làm ngơ đồng ý, vì vậy cung Trường Môn dần dần không còn mang ý nghĩa lúc đầu là lãnh cung giam cầm một đời phế hậu. Nhưng giờ thân phận là phi tần, nếu hôm nay không cáo bệnh nằm trong phòng rồi giả làm kẻ hầu đi theo Trưởng công chúa Phi Nguyệt Lưu Lăng thì Trần A Kiều cũng không thể nào ra khỏi Trường Môn được. Nàng cũng không hy vọng giấu được quá lâu nên ra khỏi phủ Mạt Lăng hầu là về cung ngay. Nhân lúc không có Lưu Lăng bên cạnh, nàng đành phải sắm vai một nhân vật có khả năng phi thường vượt nóc. Trần A Kiều học công phu của Triêu Thiên môn, lúc đầu vì hiếu kỳ đối với khinh công nên tập luyện vô cùng chăm chỉ. Đến lúc này thì ngay cả Du hiệp Quách Giải cũng chỉ tương đương với nàng nên chuyện ra vào cửa cung cũng không phải là việc khó. Về đến cung Trường Môn, nàng giật nảy mình khi thấy một nội thị áo xanh đang đứng ở hành lang. Đó là Thượng Vô Câu, vốn thân cận bên thánh giá. Dưới hiên là một hàng người mặt tái nhợt đang quỳ dưới ánh mặt trời chói chang, gồm Lục Y và đám nội thị cung nữ của cung Trường Môn. Nàng chợt thấy lòng trầm xuống, hiểu là đã xảy ra chuyện.
“Trần nương nương!” Thượng Vô Câu cúi đầu hành lễ. Hắn làm ra vẻ như không thấy nàng đang mặc y phục đàn ông. “Hoàng Thượng phái nô tài đưa bốn món châu báu đến cho nương nương. Khi đến mới biết nương nương không ở trong cung. Bọn nô tỳ này lơ là nhiệm vụ không chịu hầu hạ chủ nhân nên Hoàng thượng ra lệnh bắt bọn chúng quỳ một ngày một đêm trước cung Trường Môn rồi tự vào nội đình chịu đánh mười gậy coi như là hình phạt.”
“Do ta muốn xuất cung đó”, Trần A Kiều bình thản, hơi nheo nheo mắt, nhìn ngược ánh mặt trời, phong thái nàng cực kỳ khoan thai tôn quý. Nàng đã làm hoàng hậu bao nhiêu năm nên tự nhiên có một khí thế trang nghiêm bất khả xâm phạm. Thượng Vô Câu không dám nhìn thẳng, bất giác cúi đầu xuống nghe nàng nói tiếp, “Nếu muốn trừng phạt thì trừng phạt ta đi, cần gì phải chấp nhặt bọn họ.”
“Nô tài không có quyền quyết định”, Thượng Vô Vâu nhăn nhó, “Hoàng thượng ở điện Tuyên Thất, nếu nương nương có ý kiến gì thì cứ nói với Hoàng thượng.”
Trần A Kiều nhướng mày, nhìn bọn nô tỳ quỳ thành hàng, gương mặt Lục Y lúc trắng bệch, lúc đỏ bừng, mồ hôi toát ra như tắm, nàng đã giảm bớt khí thế mặc dù không hề muốn. Đám nô tỳ của nàng có thể quỳ đủ một ngày một đêm như làm sao chịu nổi mười gậy? Kiếp trước nàng đã từng nghe những câu chuyện cổ về những nhân vật nữ chính vì mạng sống của những người bên cạnh mà thỏa hiệp hết lần này đến lần khác, vì thế mà từng bước đẩy mình vào chỗ chết. Tuy thế khi chuyện xảy ra với chính bản thân mình thì nàng lại không thể phó mặc. Dù sao đó cũng là những người đã sống với nàng lâu nay, hơn nữa nàng biết nếu mình không chịu lui bước này thì Lưu Triệt có thể sẽ xử trí một cách tàn nhẫn cho dù biết rằng đám cung nhân không có tội.
Nàng cúi đầu suy nghĩ, một khi bước vào điện Tuyên Thất thì đồng nghĩa với việc bản thân đã thua một bước trong cuộc đối đầu với Lưu Triệt, trong khi nàng không hề muốn từ nay về sau sẽ ở thế bị động. Nói cho cùng cũng do nàng quá kiêu ngạo. Nàng cắn răng, vô cùng hối hận. Tại sao mình lại không chịu nổi những ngày tháng đơn điệu ở cung Trường Môn, nghe lời ngon ngọt của Lưu Lăng trông cậy vào sự may mắn sẽ không bị phát hiện chứ?
“Nương nương!” Trong đình viện, tám người liên tục dập đầu xuống đất, “Nô tỳ có lỗi, nô tỳ cam tâm tình nguyện chịu phạt không dám oán hận.”
“Các ngươi”, Trần A Kiều cắn môi nhìn Mạc Ưu quỳ đến bật máu đầu gối, hừ một tiếng, đĩnh đạc đi vào viện Bát Nhã. Mặc dù theo nàng thì việc một mình xuất cung cũng chẳng to tát gì nhưng nàng cũng hiểu rằng ở thời đại này, chỉ với sai lầm đó là có thể bị bãi xuất khỏi chức vị cung phi. Đương nhiên, Lưu Triệt không thể trừng phạt nàng. Một là do nàng đã là phế hậu, hai là nàng còn có chỗ dựa rất mạnh, chỉ cần không chạm nọc Lưu Triệt thì chắc chắn y cũng không muốn xuống tay với nàng, phá vỡ thế thăng bằng vô cùng nhạy cảm lúc này.
“Thế này…” Thượng Vô Câu nhìn Trần A Kiều ôm đệm đi tới chỗ Mạc Ưu, nói: “Quỳ lên đệm đi!”
“Nương nương”, Mạc Ưu sợ hãi nói: “Nô tỳ làm sai thì phải chịu phạt.”
“Hoàng thượng có nói là không được quỳ lên đệm không?” Trần A Kiều nhướng mày hỏi Thượng Vô Câu. Rồi nàng xoay người lại nói: “Do ta làm liên lụy đến các ngươi.”
Nàng đứng lên, nhìn cảnh Mạc Ưu và các cung nhân cảm động đều rơi nước mắt mà trong lòng thấy đau buồn. Rõ ràng nàng làm liên lụy tới bọn họ nhưng bọn họ lại không mảy may oán hận mà còn mang ơn đội nghĩa đối với chút ân huệ của nàng.
Trần A Kiều vào điện thay một bộ cung trang bình thường. Lúc búi tóc, nàng bỗng nổi giận vì Lục Y hàng ngày vẫn chải tóc cho mình giờ lại đang quỳ ở ngoài cung. Nàng chỉ búi một kiểu tóc đơn giản thông thường ở thời hiện đại rồi nghênh ngang ra khỏi Trường Môn, đi về hướng điện Tuyên Thất. Thượng Vô Câu trợn mắt há mồm trông theo.
Điện Tuyên Thất.
“Mạch nhi! Cứ nhi!” Lưu Triệt đi đi lại lại vài bước ở trong điện rồi ngồi xuống hỏi: “Các con đã ở Bác Vọng hiên một thời gian, có tiến bộ gì không?”
“Khởi bẩm phụ hoàng”, Lưu Cứ chắp tay bẩm rất khuôn phép, “Thạch đại nhân và Trang đại nhân đều là bậc đại nho đương thời, nhi thần tự thấy theo học bọn họ được lợi rất nhiều.”
“Ừm”, Lưu Triệt vui vẻ hỏi tiếp, “Còn Mạch Nhi?”
“Thạch đại nhân và Trang đại nhân tất nhiên đều rất giỏi”, Lưu Mạch lưỡng lự một chút rồi nói thêm, “Chỉ là con cảm thấy không thích phong cách giảng bài của họ. Có thể…”
Lưu Cứ đứng bên cạnh khẽ cau mày. Lưu Cứ từ khi ra đời đã được hưởng đãi ngộ ở cung Vị Ương, ngoài Hoàng đế và Thái hậu ra thì không một ai có thể sánh bằng. Lưu Triệt cũng cực kỳ sủng ái nhưng nó vẫn có tâm lý kinh sợ một cách khó tả đối với phụ hoàng. Khi nói chuyện trước mặt Lưu Triệt nó luôn luôn phải cân nhắc câu chữ, sợ làm phụ hoàng nổi giận. Bản thân Lưu Cứ thật sự cũng không quá ác cảm đối với người anh Lưu Mạch mới xuất hiện, nhưng vì mẹ nó rất cảnh giác với người này nên nó cũng có ý đề phòng. Nhưng qua nửa tháng ở Bác Vọng hiên, Lưu Mạch cả học văn tập võ đều chịu khó và tiến bộ hơn nhiều so với Lưu Cứ, tương phản này làm nó cực kỳ bối rối. Lưu Cứ lén quan sát sắc mặt phụ hoàng. Ngoài dự tính, phụ hoàng không những không tức giân, ngược lại còn cười nói, “Nếu như vậy thì trẫm sẽ tìm thầy giáo cho con, tin rằng sẽ hợp tính hợp nết.” Nói xong y ngẩng đầu bảo, “Cho Đông Phương Sóc vào.”
Lưu Mạch tò mò quan sát người thanh niên áo xám theo chiếu chỉ tiến vào. Đó là một thư sinh không thanh thoát tuấn tú lắm nhưng vừa trông thấy liền có cảm giác như được tắm gió xuân, tới nơi thì chỉ hơi quỳ xuống thi lễ, “Thần Đông Phương Sóc tham kiến Hoàng thượng, hai vị hoàng tử.”
“Đứng dậy đi!”, Lưu Triệt nói: “Đông Phương Sóc, trẫm giao Hoàng tử trưởng cho ngươi chăm sóc dạy dỗ.”
Đông Phương Sóc chắp tay, “Đa tạ Hoàng thượng!” Hắn được ân sủng nhưng không kiêu căng, cũng không lộ suy nghĩ ra mặt.
“Đông Phương đại nhân”, Lưu Mạch tiến lên một bước, đang định hành lễ bái sư thì bỗng nghe ngoài điện ồn ào, tiếp là giọng Dương Đắc Ý: “Trần nương nương, Hoàng thượng đang hội kiến ở trong điện…” bèn kinh ngạc thốt lên: “Mẫu thân!” Nó liếc mắt nhìn sang thấy Lưu Triệt khẽ nhếch môi.
“Mạch Nhi!” Trần A Kiều trông thấy con trai thì cũng hơi ngạc nhiên, bèn hỏi: “Tại sao con lại ở đây?”
“Hoàng thượng mời Đông Phương đại nhân làm thầy giáo cho con”, Lưu Mạch đáp.
“Đông Phương Sóc, ngươi đi xuống trước đi. Mạch Nhi, Cứ Nhi, các con cũng trở về đi thôi”, Lưu Triệt bảo, từ xa thong thả bước tới.
“Dạ!” Lưu Cứ trộm nhìn người phụ nữ nó phải gọi là mẹ này. Bà ta mặc bộ y phục màu xanh đen để lộ ra vòng eo không bằng một chét tay, đôi mắt đẹp tuyệt vời, tóc đen huyền được cuộn lại thành búi đơn giản, ăn mặc vô cùng giản dị nhưng lại có một khí chất cao quý khó mà hơn được, cũng không đoán được là bao nhiêu tuổi, thì ra là một phụ nữ như vậy.
“Khoan đã!” Ngoài dự tính, Trần A Kiều lại lên tiếng bảo ba người dừng bước, “Nghe nói Đông Phương đại nhân là người thông tuệ, ta có chút việc muốn thỉnh giáo.”
Đông Phương Sóc dừng bước, quay lại bái lạy: “Xin nương nương cứ hỏi.”
Trần A Kiều tất nhiên là đã nghe danh Đông Phương Sóc, cho dù với trí nhớ của thời hiện đại hay trong thời cổ đại. Năm Kiến Nguyên thứ hai, Lưu Triệt hạ chỉ chiêu mộ hiền tài, Đông Phương Sóc lên kinh giảng bài dùng tới ba nghìn thẻ tre. Lưu Triệt phải mất đến hai tháng mới đọc xong. Lúc đó quan hệ giữa A Kiều và Lưu Triệt còn hòa thuận, Lưu Triệt từng lấy đó làm trò cười mà kể cho A Kiều nghe. Mặc dù tên tuổi của Đông Phương Sóc vô cùng lừng lẫy cả khi còn sống lẫn về sau này, nhưng là một người mẹ, Trần A Kiều vẫn hy vọng có thể được một lần đích thân đàm đạo với hắn. Hơn nữa, nàng nhìn sang Lưu Triệt ngồi sau ngự án, mười hai hạt châu đong đưa trước mặt làm cho nàng không nhìn rõ vẻ mặt của y. Nàng cũng không ngờ là lại gặp mặt y nhanh như vậy. Với thân phận là cung phi, từ nay về sau nàng sẽ không có nhiều cơ hội gặp ngoại thần, vậy cần nhân dịp này tìm hiểu một chút về thầy giáo tương lai của con cũng không phải là tệ lắm.
“Mẹ Tiểu Minh có ba con trai, con cả tên Đại Mao, con thứ gọi là Nhị Mao, xin hỏi đứa con thứ ba gọi là gì?” Nàng nhìn chằm chằm vào Đông Phương Sóc, lên tiếng đưa ra câu đố đòi hỏi tư duy nhanh của đời sau. Lưu Mạch nghe vậy thì cực kỳ ngạc nhiên, thích chí nhìn sắc mặt Lưu Triệt đã có vẻ tối sầm xuống.
Đông Phương Sóc sửng sốt, quả nhiên không hổ danh tiếng của mình, cung kính cười nói, “Tất nhiên gọi là Tam Mao, mà không thể nào, đương nhiên gọi là Tiểu Minh.”
“Gà thỏ chung chuồng, đếm được mười tám đầu, bốn mươi tám chân, hỏi bao nhiêu gà, bao nhiêu thỏ?”
“Mười hai gà, sáu thỏ.”
“Ừm”, A Kiều cười, đưa ra đòn sát thủ, “Năm người chia nhau một trăm thoi vàng, theo thứ tự bốc thăm mà quyết định quyền được ưu tiên chia phần. Nhưng nếu người đưa ra phương án chia phần mà bị hơn một nửa số người phản đối thì sẽ bị ném cho cọp ăn thịt. Như vậy, người rút được lá thăm đầu tiên phải chia phần như thế nào để có thể bảo bảo không chết mà vẫn được lợi nhiều nhất?”
“Việc này…” Đông Phương Sóc hơi lưỡng lự một chút, rồi nói: “Nếu mà chia đều thì còn cần gì bốc thăm lấy thứ tự chứ? Không đúng.” Hắn lại trầm ngâm trong chốc lát, “Chín mươi tám, không, một, không, một. Hoặc là chín mươi bảy, không, hai, không, một.”
Trần A Kiều hài lòng thi lễ nói, “Đông Phương đại nhân, phiền đại nhân quan tâm đến Mạch Nhi giúp ta.”
“Nương nương dạy quá lời.” Đông Phương Sóc khiêm tốn đáp, ra dáng một người lỗi lạc.
“Được rồi.” Lưu Triệt phất tay, “Đông Phương Sóc, ngươi lui xuống đi.” Y xoay người về hướng A Kiều, khẽ mỉm cười.
“A Kiều tỷ, đã nhiều năm chúng ta không đi cùng nhau đến điện Tuyên Thất rồi.” Lưu Triệt nói nhẹ nhàng, không dùng cách xưng hô tôn quý để tạo khoảng cách mà thủ thỉ bằng giọng trầm ấm quyến rũ, vẻ mặt thoáng u buồn.
Ánh mắt Trần A Kiều tối lại. Điện Tuyên Thất này có trong ký ức của A Kiều nên hiện giờ nàng có biết. Vào năm Kiến Nguyên thứ nhất, Lưu Triệt vừa lên ngôi, A Kiều nhiều lần thường ngồi đến tận khuya với Lưu Triệt trong điện Tuyên Thất để xem công văn. Lúc đó Lưu Triệt khí thế bừng bừng nói với nàng những ý tưởng mạnh mẽ đối với quốc gia cho đến khuya rồi sau đó tắt đèn và đưa nhau về điện Tiêu Phòng. Nhưng bây giờ nói về những điều đó thì còn có tác dụng gì?
Đêm đen sao vẫn dài vô tận, ngay trong cảnh cầm sắt hài hòa thuở ban đầu đã ẩn chứa vô số sóng ngầm.
“A Kiều tỷ, lần này không phải là trẫm đến cung Trường Môn đâu đấy.” Trong điện Tuyên Thất, Lưu Triệt xoay người lại, đôi mắt lấp lánh nhìn nàng đầy ý tứ.
“Hôm nay thϊếp xuất cung”, Trần A Kiều cúi đầu, tránh ánh mắt của Lưu Triệt, nói đều đều, “đi cùng Lăng nhi tới phủ Mạt Lăng hầu gặp được Đồ phu nhân, Đan Dương hầu phu nhân và cả em gái Lưu Thiến của Lăng Nhi nữa.” Nàng hiểu rằng lúc này Lưu Triệt nhất định đã biết chuyện nhưng vẫn kể hết một lượt, quả nhiên nàng nghe thấy Lưu Triệt ừ khẽ một tiếng rồi hỏi: “Ừm, Nga Nhi vẫn khỏe chứ?”
“Chính trị ổn định, cuộc sống thoải mái, Nga Nhi muội muội dĩ nhiên là tốt rồi.” Nàng hài lòng nhận thấy trong đáy mắt y thoáng bừng lên một đốm lửa. Lưu Triệt cứ thế từ từ lấn tới, miệng mỉm cười quyến rũ ma mị. Nàng thấy không ổn, trong lòng bừng lên cảm giác báo động mãnh liệt, vừa định lui lại thì đã bị Lưu Triệt thuận tay rút mất chiếc trâm cài tóc làm cho mái tóc đen nhánh buông xõa xuống như dòng suối.
“Hôm nay trẫm mới phát hiện ra tóc của A Kiều cũng đen chẳng kém tóc của Tử Phu chút nào!” Lưu Triệt nói khẽ, hai con ngươi lóng lánh như hạt châu chợt bớt đi mấy phần sắc bén, nhìn nàng như nghĩ đến điều gì.
Họ Vệ phát nhờ mái tóc.
Vào năm Kiến Nguyên thứ hai, Lưu Triệt gặp Vệ Tử Phu, điều đầu tiên khiến y mê muội chính là mái tóc của nàng ta.
Trần A Kiều có thể được sủng ái tới hơn mười năm, ngoài thân thể cao quý thì dĩ nhiên là do nàng là một trang kiều mị tuyệt sắc. Mặc dù những năm qua lưu lạc nhưng nàng có kiến thức về việc bảo dưỡng dung nhan của linh hồn đến từ thời hiện đại mà phụ nữ ở thời đại này tuyệt đối không thể so sánh nổi. Hơn nữa nàng rất sợ tuổi tác nên lại càng coi trọng giữ gìn. Bảy năm trôi qua, nàng không những không hề già đi mà ngược lại da dẻ càng thêm mềm mại, tóc cũng đẹp hơn, lúc buông xõa trông cứ như một dòng suối đen tuyền lấp lánh lay động lòng người. Nhưng lúc này nghe Lưu Triệt so sánh mình với Vệ Tử Phu thì nàng cảm thấy như bị sỉ nhục, lửa giận bừng lên trong lòng, cố gắng lắm mới áp chế nổi. Nàng đột nhiên mỉm cười tươi tắn, thầm nghĩ hai người bọn họ thật đúng là ai cũng chỉ nghĩ đến việc chọc giận đối phương làm thú vui. “Người thành đạt thấy mọi thứ đều rực rỡ; người thất cơ lỡ vận thấy mọi chuyện đều tối tăm”, nàng nhẩn nha nói, ngẩng đầu nhìn thẳng y, “Hoàng thượng có còn nhớ rằng ở trên lầu Thanh Hoan Hoàng thượng đã nợ thϊếp một yêu cầu không?”
“Ừm. A Kiều tỷ muốn trẫm tha cho đám người ở cung Trường Môn ư?”, Lưu Triệt nắm lấy một lọn tóc của nàng, trong lòng bất an, hỏi nhỏ.
“Không”, A Kiều cười khúc khích. Nàng rút được lọn tóc ra khỏi tay y thì mới thoải mái hơn đôi chút, “Thϊếp ở bên ngoài quá lâu nên e rằng giờ ở trong cung Trường Môn sẽ buồn phiền, vì thế xin Hoàng thượng đồng ý để cho thϊếp được tự do xuất cung.”
“Trẫm vẫn thích nghe A Kiều tỷ gọi trẫm là Triệt Nhi.” Giọng của Lưu Triệt vang lên bên tai nàng thân thiết, hơi thở ấm áp thoảng qua bên vành tai khiến Trần A Kiều bất giác bối rối, nàng lui lại một bước và nói: “Hoàng thượng lời vàng ý ngọc, đã nói ra thì không thể nuốt lời.”
Lưu Triệt nhìn nàng như không có gì, quay ra ngoài điện hạ lệnh, “Cho những người ở cung Trường Môn kia đứng lên đi.”
“Nô tài tuân chỉ”, Thượng Vô Câu đứng ở bên ngoài cúi đầu đáp.
“Đa tạ Hoàng thượng!”
“Trẫm vẫn muốn biết”, Lưu Triệt xoay người lại hỏi, “Ngày đó ở lầu Thanh Hoan rõ ràng A Kiều tỷ có thể nhưng tại sao lại không nhận mặt trẫm? Nếu nàng làm như vậy thì những năm qua Mạch Nhi, Sơ Nhi đã không phải chịu khổ sở rồi.”
“Khi đó chắc gì Hoàng thượng đã chịu nhận thϊếp.” A Kiều lắc đầu, “Mà nếu thế thì thϊếp và hai đứa nó sẽ lại làm người khó xử!” Nàng nói ngụ ý sâu xa.
“Thì ra A Kiều tỷ nghĩ cho trẫm”, Lưu Triệt thốt lên, thoáng có ý cười, con ngươi đen nhánh lại lấp lánh.
Mắt của Mạch Nhi rất giống y, nàng thầm nghĩ.
“Hôm nay nàng và Mạch Nhi đã quay trở về, Mạch Nhi chính là con trai trưởng của hoàng gia, trẫm sẽ chọn dịp đầu năm mới để ghi tên nó vào phả hệ, đồng thời tế lễ trời đất để xác nhận thân phận cho nó. Nếu để Hoàng hậu bắt được lỗi hôm nay của A Kiều tỷ thì ngay cả trẫm cũng không cứu nổi!” Hiển nhiên là tâm trạng của Lưu Triệt rất tốt nên mấy câu sau không giống như đang chất vấn mà phần nhiều mang ý trêu chọc.
“Thần thϊếp thay Mạch Nhi tạ ơn Hoàng thượng.” Nàng nói nghiêm nghị rồi lại giễu cợt, “Nếu như Vệ Tử Phu là một người không thức thời như vậy thì Hoàng thượng sao có thể phong cô ta làm hoàng hậu cơ chứ.”
“Thì ra A Kiều tỷ đi ra ngoài một chuyến cũng tương đối hiểu chuyện rồi.” Lưu Triệt ồ lên một tiếng đầy ý tứ, “Mấy ngày nữa trẫm sẽ hạ chỉ để nàng và Mạch Nhi, Sơ Nhi chuyển về điện Chiêu Dương trong cung Vị Ương được không?”
“Không cần.” Trần A Kiều nhếch môi lên tạo thành một đường cong hoàn mỹ, “Thϊếp cảm thấy cung Trương Môn cũng rất tốt, thanh tịch u nhã.”
“A Kiều tỷ sao còn chưa rõ”, y bỗng nhiên nhướng mày, chắp tay nhấn giọng, “Trẫm là con trời, ý của trẫm, chính là ý chỉ. Ngay cả A Kiều tỷ cũng không thể cãi lời.”
Y chắp tay sau lưng, khí thế thiên tử của một nước bộc phát trọn vẹn. Trần A Kiều ngẩn ra. Những ấn tượng còn lưu giữ trong đáy lòng về Hán Vũ Đại Đế khiến nàng không dám ngang ngạnh đối đáp, đành cúi đầu nói, “Thϊếp không muốn đến cung Vị Ương để làm mục tiêu cho người ta đàm tiếu. Đàn bà ở trong chốn hậu cung”, nàng cười gằn, “tranh đấu còn khốc liệt hơn cả trên chiến trường. Thϊếp ở cung Trường Môn thì vẫn coi như ở bên ngoài cục diện. Đến cung Vị Ương làm cái gì chứ?” Nàng chợt liếc sang, “Hoàng thượng, chúng ta làm một cuộc giao dịch nhé?”
“Ồ?” Lưu Triệt chăm chú nhìn nàng, vẻ mặt âm trầm đến cực độ, hỏi lại, “Giao dịch? A Kiều tỷ, có lẽ nàng đã thông minh hiểu chuyện hơn trước nhưng trên người nàng có thứ gì đáng giá để trẫm phải giao dịch chứ? Về văn, trẫm có Công Tôn Hoằng, Cấp Ảm, về võ, trẫm có Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh. Ngay cả đám Tang Hoằng Dương, Liễu Duệ kết nghĩa với nàng nhưng vẫn là thần tử của trẫm.”
“Hoàng thượng biết thϊếp lưu lạc bên ngoài, từng được Triêu Thiên môn che chở”, Trần A Kiều tự tin, “Triêu Thiên môn thành danh nhờ y thuật nhưng cũng giỏi về luyện đan. Khi học luyện đan, thϊếp phát hiện rằng nếu chế chung lưu huỳnh, diêm, than với nhau thì sẽ có phản ứng nổ, dùng nó trong phương diện quân sự sẽ có lợi vô cùng. Nếu Hoàng thượng đồng ý, thϊếp và Phi Nguyệt sẽ ở chung trong cung Trường Môn nghiên cứu được không?”
“Ha ha”, ánh mắt Lưu Triệt chớp động, y hỏi ngược lại, “Nếu thật sự có chuyện lạ như vậy thì trẫm có thể phái thợ chuyên môn nghiên cứu, lại còn cần A Kiều tỷ cùng Lăng nhi phải ra tay nữa ư?”
“Hoàng thượng đã từng uống trà của cung Trường Môn chưa?”
“Dĩ nhiên là chưa.” Ánh mắt y lại nhìn nàng chằm chằm chờ đợi.
“Để hôm nào thϊếp sai người đưa một bình tới điện Tuyên Thất, nếu Hoàng thượng không ngại thì mời nếm thử.” Trần A Kiều hất đầu, “Thϊếp tin, nếu thϊếp và Lăng Nhi mà không nghiên cứu ra thì không người nào có thể nghiên cứu được.”
Lưu Triệt nhìn nàng với vẻ dò xét, nếu thật sự có chuyện kỳ lạ như vậy thì ngày sau tất có chỗ dùng trong cuộc đại chiến Hán Hung. Là một bậc quân chủ tài trí mưu lược kiệt xuất, dĩ nhiên y không thể dễ dàng bỏ qua, chỉ là… Y vén mấy sợi tóc mai lòa xòa bên tai của A Kiều, hỏi bằng giọng xa thẳm, “Thật sự là A Kiều tỷ oán trẫm đến vậy sao?”
“Vợ chồng vốn là chim một rừng.” Đến nước này thì Trần A Kiều lại hết sức bình tĩnh, nói vẻ triết lý, “Dù chưa phải lúc tai họa đổ xuống đầu thì vẫn có thể đường ai nấy bay. Chẳng lẽ Hoàng thượng chưa từng nghe nói rằng thân thiết nhất mà cũng xa lạ nhất là chính vợ chồng đó sao.”
“Thân thiết nhất mà cũng xa lạ nhất chính là vợ chồng.” Lưu Triệt lẩm bẩm nhắc lại, lòng mênh mang, ngắm nhìn dung nhan kiều diễm, đôi môi đỏ mọng chúm chím ở gần trong gang tấc thì chợt bùng lên ham muốn. Y choàng tay ôm lấy hông nàng, cảm giác thấy thân thể nàng chợt căng cứng, y nhoẻn miệng cười đặt xuống một nụ hôn.
Trái tim Trần A Kiều loạn nhịp, theo bản năng nàng muốn kháng cự nhưng lập tức nhớ ra lúc này không phải là lúc thích hợp để đắc tội với y. Vừa thoáng chần chừ thì lưỡi của Lưu Triệt đã xâm chiếm miệng nàng.
Dù sao thì trên danh nghĩa nàng vẫn là thê thϊếp của y. Đột nhiên nàng lại cảm giác bị làm nhục. Đã là một hoàng hậu bị phế bỏ mà vẫn còn nghĩa vụ phải hầu hạ quân vương hay sao?
Rõ ràng là người con gái rất quen thuộc, cho dù nhắm mắt lại y vẫn có thể hình dung ra được từng cử động của nàng, nhưng hiện giờ Lưu Triệt lại có cảm giác vô cùng lạ lẫm. Người con gái y đang ôm trong lòng cơ thể mềm mại, đôi môi nhắm chặt, rõ ràng là không hề phản kháng nhưng lại toát lên một vẻ quật cường.
Y đột nhiên cảm thấy rất buồn cười, người biểu tỷ vui buồn hờn giận đều lộ ra ngoài mặt của nhiều năm trước kia hiện giờ thật sự không giống một người lớn hơn mình đến hai tuổi. Nàng đã quay về, dù có chút sắc sảo nhưng nàng như đã trở lại với cái tính cách của thời thiếu nữ, không giống những phụ nữ ở lứa tuổi này chút nào. Nếu như năm đó nàng không vào hoàng thất, thì giờ đây lại càng thêm… Y lắc đầu, gạt bỏ ý nghĩ này, buông nàng ra rồi mỉm cười hỏi: “Kiều Kiều, chắc nàng không ngờ được rằng đã đến bước này mà trẫm còn có thể buông tay chứ?”
Trần A Kiều cố trấn tĩnh, ngẩng đầu lên, hỏi ngược lại, không hề nhường nhịn một phân, “Hoàng thượng, chắc người cũng không ngờ rằng đã đến nước này mà thϊếp vẫn có thể hân hoan đón chờ ngài đến như trước chứ?”
“Nếu Hoàng thượng không còn chuyện gì khác thì thϊếp xin cáo lui. Xin hãy trả cái trâm lại cho thϊếp”, nói rồi, nàng lui lại một bước coi như thi lễ.
“Dương Đắc Ý”, Lưu Triệt xoay người ra lệnh, “Đem cây trâm Yên Thủy Lưu Ly ban cho Trần hoàng hậu.”
Trần A Kiều nhìn chằm chằm vào cây trâm ngọc bích trong tay y, cắn môi, rốt cục đầu hàng.
“Phi tần ở trong hậu cung không thể xuất cung một mình”, Lưu Triệt đứng ở sau lưng nàng, dằn rõ từng tiếng, “Cùng lắm trẫm chỉ có thể hạ lệnh đặc biệt, cho phép A Kiều tỷ mời người mình muốn tới cung Trường Môn gặp mặt. Ngày khác, nếu nhất thiết cần xuất cung thì A Kiều tỷ vẫn phải báo cho trẫm một tiếng.”Quyển 2 - Chương 30: Thầy trò xa cách như biển sâuTrần A Kiều đi trên hành lang cung Vị Ương, khuôn mặt ửng hồng loang dần lên tới tận mang tai. Cảnh tượng vừa rồi ở điện Tuyên Thất vẫn cứ lởn vởn mãi trong đầu nàng không cách nào xua hết. Lúc đó, nàng ấm ức trong lòng không chịu nhận thua nên có phản ứng sơ suất, nhưng sau khi rời đi thì tất cả lại chậm rãi hiện lên. Môi của Lưu Triệt rất mỏng thể hiện thiên tính bạc tình. Khi hai đôi môi chạm vào nhau, mới đầu thì lạnh như băng rồi dần dần như lửa nóng. Không thể nói là nàng không biết hôn. Trần A Kiều là hoàng hậu của Lưu Triệt hơn mười năm, đã làm cả những chuyện thân mật hơn với y. Còn Hàn Nhạn Thanh của hai ngàn năm sau, mặc dù tuổi còn nhỏ, lại học cảnh sát cực khổ nên chưa từng có bạn trai nhưng vẫn thấy các cặp tình nhân âu yếm trên đường, rồi xem những cảnh ái ân đầy rẫy trên màn ảnh và truyền hình nên nàng cũng không xa lạ gì với từ này. Sau khi sống lại, Trần A Kiều mang trong mình ký ức của cả hai người nên cả yêu và hận đều đã phai nhạt đi. Người đàn ông này dường như vừa rất xa lạ vừa rất thân thiết. Ví như nụ hôn ở trong điện Tuyên Thất kia rõ ràng là cả hai người đều đã âu yếm nhau như vậy cả nghìn lần rồi nhưng vẫn cảm thấy choáng váng như là lần đầu tiên khiến nàng bối rối.
Hôn là để cho môi và lưỡi quyện vào nhau, làm cho hơi thở của mình lan tỏa sang đối phương, là một hành vi rất thân mật. Trần A Kiều luôn cho rằng hai người phải quen nhau đến mức đủ để vượt qua rào chắn tâm lý thì mới có thể làm được, Lưu Triệt hiển nhiên còn ở ngoài rào chắn tâm lý này.
Nhưng mà… Nàng đưa tay xoa xoa cánh môi, hơi thở của Lưu Triệt vẫn còn nóng hổi chẳng biết đến bao giờ mới có thể hoàn toàn tan đi.
Thân phận hiện tại của nàng là phế hậu của Hán Vũ Đế, nói cho cùng thì vẫn còn là phi tần của Lưu Triệt. Nói cách khác, nếu Lưu Triệt đòi hỏi thì nàng không có lý do gì để cự tuyệt. Trở lại Trường An đã lâu như vậy nhưng đây là lần đầu tiên nàng ý thức được sâu sắc về vấn đề này. Cho dù nàng nói không thì bậc đế vương nắm giữ hoàng quyền, đứng ở trên đỉnh cao nhất của nhân gian sẽ chịu nhượng bộ sao? Nàng rùng mình, tất cả những ngượng ngùng theo đó mà tiêu tán.
“Thượng công công!” Nàng gọi.
Thượng Vô Câu phụng mệnh đưa nàng trở về Trường Môn bèn bước lên một bước, bình tĩnh thi lễ rồi hỏi: “Trần nương nương có gì dặn bảo?”
“Sư phụ của ta, à, Tiêu đại phu Tiêu Phương của Triêu Thiên môn hiện đang ở đâu?” Nàng hỏi vẻ điềm nhiên.
“Tiêu tiên sinh phụng mệnh điều dưỡng thân thể cho công chúa Duyệt Trữ nên chắc giờ còn ở y quán”, Thượng Vô Câu hơi khom người đáp.
“Ừm” Trần A Kiều xoay người đi về hướng y quán.
“Khoan đã… Trần nương nương, Hoàng thượng dặn là đưa người quay về cung Trường Môn.”
“Cái gì?” Nàng xoay người lại, “Bản cung muốn đi đâu cũng phải theo ý kiến của công công sao?”
“Nô tài không dám”, Thượng Vô Câu bái lạy.
Trần A Kiều nhìn hắn chằm chằm một lúc lâu rồi mới bảo, “Dẫn đường đi.”
“Dạ.”
“Lộng Triều, lấy giúp ta quyển sách kia.”
Người thiếu niên dạ một tiếng rồi đi tới thư phòng rút lấy một quyển sách gáy đóng bằng chỉ, khi xoay người thì bỗng sững lại, nhìn cô gái mặc bộ y phục màu xanh sẫm đang đứng yêu kiều ngoài cửa y quán. Gió heo may đầu thu êm dịu thổi áo khoác của nàng bay phơ phất, thân hình thon thả của nàng tạo nên một cảm giác phiêu diêu đến kỳ lạ, tựa như một giây nữa thôi là nàng sẽ bay khỏi chốn trần gian này.
“Lộng Triều”, nàng quay đầu lại, khuôn mặt vẫn hệt như trước đây, như thể không hề có mấy tháng xa cách.
“Trần Nương Nương”, Tiêu Phương ngồi ở án thư, khẽ gật đầu.
“Càn rỡ, tại sao gặp Trần nương nương mà lại không chịu hành lễ?” Thượng Vô Câu ở bên cất giọng lanh lảnh trách mắng.
“Bỏ qua đi.” Trần A Kiều ngồi xuống trước mặt hắn, “Nói đúng ra thì Tiêu tiên sinh là sư phụ của ta, đâu có chuyện sư phụ hành lễ với đồ đệ.”
“Nương nương thân phận cao quý, Tiêu Phương chỉ là một kẻ thảo dân nên không dám trèo cao, nói đến lễ thầy trò.” Tiêu Phương nói xong bèn đứng dậy thi lễ, “Thảo dân Tiêu Phương tham kiến nương nương.”
“… Đứng lên đi”, Trần A Kiều bất đắc dĩ bảo.
“Hôm nay Nhạn Nhi đến là muốn thăm sư phụ một chút”, nàng giữ lễ nhưng trong lòng lại thoáng gợn buồn. Chỉ một câu nương nương thôi đã tạo nên khoảng cách không thể san lấp được giữa nàng và Tiêu Phương. Rõ ràng là nàng đã không còn có thể thể hiện cảm xúc chân thật, ngây thơ nũng nịu, trêu chọc, trước mặt người sư phụ thân thiết nhất từ khi xuyên không tới nay nữa. Cũng bởi vì vậy nên nàng cứ luôn không muốn tới gặp, đúng hơn là không dám tới gặp Tiêu Phương. Chỉ vì khi gặp nhau thì tình cảm thầy trò chân thành tha thiết nhất giữa hai người sẽ bị phá vỡ bởi thái độ lãnh đạm tuân thủ lễ nghi này. Từ nay về sau hắn là đại phu còn nàng là cung phi, hai người tựa như đứng ở hai bên bờ của cùng một con sông, có thể trông thấy mặt nhau rõ ràng nhưng lại không thể đến gần nhau.
“Nương nương cứ gọi bẳng tên là được rồi, thảo dân thực sự không dám nhận cách xưng hô là sư phụ.”
“Sư phụ muốn gọi Nhạn Nhi như thế nào thì Nhạn Nhi không có quyền can thiệp. Nhưng cũng tương tự, Nhạn Nhi muốn gọi sư phụ thế nào thì sư phụ cũng không quản được.”
“… Ừ.”
“Tình trạng công chúa Duyệt Trữ thế nào?”
“Tiểu công chúa từng phát bệnh một lần hồi đầu năm, sau được điều dưỡng thì đã đỡ, cứ cẩn thận chắc chắn không có vấn đề.”
Tiêu Phương trả lời, cười ảm đạm.
Trần A Kiều kinh ngạc nhìn sư phụ, mấy tháng không gặp mà sư phụ đã gầy đi nhiều. Năm xưa lâm nạn, nàng gặp hắn ở căn nhà cỏ, cảm giác hắn có phong độ của thần tiên, tao nhã như trăng thanh gió thoảng, dù cực chẳng đã phải cho nàng bái sư nhưng vẫn chiếu cố nàng về mọi mặt. Nhiều năm sống cùng nhau, bây giờ vừa có tình cảm như một người thầy, vừa như một người anh. Vậy mà tình cảm ngày hôm nay đã đến lúc phai nhạt. Tiêu Phương không giống Tang Hoằng Dương, Liễu Duệ, cũng không phải là Lưu Lăng để có thứ tình cảm giữa những người cùng xuyên không, thứ tình cảm mà dù có gió táp mưa sa cũng không thể nào lay chuyển được, Hắn là sư phụ, dù có siêu phàm thoát tục nhưng vẫn ở trong phạm vi thời đại này.
“Trần nương nương hôm nay trở về, kính xin giúp Tiêu Phương chuyển lời tấu lên Hoàng thượng”, Tiêu Phương chắp tay hành lễ, nói: “Công chúa Duyệt Trữ đã không còn đáng ngại. Tiêu Phương là kẻ mây trời gió biển, thật sự không quen ở cung Vị Ương, kính xin được ra đi.”
“Được rồi.” Trần A Kiều đáp, nở nụ cười mà ngay cả Thượng Vô Câu cũng có thể nhìn thấy rõ trong chiếc lúm đồng tiền của nàng ẩn chứa đau thương, “Đây là việc cuối cùng có thể làm giúp sư phụ, Nhạn Nhi tất nhiên sẽ cố gắng hết sức.”
“Mà…”, nàng nghi ngờ hỏi, “rốt cuộc thì Sở Phi Hiên có thù oán gì với Triêu Thiên môn?”
“Đó là hắn có oán thù cá nhân với ta”, Tiêu Phương đáp, rõ ràng tỏ vẻ không muốn nói nhiều, “Lần này làm liên lụy đến Trưởng công chúa Phi Nguyệt là lỗi của ta.”
“Lăng Nhi chắc sẽ không oán trách sư phụ. Con tới y quán là còn có một việc.” Nàng khẽ chớp mắt, nói: “Những ngày gần đây con thường bị mất ngủ nên muốn chế một ít Dưỡng Thần hương để an tâm dưỡng thần.”
“Những loại hương đó đều do nương nương ngày trước đích thân điều chế, Tiêu Phương hoàn toàn không biết.”
“Không cần gấp lắm đâu, con nói tên thuốc, sư phụ hốt thuốc giúp con là được.” Nàng vui vẻ nói.
“Năm phân Bạc hà trắng, sáu tiền Phòng phong, năm tiền Đỗ hành, năm phân Khương hoạt tửu sao, một phân Tửu liên, hai phân Tửu cầm, một tiền Bạch phục linh, hai tiền nhân sâm, năm phân Cam thảo, một tiền Phá cố chỉ, một tiền Cẩu kỷ tử.” Nàng đọc một mạch, không để ý vẻ mặt Tiêu Phương vừa thoáng kinh ngạc.
“Trước hết cần đủ dùng cho một tháng”, nàng làm bộ suy nghĩ rồi nói.
“Ừm, nương nương phối thuốc thế này đúng là rất chính xác”, Tiêu Phương trầm ngâm một hồi, “Nếu giảm Bạch bạc hà đi một phân, thêm vị Bán hạ nữa thì công hiệu an thần càng cao.”
“Đa tạ sư phụ chỉ dạy.” Trần A Kiều cúi đầu, “Thế thì chế theo cách sư phụ nói đi.”
“Ừ”, hắn gật đầu, xoay người lại bảo, “Lộng Triều, đi lấy thuốc giao cho Trần nương nương.”
Một lúc lâu sau, Trần A Kiều buồn bã lên tiếng, “Sư phụ, Nhạn Nhi cáo lui.” Nàng ra khỏi y quán, thấy Lộng Triều đi từ đầu hành lang tới. Người thiếu niên giao thuốc, nghiêng đầu ngắm nhìn nàng một lúc rồi hỏi, “Tỷ không về Đường Cổ Lạp Sơn nữa sao?”
“Đúng vậy, Đường Cổ Lạp Sơn…” Mặc dù lòng không vui nhưng nàng vẫn bị người thiếu niên chọc cười. Giờ phút này cậu ta vẫn còn có cách ứng xử vô cùng thuần khiết giống như năm xưa.
“A”, Lộng Triều cũng không để ý, hỏi tiếp luôn, “Thật không?”
“Ừ.” Nàng gật đầu, nói: “Không trở về nữa.”
“Tại sao?”
Nàng dịu dàng, “Tại sao đệ không đi hỏi Tiêu ca ca của đệ?”
“Huynh ấy không nói.” Người thiếu niên đáp gọn.
“Trên cõi đời này có mấy người thực sự được vui vẻ chứ?” Trần A Kiều bình thản đáp, căn dặn, “Sau này không có tỷ bên cạnh thì đệ phải quan tâm hơn đến Tiêu ca ca. Người muốn uống trà thì gặp Tang Hoằng Dương mà lấy, muốn dùng giấy bút thì cứ đến một cửa hiệu bất kỳ của Tức Lam Viên mà lấy. Nếu sư tổ muốn uống rượu thì tỷ đã giao phương pháp cất rượu cho Quách Giải rồi.”
“Biết rồi”, Lộng Triều trợn tròn mắt tỏ ý phiền phức nhưng rồi lại không nỡ, hỏi: “Mạch Nhi và Tảo Tảo cũng không về nữa sao?”
“Bọn chúng cũng không về được”, A Kiều mỉm cười rồi quay sang ra lệnh cho Thượng Vô Câu: “Trở về thôi.”
Trần A Kiều vừa đi vừa nghĩ rằng có lẽ để cho bọn họ rời xa cuộc tranh đấu này là đúng đắn. Họ là người trong võ lâm coi mạng sống như lông hồng, thì làm sao có thể dính vào cuộc tranh đấu chính trị xảo trá đầy phong ba bão táp này được chứ.
Nàng đi ngang qua điện Vân La, khi cung Trường Môn đã ở trong tầm mắt thì bỗng chạm mặt với một cô gái mặc cung trang dẫn mấy thị nữ theo hầu. Nàng ta mặc một bộ váy hồng nhiều tầng là trang phục đẳng cấp mỹ nhân, bế một đứa trẻ còn quấn tã lót, đôi mắt phượng hơi xếch vô cùng phong lưu quyến rũ, không hành lễ mà đứng thẳng người nói, “Thì ra đây là Trần nương nương.”
Cô gái mắt phượng mày ngài, phong lưu quyến rũ không thể nào tả xiết vừa lên tiếng chính là mỹ nhân Vương Thấm Hinh của điện Phu Hương.
Trần A Kiều dĩ nhiên biết Vương Thấm Hinh xuất thân là dân nữ được Lưu Triệt đưa về trong một lần xuất cung đi săn, cũng là phi tử được y sủng ái nhất thời gian gần đây, sinh hạ hoàng tử thứ ba Lưu Hoành. Nàng cười nhạt, Vương mỹ nhân này dù sao cũng xuất thân là con nhà nghèo khó nên còn ít được giáo dục hơn cả Vệ Tử Phu, tính tình ngang ngược càn rỡ, nếu không phải ỷ vào ân vua ở trong cung Vị Ương thì e là không sống nổi một ngày, nhưng ân sủng của Hoàng thượng có thể kéo dài bao lâu chứ?
“Vương mỹ nhân tới cung Trường Môn của ta sao? Đã được Thánh thượng đồng ý chưa?”
Vương Thấm Hinh tái mặt, đánh mắt nhìn Thượng Vô Câu đang đứng phía sau A Kiều một cái. Từ khi Trần hoàng hậu bị bãi lui về cung Trường Môn thì cung Vị Ương có quy củ ngầm là phi tần không được đến gần cung Trường Môn. Cung Trường Môn nằm ở phía bắc cung Vị Ương, cũng được gọi là cung nhưng không thuộc phạm vi quản lý của cung Vị Ương. Nàng ta ỷ vào việc được Thánh thượng sủng ái nên không hề kiêng kỵ, định tới xem vị phế hậu bí ẩn của cung Vị Ương thế nào, nhưng nếu để cho Hoàng thượng biết chắc chắn sẽ không ổn, đành lấy cớ, “Chẳng qua ta tới thăm điện Vân La thôi, tới Trường Môn làm gì chứ?”
“Thế à”, Trần A Kiều kéo dài giọng, “Vậy Vương mỹ nhân cứ từ từ xem đi.” Nàng nói xong đi thẳng qua vào cung Trường Môn.
“Chẳng phải Trần nương nương cũng không được Thánh thượng đồng ý nhưng vẫn một mình xuất cung sao?”, phía sau, mặt mày Vương Thấm Hinh đã trắng bệch, vịn tay thị nữ cao giọng. Nàng không phải xuất thân từ cung nữ như Lý Chỉ nên không được chứng kiến phong thái của Trần hoàng hậu năm xưa, thấy nàng không hề nể mặt phi tần được Hoàng thượng sủng ái thì thẹn quá hóa thành giận.
“Ồ, vậy sao?” Trần A Kiều mỉm cười quay đầu lại, nụ cười chợt tắt, lạnh lùng, “Nếu ngươi không đến Trường Môn, sao lại biết ta từng xuất cung?” Vương Thấm Hinh chưa kịp phản ứng thì nàng đã quay đầu đi thẳng.
“Nương nương”, Thượng Vô Câu ở trong cung đã rất nhiều năm nên không thể không tinh ý, qua ánh mắt chất chứa đầy suy tư của Hoàng thượng mấy ngày nay thì hiểu được rằng Hoàng thượng vẫn còn rất quyến luyến đối với vị hoàng hậu cùng lớn lên từ nhỏ nhưng đã bị phế truất nhiều năm này. Đã như vậy thì lúc này việc lấy lòng y đối với hắn chỉ trăm lợi mà không hề có một mối hại, nhưng hắn tự nhận sống lâu nhiều kinh nghiệm nhưng vẫn không thể hiểu được tác phong của vị chủ nhân cung Trường Môn.
“Vương mỹ nhân rất được Thánh thượng sủng ái, nương nương cần gì phải làm cô ta mất mặt như vậy?”
Trần A Kiều nhìn hắn một hồi rồi mới lên tiếng, “Đa tạ Thượng công công đã quan tâm, dĩ nhiên ta biết suy nghĩ.”
Bên trong cung Trường Môn, đám người Lục Y đã được tha, quỳ gối trước cửa cung khóc rưng rưng, thấy Trần A Kiều từ xa đi tới thì không ngừng cúi đầu bái lạy.
“Các ngươi lạy ta làm cái gì?” Trần A Kiều cảm thấy rất phiền hà.
“Nương nương vì mấy người nô tài mà đi gặp Hoàng thượng cầu xin, cả đời nô tài khó quên ân đức này!” Thành Liệt nghẹn ngào nói, đám người còn lại đều lên tiếng phụ họa.
“Các ngươi quên là do ta lén xuất cung mới làm các ngươi bị liên lụy rồi sao”, Trần A Kiều dở khóc dở cười.
“Chủ nhân không sai, nhất định là lỗi của nô tỳ”, Mạc Sầu khóc lạy.
Trần A Kiều bất đắc dĩ phất tay, “Các ngươi đứng lên hết cả đi.” Nàng biết tư tưởng thờ phụng chủ nhân đã như dấu ấn khắc sâu vào lòng những người này, một mình nàng không thể thay đổi được. Điều nàng có thể làm chỉ là cố gắng hết sức đối xử với bọn họ thật tử tế để bày tỏ tấm lòng. Nàng trở lại điện Bát Nhã thì Lưu Lăng đã ngồi ở trong đó, quay đầu lại trêu chọc: “Muội chỉ đường cho cô bé quàng khăn đỏ đi gặp sói xám nhưng không lường trước được rằng vẫn có thể trở về lành lặn thế này.”
Trần A Kiều nóng bừng mặt, thấy các nô tỳ đang mải dọn dẹp khắp nơi không chú ý thì mới yên tâm bảo, “Các ngươi quỳ cũng lâu rồi, mau lui xuống nghỉ ngơi đi.”
“Dạ!”, tất cả khom người lui ra.
“Muội chỉ biết nói tỷ, còn muội thì sao?” Trần A Kiều ngồi xuống sát bên, trả đũa, “Nếu như nói Quách Giải là hoa hồng đỏ của muội, Ngũ Bị là hoa hồng trắng của muội thì muội nguyện ý để trăng sáng chiếu đầu giường hay là vẫn giữ nốt chu sa trước ngực đây?” Khi còn trên đường từ Tức Mặc trở về cung, nàng đã nhận ra Quách Giải có tình ý với Lưu Lăng và âm thầm tiếc thay cho Mai Ký Giang, một cô gái xinh đẹp khéo léo như vậy nhưng rốt cuộc để tấm chân tình trôi theo dòng nước.
“Tỷ nói lăng nhăng gì đấy?” Lưu Lăng nhảy dựng lên cù vào nách nàng cho đến khi nàng xin tha mới thôi, “Thiến Nhi thích Ngũ Bị.”
“Nhưng người hắn thích chính là muội”, Trần A Kiều khẳng định.
“Chuyện của muội cũng không quan trọng”, Lưu Lăng đảo mắt một vòng trên người nàng, nhìn chằm chằm vào đôi môi rồi nháy mắt, “Môi sưng phồng lên, hi hi, làm chuyện xấu phải không?”
Trần A Kiều quyệt tay lên miệng, nhăn nhó, “Thấy rõ như vậy sao?”
Nếu thế thì vừa rồi sư phụ cũng đã nhận ra rồi. Nàng trầm tư, thuận miêng, “Phải rồi, tỷ vừa mới thương lượng với y về việc chế tạo thuốc nổ để tiếp tục ở lại cung Trường Môn.”
“Phụt…” Lưu Lăng đang uống trà phun một ngụm. “Tỷ điên rồi à?” Nàng trợn tròn mắt, nghiêm giọng, “Một khi có thuốc nổ thì sẽ tiến đến thời đại vũ khí nóng, không biết rồi y sẽ đánh tới đâu?”
“Tỷ đâu có nói là thực sự phải làm ra thứ ấy…” Trần A Kiều nhún vai, “Cũng không phải tỷ không hiểu đạo lý chim hết thì cất cung, thỏ chết thì thịt chó săn nhưng chúng ta sầu não trong cung Trường Môn cũng quá lâu rồi…”
Thành Tức Mặc xảy ra biến cố vào năm Nguyên Sóc thứ sáu, nhưng nhờ hai nàng biết trước lịch sử mà kết quả đảo ngược. Tuy nhiên thảm cảnh “Nhất tướng công thành vạn cốt khô” vẫn làm cho các nàng nản lòng thoái chí, vì thế nên mới cố gắng an phận thủ thường, nghỉ ngơi dưỡng sức trong khoảng thời gian đầu quay đầu về Trường Môn.
Sở Trang vương không dự triều chính ba năm, không hề có hành động gì chính là vì như vậy. Chim hạc không bay thì thôi, nếu đã bay sẽ lên đến tận trời. Tuy không gáy nhưng nếu gáy sẽ khiến cho người ta kinh hãi.
“Đúng rồi”, Lưu Lăng chớp mắt, “Ngũ Bị nói rằng, nghĩa mẫu và nghĩa đệ của tỷ đều trở về kinh rồi.”
“Thật không?” Rốt cục cũng nghe được một tin vui làm Trần A Kiều tươi tỉnh hẳn.
“Nhưng muội vẫn cảm thấy không an lòng”, Lưu Lăng nhắm mắt, trầm ngâm, “Giờ nếu tỷ dẫn Mạch Nhi về Trường Môn”, nàng chỉ về hướng điện Tiêu Phòng, “Vệ Tử Phu không thể nào không kiêng dè, cô ta mà ngầm hành động gì đó thì cũng khó có thể phòng bị.”
“Nếu muốn người không biết thì mình đừng làm.” Trần A Kiều lại không hề để ý, “Lúc này cô ta như chim phải tên thấy cành cong cũng sợ, che giấu hành tung còn không kịp, tạm thời không dám tìm tỷ gây phiền phức đâu.”
“Sóng gió phế hậu năm đó, theo tỷ đoán”, Trần A Kiều nhìn sang Lưu Lăng. “Là do Hoài Nam quận chúa Lưu Lăng và Vệ Tử Phu bắt tay nhau sắp đặt, lại vừa đúng phù hợp với tâm tư của Hoàng thượng.” Hiện giờ Lưu Lăng đã đổi hẳn sang chiến tuyến khác, cộng thêm Lưu Triệt cũng mơ hồ thay đổi thái độ nên khiến Vệ Tử Phu cảm thấy bất an, lúc này sẽ cực kỳ thận trọng trong cả lời nói lẫn việc làm. Dù sao nàng ta đã ở địa vị cao, cũng không muốn để chuyện quá khứ chôn vùi tất cả.
“Cho nên, hiện giờ điều Vệ Tử Phu muốn làm tuyệt đối không phải là tấn công mà là phòng thủ. Cô ta sẽ nghĩ mọi biện pháp để xóa đi những dấu vết của sự kiện năm Nguyên Quang thứ năm.”
Lưu Lăng là người trong cuộc, tuy không rõ lắm nội tình lúc đầu, nhưng nàng vừa nghe qua là đã hiểu, bèn hất cằm, “Cho dù là cô ta hiểu được như thế thì cũng không chịu ngồi yên chờ chết, đến khi làm chuyện xóa dấu vết, nhất định sẽ lưu lại dấu vết mới.”
Trần A Kiều cười lảng, thầm thở dài trong bụng. Hiện giờ đứng ở vị trí khách quan để tỉnh táo xem xét, nàng cũng không cho lựa chọn năm đó của Vệ Tử Phu là sai lầm. Khi xưa lúc còn là hoàng hậu, A Kiều cũng chưa từng đối xử tốt với Vệ Tử Phu. Người kia được thế nhân truyền xướng là cô gái “Sinh nữ không giận, sinh nam không mừng”, có thể yên ổn làm hoàng hậu của Lưu Triệt tại cung Vị Ương ba mươi tám năm, nếu không có lấy một chút tâm cơ thì mới là kỳ lạ. Hậu cung từ xưa vẫn như chiến trường mà ngôi vị hoàng hậu chính là vùng giao tranh của các phi tần. Chiến trường không phải là nơi để nói nhân nghĩa đạo đức, chỉ có thắng làm vua thua làm giặc, chỉ khác là ở đây không có khói lửa chiến tranh và vị trọng tài cuối cùng chính là Hoàng đế. Cho dù nói năm xưa Vệ Tử Phu ngấm ngầm bắt tay với Lưu Lăng để đánh đổ Trần A Kiều khỏi ngôi vị hoàng hậu là hợp với tâm tư Lưu Triệt, nhưng Lưu Triệt dù sao vẫn có chút kiêng kỵ đối với việc người trong cung đùa giỡn với quyền lực.
Khó đoán nhất chính là lòng dạ đế vương. Trần A Kiều trầm tư một hồi rồi dứt khoát gạt đi. Nếu như không vì bất đắc dĩ phải đứng ở vị trí khó khăn này, nàng không hề muốn làm kẻ địch với Vệ Tử Phu. Nhìn từ góc độ khác thì lúc này thật sự là một thời kỳ vĩ đại, ca cơ có thể làm hoàng hậu, chăn ngựa có thể làm tướng quân, thế nhưng vì những nguyên nhân bất đắc dĩ vẫn phải phá hủy câu chuyện thần thoại này thôi.
“Sau khi ta đến cung Cam Tuyền thì Triệt Nhi rất lãnh đạm với ta, cho nên ta rất buồn khổ. Sở Phục nói nếu làm một cuộc hành lễ cúng bái thì có lẽ sẽ thay đổi được tình hình.” Điều này là trước kia A Kiều nói cho Nhạn Thanh. Trong ký ức của nàng, nữ vu sư Sở Phục đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc A Kiều bị phế vào năm thứ năm Nguyên Quang là một người có gương mặt tròn trịa và đôi mắt u buồn.
“Hoàng hậu nương nương, cúng bái hành lễ trong cung là việc bất kính. Huống chi, đây là một cuộc cúng bái hành lễ mà không ai có thể nói rõ hậu quả.” Cuối cùng đọng lại là tiếng thở dài của Sở Phục.
Năm Nguyên Quang thứ năm, Sở Phục bị xử chém ngang hông.
Năm Nguyên Quang thứ năm, Trần A Kiều bị bãi lui về Trường Môn, sau đó lại bị đuổi gϊếŧ.
Năm Nguyên Quang thứ năm, Hàn Nhạn Thanh xuyên không tới triều Tây Hán.
Cũng vào năm đó, A Kiều qua sông đốt thuyền nhưng lại chuốc lấy cơn thịnh nộ của Lưu Triệt, cuộc cúng bái hành lễ đó coi như bị chôn vùi trong cát bụi lịch sử.
“Lăng Nhi”, A Kiều hơi chần chừ, “Muội còn nhớ chuyện của Sở Phục không?”
Lưu Lăng lắc đầu, “Tỷ biết muội đã bị mất ký ức mà. Chẳng qua”, nàng suy nghĩ một lát, “Người năm đó đi theo muội đến kinh thành là Lôi Bị. Muội đã từng nghe nói, dường như Sở Phục có liên quan đến cả muội và Vệ Tử Phu.”
“Như vậy”, Trần A Kiều nheo mắt, “Phải có chuyện gì đó mới khiến cho một nữ vu sư một lòng chuyên tâm đ*o thuật biết rõ rằng phải chết mà vẫn muốn mưu hại một vị hoàng hậu chứ?”
Việc xuyên không của bốn người bọn họ rốt cuộc là do lực lượng nào? Thời kỳ đầu triều Hán cực kỳ sợ hãi thuật Vu cổ, dù là ngang ngược như Trần A Kiều cũng không có dũng khí nếm thử. Cuộc cúng bái hành lễ năm đó cuối cùng lại biến thành Vu cổ. Trên thực tế, biến cố vào năm Nguyên Quang thứ năm kia là vết sẹo mà Trần A Kiều, Lưu Lăng cho tới Vệ Tử Phu đều không muốn chạm vào. Một người con gái vốn không phải có thiên tính thích đùa bỡn quyền thế. Cả ba người con gái sau biến cố kia đều đã dần trưởng thành.
Vậy còn Lưu Triệt? Người đàn ông mà ba người con gái cùng yêu năm đó bàng quang quan sát tất cả mọi chuyện, chẳng biết có giống như coi diễn trò hay không? Xét theo một khía cạnh nhất định, chẳng phải vị đế vương đầy tâm cơ đó đã hiểu rõ các nàng như lòng bàn tay?Quyển 2 - Chương 31: Oa này tàn hết chẳng còn hoa“Nô tài phụng mệnh Trần nương nương đưa trà Minh Tiền tốt nhất Trường Môn tới dâng Hoàng thượng nếm thử.” Nội thị cung Trường Môn là Thành Liệt quỳ trong điện Tuyên Thất, dập đầu bẩm.
“Ồ, trà Minh Tiền”, Lưu Triệt cảm thấy rất thú vị với cái tên này, “Tên đúng là không tồi.”
“Trà này nghe nói được chế biến từ những búp trà non nhất hái trước dịp Thanh minh, lá trà xanh biếc còn nguyên răng cưa, nước trà trong vắt, do đó mới có tên là trà Minh Tiền.”
“Dương Đắc Ý!” Lưu Triệt quay sang bảo: “Pha trà Minh Tiền uống thử xem.”
“Dạ!” Dương Đắc Ý khom người đáp, tiến lên đón lấy.
“Dương công công hãy nhớ kỹ căn dặn của nương nương nhà tôi”, Thành Liệt cúi đầu nói thêm, “Nấu nước pha trà phải dùng nước suối loại tốt nhất, đun lửa thật to cho sôi sủi bong bóng lên rồi rót vào ấm, khoảng bảy phần nước là vừa, sau một lát là uống được.”
“Ngươi cũng nhanh nhẹn đấy”, Lưu Triệt nhìn lại.
“Đó là lời Trần nương nương dặn nô tài khi dâng trà lên điện Tuyên Thất.”
Lát sau, trà Minh Tiền đã được mang lên. Lưu Triệt nâng chén trà, thấy nước trong chén màu xanh ngắt, lá trà nhỏ xanh nõn bằng nhau chằn chặn, xếp san sát trông rất sống động, hương thơm thanh thoát nồng đậm như mùi hoa lan thì không khỏi tặc lưỡi khen ngon.
Thành Liệt nói: “Nương nương còn dặn nô tài xin ý chỉ của Hoàng thượng rằng ngày mồng mười tháng tới là sinh nhật Trưởng công chúa Quán Đào, nương nương hy vọng có thể dẫn hai vị điện hạ tới phủ Đường Ấp hầu chúc thọ để thể hiện lòng hiếu thảo.”
“Thế à?” Lưu Triệt chững lại, hơi nheo mắt, “Hiếu đứng đầu trong trăm việc thiện, Trần hoàng hậu có ý đó thì trẫm rất vui lòng, đâu có lý gì lại không cho phép chứ?”
Lưu Triệt nhấp một ngụm trà Minh Tiền, quả nhiên thấy vô cùng thanh dịu, hương thơm còn đượm mãi nhưng y đã không còn lòng dạ nào thưởng thức trà, đặt luôn chén xuống, phất tay, “Ngươi lui xuống trước đi.”
“Dạ.” Thành Liệt cung kính bái chào.
Ngày mồng mười tháng Mười năm Nguyên Sóc thứ sáu chính là sinh nhật lần thứ sáu mươi của Trưởng công chúa Quán Đào. Trưởng công chúa đã kinh qua ba triều đại nên danh tiếng vang dội khắp kinh thành. Mặc dù mang nhiều điều tiếng về việc A Kiều bị phế ngôi hoàng hậu nhưng Lưu Triệt vẫn nhớ tình nghĩa năm xưa có công phò trợ y lên ngôi nên vẫn đối xử tử tế với Đường Ấp hầu. Vì vậy, tuy không còn sức ảnh hưởng như trước nhưng Trưởng công chúa Quán Đào vẫn là một nhân vật không thể bỏ qua ở chốn kinh thành. Đến ngày sinh nhật, rất đông khách khứa xếp hàng dài đợi trước cửa phủ, ngựa xe như nước.
“Khách đã đến đủ chưa?” Em trai thứ của Đường Ấp hầu Trần Việt ra trước cửa phủ hỏi.
“Bẩm nhị thiếu gia, cũng tới sáu bảy phần rồi ạ.” Trần Lăng khom người đáp.
Đúng vào lúc đó, một chiếc xe từ góc phố chạy ra, hai con ngựa kéo xe toàn thân trắng như tuyết, chỉ có một điểm đen trên móng, to khỏe khác thường. Xe ngựa dừng lại trước cửa phủ Đường Ấp hầu mà chẳng làm bốc lên một tý bụi nào, hai bên xe có khảm phù hiệu riêng của cung đình.
“Đây rồi!” Trần Thương vui mừng ra lệnh cho lính gác cổng, “Mở rộng cổng phủ ra!”
Xe ngựa chạy thẳng một mạch đến nội viện mới dừng lại. Trần Thương bước lên chào, “Cung đón nương nương về phủ.”
Trần A Kiều ngồi trong xe khẽ lên tiếng đáp lời, đợi hai đứa bé và Lưu Lăng xuống xe xong mới cầm một chiếc đèn giấy vén rèm, nhìn Trần Thương cười dịu dàng, “Bao năm rồi không gặp, Tam ca vẫn mạnh khỏe chứ?”
Theo thứ hạng con cháu trong phủ Đường Ấp hầu thì Trần Thương đứng thứ ba, lúc này hắn nhìn người con gái từ trên xe bước xuống, cảm giác bồi hồi. Mặc dù không phải cùng mẫu thân sinh ra nhưng Trần Thương biết rõ về vị tiểu thư bảo bối độc nhất của Trần phủ này. A Kiều được quá nhiều sủng ái nên sinh tính kiêu căng ngang ngược, trước mặt Hoàng thượng cũng không nhượng bộ lấy một li nên kết quả là bị bãi về Trường Môn. Theo hắn đây cũng không phải là chuyện ngẫu nhiên. Nhưng thời gian bảy năm có thể làm thay đổi một con người đến thế này sao? Người con gái trước mắt tuy khuôn mặt vẫn ẩn chứa đầy ngạo khí nhưng thái độ thì lại rất ôn hòa, mềm mại như hoa cúc nở trong vườn vào độ chính thu.
“Hèm.” Được Trần Lãng ho khan nhắc nhở, Trần Thương mới hoàn hồn lại được, vội nói, “Trưởng công chúa đã chờ ở bên trong từ lâu rồi, nương nương hãy vào nhanh lên.”
Phủ Đường Ấp hầu tích lũy phú quý suốt trăm năm nên huy hoàng lộng lẫy không thua kém bất kỳ một phủ Hầu tước nào ở trong kinh thành.
Trần A Kiều cúi đầu, “Ta còn chưa dâng lễ chúc thọ thì làm sao dám mặt dày đi vào cơ chứ?”
“Nương nương nói quá lời, chỉ cần nương nương tới thì đã là lễ chúc thọ lớn nhất đối với Trưởng công chúa rồi.” Trần Thương đỡ lời, “Huống chi nương nương không vào thì làm thế nào dâng lễ chúc thọ được chứ?”
“Lễ chúc thọ của ta lại phải dâng lên ở bên ngoài mới được.” Trần A Kiều giơ tay đưa ra chiếc đèn cung đình. Trần Thương bấy giờ mới nhìn thấy chiếc đèn này được chế tạo bằng cách dùng giấy Tức Lam tốt và dai nhất bịt kín phần trên của đèn rồi dùng bút lông thật nhỏ viết lên trên đó gần trăm chữ Thọ lớn nhỏ không đều nhau, thiết kế cực kỳ độc đáo.
“Lăng Nhi, đưa mồi lửa cho ta.”
Trần Thương thấy nàng cầm chiếc đèn cung đình đi xuống khỏi đình viện, đến một nơi trống trải đốt lên rồi nhẹ nhàng tung lên. Sau đó trước ánh mắt trợn tròn ngạc nhiên của hắn, chiếc đèn nương theo chiều gió thổi, từ từ bay lên. Lúc này đang mùa thu, trời cao trong xanh, gió tây nhè nhẹ, chiếc đèn cứ thế trôi về hướng nội viện.
“Đây là cái gì vậy?” Một người trong nội viện nhanh mắt phát hiện ra vội hỏi.
Chiếc đèn cung đình tinh xảo bay trên không trung, ánh lửa rực rỡ làm cho chữ Thọ trên giấy càng phát sáng rõ ràng, cứ thế lững lờ theo gió cuốn về phương xa.
“Cũng không có gì đâu, đó là do Kiều Kiều nhớ tới người mẫu thân yêu thương con gái suốt bao năm mà không biết lấy gì báo đáp nên mới cố ý dành nửa tháng tự tay chế tạo chiếc đèn l*иg cung đình, viết lên trăm chữ Thọ để cầu nguyện cho mẫu thân được sống lâu trăm tuổi.” Trần A Kiều vừa bước vào phòng vừa lên tiếng.
“Việc gì phải làm thứ đồ chơi này.” Lưu Phiếu vui vẻ bước tới, khoác tay nhìn nàng trìu mến: “Thảo nào mẫu thân cứ máy mắt mãi, con đến là tốt lắm rồi.”
Bên trong phủ, mọi người trầm trồ xuýt xoa nhìn đèn cung đình càng bay càng cao. Chợt có một vị phu nhân quen thân với Trưởng công chúa Quán Đào hỏi, “Lễ chúc thọ thực sự rất độc đáo, lòng hiếu thảo của Trần nương nương thật đáng khen ngợi. Nhưng mà tiện thϊếp không hiểu được làm thế nào mà đèn lại bay lên được vậy?”
“Chiếc đèn này được gọi là đèn trời”, Trần A Kiều nhẹ nhàng đáp.
“Tương truyền rằng chỉ cần người đốt đèn trời thành tâm cầu phúc thì đèn trời sẽ bay đến tận tay Thiên đế, thực hiện một nguyện vọng của người thắp đèn.” Trưởng công chúa Phi Nguyệt Lưu Lăng quay sang giải thích cho mọi người rồi đi tới trước mặt Trưởng công chúa Quán Đào, hơi nhún mình xuống, “Phi Nguyệt chúc Trưởng công chúa phúc như Đông Hải, thọ tỷ Nam Sơn.”
“Đa tạ Trưởng công chúa Phi Nguyệt”, Lưu Phiếu đáp lễ. Bà nhìn cháu gái ngoại Lưu Sơ đang túm tay áo A Kiều và Lưu Mạch bên cạnh nàng rồi âu yếm gọi, “Mạch Nhi, Sơ Nhi, đến đây với bà nào.”
“Bà ngoại”, Lưu Sơ buông tay áo mẫu thân rồi nhào vào trong lòng bà ngoại.
“Kiều Kiều”, Lưu Phiếu bế cháu ngoại, giọng bùi ngùi, “Hôm nay mẫu thân đã ngần này tuổi rồi, chỉ cần con cùng Mạch Nhi, Sơ Nhi cùng các anh của con có thể luôn ở bên cạnh là mẫu thân tâm rồi. À, còn cả Yển Nhi nữa.” Bà quay đầu lại nhìn vào con trai nuôi Đổng Yển đang đứng ở phía sau, nói thêm một câu trấn an.
“Mẫu thân”. Trần A Kiều cảm động, nép sát vào người Lưu Phiếu, mặc dù nàng biết rõ khát vọng quyền lực trong lòng người phụ nữ cao quý từng trải qua ba triều đại Văn, Cảnh, Vũ Đế này căn bản không bao giờ ngừng nghỉ, nhưng giờ khắc này vẫn cảm động trước tình mẫu thân yêu con chân thành của bà. Nàng nhớ lại cảnh nhiều năm về trước, A Kiều đội mũ phượng đi ra ngoài phủ Đường Ấp hầu, ngồi lên long xa rước dâu còn Lưu Phiếu thì nhòa lệ đưa tiễn. Nàng cũng nhớ lại ở một thế giới khác, Nhạn Thanh nhiều lần nửa đêm tỉnh mộng, thấy mẹ ngồi ở đầu giường thở dài, ánh mắt ai oán. Rất nhiều lần Nhạn Thanh muốn hỏi mẹ rằng cứ nhớ nhớ thương thương người đàn ông đã bỏ rơi mình thì có đáng không? Thế nhưng nàng còn chưa kịp hỏi thì mẹ nàng đã ra đi mãi mãi. Khi đó nàng đã thề với lòng mình rằng đã sinh ra làm thân con gái nhất quyết không chịu cảnh Kim ốc tàng Kiều.
Thế sự xoay vần, vận mệnh lại đưa nàng tới nơi này, phục sinh làm con gái của Lưu Phiếu. Lưu Phiếu thì lại hy vọng nàng sẽ gánh vác trọng trách chấn hưng gia tộc, sống mãi trong cái thời đại lịch sử đã tạo nên giai thoại Kim ốc tàng Kiều tuyệt đẹp nhưng lại phải ở bên cạnh người đàn ông đã tự tay hủy hoại mình.
Đã sinh làm thân con gái nhưng nhất quyết không chịu cảnh Kim ốc tàng Kiều. Lịch sử tựa như cát bụi, nào ai còn nhớ rằng bốn chữ “Kim ốc tàng Kiều” vốn là lời thề một người đàn ông dành cho người vợ chính thức của mình.
Trần A Kiều ngồi trong lầu Mạt Vân nơi mình thường ở trước khi tiến cung, nghe ngoài viện ăn uống linh đình. Đình viện mùa thu râm mát, ánh mặt trời nghiêng nghiêng chiếu xuống, những chiếc bồn lớn bên song cửa sổ nở đầy hoa cúc.
“Ngắm cúc ăn cua. Đáng tiếc là thời nay vẫn chưa có phong tục luộc cua.” Lưu Lăng vừa nằm vừa nói bâng quơ.
“Muốn ăn cua à.” Trần A Kiều vừa rót rượu vừa nói: “Tự mình làm đi. Chờ ai đem đến cho muội nữa?”
A Kiều ngả người trên chiếc trường kỷ mới bảo làm, mái tóc dài buông xõa, vẻ mặt mệt mỏi. “Ở nơi này cũng tốt, ít nhất là tạm thời không phải lo bị người tính kế, bày đặt ra cái trò gì đó.” Lúc nói vậy, nàng không hề biết rằng ngay cả mong ước nhỏ nhoi đó cũng không thể thực hiện trong ngày hôm nay.
Trưởng công chúa Quán Đào đang ngồi ghế chủ tọa trên sảnh đường mỉm cười xã giao chào khách, chợt thấy Trần Lãng bước nhanh đến gần, sắc mặt có vẻ hoảng hốt thì tỏ ý không vui hỏi: “Có chuyện gì?”
“Trưởng công chúa”, Trần Lãng vẻ mặt kỳ lạ, nói khẽ: “Hoàng thượng tới, vừa vào phủ xong.”
“Cái gì?” Lưu Phiếu lập tức bình tĩnh lại, đứng lên mỉm cười nói với các quan khách, “Các vị cứ dùng bữa, ta ra ngoài một lát.” Bà đưa mắt nhìn Trần Lãng rồi cấp tốc rời khỏi tiệc đi vào hậu phủ, quả nhiên thấy Hoàng đế đang đứng ở trên hành lang có thủ lĩnh thị vệ là Mã Hà La và Ngự tiền tổng quản Dương Đắc Ý theo hầu giá.
“Cô cô”, Lưu Triệt quay đầu lại nói: “Cô cô hôm nay làm lễ mừng thọ, Triệt Nhi tới đây xin uống chén rượu. Cô cô có nể mặt hay không?”
“Hoàng thượng nói gì chứ?” Lưu Phiếu vui vẻ, “Hoàng thượng tới đây là cô cô hết sức vinh hạnh rồi.” Bà xoay người lại ra lệnh, “Người đâu, bày một bàn tiệc rượu ở đình Viễn Tương rồi mời Hầu gia và mấy vị thiếu gia tới.”
“Triệt Nhi trước đây đã tới Hầu phủ nên chắc chắn biết rằng”, Lưu Phiếu xoay người lại nhìn Lưu Triệt và nói đầy ý tứ sâu xa, “đình Viễn Tương là nơi trang trọng nhất của phủ Đường Ấp hầu. Kể ra cũng lạ, sau khi Sơ Nhi về phủ ở một đêm vào năm ngoái thì hoa cúc của phủ Đường Ấp hầu năm nay nở rất nhiều. Đình Viễn Tương là nơi ngắm hoa cúc tốt nhất.”
Lưu Triệt gật đầu, “Như vậy thì xin làm phiền cô cô.”
Trong đình Viễn Tương của phủ Đường Ấp hầu.
“Thần, Trần Việt, Trần Thương, Trần Chẩn tham kiến Hoàng thượng.”
Lưu Triệt ngồi trong đình, bình thản, “Các vị biểu huynh, mời đứng lên đi.”
“Tạ ơn Hoàng thượng.”
Đường Ấp hầu Trần Việt dẫn hai đệ đệ bước lên đình, khom người hành lễ, “Thánh giá tới phủ Đường Ấp hầu mà thần không nghênh đón từ xa, thật là có lỗi.”
“Là do trẫm không cho người nhà vào báo, Việt biểu huynh có tội gì chứ?” Lưu Triệt nhướng mày, phất tay, “Hôm nay trẫm tới mừng ngày sinh của cô cô chứ không phải để cho cả nhà cô cô phải đón trẫm. Các vị biểu huynh, ngồi xuống đi.”
Trần Việt lại cáo tội một lần nữa rồi mới ngồi xuống, “Thật ra trong cung Vị Ương thứ gì cũng có, hôm nay Hoàng thượng đến thăm thì thần cũng không dám khoe khoang. Duy chỉ có Bích Nhưỡng Xuân là do Trần nương nương biết thần thích rượu ngon nên đặc biệt đưa tới, có thể cùng với rượu Đào Hoa Trang ở Hoài Nam xưng là thiên hạ song tuyệt. Hoàng thượng nhất định phải nếm thử.”
“Ô?” Lưu Triệt ngẩng đầu, “Những thứ kỳ lạ mà A Kiều dùng thì trẫm đã lĩnh giáo rồi. Hôm nay nàng mang theo Mạch Nhi, Sơ Nhi trở về phủ chúc thọ sao còn có thể quấy rầy Đường Ấp hầu?”
“Điều này…” Trần Việt cẩn thận liếc qua sắc mặt mẫu thân ngồi bên tay trái Hoàng đế, đắn đo, “Trần nương nương sinh ra trong phủ Đường Ấp hầu, gia mẫu vô cùng yêu thương, tất cả bày biện trong phủ vẫn giữ như trước, đâu thể nói đến hai chữ quấy rầy.”
Mọi người đang nói chuyện thì người hầu của Hầu phủ đã mang Bích Nhưỡng Xuân tới rót mời, Dương Đắc Ý thử độc xong liền dâng lên cho Lưu Triệt.
“Quả nhiên là rượu ngon”, Lưu Triệt nâng chén rượu trong tay lên nhấp thử một ngụm, thấy chất rượu trong vắt, hương thơm ngào ngạt thì thật lòng khen ngợi.
“Nói như vậy”, y hơi nghiêng người, nhìn về chỗ lầu Mạt Vân, nơi Trần A Kiều hiện giờ đang ở, giơ chén lên uống một hơi cạn sạch. “A Kiều bây giờ đang ở bên kia?”
“Đúng vậy.”
Bích Nhưỡng Xuân vào miệng lại biến thành ngọt, dư vị lắng mãi, Lưu Triệt bất giác uống thêm mấy chén, mỉm cười quay sang định nói chuyện với Trưởng công chúa Quán Đào thì chợt thấy ngứa sau gáy, Dương Đắc Ý bên cạnh thét lên kinh hãi, “Hoàng thượng…”
“Rượu có độc?” Mã Hà La lạnh lùng lên tiếng, lập tức rút bội kiếm ra khỏi vỏ.
“Rượu của phủ Đường Ấp hầu không thể nào có độc.” Lưu Phiếu giận tái mặt, dáng điệu uy nghiêm. Khí thế của một công chúa đã từng trải qua ba triều khiến Mã Hà La không dám tiến lên, nhìn sang Lưu Triệt thì thấy y lên tiếng, “Chuyện không có gì đáng lo.” Y đưa tay sờ thì thấy trên cổ nổi lên mấy mẩn đỏ, không lâu sau thì lác đác trên mặt cũng có vài chỗ.
“Thật giống như là… bệnh sởi.”, Dương Đắc Ý do dự nói.
Huynh đệ Trần Việt, Trần Thương liếc mắt nhìn nhau rồi Trần Thương bật kêu “a” một tiếng.
“Có chuyện gì vậy?” Lưu Triệt cau mày vẻ không vui.
“Lúc Đại tư nông Tang Hoằng Dương đưa rượu đến phủ đã từng nói đùa rằng Mạch… Hoàng tử trưởng điện hạ không thể uống được rượu này. Khi mới tới điện Trường An, điện hạ đã từng uống thử một lần, kết quả là cả người nổi mẩn, phải được A Kiều chữa mới khỏi.” Trần Thương vừa nói tiếp vừa ngầm liếc về phía Lưu Triệt, hạ giọng, “Hoàng thượng và Hoàng tử trưởng là cha con, nói không chừng…”
“Không thể có khả năng này.” Dương Đắc Ý lên tiếng, chất giọng đã eo éo càng thêm cao lanh lảnh. “Hoàng thượng chưa từng kiêng rượu. Trước đây cũng chưa từng xảy ra chuyện như thế này.”
“Có thể là”, Trần Việt do dự, “Nghe nói Bích Nhưỡng Xuân là rượu được chưng cất ra, nồng độ mạnh hơn rượu thường rất nhiều nên Hoàng thượng mới bị phản ứng.”
“Giai Nghê”, Lưu Phiếu lập tức quyết đoán ra lệnh, “Mau đến lầu Mạt Vân thông báo cho Trần nương nương bảo nương nương chuẩn bị tất cả các loại thuốc để trị liệu chứng bị nổi mẩn do uống rượu. Hoàng thượng”, bà quay sang Lưu Triệt, “Thường nghe nói nổi mẩn không được ra gió. Trong đình Viễn Tương gió lớn quá, kính xin ngự giá rời đến lầu Mạt Vân.”
“Uống rượu nổi mẩn?” Trần A Kiều nghe thị nữ Giai Nghê bẩm báo xong thì há hốc miệng. “Hoàng thượng trước kia cũng không kiêng rượu…” Nàng còn chưa dứt lời thì đã nghĩ ra điểm mấu chốt trong đó, phất tay, “Ta biết rồi, ngươi đi xuống lấy chút Cam thảo và Đỗ hành, Cát hoa, Hoắc hương rồi mang tới đây.”
“Dạ!” Giai Nghê cúi người chào rồi nhón bước lui ra, lúc đi qua còn tròn mắt lạ lùng nhìn Lưu Lăng đang ôm bụng cười ngặt nghẽo.
“Muội làm ơn kiềm chế một chút đi.” Trần A Kiều trừng mắt nhưng bản thân cũng không nhịn được cười.
“Mẫu thân”, Lưu Sơ bĩu môi, “Chỉ là uống rượu nổi mẩn thôi mà, ca ca cũng từng bị như thế, có gì đáng buồn cười đâu chứ?”
“Tảo Tảo”, Lưu Mạch gắt lên vẻ lúng túng.
“Không sai. Uống rượu nổi mẩn thì không có gì buồn cười, nhưng mà”, Lưu Lăng dễ dàng tránh khỏi tay của A Kiều nói ra câu tiếp theo, “người uống rượu nổi mẩn lại không đúng.” Nàng tưởng tượng tới hình dạng Hán Vũ Đế Lưu Triệt lừng lẫy trong lịch sử bị nổi mẩn toàn thân thì lại cười phá lên.
“Lăng Nhi có chuyện gì buồn cười hay sao?” Từ ngoài cửa truyền vào thanh âm lạnh nhạt.
Lúc y tiến vào thì Lưu Lăng vẫn còn đang cười, cuối cùng mới dần dần ngừng lại, ngồi trên ghế khẽ ngẩng đầu lên nhìn về phía Lưu Triệt được Trưởng công chúa Quán Đào và Dương Đắc Ý tháp tùng đang đi tới trước lầu.
Khi A Kiều quay đầu nhìn lại thì Lưu Triệt đã vào đến trong lầu, vì ngược sáng nên không rõ sắc mặt. Mặc dù y bị nổi mẩn đỏ trên mặt nhưng vẫn tỏ thái độ bình thản chứ không cuống quýt như Mạch Nhi lần trước, nhìn qua cũng không mất đi bao nhiêu vẻ tuấn tú. Nói cho cùng thì Hán Vũ Đế Lưu Triệt cũng chỉ là một người bình thường. Nàng khép mắt, đột nhiên thấy ý nghĩ thông thoáng, xóa bỏ đi những sợ hãi đối với y vẫn ăn sâu tận đáy lòng.
“Nương nương”, Giai Nghê chạy vào bẩm, “Toàn bộ thuốc nương nương cần đã được chuẩn bị xong.”
“Tốt. Để thuốc đó rồi lui xuống đi”, Lưu Phiếu ra lệnh.
“Dạ.”
“Công chúa Phi Nguyệt, lúc trước nghe Đồ phu nhân nói có một số chuyện về cháu, ta cũng có chút hứng thú.” Lưu Phiếu lại quay sang Lưu Lăng, “Nếu cháu không ngại thì đi qua đây nói chuyện riêng với ta.”
Lưu Lăng hiểu ý của bà, liếc nhìn A Kiều rồi gật đầu, “Đại trưởng công chúa đã nói vậy thì cháu nào dám không tuân mệnh?”
“Mạch Nhi, Sơ Nhi, các cháu cũng đi theo luôn.”
Trần A Kiều buồn bực nhìn mẫu thân dẫn hết tất cả mọi người ra khỏi lầu Mạt Vân. Dương Đắc Ý cũng khẽ khàng lui ra, không quên cẩn thận khép cửa lại.
Trong khoảnh khắc, trong lầu Mạt Vân chỉ còn có hai người.
Lưu Triệt không nói gì, bước nhẹ đến bên cửa sổ, ở đó có đặt một cây đàn cổ rất tinh xảo. “Kiều Kiều”, Lưu Triệt vuốt ve thân đàn, “Trẫm nhớ rằng nàng hồi còn bé đã từng học đàn một thời gian nhưng không yêu thích, thậm chí còn đập cả cây cây đàn Thính Tuyết này xuống đất, trên giá cây đàn vẫn còn lưu lại dấu vết từ lúc ấy.”
“Không đúng, là ở trên thân đàn, dấu vết đó còn lưu ở phía bên tay trái.” Trần A Kiều lắc đầu, “Có thể là do quá lâu rồi nên Hoàng thượng nhớ sai đó.”
“Vậy à”, Lưu Triệt đáp khẽ rồi sờ qua bên trái thân đàn, cảm giác lồi lõm, quả nhiên có dấu tích.
“Khi đó, nàng học đàn, trẫm học địch[1], dường như rất bướng bỉnh khiến sư phụ tức uất lên.”
[1] Địch: Cây sáo thổi ngang gọi là địch.
“Rõ ràng Hoàng thượng thông minh hơn A Kiều nhiều, sao lại phải khiêm nhường như thế chứ?” Trần A Kiều lơ đãng cúi người xuống, “Tạ sư phụ dạy đàn vẫn thường nói chỉ cần thϊếp có được một nửa trí thông minh và lòng kiên nhẫn của Thái tử đã là tốt lắm rồi.”
Lưu Triệt im lặng, một hồi lâu mới xoay người nhìn nàng như nghĩ đến điều gì, “Khi còn bé, Kiều Kiều ghét nhất là đọc sách, thế mà bây giờ lại nhớ được dược tính của các loại dược liệu.” Y nhìn A Kiều bắt đầu đong đếm phối hợp các loại dược liệu rồi tiến hành chế biến, nói vẻ bâng quơ.
“Khi còn bé, Triệt Nhi cũng là một cậu bé rất ngây thơ đáng yêu, nhưng bây giờ biến thành cực kỳ lạnh lùng đa nghi. Con người phải thay đổi, nếu không thì làm sao trưởng thành được chứ?”
“Ngồi xuống đi”, nàng chỉ vào chiếc ghế, huơ huơ thảo dược trong tay, “Xức thuốc”
“A Kiều tỷ”, Lưu Triệt cũng không tức giận, gọi nàng một tiếng rồi mới ngồi xuống ghế, nhắm mắt lại, “Triệt Nhi vẫn thích được nàng gọi mình là Triệt Nhi.”
Cánh tay nàng chợt run rẩy, thiếu chút nữa bị nét tĩnh lặng trong ánh mắt luôn sắc bén của người đàn ông này, ít nhất là trong khoảnh khắc vừa rồi, đã nói thật với lòng mình.
“Bát nước đổ đi khó lấy lại.” Nàng mím môi, “Quá khứ vẫn là quá khứ, xưng hô thế nào thì còn phải do tình cảm.”
…
“Đàn cho trẫm một khúc.”
“Sao? Yêu cầu này là Hoàng thượng lấy thân phận đế vương ra lệnh cho thϊếp sao?”
“Kiều Kiều”, y mở mắt ra, ánh mắt lóe lên sắc bén, “Nàng chớ quên rằng trẫm vẫn là phu quân của nàng.”
“A”, nàng mỉa mai, “Nếu như thế thì thϊếp cự tuyệt.”
“Kiều Kiều”, Lưu Triệt nheo mắt lại nhưng vẫn hết mực nhẫn nại, “Nàng đừng kɧıêυ ҡɧí©ɧ trẫm quá mức.”
“Hai người thỏa hiệp với nhau là vì hy vọng sẽ nhận được hồi báo từ đối phương.” Nàng nhìn thẳng vào mắt y, nói rành mạch từng chữ, “Hiện giờ thϊếp không cầu xin điều gì, cũng không có gì để mất đi, thế thì cần gì phải tự ép mình phải nghênh đón người.”
Lưu Triệt vươn tay ra nắm chặt lấy tay nàng đang định thu về, “Nhưng nếu trẫm không cho phép thì sao?”
Bàn tay Lưu Triệt rất nóng, rất kiên định, đó là một đôi tay thuộc về đế vương nhưng lại không phải là đôi tay của người đàn ông mà nàng nguyện ý yêu thương. “Hoàng thượng”, nàng nói chậm rãi, trong lòng tĩnh lặng như nước, “Thϊếp muốn gọi người đến dọn dẹp.”
Hai cặp mắt gần nhau trong gang tấc, vẫn là nét mi khóe mắt quen thuộc đó nhưng cái nhìn đã biến đổi trở nên trong veo như nước, không phải là cặp mắt luôn mang vẻ si mê trong ký ức trước kia. Lưu Triệt rốt cục đã có thể tin tưởng sự lạnh lùng xa cách với y của Trần A Kiều ngay từ khi bắt đầu trở về cung không phải là thủ đoạn lạt mềm buộc chặt mà luôn luôn phản ánh ý thức chân thật của nàng.
Theo Niếp Mông hồi báo, năm xưa, A Kiều sau khi bị trọng thương đã được một gia đình nông dân cứu và vẫn luôn ở trong thôn xóm bên ngoài thành Trường An, sau đó lần lượt gặp Tiêu Phương, Tang Hoằng Dương, Quách Giải, Liễu Duệ, mãi đến khi sinh xong Lưu Mạch, Lưu Sơ thì mới theo sư phụ Tiêu Phương trở về Đường Cổ Lạp Sơn. Lưu Triệt cúi đầu giấu đi vẻ u uẩn trong mắt. Nàng cũng không phải trải qua chuyện gì quá đặc biệt nhưng sao lại có thể có một linh hồn hoàn toàn mới như vậy chứ?
“Kiều Kiều”, y nhìn ra những mảng hoa cúc đang nở rực rỡ như gấm ở bên ngoài khung cửa sổ, “Dường như từ nhỏ nàng đã thích hoa cúc.”
“Dĩ nhiên”, Trần A Kiều mỉm cười ngâm nga:
“Đâu phải muôn hoa ưu ái cúc,
Hoa này tàn hết chẳng còn hoa.”
“Dường như hoa cúc tàn rồi còn có hoa mai mà”, Lưu Triệt nhìn nàng, ý cười hiện lên trong mắt, nói nhẹ như gió thoảng.
Thu về đóa đóa tựa Đào gia
Rộ khắp bên hiên bóng cũng tà
Đâu phải muôn hoa ưu ái cúc
Hoa này tàn hết chẳng còn hoaQuyển 2 - Chương 32: Cỏ đoạn trường là hoa phù dung“Hoàng thượng”, Dương Đắc Ý khom người hỏi, “Không còn sớm nữa, có nên lên đường hồi cung hay không?”
Lưu Triệt khẽ gãi cổ, do dự, “Vậy đi, đợi… ngày mai trở về cũng được.”
Huân hương vẫn tỏa ra thoang thoảng từ miệng con thú ngọc ở trong góc phòng. Bên ngoài lầu Mạt Vân, mặt trời đỏ rực đang khuất dần về phía tây, đổ bóng chiều lên khắp phủ Đường Ấp hầu trông đẹp đẽ mà u uẩn. Hoa cúc nhuộm dưới nắng chiều cũng ánh lên vẻ tươi đẹp mà cô liêu.
“Hoa khi nở rộ… cũng tựa không có hoa sao?”, Lưu Triệt khẽ chép miệng rồi hỏi, “Trần nương nương đâu?”
“Sau bữa tiệc chúc thọ, Trưởng công chúa Phi Nguyệt Lưu Lăng từ biệt trở về Trường Môn. Trần nương nương ra tiễn, khi quay về nói không muốn quấy rầy Hoàng thượng nghỉ ngơi, nên tự trở về chỗ của mình.”
“Không muốn quấy rầy”, Lưu Triệt lặp lại, chắp tay đi tới cửa sổ. Y thấy cây đàn Thính Tuyết vẫn nằm nguyên dưới khung cửa sổ, sạch sẽ không bám chút bụi thì đoán rằng chủ nhân tuy đã biệt ly mấy năm nhưng vẫn thường có người tới sửa sang quét dọn lầu Mạt Vân này. Năm xưa đúng là Quận chúa Đường Ấp Trần A Kiều được sủng ái hơn tất cả mọi người trong thiên hạ. Ông ngoại là hoàng đế, cậu là hoàng đế, chồng cũng là hoàng đế. Không còn có một người phụ nữ nào có thân thế oai phong hiển hách như vậy. A Kiều bắt đầu học đàn vào năm sau khi có chuyện Kim ốc tàng Kiều. Khi đó, nàng đã là thái tử phi tương lai, kiêu căng tự phụ khăng khăng không chịu học đàn. Cô cô dọa nàng, “Con gái mà không học đàn để chồng tương lai ghét bỏ thì đừng có khóc.”
Nàng liền tới tìm y, lo lắng hỏi: “Triệt Nhi, mẹ nói như vậy có phải thật hay không?”
Y mỉm cười đáp, “A Kiều tỷ, làm gì có chuyện như vậy? Triệt Nhi vĩnh viễn thích A Kiều tỷ.”
Lúc đó, y lại cảm thấy nàng kiêu căng đến độ đáng yêu. Trong cung Vị Ương đầy rẫy loại người muôn hình muôn vẻ nịnh hót bợ đỡ nhưng y biết rõ rằng người con gái kiêu kỳ tự phụ nhất Đại Hán này đối xử với y rất chân thành. Có lẽ bởi vì tính tình của nàng trong sáng ngay thẳng, liếc mắt là có thể thấy được chỗ sâu kín nhất, hoàn toàn không có một chút giả dối. Tính kiêu căng ghen tuông của nàng sau này làm y vô cùng chán ghét nhưng trong mắt y thời điểm đó thì cực kỳ thú vị, cực kỳ đáng yêu.
Lúc đầu, có lẽ y đã thích A Kiều thực sự, y vẫn nhớ mãi cô bé có gương mặt kiều diễm tựa hoa sen đã nắm tay y bên hòn giả sơn trong điện Chiêu Dương, chỉ có điều là lòng yêu thích đó bị nhấn chìm trong nỗ lực vô cùng thận trọng nhằm duy trì quan hệ với nàng. Khi đó, mẹ y mới vừa giành được địa vị hoàng hậu không lâu. Vương hoàng hậu cẩn thận căn dặn y: “Triệt Nhi, con phải nhường nhịn A Kiều không được làm cho con bé bất mãn. Bởi vì một khi con bé bất mãn đối với con thì địa vị của mẹ con chúng ta có thể bị lung lay.”
Y vẫn còn nhớ rằng thuở bé đã hết sức thông cảm với Bạc hoàng hậu bị phế vì không có con. “Chẳng qua chỉ là không có con mà thôi, tại sao lại nhất định phải bị phế đi chứ? Cữu cữu đúng thật là vô tình.” Rất nhiều năm sau chính nàng cũng tức giận hoàng gia bởi vì cái nguyên nhân tương tự như thế. Nếu hồi tưởng lại chuyện năm xưa thì có cái cảm giác cách biệt thế hệ hay không? Tại sao hai vị hoàng hậu của hai đời trước sau lại có kết cục giống nhau đến thế. Nhưng Bạc hoàng hậu bị phế là bất đắc dĩ vì không có con. Còn A Kiều thì chính là do một tay y gây ra. Cho dù là ở trong những ngày tháng gian nan nhất thì y vẫn không thay đổi quyết định này. Đơn giản là một khi đã nếm trải cái cảm giác bị ngoại thích buộc chân trói tay rồi thì không còn bao giờ muốn thấy Trần gia trăm năm hiển hách trở thành ngoại thích mới. Là bậc cửu ngũ chí tôn mà phải ẩn nhẫn đến mức độ này thì cũng không phải là chuyện dễ dàng gì.
Đã lên đến ngôi vị chí tôn mà vẫn còn phải im lặng nhẫn nhịn để cho nàng ỉ ôi về mình ở trước mặt bà nội.
Trong điện Tiêu Phòng, nàng cười hỏi, “Triệt Nhi, chúng ta đã là vợ chồng rồi. Vợ chồng thì phải cùng chung hoạn nạn.”
Nàng ngủ thật say trong lòng y. Y ngắm nhìn khuôn mặt xinh đẹp của nàng bằng ánh mắt u uất. A Kiều, nếu như một ngày hoạn nạn của ta do chính nàng tạo nên thì phải làm sao đây?
Sau đó đến trận phong ba lập người thừa kế hoang đường thời năm Kiến Nguyên. A Kiều một mặt chiến tranh lạnh với y vì Vệ Tử Phu, mặt khác lại đến cung Trường Lạc kể khổ về y. Đậu thái hoàng thái hậu thương tiếc nhìn đứa cháu ngoại được mình sủng ái từ thuở nhỏ, “Nha đầu, vì sao cháu lại khổ?”
Dù có thế nào thì bọn họ vẫn là vợ chồng, vợ chồng thì phải cùng chung hoạn nạn chứ? Vị hoàng hậu vẫn luôn quật cường chịu đựng trong suốt bao nhiêu ngày tháng qua bỗng nhiên rơi lệ như mưa.
Trong cung Vị Ương, không một ai biết rõ ràng hơn y về việc tại sao Hoàng đế và Hoàng hậu đẹp duyên bao nhiêu năm như thế lại từng bước rơi vào tình trạng như bây giờ, kể cả A Kiều cũng không hiểu.
Rồi một hôm Hoàng đế đến điện Tiêu Phòng mà lâu rồi y chưa từng bước chân vào. A Kiều ngồi trong điện, y phục tôn quý, lưng thẳng nhưng không khỏi lộ ra vẻ cô đơn. Y bỗng nhiên nhớ lại cái ngày xuân trong sáng thuở còn niên thiếu kia, một cô bé xinh đẹp như hoa sen mỉm cười sà vào lòng Trưởng công chúa Quán Đào, “Mẹ à, Triệt Nhi tốt lắm.”
Có đôi khi y muốn hỏi nàng rằng dựa vào đâu mà khi đó nàng lại nhận định là y rất tốt? Rõ ràng là đối với nàng thì y không tốt, cực kỳ không tốt. Đây là một người con gái trông thì tưởng như kiên cường nhưng thật ra lại vô cùng yếu ớt. “A Kiều…, trẫm là hoàng đế. Hoàng đế thì không thể nào chỉ có một người phụ nữ được.”
“Thế nhưng, thϊếp chỉ nhớ rằng, nhớ rằng chàng là Triệt Nhi của thϊếp.” Nàng cuối cùng cũng phải xuống nước đầu hàng, quay đầu lại nhìn y với vẻ mặt đau khổ. “Triệt Nhi, chàng hãy bỏ Vệ Tử Phu đi, chúng ta sẽ làm như không có người này, không có chuyện này và làm lại từ đầu một lần nữa được không?”
Y bỗng nhiên mềm lòng, biến Vệ Tử Phu làm nô tỳ thay y phục không phải vì ban đầu đánh giá tình thế không đúng mà bởi vì mềm lòng.
“Triệt Nhi, rốt cuộc chàng thích Vệ Tử Phu ở điểm gì?”
Có lẽ là dung nhan kiều diễm không thua kém A Kiều, có lẽ là tính tình dịu hiền ngoan ngoãn, có lẽ căn bản là y cũng chưa từng thích nàng ta mà chỉ là chán ghét cuộc sống phải chiều theo A Kiều. Ở trước mặt nàng, y vĩnh viễn chỉ là Triệt Nhi của nàng chứ không phải là một đế vương. Nhưng y thật sự là một đế vương, một vị đế vương có hùng tâm tráng chí, một vị đế vương có khát khao chinh phục mạnh mẽ. Một vị đế vương như vậy làm sao có thể lưu luyến tình cảm mãi được? Khi mới thành thân với A Kiều, Lưu Triệt chỉ là một thiếu niên vừa mười bảy tuổi. Nhiều năm sống kiếp thái tử đã rèn luyện cho y tính thông tuệ nhạy cảm, không để lộ vui buồn ra nét mặt, còn nàng thì vẫn là người có tấm lòng trong sáng như cũ, tháo bỏ chiếc mũ phượng xuống là hé lộ ra đôi má đẹp như hoa sen.
“Mẹ à, Triệt Nhi tốt lắm.” Đây là A Kiều lúc sáu tuổi.
“Ồ, ngươi nói xa xôi cái gì đấy?” Đây là A Kiều khi nghe được lời thề kim ốc của y.
“Triệt Nhi, mẹ nói có đúng thật hay không?” Đây là A Kiều lúc bọn họ còn là hai đứa nhỏ vô tư.
“Triệt Nhi, mũ phượng nặng quá.” Đây là câu nói đầu tiên khi y tháo chiếc mũ phượng cho nàng.
“Triệt Nhi, chúng ta phải vĩnh viễn, vĩnh viễn ở bên nhau.” Đây là A Kiều đã ân ái mặn nồng với y trong đêm tân hôn.
“Triệt Nhi, chúng ta là vợ chồng mà vợ chồng thì phải cùng chung hoạn nạn.” Đây là A Kiều chia ngọt sẻ bùi với y trong điện Tiêu Phòng.
…
Gần đây, y vẫn cho là mình lạnh lùng quan sát thông tỏ hết mọi việc, đa tình, cười nhạo nàng ngu ngốc, nhưng bỗng nhiên trong tâm trí chợt vẳng lại những lời này thì y lại thấy nghẹn ngào. Y cho rằng mình đã lãng quên tất cả từ lâu, nhưng ba tháng sau, khi y gặp lại A Kiều ở trong lầu Mạt Vân chứa đầy kỷ niệm thời niên thiếu này, thì tất cả lại hiện lên rõ ràng như mới vừa diễn ra hôm qua. Sau khi Trần hoàng hậu bị bãi về cung Trường Môn thì trừ những người thân ra, trên cõi đời này không còn có một người con gái nào thật sự yêu thương y. Không, cho dù là người thân thì cũng không có ai yêu thương y chân thành như A Kiều.
Từ nay về sau, ở trong cung Vị Ương này sẽ không còn một người con gái nào có thể dịu dàng gọi y là Triệt Nhi nữa. Ngày xưa khi hạ quyết tâm sắt đá phải phế truất nàng, y cũng cho rằng mình không cần nàng, dần dần lòng y ngày càng sắt đá. Vận mệnh đã ngấm ngầm ươm sẵn mầm mống từ nhiều năm trước để rồi đâm chồi nảy lộc khi y không biết, không để ý. Người con gái cho tới bây giờ vẫn mỉm cười dịu dàng gọi y là Triệt Nhi ấy quay đầu lại làm vẻ xa cách lễ độ nói: “Yêu cầu này là Hoàng thượng lấy thân phận đế vương ra lệnh cho thϊếp sao?”
Thời gian là thứ mà ngay cả đế vương cũng không thể níu kéo đã cho y chứng kiến những gì từng thuộc về mình dần dần sụp đổ ngay trước mắt. Y chợt thấy đau nhói. Người con gái mới vừa học đàn bừng bừng hứng thú chạy tới đàn cho y nghe, một tấm chân tình đã bị chính y tự tay bóp chết bằng một ý chỉ phế hậu. Không, có lẽ là sớm hơn. Công bằng mà nói thì tài đánh đàn của Trần A Kiều thật sự không tốt, theo y thì không hơn so với tiếng bật bông được bao nhiêu.
Lần đó nàng đàn bản Phong Nhập Tùng. Lưu Triệt nhìn chằm chằm vào cây Thính Tuyết cầm này, tiện tay gảy mấy âm, chính là đoạn mở đầu của bản nhạc ấy.
Dây đàn lâu không có người gảy bỗng nhiên đứt đoạn, kêu “đinh” một tiếng thật dài.
“Ồ!” Dương Đắc Ý đứng bên kinh ngạc kêu lên.
“Có chuyện gì vậy?” Lưu Triệt quắc mắt hỏi vẻ không vui.
“Không có chuyện gì”, Dương Đắc Ý khom người đáp, nhưng không chịu nổi ánh mắt Hoàng đế đang nhìn soi mói đành miễn cưỡng nói thêm, “Ở quê của nô tài, đứt dây là điềm rất xấu. Dù sao, dây đứt thì tình cũng tan.”
“Tình tan?” Lưu Triệt bỗng nhiên căng thẳng, đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Rèm cửa bằng lụa mỏng của căn lầu đối diện buông hờ nhưng không thấy bóng dáng Trần A Kiều đâu cả. Chỉ có gió truyền đến tiếng cười nói, là giọng của Lưu Sơ. Người con gái đã dần dần bị quên lãng vào trong ký ức của y suốt bao năm bỗng nhiên sống động trở lại. Hoa phù dung thành cỏ đoạn trường, cỏ đứt rễ là hoa phù dung, có lẽ chỉ thật sự rời khỏi cung điện này thì y mới có thể không chút ngại ngùng hồi tưởng lại những điểm tốt của nàng. Nếu như từ đầu đã biết sẽ có Mạch Nhi, Sơ Nhi thì y có thể tuân theo lựa chọn dứt tình bội nghĩa đó hay không. Y vẫn chọn lựa như thế bởi vì dù sao y cũng là đế vương.
Đế vương vĩnh viễn coi nước nặng hơn nhà, mà A Kiều lại chính là người đầu tiên phải hy sinh khi y ở trên cương vị đế vương này.
Có đôi khi con người phải xa nhau thật sự thì mới nhớ đến những điểm tốt của nhau. Nhưng A Kiều, chính bởi vì trẫm là đế vương nên chỉ cần trẫm không muốn thì làm sao có thể đoạn tình được đây? Nói cho cùng, dù thế nào đi nữa thì nàng vẫn là phi tần của trẫm.
Cửa tây cung Vị Ương mở rộng, một cỗ xe cung đình hoa lệ chạy men theo con đường có tường bao.
“Tham kiến Trưởng công chúa Phi Nguyệt.” Kỳ môn quân ở hai bên cửa theo thứ bậc nối nhau quỳ xuống bái chào.
“Ừ.” Từ trong long xa truyền ra tiếng đáp lễ nhẹ nhàng của Lưu Lăng, cỗ xe thoáng cái đã đi xa.
“Đó chính là xa giá của Trưởng công chúa Phi Nguyệt à?” Trong điện Thiên ở phía xa, một tiểu thái giám áo xanh nhìn vọng sang.
“Tiểu Dung, ngươi nhìn cái gì đấy?… Nhưng mà nói về vị Trưởng công chúa Phi Nguyệt này thì lúc trước chẳng qua cũng chỉ là quận chúa của vương gia chư hầu, sau vì có công trong việc dẹp loạn Giao Đông nên được Hoàng thượng ban sắc phong mới, lại em chồng của tiểu thư nhà Tu Thành quân, người được Thái hậu yêu thương nhất nữa. Cô ta bây giờ ở trong kinh thành cũng ra dáng Trưởng công chúa lắm rồi, ngoại trừ hai người em gái Bình Dương và Long Lự cùng mẹ với Hoàng thượng, thì ngay cả Trưởng công chúa thật sự cũng chẳng sánh kịp cô ta.
“Tiểu thư”, ở trong xe, Lưu Quang nhẹ giọng, “Sắp về tới cung Trường Môn rồi, cuối cùng tiểu thư đã có thể được nghỉ ngơi đôi chút.”
“Ừ.” Lưu Lăng mỉm cười, lấy lại tinh thần rồi lẩm nhẩm, “Cũng chưa chắc đâu.” Trên mặt nàng thoáng hiện nét mỏi mệt.
“Chẳng lẽ là còn có chuyện gì nữa hay sao?” Lưu Quang tinh ý mau mắn hỏi ngay. Cô là thị nữ sinh ra ở trong phủ, lớn lên cùng với Quận chúa Hoài Nam nên rất thạo việc quan sát lời nói nét mặt mà đoán được ý tứ.
Lưu Lăng cười cười, nâng chén trà xanh biếc trong tay nhấp một ngụm, ung dung: “Hôm nay Hoàng thượng ra khỏi cung Vị Ương, lại hiếm có dịp ta và A Kiều tách ra, cô ta không đến tìm thì mới là chuyện lạ.”
Hai người đang nói chuyện thì quả nhiên nghe thấy giọng lanh lảnh đặc thù của nội thị bên ngoài xe, “Nương nương nhà ta ở lương đình bên kia trông thấy xa giá của Trưởng công chúa Phi Nguyệt, muốn mời Trưởng công chúa sang đó.” Giọng nói ngạo mạn, chắc là một người cũng có thân phận trong cung Vị Ương.
Lưu Lăng vén rèm xe nhìn sang phía lương đình bên kia thì thấy bên ngoài đình có một dãy cung nữ đứng hầu, bên trong có một người con gái ngồi quay lưng về phía mình, búi tóc như mây, xinh đẹp tuyệt trần.
“Vị công công này là?” Lưu Lăng hỏi giọng lễ độ nhưng lạnh lẽo.
“Nô tài là phủ thừa trong ngự phủ.”
“Hoàng hậu nương nương đã mời”, Lưu Lăng khẽ gật đầu, “Lưu Lăng nào dám không tuân mệnh?”
“Lưu Quang”, Lưu Lăng quay người dặn, “Bảo bọn họ về trước đi, còn ngươi thì theo ta.”
“Trưởng công chúa Phi Nguyệt.” Trong đình Thanh Lộ, Vệ Tử Phu yêu kiều quay đầu lại chào hỏi, Lưu Lăng thầm than một tiếng, quả nhiên là xinh đẹp không hổ danh tiếng.
“Hoàng hậu nương nương”, nàng cúi đầu, che giấu suy nghĩ trong ánh mắt.
“Các ngươi lui cả xuống đi.” Vệ Tử Phu che miệng, ra lệnh cho mọi người.
“Dạ!” Các cung nhân đứng bên cạnh quỳ gối tuân mệnh rồi đồng loạt lui ra.
“Trưởng công chúa Phi Nguyệt”, Vệ Tử Phu vịn tay Thái Bình đứng dậy tươi cười nói: “Bản cung và Quận chúa đã không gặp nhau kể từ năm Nguyên Quang thứ năm, hôm nay được gặp lại ở cung Vị Ương này nhưng không còn giống như trước kia nữa rồi.” Lời nói mang đầy hàm ý.
“Đúng vậy”, Lưu Lăng khẽ nghiêng đầu, cũng trả lời đầy ẩn ý, “Chỉ mới có sáu, bảy năm mà Hoàng hậu nương nương đã là mẫu nghi thiên hạ, huy hoàng hơn ngày trước biết bao nhiêu.”
“Trưởng công chúa cũng xinh đẹp hơn xưa rất nhiều”, Vệ Tử Phu đưa đẩy. Dù sao nàng ta cũng đã làm hoàng hậu được bốn năm nên bây giờ từng lời nói cử chỉ đều cực kỳ khéo léo không thể chê trách, đâu còn là Vệ phu nhân nhu mì đáng yêu của cung Vị Ương năm đó nữa.
“Nghe nói hôm nay là sinh nhật của Trưởng công chúa Quán Đào, mà người lại là cô cô của Hoàng thượng nên Hoàng thượng qua đó chúc thọ cũng là điều hợp lý”, Lưu Lăng thuận thế tiết lộ tin tức, “Lúc Lưu Lăng rời phủ Đường Ấp hầu trở về thì Hoàng thượng tựa hồ đã uống say rồi, đang nghỉ ngơi ở Hầu phủ.”
“Thật không?” Thái Bình cảm thấy bàn tay của Hoàng hậu nương nương siết mạnh tay mình nhưng thoáng cái Hoàng hậu nương nương đã lại mỉm cười, “Bản cung còn nhớ vào những năm Nguyên Quang, Lăng quận chúa nào có quan hệ gì cùng Trần hoàng hậu chứ? Bản cung thật sự rất là hiếu kỳ, không hiểu rốt cuộc Trần hoàng hậu đã làm gì khiến cho Trưởng công chúa Phi Nguyệt ngày hôm nay lại kết thành tỷ muội với cô ta?”
“Coi tâm tư của người là tâm tư của mình.” Nàng cảm thấy nhàm chán ngẩng đầu lên nhìn thẳng Vệ Tử Phu, “Bởi vì A Kiều tỷ đã nhận Lưu Lăng làm muội muội nên Lưu Lăng dĩ nhiên phải hết lòng báo đáp.”
“Nếu như”, Vệ Tử Phu chầm chậm bước đến gần, khẽ cúi đầu xuống, dáng vẻ tuyệt mỹ khiến ngay cả Lưu Lăng cũng không nén nổi phải tán thưởng, “Tử Phu cũng nguyện ý đối đãi Trưởng công chúa Phi Nguyệt như tỷ muội thì sao?”
Lưu Lăng buồn cười nhìn nàng ta, ánh lên vẻ giễu cợt, “Hoàng hậu nương nương, người không làm được. Ta và người đều biết rõ ràng điều đó.”
Nụ cười Vệ Tử Phu thoáng cứng đờ, nàng ta xoay người lại ngồi xuống, “Là do bản cung không có phúc phận, hay nói cách khác là vận khí Trần hoàng hậu luôn rất tốt.”
“Trưởng công chúa Phi Nguyệt từ Tức Mặc trở về, mọi người đều nói rằng Trưởng công chúa trúng độc bị thương làm mất đi trí nhớ. Bản cung cũng muốn biết Lăng Nhi thực sự không còn nhớ được những chuyện trước kia hay sao?”
“Cũng không hẳn vậy.” Lưu Lăng hơi nhếch miệng, “Có những chuyện còn nhớ, có những chuyện không nhớ được. Ví như chuyện về nữ vu sư Sở Phục hay ví như chuyện về vụ hỏa hoạn ở điện Tuyên Thất kia…”
“Trưởng công chúa”, Vệ Tử Phu giận tái mặt, “Bản cung không rõ là làm như vậy thì có ích lợi gì với cô?”
“Chuyện ta làm vào năm Nguyên Quang thứ năm thì có ích lợi gì đối với ta?” Lưu Lăng thản nhiên hỏi lại, hài lòng nhìn sắc mặt Vệ Tử Phu dần thay đổi.
“Cho tới bây giờ Lưu Lăng vẫn còn là người rất nông cạn, không giống như Hoàng hậu nương nương làm chuyện gì cũng phải suy nghĩ rất nhiều đâu.”
Nàng nói rành mạch từng chữ một, “Từ trước đã như thế, sau này cũng mãi mãi như thế.”
“Nói vậy thì”, Vệ Tử Phu khép mắt, “Nếu năm đó không có Trưởng công chúa điện hạ thì Trần hoàng hậu cũng không bị mất ngôi vị, càng không có chuyện bị người bức ra khỏi cung Trường Môn rồi đuổi gϊếŧ đến chết. Trưởng công chúa thật sự tin tưởng rằng Trần hoàng hậu sẽ đối xử thật lòng với cô sao?”
“Đó là chuyện của ta”, Lưu Lăng lạnh lùng đáp, không liên quan tới Hoàng hậu nương nương.”
“Đúng rồi.” Vệ Tử Phu tiếp tục, “Không liên quan tới bản cung nhưng không biết có liên quan tới Hoàng thượng hay không?”
Lưu Lăng khó hiểu, quay đầu lại nhìn nàng ta.
“Trưởng công chúa Phi Nguyệt cũng không còn nhỏ tuổi nữa”, Vệ Tử Phu ngọt ngào, “Mặc dù chỉ thuộc dòng họ hoàng gia nhưng lại có danh hiệu là Trưởng công chúa, bản cung là hoàng hậu dĩ nhiên phải ngỏ lời với Hoàng thượng sớm tìm cho Trưởng công chúa một nơi tương xứng. Không biết Trưởng công chúa có tầm mắt cao như thế này thì đã ưng ý người nào ở trong đế đô chưa?”
“Đã như thế”, hồi lâu sau, Lưu Lăng bước lui lại một bước, chỉnh đốn trang phục trịnh trọng đáp, “thì phải đa tạ Hoàng hậu nương nương rồi. Hôm nay Phi Nguyệt đi xe mệt nhọc, xin lui trước về cung Trường Môn nghỉ ngơi.”Quyển 2 - Chương 33: Lòng ta yên tĩnh ở quê nhàPhủ Đường Ấp hầu.
“Tham kiến Đại trưởng công chúa.”
Lưu Triệt nghe thấy giọng của Dương Đắc Ý vang lên bên ngoài lầu.
“Ừ, miễn lễ”, Lưu Phiếu hỏi, “Hoàng thượng đã dậy chưa?”
“Hoàng thượng đã dậy nhưng chưa ra ngoài”, Dương Đắc Ý trả lời.
“Trần nương nương thì sao?”
“Trần nương nương hôm qua bị công chúa Duyệt Trữ quấn lấy đến tận khuya nên còn chưa tỉnh dậy.”
Lưu Phiếu nhướng mày, gắt lên: “Nghịch quá.”
“Cô cô tới sớm như vậy. Mời vào đi”, Lưu Triệt ở trong lầu Mạt Vân nói vọng ra.
“Triệt Nhi”, Trưởng công chúa Quán Đào đi vào, cười ôn hòa, mấy sợi tóc trắng bay phất phơ trong gió. Người phụ nữ đã đối xử không tệ với y khi còn niên thiếu, trợ giúp y trèo lên ngôi Hoàng đế rốt cuộc cũng đã già rồi, không còn uy thế như năm xưa nữa.
Có lẽ hồi đêm vừa mới nhớ lại những hồi ức về A Kiều nên tâm trạng của Lưu Triệt lúc này cũng rất ôn hòa, “Cô cô, trẫm đã đến phủ Đường Ấp hầu vậy thì không ngại mời chủ nhân ra đón tiếp chứ?”
Lưu Phiếu nhìn sắc mặt Lưu Triệt thấy y không có vẻ gì là khó chịu liền thử từ chối, “Phúc khí của nó mỏng nên Hoàng thượng đừng gặp làm gì.”
Lưu Triệt mỉm cười đứng dậy, “Nếu là phúc mỏng thì làm sao lại có thể được cô cô ưu ái chứ?”
“Vậy cũng tốt.” Dù sao Lưu Phiếu cũng là người đã trải qua sóng to gió lớn nên không hề lộ vẻ khó xử, vỗ tay ra lệnh, “Gọi Yển Nhi tới bái kiến Hoàng thượng… Mà, cũng sai người gọi Trần nương nương dậy luôn đi.”
“Dạ.” Thị nữ khom người lui ra.
Chỉ chốc lát sau, Đổng Yển mặc bộ đồ xanh thẫm, đầu vấn khăn xanh, dáng vẻ phong lưu, cúi đầu bái lạy, “Thảo dân tham kiến Hoàng thượng.”
“Đứng lên đi”, Lưu Triệt gật đầu, “”Không biết Đổng Nhi giỏi về cái gì?”
“Thảo dân học thức thấp kém, nên cũng không dám nói am hiểu cái gì. Chỉ biết chút ít về những trò chọi gà, cưỡi ngựa, đá cầu, đấu kiếm, khó với tới được những nơi thanh nhã.”
“Thế à.” Lưu Triệt dù sao vẫn còn trẻ tuổi nên cũng khá có hứng thú với mấy thứ này, “Ngày khác trẫm tuyên triệu, nếu như không ngại thì cùng tỷ thí với nhau.”
Lúc này, tỳ nữ Giai Nghê của phủ Đường Ấp hầu vào thu dọn tro của hương thơm đốt đêm hôm qua rồi ra ngoài.
Đổng Yển vui mừng bái tạ, “Thảo dân tuân chỉ…”
Hắn còn chưa dứt lời thì đã nghe choang một tiếng bên tai, là do Giai Nghê lúc xoay người lại không cẩn thận đã đυ.ng phải làm chiếc chén ngọc dạ quang của núi Kỳ Liên đang gắn trên tường rơi xuống đất vỡ nát.
“Nô tỳ đáng chết”, Giai Nghê biết là không hay, mặt mày trắng bệch, quỳ xuống dập đầu cuống quýt.
“To gan”, Lưu Phiếu cả giận quát lên, nhưng liếc thấy Lưu Triệt đứng bên cạnh sa sầm mặt xuống thì lại ngừng lời không nói nữa, dường như suy nghĩ điều gì đó.
“Dương Đắc Ý”, Lưu Triệt gằn giọng: “Sai người lôi ra ngoài, dùng trượng đánh đến chết.”
“Dạ.” Cho dù Dương Đắc Ý đã từng thấy nhiều trường hợp như vậy nhưng vẫn cảm thấy kinh hãi, biến sắc chạy ra khỏi lầu đi tìm tổng quản của Trần gia.
Thì ra là… như thế! Lưu Phiếu cúi đầu, che giấu nét cười trên khóe mắt. Triệt Nhi, ngươi cũng có ngày hôm nay sao?
Bộ chén song long hải đường làm từ ngọc dạ quang cực phẩm này vốn là đồ vật mà Hán Cảnh Đế, phụ hoàng của Lưu Triệt, vô cùng yêu thích. Chất ngọc trơn bóng, chạm vào mát rượi, hoa văn tự nhiên, chén mỏng như giấy, phát sáng như gương, trong ngoài trơn nhẵn, sắc ngọc trong suốt, màu sắc rực rỡ như phỉ thúy. Lúc còn thiếu niên, Lưu Triệt không cẩn thận đánh rơi làm vỡ một chiếc, sợ phụ hoàng trách phạt nên cực kỳ lo sợ, may có A Kiều đứng ra nhận tội với Cảnh Đế. Cảnh Đế yêu thương cháu gái nên chỉ cười một hồi rồi ban chiếc còn lại cho A Kiều. Hôm nay, chiếc chén đó lại bị thị nữ đánh vỡ trong lầu Mạt Vân.
Hôm qua đàn đứt, sáng nay chén vỡ, Triệt Nhi, ngươi có bắt đầu khủng hoảng hay không? Đây là điềm bất tường của trời cao[1], những gì chứng kiến thời niên thiếu sẽ nhất loạt chôn vùi trong gió bụi. Ngay cả đế vương cầm quyền cai trị cả thiên hạ cũng không thể nào mà thay đổi được.
[1] Bất tường: Không lành.
A Kiều, Lưu Phiếu thầm nghĩ, con làm rất tốt. Đàn ông thì đều như vậy, càng là thứ không thể đạt được thì càng quý trọng, cho dù người đó có ở ngôi cửu ngũ chí tôn.
“Xin Hoàng thượng tha mạng.” Giai Nghê kêu la thảm thiết khi bị người của Hầu phủ lôi ra trói ở đình viện.
“Làm cái gì thế?” Trần Lãng chau mày mắng, “Các ngươi có biết quy định hay không? Đánh phạt ở chỗ này vạn nhất làm kinh động đến chủ nhân thì sao?”
“Dạ!” Hai người hầu vâng lời kéo Giai Nghê đứng dậy, nói vẻ bất đắc dĩ, “Nghê cô nương, lần này không phải chúng ta không giúp cô mà là cô tự rước họa lớn vào thân.”
Giai Nghê may mắn nghe thấy bèn nhanh trí, gắng gượng gào toáng lên, “Trần nương nương, tha cho nô tỳ đi.”
Trong chái lầu, Trần A Kiều vừa mới dậy, đang ngồi soi gương trang điểm. Nàng vẫn còn chưa tỉnh hẳn bèn trừng mắt hỏi, “Bên ngoài có chuyện gì?”
Thị nữ Phong Dã đứng ở sau lưng búi tóc cho A Kiều ca ngợi, “Nương nương thật xinh đẹp!”
Trần A Kiều quở trách, “Nói nhảm, đó là nhờ tay nghề cao của Phong Dã.”
“Không phải đâu.” Phong Dã xua xua tay, thành thật, “Phong Dã đã từng gặp không ít mỹ nhân rồi. Rất nhiều mỹ nhân tẩy trang thả tóc ra thì cũng bình thường, chỉ riêng nương nương lúc bình thường vẫn xinh đẹp quyến rũ còn hơn cả khi trang điểm.”
“Đồ lẻo mép.” Trần A Kiều phì cười, “Ngươi ra ngoài gọi một đứa nha hoàn vào hỏi xem chuyện gì. Không được làm ầm ĩ khiến Duyệt Trữ tỉnh giấc.”
“Dạ.” Phong Dã khom người vâng lệnh rồi đi đến chỗ rèm cửa gọi, “Ly Nhi, nương nương bảo ngươi vào đây.”
Rèm cửa được vén lên. Một nô tỳ áo xanh chừng mười ba mười bốn tuổi vóc người nhỏ bé, thân hình chưa nảy nở hớt hải chạy vào, bái lạy: “Ly Nhi tham kiến Trần nương nương.”
“Miễn lễ.” A Kiều hất hàm, “ Bên ngoài có chuyện gì?”
Ly Nhi lại dập đầu một cái nữa rồi mới bẩm: “Hoàng thượng hạ lệnh lôi Giai Nghê tỷ tỷ ra ngoài đánh đòn.”
“Cái gì?” Phong Dã kinh hãi thốt lên, tiếp đó liền bụm miệng lại, sắc mặt trắng bệch, nước mắt chảy giàn giụa. Cô và Giai Nghê cùng là nha hoàn lớn của phủ Đường Ấp, chơi với nhau rất thân. “Nương nương”, cô quỳ xuống, “Cầu xin người hãy cứu Giai Nghê.”
Trần A Kiều nhớ ra người thị nữ có khuôn mặt tròn trịa hôm qua tới lầu Mạt Vân báo tin, dường như nàng trước đây ở đã từng gặp ở phủ Đường Ấp hầu, chỉ là nhiều năm qua rồi nên không nhớ được tên mà thôi. Nàng lắng tai nghe, quả nhiên nghe thấy từ xa truyền đến tiếng gậy đánh lẫn tiếng con gái kêu yếu ớt liền sầm mặt xuống hỏi, “Đã xảy ra chuyện gì?”
“Nghe nói là Giai Nghê đánh vỡ chiếc chén dạ quang trong lầu Mạt Vân”, Ly Nhi do dự bẩm báo.
“Đúng chiếc đó à.” A Kiều sững người nhớ lại chuyện cũ về chiếc chén dạ quang Song Long Hải Đường, suy nghĩ một lát rồi bảo Ly Nhi, “Ngươi qua đó bảo bọn họ tạm hoãn thi hành hình phạt. Ta đến lầu chính xem thế nào.” Nàng đứng dậy đi xuống lầu, mặc cho Phong Dã ở phía sau ngơ ngác gọi theo, “Nương nương, người còn chưa thoa phấn mà.”
“Nô tỳ tham kiến Trần nương nương”, Trần Lãng trông thấy A Kiều uyển chuyển bước xuống lầu thì thở phào nhẹ nhõm, khom người bái lạy.
“Ừ”, A Kiều khẽ trả lời, liếc cặp mắt trong như nước mùa thu nhìn vào lầu Mạt Vân, “Hoàng thượng có còn ở trong đó không?”
“Vào đi.” Giọng Lưu Triệt vừa lạnh lùng bình tĩnh vừa mang vẻ uy nghiêm.
A Kiều vừa bước vào đã trông thấy chiếc chén dạ quang Hải Đường vỡ tan trên mặt đất. Trên điện, Lưu Triệt đã khôi phục vẻ mặt nghiêm nghị, hướng đôi mắt đen lấp lánh nhìn nàng chằm chằm, trong ánh mắt ánh lên điều gì đó khó diễn tả.
“Kiều Kiều”, Trưởng công chúa Quán Đào bước đến gần, yêu thương vuốt ve tóc mai của nàng, “Con đã làm mẹ rồi mà vẫn còn dậy trễ thế này.”
Nàng im lặng nhìn ra ngoài cửa sổ. Ánh mặt trời từ phương đông đã chiếu xiên vào qua song cửa sổ nhưng trong viện vẫn còn khá lạnh. Chẳng phải là do mọi người dậy quá sớm sao?
“Kiều Kiều, chiếc chén dạ quang Hải Đường do Tiên hoàng ngự ban mà con thích nhất”, Lưu Phiếu nói giọng tức giận, “đã bị con tiện tỳ Giai Nghê làm rơi vỡ mất rồi. Con không cần phải tiếc. Chén dạ quang dù hiếm nhưng không phải là không có, mẹ sẽ tìm cho con một chiếc khác.”
“Mẹ!”, nàng khó nhọc lên tiếng hỏi, “Giai Nghê đâu rồi?”
Trưởng công chúa Quán Đào thản nhiên, “Bị lôi ra ngoài rồi. Sau này con sẽ không gặp lại nó nữa.”
“Thôi bỏ qua đi”, Trần A Kiều đáp xuôi, “Có lẽ cũng là ý trời.” Ánh nắng ban mai đọng lại trên đôi mi nàng khe khẽ chớp chớp trông vô cùng quyến rũ, “Mẫu thân hãy cho Giai Nghê đi.”
Lưu Phiếu bất giác liếc về phía Lưu Triệt, thấy y cười gằn như thể cố nén lại một cơn giông bão, “A Kiều tỷ đã cầu xin thì trẫm tự nhiên vui vẻ tuân mệnh. Cô cô”, y quay đầu lại, “Đứa hầu gái này là người của quý phủ, trẫm giao cho người xử trí. Ngày sinh nhật của cô cô đã qua, giờ cũng không còn sớm nữa, trẫm phải về cung thôi.”
“Ừ.” Lưu Phiếu quay sang, “Trần Lãng, chuẩn bị xa giá cho Hoàng thượng.”
“Tảo Tảo chắc cũng tỉnh dậy rồi, ta đi xem nó thế nào”, Trần A Kiều tìm cớ thối lui.
“A Kiều tỷ”, Lưu Triệt trầm giọng gọi, “Nàng là cung phi, thánh giá khởi hành mà không muốn đi cùng sao?… Trần nương nương.”
“… Thần thϊếp cần phải tuân lệnh nhưng Tảo Tảo còn chưa thức dậy. Chi bằng…”
“Dương Đắc Ý”, Lưu Triệt không quay đầu lại, “Các ngươi chờ Công chúa Duyệt Trữ tỉnh dậy thì mời Công chúa và Hoàng tử trưởng hồi cung.”
Trần A Kiều lẳng lặng đứng ở trước ngự xa. “A Kiều tỷ”, Lưu Triệt ở trên xe chìa tay ra, “Lên đây đi.”
“A”, A Kiều bỗng nhiên đảo mắt giảo hoạt, “A Kiều thường nghe câu “Tự cổ vua hiền thần sát cánh, Chủ nhân mất nước nữ theo hầu”, Hoàng thượng là vua hiền, hay là hãy thôi đi.”
Lưu Triệt nhướng mày, cặp mắt đen sắc sảo nhìn xoáy vào nàng, “Thật không ngờ Kiều Kiều lại suy nghĩ cho trẫm?”
“Đây là trách nhiệm của A Kiều.” Nàng đắc ý mỉm cười, không chút sợ hãi.
“Hoàng thượng?” Mã Hà La ở phía trước khẽ hỏi.
“Ừm”, Lưu Triệt lên tiếng đáp, nheo mắt ra lệnh, “Khởi giá.” Vẻ mặt y rất khó hiểu.
Trần A Kiều thở dài, định lui lại một bước. Cung xa lốc cốc tiến về phía trước. Khi đi ngang qua chỗ Trần A Kiều, y vươn tay ra, dùng sức ôm lấy eo nàng và nhấc bổng nàng lên xe.
Nàng kinh ngạc ngẩng đầu lên, do khoảng cách quá gần nên bắt gặp ngay ánh mắt của Lưu Triệt. “Kiều Kiều, có làm vua hiền hay là quân chủ mất nước thì trẫm cũng không thèm để tâm. Tất cả đều là cách nói của người đời, riêng trẫm tự tin rằng hoàng triều do trẫm trị vì sẽ lớn mạnh thịnh vượng, tiến vào thời đại phồn vinh trước nay chưa từng có.”
Trần A Kiều thoáng ngây người, bỗng nhiên không nhịn được cười phá lên. Lưu Triệt tỏ vẻ bực bội.
“Có gì hay mà cười?”, y lạnh lùng hỏi.
“Đúng là rất buồn cười.” Trần A Kiều vừa đáp vừa thấm cho khô nước mắt.
Nếu như nhiều năm về trước hoặc là nhiều năm về sau, Ban tiệp dư cũng nói những lời tương tự ở trước ngự liễn thì không biết Hán Thành Đế có thể học theo Lưu Triệt hôm nay không? Nhưng dù sao Lưu Triệt và Lưu Vụ cũng không phải là cùng một hạng người. Nhiều khi, được tiếng là người hiền chốn hậu cung thì có ích lợi gì chứ?
Trận cười khiến gương mặt nàng đỏ bừng, Lưu Triệt nhẹ nhàng mơn trớn, cảm giác da mặt nàng mịn màng như gấm thì không khỏi thốt lên một tiếng kinh ngạc, “A Kiều tỷ thật đúng là không giống như người đã ba mươi tuổi đâu.”
Nàng cứng người, sắc mặt dần dần lạnh xuống, tránh khỏi vòng tay của y. Mặc dù không phải là ngự liễn chính thức nhưng cỗ long xa này vẫn rất tinh xảo rộng rãi, ở bên trong còn xa hoa lộng lẫy hơn. Lưu Triệt ngồi ở bên hướng đông. Đã lên xe rồi nên Trần A Kiều cũng phải chấp nhận sự thật, ngồi vào chỗ ở phía tây, vén rèm xe lên nhìn qua cửa sổ ngắm đường phố Trường An, lấy đó làm vui.
Long xa ra khỏi cổng chính phủ Đường Ấp hầu, đi qua chợ phía đông, Tử Dạ y quán rồi lên cầu Kim Môn vào cung Vị Ương. “Hoàng thượng”, Trần A Kiều quay đầu lại, “Đây không phải là đường tới cung Trường Môn.”
Lưu Triệt liếc nhìn nàng, “Ai nói là tới cung Trường Môn chứ?”
Nàng chau mày thầm oán trách y không có phong độ, cố gượng cười nói, “Thôi, người hãy cho thϊếp xuống ở chỗ điện Thừa Minh, thϊếp tự đi về được rồi.”
Lưu Triệt coi như không nghe thấy, ra lệnh: “Đến điện Chiêu Dương.”
Trong thời đại Lưu Triệt trị vì, điện Chiêu Dương không phải là điện nổi tiếng trong hơn bốn mươi điện ở cung Vị Ương, thua xa điện Tiêu Phòng của Hoàng hậu nhưng lại chỉ kém điện Tuyên Thất một bậc. Bởi vì một câu thơ, một câu chuyện xa u oán của một cặp tỷ muội tuyệt sắc nên Trần A Kiều lại cảm thấy rất hứng thú với điện Chiêu Dương.
“Thì ra chỉ thế này thôi”, A Kiều ngửa đầu nhìn cung điện tráng lệ này, thở dài thì thầm.
“A Kiều tỷ có chuyện gì sao? Cứ giống như chưa bao giờ tới nơi này vậy”, Lưu Triệt khoanh tay nói.
Nếu như mặt trời mọc lên từ đằng sau điện Chiêu Dương thì thật sự sẽ có một con quạ từ phía đông bay tới, trên đôi cánh còn nhuộm màu nắng hay sao? Chỉ sợ khung cảnh đó sẽ làm mọi người nhỏ lệ mất.
“Cũng đã lâu lắm không tới nơi này rồi.” Nàng thản nhiên đáp, “Không biết Hoàng thượng lần này dẫn A Kiều tới đây là có ý gì?”
“Kiều Kiều”, Lưu Triệt bước lên bậc thềm đá, “Nàng làm loạn đã đủ rồi, cũng nên chuyển tới đây thôi.”
“Hoàng thượng rõ ràng đã đồng ý để cho thϊếp tiếp tục ở lại Trường Môn.”
“Cái gì?” Lưu Triệt hỏi mà không quay đầu lại, “Nàng còn lưu luyến gì ở Trường Môn, có phải là chiếc đèn trời đó không?” Y vỗ vỗ tay, lập tức có nội thị áo xanh rối rít chạy tới, trong tay đang cầm chính chiếc đèn cung đình có trăm chữ Thọ.
“Người…”, nàng hơi chột dạ nhưng cũng hiếu kỳ hỏi “Tại sao lại ở trong tay người?”
“Hôm qua ta đến phủ Đường Ấp hầu đúng lúc chiếc đèn này từ từ rơi xuống trước xe”, y trả lời thản nhiên.
“Ồ”, nàng buột miệng nửa tin nửa ngờ nhưng lập tức đảo mắt, “Tương truyền người đón đèn sẽ phải thực hiện lời cầu nguyện của người đốt đèn. Hoàng thượng đã nhận đèn của thϊếp thì chắc chắn sẽ không từ chối nhỉ?”
Lưu Triệt nhướng mày, “Nàng đã cầu nguyện những gì?”
A Kiều chớp chớp mắt, “Đương nhiên là muốn người nhà an khang rồi.”
“A Kiều”, Lưu Triệt cúi xuống, trả lời đầy hàm ý, “Đường Ấp hầu là anh họ của trẫm, tất nhiên trẫm sẽ không bạc đãi. Nhưng nàng cần phải biết rằng từ khi nàng được gả vào cung Vị Ương này thì phủ Đường Ấp hầu đã không còn là nhà của nàng nữa.”
Trần A Kiều liếc xéo qua, hơi nhếch miệng lên cười mỉa mai, hỏi lại, “Như vậy thϊếp có thể coi cung Vị Ương là nhà của mình sao?”
“Đã nói là nhà thì chẳng phải đó là chỗ để nghỉ ngơi khi mình mệt mỏi, cho mình thấy ấm áp khi trở về ư? Đã nói là người một nhà thì chẳng phải đó là người sẽ bao dung khi mình bị tổn thương, chia sẻ cùng mình những niềm vui sao? Căn bản đã không có được những tình cảm này thì cần gì phải miễn cưỡng gọi như thế chứ?”
“Kiều Kiều”, Lưu Triệt thấp giọng, thở than, “Nói cho cùng thì nàng vẫn còn oán trẫm.”
“Đã quá lâu rồi, chẳng còn gì nữa để thϊếp phải oán.” A Kiều lui về phía sau một bước, nhìn mái hiên hoa mỹ của điện Chiêu Dương, những viên ngói lưu ly ánh lên lấp lánh dưới nắng.
“Hoàng thượng, thϊếp thật sự không muốn đến điện Chiêu Dương.” Nàng quay đầu đi nơi khác, dịu giọng không còn vẻ châm chọc.
Vẻ mặt Lưu Triệt trở nên lạnh lẽo, “Kiều Kiều, chẳng lẽ nàng muốn khăng khăng cho đến khi trẫm chuyển nàng về điện Tiêu Phòng sao? Nàng nên biết là không thể có chuyện này.”
Trần A Kiều không nén nổi thở dài một tiếng, quay sang nhìn thẳng vào mắt y, lạnh lùng hỏi lại, “Người cho rằng thϊếp bây giờ còn muốn ở cái nơi mà Vệ Tử Phu đã từng ở hay sao?”
“Người vẫn không thể hiểu rằng thϊếp thật sự không muốn chuyển đi khỏi cung Trường Môn. Cung Trường Môn có gì là không tốt? Ít ra thì thϊếp còn có thể coi đó là nhà, thưa Hoàng thượng.” Nàng cố ý nhấn giọng, “Nếu như đã có nhà thì thϊếp chẳng muốn chuyển đi làm gì. Cho dù điện Chiêu Dương có tốt hơn chăng nữa thì thϊếp cũng vẫn không thích.”
Lưu Triệt nhìn chằm chằm nàng hồi lâu, cuối cùng trầm giọng, “Nếu nàng đã nhất định như thế thì cũng đành vậy, nhưng sau này thì đừng có đòi hỏi. Chắc ở trong cả cái cung Vị Ương này chỉ có mỗi mình Kiều Kiều dám nói chuyện với trẫm như thế thôi.”
Trần A Kiều bật cười, nhưng đã đạt được mục đích rồi nên cũng không muốn tranh chấp thêm với y. Nàng đang định lên tiếng thì thấy có một nội thị từ trong hành lang điện Chiêu Dương chạy vội đến quỳ xuống, dập đầu hô, “Hoàng thượng.”
Lưu Triệt đang cơn tức giận, “Chuyện gì?”
“Hình như Lý dung hoa trong điện Phi Sương đã sinh rồi.” Nội thị dập đầu bẩm báo, vẫn giữ đúng quy củ.
Lưu Triệt chợt sững người, Trần A Kiều nhân thể bước xuống, “Chúc mừng Hoàng thượng. Dĩ nhiên Hoàng thượng phải tới điện Phi Sương xem thế nào, A Kiều cáo lui trước.”
“A, phải rồi.” Nàng đi được mấy bước thì bỗng xoay người lại hỏi như đột nhiên nhớ ra chuyện gì, “Ngày hôm qua ở phủ Đường Ấp hầu thϊếp còn quên nói chuyện Tiêu tiên sinh ở y quán là sư phụ trước đây của thϊếp. Tảo Tảo đã khỏe lại rồi, Hoàng thượng không ngại chấp thuận cho người được xuất cung chứ?”
Lưu Triệt gật đầu, lơ đãng trả lời trong lúc phân tâm, “Cứ theo ý của A Kiều tỷ đi.”
Trần A Kiều đi dọc theo cung Vị Ương đến chỗ đài Bách Lương thì thấy trong vườn ngự uyển có một cô bé chừng sáu, bảy tuổi mặc váy dài chiết eo bằng gấm tơ đỏ thẫm cực kỳ tôn quý, mặt mũi xinh đẹp, thần thái kiêu ngạo, đang nổi giận giữa một đám nô tỳ tháp tùng.
“Vị này chính là Công chúa Chư Ấp.” Nội thị tiến lên một bước cúi đầu bẩm.
“Thế à.” Trần A Kiều đáp một tiếng, nhìn kỹ lại thì thấy gương mặt của Chư Ấp công chúa Lưu Thanh quả nhiên rất giống với Vệ Tử Phu, chỉ không có khí chất nhu mì như mẫu thân mà trông có vẻ kiêu ngạo hơn rất nhiều. Nàng than một tiếng, thật sự không muốn phải nhìn thẳng vào một gương mặt gợi cho nàng quá nhiều hồi ức cay đắng như vậy nên quay đầu đi tiếp.
“Không cần để ý.” Nàng thấp giọng.
“Dạ.”
Trần A Kiều tò mò nhìn viên nội thị đang cúi đầu bước lui ra đằng sau, “Ngươi tên là gì?”
“Mọi người đều gọi nô tài là Tiểu Dung.” Tiểu Dung vẫn hơi hơi cúi đầu xuống khi trả lời nhưng điều lạ là không hề làm cho người ta cảm thấy hèn mọn, chiếc cằm có nét tròn trịa, trông rất thanh tú.
“Tiểu Dung… Ngươi là nội thị trong điện Phi Sương sao?” Trần A Kiều chớp chớp mắt.
“Không phải, nô tài làm gì có phúc phận được hầu hạ Lý dung hoa chứ? Nô tài chỉ là nội thị rót nước quét nhà trong điện Ngọc Đường mà thôi.” Tiểu Dung nhẹ nhàng đáp, “Hôm nay Dung hoa nương nương vô ý vấp chân trong vườn ngự uyển nên trở dạ sinh non, điện Phi Sương hỗn loạn, vừa lúc Hoàng thượng không ở trong cung nên… nô tài mới ngẫu nhiên gặp được. Sau đó Hoàng thượng liền sai nô tài rước nương nương trở về Trường Môn.”
“Vậy à?” Trần A Kiều nhướng mày hiếu kỳ. Có bao nhiêu là người hầu hạ Lý Chỉ như vậy, tại sao lại để cô ta sểnh chân trượt ngã cơ chứ? Nhưng điều này cũng chẳng quan hệ gì tới nàng cả. Nàng đang suy tư thì đột nhiên nghe thấy một tiếng hỏi ngang ngược, “Ngươi là ai?”
Chư Ấp công chúa Lưu Thanh là con gái thứ ba của Hoàng hậu Vệ Tử Phu. Cô bé không giống như đại tỷ là Vệ Trường công chúa Lưu Phỉ thuở nhỏ đã chịu không ít đau khổ ở trong cung Vị Ương, cũng không giống nhị tỷ là Dương Thạch công chúa Lưu Vân kế thừa được tính tình dịu dàng của mẫu thân. Từ nhỏ cô đã là con gái của đôi phu thê được tôn quý nhất vương triều, thân phận đó đã khiến cô có tính cách kiêu ngạo, lớn lên ở một nơi tranh đấu khốc liệt nhất trong thiên hạ như cung Vị Ương mà không hề phải lo nghĩ, không hề có lấy một chút khiêm tốn.
Hôm nay cô đang ở trong điện Tiêu Phòng trông người đệ đệ yêu thương nhất của bốn mẹ con thì đột nhiên hỏi mẫu thân một câu, “Sao lâu nay phụ hoàng không đến thăm chúng ta nhỉ?” Mẫu hậu lập tức biến sắc, Lưu Phỉ trông thấy không ổn nên liếc mắt ra hiệu cho cô đi ra ngoài. Cô mang một bụng ấm ức bỏ đi, rõ ràng chỉ là một câu hỏi vô cùng bình thường mà sao lại có thể khiến cho không khí trong điện Tiêu Phòng lúng túng đến như vậy.
“Công chúa, người cứ chơi ở vườn ngự uyển đến khi Hoàng hậu nương nương bình tĩnh lại là được rồi.”
Lưu Thanh xoay người lại lườm Thải Thanh, đùng đùng nổi giận, “Ta muốn đi điện Tuyên Thất tìm phụ hoàng.”
“Việc này…”, Thải Thanh ra vẻ khó khăn, “Công chúa, chúng ta không được làm phiền Hoàng thượng.”
“Phụ hoàng luôn thương ta, không việc gì đâu.”, Lưu Thanh quay ngoắt người lại, cười khanh khách.
“Nhưng lúc này… Hoàng thượng không ở điện Tuyên Thất.”
“Không có ở đó”, Lưu Thanh kinh ngạc dừng bước, nhìn mặt trời trên đầu, “Phụ hoàng luôn luôn làm việc chuyên cần, sao lúc này lại không ở điện Tuyên Thất?”
…
Lưu Thanh lườm một cái rồi cả giận quát lên, “Rốt cuộc thì ngươi có nói hay không?”
Cái nhìn kia rõ ràng là không có bao nhiêu uy hϊếp nhưng Thải Thanh vẫn rùng mình, vị công chúa Chư Ấp này không giống như Hoàng hậu nương nương có xuất thân từ ca cơ nên khó thông cảm với kẻ hầu người hạ. Trước ở điện Tiêu Phòng đã có một cung nữ chỉ vì mang thức ăn lên đυ.ng phải Lưu Thanh mà bị phạt đánh những mười gậy. Lúc đó Hoàng thượng sủng ái Vệ hoàng hậu nên sủng ái luôn cả vị Công chúa Chư Ấp này, thường xuyên giá lâm điện Tiêu Phòng. Vệ hoàng hậu cảm thấy không đành lòng đang định bảo thôi đi nhưng Hoàng thượng lại cười nói đó chẳng qua chỉ là một nữ tỳ. Vệ hoàng hậu vốn là người chưa bao giờ nghịch ý Hoàng thượng, thế là mọi người đành phải đứng nhìn cung nữ kia bị đánh mười gậy, chưa tới một tháng sau thì ngọc nát hương tiêu.
Quét sân tảng sáng điện huy hoàng
Tạm xếp quạt vào, dạ xốn xang
Dung nhan ngà ngọc thua thân quạ
Được đến Chiêu Dương đón mặt trời
(Trường Tín[2] thu từ – Kỳ 3 – Vương Xương Linh)
[1] Trường Tín là tên một cung điện thời Hán nằm ở phía Tây Bắc huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây. Vương Xương Linh viết bài này mô tả tâm tình ai oán của nàng tiệp dư họ Ban sau khi bị thất sủng do Hán Thành Đế nghe lời dèm pha của hai chị em Triệu Phi Yến. Tác giả dùng cách so sánh của thơ xưa, ví mình không bằng con vật, mà con vật đó thường đáng ghét (nói “Quạ” để chỉ “Yến” trong tên Triệu Phi Yến).Quyển 2 - Chương 34: Có thể nóng mặt nhưng đầu phải lạnhLưu Thanh không biết đến những điều này, chỉ biết rằng mình là công chúa tôn quý nhất của Đại Hán, không ai có thể mạo phạm sự tôn nghiêm cao ngạo của mình. Tuy nhiên, sau khi hồi cung, Công chúa Duyệt Trữ được hưởng sự sủng ái còn hơn cả Công chúa Chư Ấp. Người lên kẻ xuống, tình cảm của Hoàng thượng đối với cô cũng phai nhạt rất nhiều. Nếu như Công chúa không biết tự khép mình, đến một ngày nào đó xảy ra chuyện thì liệu Vệ hoàng hậu trong tình thế nguy hiểm như hiện giờ có thể bảo vệ cho cô được bình yên hay không?
Thải Thanh nghĩ đến điều này nên bẩm báo sự thực, “Đêm qua, Hoàng thượng không ở trong cung.”
“Không ở trong cung”, sắc mặt Lưu Thanh không ngờ lại trở nên bình thản, “Phụ hoàng thường xuyên xuất cung.” Cô kéo dài giọng, “Khó trách là ít đến thăm chúng ta.”
“Công chúa”, Thải Thanh hạ giọng, “Nơi Hoàng thượng đi chính là phủ Đường Ấp hầu.”
“Đường Ấp hầu, là ai thế?” Lưu Thanh sửng sốt, liền đó đã kịp nhớ ra, bĩu môi nói, “Chính là cái bà hoàng cô chưa bao giờ đối xử tốt với chúng ta ấy à.”
“Công chúa Chư Ấp”, Thải Thanh sợ tái mặt, “Người có biết người trong phủ Đường Ấp hầu là ai không? Đây chính là nhà của Trần hoàng hậu xưa kia, mẫu thân của Hoàng tử trưởng và Công chúa Duyệt Trữ đấy.”
Lưu Thanh sầm mặt. “Ngươi nói thật không?” Cô nheo mắt nhìn Thải Thanh, vươn tay hái một đóa hoa cúc bên cạnh rồi bứt hết cánh hoa thả rơi xuống lả tả. Rồi bỗng nhiên cô thét lên một tiếng kinh hãi. Thì ra là bàn tay cầm hoa đã bị cào rớm máu.
“Công chúa!” Thải Thanh kêu thất thanh, vội vàng nâng tay cô lên xem. Đóa hoa cúc rơi khỏi tay Lưu Thanh lăn dài mấy vòng trên mặt đất. Lưu Thanh cũng không cảm thấy đau lắm, để mặc cho Thải Thanh băng bó tay mình. Lúc trước cô thường đi theo Hoắc Khứ Bệnh, bước chân biểu ca dài hơn cô nên cô phải chạy lúp xúp mới theo kịp, cuối cùng vấp ngã ở hành lang khóc váng trời váng đất làm kinh động cả phụ hoàng khiến biểu ca bị một trận giáo huấn nghiêm khắc. Cô buồn bã nhìn quanh bốn phía, thấy một phụ nữ mặc đồ trắng có một viên nội thị mặc đồ xanh theo sau đang đi ở trong hành lang, đã sắp sửa rẽ qua góc nhà. Cô đột nhiên cảm thấy ấm ức, mình đường đường là một công chúa của Đại Hán bị thương ở tay ngay tại chỗ này, cho dù có là ai thì chẳng lẽ cũng không tới hỏi thăm được một chút sao?
“Ngươi là ai?” Cô hất hàm ngạo mạn.
Trên hành lang, Trần A Kiều giật mình, quay đầu nhìn lại. Thải Thanh đã băng bó xong vết xước trên tay Lưu Thanh, thở dài một hơi, ngẩng đầu nhìn lên thấy dung nhan xinh đẹp kia thì hoảng hốt, trong thoáng chốc gương mặt đang tươi cười bỗng trở nên tái nhợt.
“Trần… Trần nương nương!” Thải Thanh lắp bắp, bảo mọi người hành lễ.
Lưu Thanh chột dạ nhưng vẫn nghênh mặt lên, ngạo mạn hỏi tiếp, “Bản công chúa ở trong cung Vị Ương này mà sao chưa từng trông thấy ngươi?”
“Chư Ấp công chúa Lưu Thanh”, Trần A Kiều thong thả bước xuống, “Ngươi hình như cũng rất giống ta ngày trước?”
Lưu Thanh gắng gượng giữ thái độ kiêu ngạo, “To gan, ta là công chúa do đương kim Hoàng hậu sinh ra, ai cho phép ngươi bắt quàng chứ?”
“Công chúa”, Trần A Kiều chưa cho phép đứng lên nên Thải Thanh cũng không dám tùy ý đứng dậy, chỉ đành phải ở phía sau kéo nhẹ tay áo Lưu Thanh, “Đừng nên nói lung tung.”
Trần A Kiều liếc thấy, khẽ nói, “Đứng lên đi.”
“Dạ.” Thải Thanh lúc này mới dám đứng dậy.
Lưu Thanh ngạc nhiên nghi ngờ, “Rốt cuộc ngươi là ai?”
A Kiều quan sát kỹ gương mặt Lưu Thanh, thấy cô giống hệt như Vệ Tử Phu, chỉ riêng ánh mắt kia là có ba phần giống Lưu Triệt, lại có năm phần giống như A Kiều lúc trước. Giống nhau ở chỗ kiêu ngạo, giống nhau ở chỗ ngang ngược, giống nhau là cùng thích làm gì thì làm. Lưu Triệt ơi Lưu Triệt, ngươi đã nhẫn tâm phế truất A Kiều đến Trường Môn, vậy thì cần gì, cần gì phải cố tình sủng ái để tạo ra một A Kiều khác nữa?
“Không ngờ Vệ Tử Phu lại có thể dạy dỗ ra một người con gái coi trọng thân thế địa vị như ngươi.” Giọng nàng thoáng mỉa mai.
“Ngươi!” Lưu Thanh cảm thấy lúng túng. Tuy quen ra uy nhưng ở trước mặt người phụ nữ này cô lại không thể hiện được một chút uy quyền nào. Người phụ nữ này dường như có vẻ sang trọng trời sinh, dù ăn mặc giản dị, không trang điểm phấn son nhưng vẫn cao quý hơn người. Loại cao quý này không phải do lên gân gương mặt gượng ép thành, mà là toát ra từ bên trong.
“… Làm sao ngươi dám gọi thẳng tên mẫu thân ta ra như thế?”
Trần A Kiều nhíu mày, cười khanh khách, “Cho dù phụ hoàng ngươi ở đây thì ta cũng dám gọi. Về phần ta là ai thì ngươi hỏi tỳ nữ bên cạnh mình đi.”
“Công chúa Chư Ấp”, trước khi đi, nàng cao giọng dạy dỗ, “Ngươi cần phải biết rằng, một người ngang ngược hống hách như ngươi sẽ không thể sinh tồn được ở trong cung Vị Ương này.”
Lưu Thanh dậm chân, nhìn theo bóng người phụ nữ đi khuất khỏi góc hành lang, “Cô ta là ai chứ?”
“Đó chính là Trần hoàng hậu mà nô tỳ vừa nói đấy”, Thải Thanh thở dài đáp. Đúng là Quận chúa Đường Ấp nổi tiếng Trường An ngày xưa, bao nhiêu năm không gặp mà vẫn còn phong nhã tài hoa đến vậy!
Rõ ràng trong cung có long xa mà sao nàng lại vẫn luôn phải đi bộ chứ? Trần A Kiều suy nghĩ. Mặc dù với người đời sau cung Trường Môn trở thành một cái tên cực kỳ bi thảm nhưng trên thực tế nó không cách xa cung Vị Ương là mấy. Khi ra vào cửa tây cung Vị Ương cung chỉ cần ngẩng đầu lên là có thể trông thấy cho nên mới có câu thơ ai oán, “Trường Môn một bước ngang, xe không buồn ghé tới.”
Nàng đi tới bức tường cung Trường Môn và nghe thấy tiếng cười sang sảng. Nàng xoay người lại thì thấy Tiểu Dung mặt biến sắc. Chẳng phải là từ trước tới nay ngoại thần không được phép vào hậu cung sao!
Lưu Lăng dựa vào cửa điện reo lên, “A Kiều tỷ đã về.”
Tiểu Dung quỳ xuống bái chào, “Nô tài tham kiến Phi Nguyệt Trưởng công chúa.”
“Đứng lên đi!” Lưu Lăng không để ý, chợt nắm tay dẫn A Kiều vào điện, hào hứng, “Khó có dịp bốn người chúng ta tụ tập lại một chỗ như ngày hôm nay.”
Trần A Kiều vừa nhìn vào đã thấy Tang Hoằng Dương đang điềm nhiên ngồi trong điện, tiết trời đã chuyển lạnh mà hắn vẫn cầm trong tay trái chiếc quạt lông, tay phải nâng một chén rượu, thật đúng là bậc “danh sĩ” phong lưu. Hắn quay đầu lại, thấy nàng liền hơi nghiêng người thi lễ, nói: “Trần nương nương mạnh giỏi.”
“Huynh còn dám vác mặt tới gặp muội ư?”, Trần A Kiều trợn mắt giận dữ.
“Được rồi, được rồi”, Liễu Duệ mỉm cười giằng lấy chén rượu trong tay Tang Hoằng Dương đưa, dàn hòa, “Người một nhà mà còn thù dai vậy sao?”
“Hừ”, Trần A Kiều quay ngoắt đi, lạnh nhạt, “Ai là người một nhà với hắn chứ? Người một nhà mà bán đứng nhau à?”
“Trần nương nương”, Tang Hoằng Dương quay lại nhơn nhơn, “Hoằng Dương thừa nhận là ngày xưa đã làm những việc có chỗ không phải với nương nương nhưng tình thế hôm nay không sớm thì muộn cũng phải tới. Nương nương sẽ giận Hoằng Dương bao lâu?”
“Huynh…”, Trần A Kiều uất nghẹn, nói nữa thì khác gì nàng mới là người hẹp hòi. Lưu Lăng đứng bên thản nhiên che miệng cười.
“Trần nương nương đã bình an trở về cung Trường Môn”, Tiểu Dung cúi đầu nói, “Nô tài xin cáo lui.”
Trần A Kiều gật đầu, “Hôm nay làm công công vất vả rồi.”
“Được hầu hạ Trần nương nương là may mắn của nô tài.”
Tang Hoằng Dương đặt chiếc quạt lông xuống, khoanh tay đứng nhìn theo bóng Tiểu Dung khuất dần, ánh mắt âm trầm. Liễu Duệ hỏi nhỏ, “Có chuyện gì thế?”
“Không có gì”, Tang Hoằng Dương nhắm mắt, lắc lắc đầu, “Huynh không biết chứ, đôi khi có một nội thị ở trong hậu cung cũng rất quan trọng.”
“Không phải đánh trống lảng bỏ qua chuyện mới rồi đâu nhé”, Lưu Lăng đi đến, ánh mắt tinh nghịch, “Tang đại nhân đừng nghĩ là bỏ qua dễ dàng như vậy.”
Không có người ngoài nên Trần A Kiều hoạt bát hẳn lên. Nàng ngồi xuống rồi hỏi, “Mọi người vào đây bằng cách nào vậy?”
“Hôm trước ở ngự uyển đã xin thánh chỉ của Hoàng thượng”, Liễu Duệ trả lời rồi cau mày, “Thật là phiền phức.”
“Biết là phiền phức mà huynh còn đưa muội đến cái nơi không còn được gặp ai thế này?” Nàng dằn dỗi, ánh mắt có vẻ ai oán.
“Thôi đi mà.” Tang Hoằng Dương bất đắc dĩ, “Rốt cuộc muội muốn ta đền bù như thế nào?”
Trần A Kiều lập tức giơ lên ba ngón tay, “Muội cho huynh nợ ba yêu cầu. Chỉ cần ngày sau muội cần tới thì huynh nhất định phải thực hiện.”
Hắn lắc đầu, “Ngay cả là không có chuyện này thì ta cũng sẽ đáp ứng yêu cầu của muội, cần gì phải vậy chứ?”
“Hai chuyện đó không giống nhau, Tang đại ca à”, nàng thản nhiên đáp.
Liễu Duệ thở dài, xoa xoa trán rồi nói, “Hai người gây lộn như vậy khiến ta nhớ lại việc ở ngự uyển lần trước bị Hoàng thượng bắt lỗi. Chẳng phải là mọi người đã quên mất bây giờ Trần nương nương đã bao nhiêu cái xuân xanh rồi chứ?”
Trong khoảnh khắc, mặt hai người cùng biến sắc. “Nói thế nào thì cũng không thể bắt ta gọi cái cô nhóc này là tỷ tỷ được”, Tang Hoằng Dương cười hề hề.
“Muội cũng không thèm”, Trần A Kiều ngúng nguẩy, “Chưa già đã bị người ta bảo già rồi.
“Hì hì”, Lưu Lăng bụm miệng, “Nhưng cũng bị không ít người gọi thế rồi, thêm hắn nữa thì có làm sao chứ?”
Tang Hoằng Dương há hốc mồm, tự thấy dù thế nào cũng không gọi vậy được. Hắn lúng túng ho khan một tiếng rồi hỏi, “Mạch Nhi và Tảo Tảo đâu rồi?”
“Khi muội hồi cung thì bọn nhỏ còn đang ở Hầu phủ”, Trần A Kiều chau mày, “Lẽ ra cũng phải trở về rồi chứ nhỉ?”
“Ừ.” Liễu Duệ gật đầu. Hắn quay sang hỏi Lưu Lăng, “Lăng Nhi, thủ hạ của cô đã điều tra được gì về động tĩnh của Vệ gia chưa?”
“Trước mắt thì có vẻ gió êm sóng lặng. Thật ra thì Vệ gia làm ăn nhờ ngôi vị Hoàng hậu đã được bao nhiêu năm rồi nên chắc sẽ thích lấy tĩnh chế động.” Lưu Lăng mỉm cười nói, “Tuy nhiên theo như điều tra về thời kỳ trước… những nhân chứng của vụ án Vu cổ năm xưa đến nay không còn một người nào cả. Sở Phục là nữ vu sư của am Thủy Nguyệt ở Lam Điền nhưng giờ đến đó hỏi thì không còn một ai trong am Thủy Nguyệt biết về cô ta. Nghe nói sau khi Tảo Tảo hồi cung và trước khi A Kiều tỷ trở về khoảng một tháng, am Thủy Nguyệt bỗng nhiên xảy ra hỏa hoạn, không một ai thoát chết. Mà trong thời gian đó, quân sư của Vệ gia là Công Tôn Hạ cũng đang ở Lam Điền.”
Tang Hoằng Dương nheo mắt, liếc nhanh sang Trần A Kiều, nàng hất hàm, “Làm gì thế? Chê muội còn chưa trở về cái cung Trường Môn này đã bị Vệ gia dọn sạch rồi à?”
“Không dám, không dám.” Tang Hoằng Dương nhăn nhó, “Có điều phải làm thế nào để phá vỡ tình thế hôm nay chứ?”
Trần A Kiều cũng hoang mang, cứ tiếp tục thế này không được sao? Không tranh giành, cuộc sống bình an trôi đi. Bây giờ thì nàng và Vệ Tử Phu cùng đang chọn cách lạnh lùng quan sát đối phương xem ai là người ra tay trước. Thế nhưng rốt cuộc trận đấu tranh không thể tránh khỏi này là vì lý do gì?
“Thôi được rồi, không cần bàn về chuyện này nữa.” Liễu Duệ gạt đi, “Ta cũng có tin tức, không biết nương nương có muốn nghe không. Ta nhờ Ngụy Tự Nam đi Tây Vực tìm kiếm một vài thứ. Mấy hôm trước, Ngụy Tự Nam đã sai người báo về là đã tìm được cái gọi là An Thần Hồi hương gì đó, ta nghĩ chắc đó là lá hồi, bèn dặn Tiết Thực khi về kinh nhậm chức thì tự mình mang đến.”
“Ồ”, Trần A Kiều suy nghĩ một chút rồi nói, “Tiện thể mở bữa tiệc đồ nướng ở lầu Thanh Hoan đi. Nhưng không tìm được hạt tiêu sao?”
“Nương nương”, Liễu Duệ bất đắc dĩ, “Người cho rằng ta là thần tiên, biến không thành có được ư?”
Kỵ đình úy Tiết Thực người đầy bụi đường, cuối cùng cũng tới được kinh đô Trường An.
Năm ngoái sau khi cuộc chiến Mạc Nam kết thúc, Hoàng thượng đã chuyển giao kỵ binh Khâu Trạch về dưới trướng Chấn Viễn hầu Lý Quảng, trấn thủ cánh phải Bắc Bình. Người Hung Nô bị uy danh của Chấn Viễn hầu làm cho khϊếp sợ, không một ai dám mạo hiểm bén mảng đến tập kích. Nhưng kỵ binh Khâu Trạch cũng không dám lười biếng, vẫn tiếp tục điều hành theo phương pháp trước kia Liễu Duệ và Trần A Kiều để lại, được Tiết Thực phối hợp với Ngụy Tự Nam khống chế nên rất có quy cách. Năm mới đến, hắn được lệnh trở về kinh đô. Sau cuộc chiến Mạc Nam, Trường Tín hầu Liễu Duệ đã chủ động đưa tất cả người trong gia đình hắn và Ngụy Tự Nam về kinh đô rồi. Tiết Thực vẫn có tình tri ngộ và lòng cảm ơn sâu sắc đối với cấp trên trước đây và luôn hy vọng có thể báo đáp. Huống chi hắn vẫn giữ mãi trong đáy lòng hình ảnh của một người con gái. Người con gái đó đã từng cười duyên dáng mà nói với hắn, “Đến Trường An thì không thể không thưởng thức tay nghề của lầu Thanh Hoan.” Vì câu nói này, khi mới được phong thưởng ở Trường An năm ngoái, Tiết Thực đã cùng Ngụy Tự Nam tới lầu Thanh Hoan. Hắn thấy thức ăn ở đó rất ngon, các ca cơ ở đó múa hát rất hay, trang trí rất lạ, quả nhiên không ai sánh kịp. Và hơn một nửa những thứ có ở lầu Thanh Hoan này xuất phát từ tay người con gái đó.
Lúc này, hắn đứng ở trước lầu thở dài, chắc là không hề có chủ tâm đi tới đây. Tiếng ca hát khiêu vũ và cả mùi thức ăn thơm ngon từ trong lầu truyền đến. Tiết Thực bất đắc dĩ cười xòa rồi bước vào lầu Thanh Hoan.
“Quan khách.” Cô nương ở cửa đón khách ân cần chào đón rồi xin lỗi, “Hôm nay, tất cả các phòng khách trên lầu đều đã kín, quan khách hãy nhìn xem…”
Tiết Thực nhún vai, nói: “Đành chịu vậy.” Hắn tìm một chỗ còn trống ngồi xuống, gọi mấy món ăn thông thường rồi quay đầu nhìn lên sàn diễn.
Hắn thấy một thiếu nữ áo xanh còn khá trẻ đang đứng ở góc sàn diễn hát theo tiếng sáo. Giữa sàn diễn còn có một cô gái gảy đàn tỳ bà, tiếng đàn tịch mịch tao nhã, triền miên sâu lắng. Hắn nhận ra nàng ta tên là Mai Ký Giang, có quan hệ rất tốt với Trần nương nương. Hắn hôm nay đang bê bết bụi đường, nhưng dù vẫn hình dáng như năm ngoái thì e rằng Mai Ký Giang cũng không nhận ra.
Đúng lúc đó, một chiếc xe ngựa dừng lại trước lầu Thanh Hoan. Người đánh xe ngựa vén rèm xe lên hỏi, “Tứ tiểu thư, thiếu gia thật sự muốn xuống đây sao?” Giọng nói eo éo không giống như người bình thường.
“Ừ.” Một cô bé chừng năm sáu tuổi bước xuống xe, vẻ mặt buồn bực nhưng giọng nói lại ngọt ngào: “Mẫu thân đã nhận lời hôm nay dẫn ta tới đây tìm dì Mai, thế mà lại đi về trước, đúng thật là…”
“À”, Dương Đắc Ý có vẻ hơi lúng túng, “Trần… không phải mẫu thân của Tứ tiểu thư cố tình đâu.”
“Đủ rồi.” Người đàn ông mặc áo đỏ sẫm mỉm cười dỗ dành, “Đúng là chẳng ai làm loạn hơn cháu. Chúng ta dạo một vòng quanh lầu Thanh Hoan rồi về thôi.”
“Dạ, thưa cữu cữu”, cô bé ngoan ngoãn.
Khi cô bé vào trong lầu, Tiết Thực quay lại nhìn, không khỏi thốt lên một tiếng tán thưởng. Đúng là một cô bé mặt hoa da phấn cực kỳ xinh đẹp, mặc bộ y phục trắng như tuyết, mắt mũi như vẽ, khí thế hơn người. Trong nháy mắt, hắn thấy ngờ ngợ quen quen, càng nhìn kỹ thì càng thấy chắc chắn như vậy. Mặc dù hắn là quân nhân, chưa từng gặp một tiểu thư con nhà quyền quý nào ở kinh đô bằng chừng ấy tuổi mà phải dẫn theo thị vệ khi ra khỏi nhà.
“Tứ tiểu thư”, Dương Đắc Ý ân cần giục giã, “Hay là về nhà sớm chút nhé? Dù sao thì ở bên ngoài cũng không an toàn.”
Cậu bé đứng phía sau cô bé mỉm cười trấn an, “Dương tiên sinh yên tâm đi. Đây là lầu Thanh Hoan, không có chuyện gì đâu.”
Mai Ký Giang ở trên sàn diễn đưa mắt nhìn sang, thấy bọn họ thì kinh ngạc, tay gảy nhầm một âm liền vội vã thu đàn, mỉm cười đứng dậy cúi chào. Khách xem bốn phía trầm trồ khen ngợi.
“Dì Mai”, cô bé hét toáng.
Trên lầu bỗng vang lên một giọng ngạo mạn, “Thiếu gia nhà ta mời Mai tiểu thư lên gặp mặt.”
Cả lầu ồ lên, có ai ở trong thành Trường An lại không biết quy định bán nghệ không bán sắc của lầu Thanh Hoan. Các ca cơ, vũ công của lầu Thanh Hoan đều vẹn tài vẹn sắc, nghe nói Mai Ký Giang nổi tiếng nhất nơi này vốn là con gái thế gia, vì gia cảnh suy tàn nên mới lưu lạc đến đây, e rằng những ca cơ, vũ công năm xưa Bình Dương công chúa thu nhận cũng chỉ thế này mà thôi. Lầu Thanh Hoan có chỗ dựa rất mạnh nên không một ai dám gây chuyện, bởi vậy quy định ở đây cũng được tuân thủ rất nghiêm ngặt. Hôm nay lại có người muốn phá quy định thì đúng là một việc hiếm có.
Mai Ký Giang khẽ cau mày nhưng vẫn thi lễ về phía nhã thất trên lầu rồi nói, “Lầu Thanh Hoan có quy định là ca cơ và vũ công không được tiếp khách, kính xin đại gia tha lỗi.”
Tiết Thực quan sát bốn phía, thấy người tiếp khách cơ trí đã sớm báo cho chưởng quỹ. Tạ chưởng quỹ vội vã chạy tới, thấy người đàn ông mặc áo đỏ thẫm thì liền biến sắc mặt, thấp giọng hỏi, “Người ở trong nhã thất Lan Đinh là ai vậy?”
“Là Nhị thiếu gia của Lạc Địa vương gia.”
Vẻ khó chịu của Tạ chưởng quỹ chỉ thoáng qua rồi nhanh chóng biến mất. Lạc Địa vương gia chính là thân quyến của Vương mỹ nhân, người đang được ân sủng gần đây của Thánh thượng, lại sinh được Tam hoàng tử Lưu Hoành nên cả nhà cũng được thơm lây, chuyển tới kinh đô, vô cùng hống hách. Vị Vương nhị thiếu gia chính là anh ruột của Vương mỹ nhân, tên là Tự Chương, không có một chút mực thước, thường hay ỷ thế hϊếp người.
“Trần Tam gia, Đại thiếu gia, Tứ Tiểu thư”, Tạ chưởng quỹ mỉm cười nghênh đón, chào mời, “Dưới lầu ồn ào. Mời vào phòng trong đi.”
Cậu bé gật đầu, nắm lấy bàn tay em gái dắt đi nhưng cô bé lắc đầu quầy quậy, “Không được, muội muốn đợi dì Mai.”
Cánh cửa nhã thất tầng hai lầu Thanh Hoan bị xô bật ra, rồi một người đàn ông chừng ba mươi tuổi phe phẩy chiếc quạt giấy đi xuống. Người này chính là Vương Tự Chương. Khách quan mà nói thì gã có khuôn mặt cũng khá dễ coi nhưng khí sắc phù phiếm, hốc mắt sâu tạo nên dáng vẻ cực kỳ ngạo mạn khiến người nhìn vào có cảm giác rất khó chịu.
“Mai tiểu thư”, Vương Tự Chương cười nhạt, xếp lại cây quạt giấy, “Nàng đừng có nhẹ không ưa lại ưa nặng, có biết bản công tử là ai không?”
“Vương nhị công tử”, Tạ chưởng quỹ mỉm cười nghênh đón, ra hiệu cho thủ hạ ngăn cản tùy tùng của gã, chắp tay thi lễ, “Vương thiếu gia, quy định của lầu Thanh Hoan là ca cơ không tiếp khách, mong được thứ lỗi.”
“Quy định”, Vương Tự Chương cười lạnh, hất hàm, “Quy củ là cái thứ gì vậy?”
Mai Ký Giang uyển chuyển bước xuống đài, đặt chiếc đàn tỳ bà trong tay xuống rồi xoay người lại cười duyên dáng không hề có vẻ sợ hãi, “Ký Giang không thích uống rượu, đành phải phụ ý tốt của Vương công tử rồi.”
“Ngươi…”, Vương Tự Chương thoáng tái mặt đi rồi lộ vẻ tàn nhẫn, lạnh lùng quát, “Kéo ả qua đây cho ta.”
Trần Thương cau mày, ngay cả năm xưa khi A Kiều còn ở vị trí hoàng hậu, Trần gia cực thịnh thì con cháu Trần gia ở bên ngoài cũng không phách lối như vậy. Tên Vương Tự Chương này quả thật là ngu ngốc. Với thế cục nhạy cảm của Trần gia hôm hay thì hắn cũng không muốn xen vào chuyện phiền phức, nhưng xem ý của cháu gái thì chắc chắn sẽ bảo vệ người con gái có tên là Mai Ký Giang này đến cùng. Hắn chần chừ một chút, vừa định lên tiếng thì bỗng nhiên trong phòng khách truyền đến một giọng lạnh lùng, “Chẳng qua miễn cưỡng được coi là người nhà ngoại thích mà đã dám dương oai trong thành Trường An như thế, thật không còn có vương pháp nữa sao?” Mọi người quay lại thì thấy hai thiếu niên đang từ trên lầu đi xuống.
“Hoắc ca ca”, cô bé có gương mặt tươi tắn reo ầm lên.
Ánh mắt lạnh như băng của Hoắc Khứ Bệnh hiện lên một tia ấm áp, nếu như không phải vừa rồi ở trong nhã thất nghe thấy giọng cô bé thì với tính tình của mình, hắn chưa chắc đã xen vào những chuyện không đâu này.
Hắn bước tới trước mặt cô bé, dịu giọng, “Tại sao muội lại đến đây?”
“Tứ tiểu thư”, Triệu Phá Lỗ cũng lên tiếng, “Làm sao tiểu thư chỉ nhớ đến hắn mà không nhớ đến ta?”
“Các ngươi là ai?”, Vương Tự Chương hất hàm hỏi. Gã rốt cuộc cũng không phải kẻ ngu ngốc, dĩ nhiên nhận ra mấy thiếu niên mặc đồ đen Trần Thương cho tới vừa từ trên lầu xuống đều không phải là người bình thường, nhưng ỷ vào muội muội nên gã vẫn hống hách, “Ta khuyên các ngươi bớt xen vào chuyện người khác đi.”
“Hoắc thiếu gia”, Tạ chưởng quỹ mỉm cười thi lễ.
“Thiếu gia.” Gia đinh phía sau Vương Tự Chương khẽ nhắc, “Hình như vị này là Hoắc Khứ Bệnh của Vệ gia đấy.”
Trong cung Vị Ương, hai nhà Vệ, Vương cùng tranh đoạt sủng ái của quân vương nên đương nhiên Vương Tự Chương không hoan nghênh Hoắc Khứ Bệnh. Năm trước Hoắc Khứ Bệnh nhờ lập được chiến công mà giành được tước vị Quan Quân hầu nhưng trong mắt gã thì vẫn chỉ là một người ngoại thích như mình, chẳng qua được chiếu cố hơn một chút mà thôi. Dương Đắc Ý lau mồ hôi trán, chuyện càng lúc càng phức tạp nên đành tiến lên phía trước bẩm, “Thiếu gia, tiểu thư, chúng ta nên về sớm thôi, chắc phu nhân nóng lòng lắm rồi đó.”
Cậu bé ngầm ra lệnh cho thị vệ bảo vệ muội muội rồi lắc đầu, “Đã tới rồi thì ở lại xem đi”, sau đó quay sang Hoắc Khứ Bệnh khẽ gật đầu, “Hoắc hầu gia mạnh giỏi.”
Hoắc Khứ Bệnh thầm đánh giá cậu bé, thấy khí độ như vậy thì than thầm một tiếng.
Cô bé quay đầu lại ngọt ngào, “Xin chào Triệu ca ca.”
Triệu Phá Lỗ thấy vậy rùng mình, “Thôi đi, ta không phải là Khứ Bệnh, không chịu được nhõng nhẽo đâu.”Quyển 2 - Chương 35: Không tin vua chẳng đòi lại ân sủng“Đôi huynh muội kia có thân phận gì?” Trong lầu có tiếng người thì thầm bàn tán.
“Không biết…”, người đối diện lắc đầu, “nhưng nhìn xe ngựa ở bên ngoài thì dường như là người của phủ Đường Ấp hầu. Người đàn ông mặc y phục đỏ thẫm kia chính là Tam thiếu gia Trần Thương.
Tiết Thực chấn động, liếc nhìn ra thì quả nhiên thấy cỗ xe ngựa phong thái hiên ngang đậu ngoài cửa bên vách có khắc hình cá chuồn.
“Sao không thấy nghe nói phủ Đường Ấp hầu có một đôi huynh muội ở tuổi này. Hơn nữa chẳng phải nói phủ Đường Ấp hầu là kẻ thù không đội trời chung với Vệ gia sao, tại sao cô bé kia lại thân mật với Hoắc Khứ Bệnh như vậy?”
Tiết Thực rốt cuộc cũng nhớ ra vì sao hắn lại thấy gương mặt của cô bé có vẻ hơi quen thuộc, nguyên nhân là bởi vì ở cô bé phảng phất có bóng dáng của Trần nương nương.
“Thất kính, thất kính, thì ra là Quan Quân hầu.” Vương Tự Chương đã cảm giác là không ổn nhưng làm sao gã có thể hạ mình trước mặt mọi người, vẫn cậy mạnh cười lạnh, “Hoắc thiếu gia cũng có hứng thú với vị ca cơ này sao?”
Một tia giận dữ lóe lên rồi nhanh chóng biến mất trong đôi mắt Mai Ký Giang, nàng ta xoay người đi tới bên cạnh, cầm lấy tay cô bé, dịu dàng nói: “Tứ tiểu thư, chúng ta đi vào thôi.”
“Vâng”, cô bé đáp lời.
“Muốn đi sao?” Vương Tự Chương phất tay, “Bản công tử còn chưa đồng ý.”
“Làm người thì phải biết rộng lượng chứ.” Tiết Thực đứng dậy ngăn đám tùy tùng.
“Ngươi là ai?” Vương Tự Chương liếc xéo sang, “Cũng muốn nhúng tay vào việc này sao? Đừng có manh động.”
“Cần gì phải dây dưa với hắn”, Triệu Phá Lỗ ở bên cạnh không nhịn được quát lớn, tiến lên chụp lấy một tên tùy tùng vật ngã xuống đất. Hắn đã sớm chướng mắt với tên Vương Tự Chương nhưng vì ngại thân phận nên không dám ra tay. Bây giờ quan sát tình hình trên lầu Thanh Hoan, thấy chẳng cần tới Trần Thương và Hoắc Khứ Bệnh cùng là ngoại thích nhưng trọng lượng trong lòng Hoàng thượng lớn hơn rất nhiều so với họ Vương, mà chỉ cần có Công chúa Duyệt Trữ cùng Hoàng tử trưởng ở đây thì dù có mười Vương mỹ nhân cũng không chống đỡ được nên không còn e dè gì nữa.
“Sợ cái gì, các ngươi lên hết cho ta, xem bọn chúng được mấy hơi?”, Vương Tự Chương hò hét.
Đám tùy tùng của nhà họ Vương tản ra vây quanh, có mấy tên lao tới chỗ Mai Ký Giang, Tiết Thực bất đắc dĩ đành phải đứng ra ngăn cản.
Hoắc Khứ Bệnh cũng có ý dạy dỗ Vương Tự Chương nên đứng yên một bên quan sát. Đám tùy tùng nhà họ Vương chỉ là mấy tên tép riu, sao có thể chống đỡ được Tiết Thực cùng Triệu Phá Lỗ bao nhiêu năm chém gϊếŧ trên chiến trường, chỉ một loáng đã bị đánh cho tơi bời hoa lá. Ngay cả Vương Tự Chương cũng bị Triệu Phá Lỗ bất ngờ đánh cho mấy quyền tím bầm mặt, hét lạc cả giọng, “Hoắc Khứ Bệnh, ngươi cứ chờ đó, ta sẽ bảo muội muội tâu lên Hoàng thượng rằng ngươi dung túng người ngoài hành hung ngoại thích.”
Hoắc Khứ Bệnh nhướng mày, ra vẻ ngạc nhiên, “Ta không hề ra tay, sao Vương nhị công tử lại nhằm vào ta chứ?”
“Ngươi…”, Vương Tự Chương cứng họng, nhìn quanh những người có mặt tại hiện trường rồi cố gắng vớt vát thể diện, “Có gan thì cứ chờ xem, đi thôi!”
“Thật là thoải mái”, Triệu Phá Lỗ ỷ vào Hoắc Khứ Bệnh bên cạnh nên không hề để ý đến câu uy hϊếp của Vương Tự Chương, quay sang nhìn Tiết Thực mỉm cười hỏi, “Thân thủ vị huynh đài này thật tốt, không biết là…?”
“Tại hạ là Kỵ đình úy Tiết Thực của kỵ binh Khâu Trạch”, Tiết Thực cười đáp lễ, dù y phục đầy vẻ phong trần nhưng vẫn không che nổi sắc thái hiên ngang. Hắn cau mày nhìn đống hỗn độn trong phòng, “Tổn hại ở đây…”
“Cứ giao cho tiểu tử đi”, cậu bé ngắt lời, “Ta đã được nghe danh tiếng của Tiết đại nhân. Nếu như mấy vị nguyện ý, thì ngồi xuống cùng nói chuyện đi.”
“Vậy à”, Tiết Thực cảm thấy buồn cười liếc nhìn cậu bé, dĩ nhiên cũng thấy ánh mắt của Trần Thương đang nhìn cậu ta tán thưởng . Còn nhỏ tuổi nhưng cố làm ra vẻ trưởng thành, rốt cuộc là chuyện may mắn hay bất hạnh? Hắn rất có thiện cảm với đôi huynh muội này nên cũng không từ chối, “Vậy thì được thôi.”
Triệu Phá Lỗ cũng khá ngạc nhiên, xoay người nhìn về phía Hoắc Khứ Bệnh thì thấy Hoắc Khứ Bệnh khẽ gật đầu, “Mạch thiếu gia đã có ý như vậy, Khứ Bệnh dĩ nhiên phải nghe theo.”
Dĩ nhiên là Tạ chưởng quỹ không thể để cho Lưu Mạch bồi thường tổn thất trong lầu. Hơn nữa với tài lực của lầu Thanh Hoan hiện giờ thì dù bàn ghế vật dụng trong phòng đều là cực phẩm nhưng vẫn có dự trữ. Kiêm Gia các thanh nhã nhất của tầng hai lại được mở ra, rượu và thức ăn ngon liên tục đưa lên, Lưu Mạch quay đầu lại mời, “Dương tiên sinh, tiên sinh cũng ngồi đi.”
“Đa tạ thiếu gia”, Dương Đắc Ý khom người từ chối, “Nhưng nô tài thân phận thấp kém, hay là thôi đi.”
“Dương tiên sinh không cần quá khiêm tốn”, Trần Thương cười nói, “Hôm nay ở bên ngoài, cũng không cần phải gò bó quá mức, huống chi có ai trong số các quan lại ở Trường An mà không biết Dương tiên sinh. Nếu Dương tiên sinh nể mặt ta và cháu ngoại thì ngồi xuống đi.”
Dương Đắc Ý vẫn cảm thấy ngần ngại, liếc nhìn Hoắc Khứ Bệnh, nhưng thấy hắn chăm chú uống rượu không phản đối gì thì liền ngồi xuống bên tay trái Trần Thương.
Dù là người ăn mặc đơn giản nhất bàn, Tiết Thực cũng không hề cảm thấy lúng túng, mỉm cười nhìn quanh thấy mọi người đều không tầm thường, khí độ của hai huynh muội kia lại càng cao quý. Điều lạ là cô bé kia uống rượu một cách sảng khoái còn vị ca ca thì lại không động đến một giọt nào. Qua ba tuần rượu, hắn mở lời, “Tiết mỗ tự thấy thân phận ở nơi đế đô này không đáng nói tới, vậy không biết vị tiểu công tử này nghe ai nhắc đến tên tiểu mỗ?”
“Điều này…” Lưu Mạch chần chờ một lát rồi đáp, “Dĩ nhiên là nghe Trường Tín hầu nhắc đến.”
“Hả?” Tiết Thực ngạc nhiên, “Thì ra tiểu công tử cũng biết Trường Tín hầu ư?”
“Đúng vậy!”
“Được rồi”, Trần Thương giữ chén rượu trước mặt Lưu Sơ lại, “Uống đủ rồi, các cháu cũng nên về nhà thôi.”
“Cữu cữu”, Lưu Sơ không vui, “Rượu này không thể so với Bích Nhưỡng Xuân, nhạt như vậy uống say thế nào được.”
“Vậy cũng không được. Cháu, một công… tiểu thư công hầu, sao có thể không quy củ như vậy.”
Lưu Sơ bĩu môi, xoay sang hỏi Mai Ký Giang, “Dì Mai, dì không thể tới thăm mẫu thân và chúng cháu sao?”
“Dù ta có nguyện vọng như vậy”, Mai Ký Giang cười khẽ, “thì cũng đâu có quyền quyết định?”
“Được rồi”, Trần Thương đặt chén rượu trong tay xuống bàn, “Lầu Thanh Hoan cũng đã tới rồi, Mai cô nương cũng đã gặp, các cháu nên an tâm trở về thôi.”
Từ lầu Thanh Hoan đi ra ngoài, Hoắc Khứ Bệnh bỗng nhiên chắp tay nói, “Ta vừa chợt nhớ có một số việc chưa nói với cữu cữu nên phải đến phủ Trường Bình hầu một chuyến. Phá Lỗ, ngươi tự đi về đi.” Nói xong quay người đi luôn.
Lưu Sơ nhăn mũi, “Chúng ta cũng đi thôi.” Cô bé vịn tay vào Dương Đắc Ý bước lên xe ngựa của phủ Đường Ấp hầu, quay lại cười rạng rỡ, “Triệu ca ca, Tiết ca ca, cáo từ.”
Xe ngựa chuyển bánh đi về hướng cung Vị Ương.
“Tiết huynh vừa mới tới kinh đô sao?”
Đưa mắt nhìn chiếc xe ngựa dần đi khuất, Triệu Phá Lỗ cười hỏi.
“Đúng vậy.” Tiết Thực nói: “Đáng ra thì nhận chức ở Bắc Bình nhưng vài ngày trước nhận được lệnh điều động liền chạy về Trường An.”
“Vậy”, Triệu Phá Lỗ trầm ngâm, “Tiết huynh thuộc về kỵ binh Khâu Trạch hay thuộc về phe Trường Tín hầu?”
“Làm sao?” Tiết Thực khó hiểu, “Trong quân Đại Hán còn phân chia phe phái ư?”
Triệu Phá Lỗ cúi đầu nói giọng buồn bực, “Mặc dù không rõ ràng, nhưng vì hai nhà Trần, Vệ phân tranh trong hậu cung mà Vệ tướng quân cùng Liễu hầu gia có quan hệ không thể tách rời với hai bên tương ứng nên lòng quân đội cũng phân chia giới tuyến.”
“Như vậy sao?” Tiết Thực cảm thấy nặng nề, miễn cưỡng hỏi, “Triệu huynh thuộc về bên kia chứ?”
“Ta…”, Triệu Phá Lỗ thoáng chần chừ rồi trả lời, “Ta là một quân nhân, ta chỉ lựa chọn bên có lợi nhất cho Đại Hán.”
Tiết Thực hơi kinh ngạc, “Ta cho là”, hắn đắn đo chọn từ, “quan hệ giữa huynh và Hoắc hầu gia rất tốt, tất nhiên sẽ đứng bên Vệ gia.”
“Khứ Bệnh?” Triệu Phá Lỗ nhớ tới cái tên này, cười ấm áp, “Sở dĩ ta có quan hệ tốt với Khứ Bệnh đơn giản chỉ vì cả hai cùng có một niềm tin. Khứ Bệnh là người ta nguyện ý đi theo.”
“Nhưng xét theo chuyện hôm nay thì Hoàng tử Mạch thật sự cũng không phải là người đơn giản!”
“Hoàng tử Mạch?” Tiết Thực ngạc nhiên hỏi lại.
“Huynh không nhận ra?” Triệu Phá Lỗ lại cười nói, “Ngoại trừ cặp song sinh một trai một gái của Trần hoàng hậu thì còn ai có thể gọi Tam gia của phủ Đường Ấp hầu một tiếng là cữu cữu?”
“Ta cho là”, Tiết Thực lẩm bẩm, “”Cho là… Bọn họ là do một vị tiểu thư dòng thứ trong phủ Đường Ấp hầu sinh ra.”
“Ha ha”, Triệu Phá Lỗ khẽ cười, “Tiểu thư dòng thứ có thể sinh ra người có khí độ như vậy hay sao?”
Tiết Thực cứng họng, vội vàng nhìn theo tìm tung tích chiếc xe ngựa nhưng nó đã đi mất từ lâu, ngay cả bụi đường bốc lên cũng đã lắng xuống. Hắn làm sao mà ngờ được những hoàng tử công chúa đáng ra phải ở trong thâm cung chín tầng bao bọc lại có thể đột nhiên xuất hiện giữa ban ngày tại lầu Thanh Hoan mà không có người bảo vệ.
Cuối năm Nguyên Sóc thứ sáu, Dung hoa Lý Chỉ ở điện Phi Sương sinh hoàng tử thứ tư và hoàng nữ thứ năm.
Sau một ngày bận rộn với công việc ở điện Tuyên Thất, Lưu Triệt đang ngồi trên ngự liễn, nhắm mắt thư giãn, trong đầu hiện lên hình ảnh một gương mặt như đóa hoa sen thì chợt nghe Dương Đắc Ý ở bên cạnh khẽ bẩm, “Hoàng thượng, đã đến cung Trường Nhạc rồi.”
“Ừ”, y đáp khẽ, bước lên bậc tam cấp, hỏi người hầu của cung Trường Nhạc, “Thái hậu dạo này thế nào?”
“Thái hậu nương nương hôm nay đã khá hơn nhiều, dậy uống thuốc từ sớm. Hiện giờ phu nhân của Đan Dương hầu đang ở trong điện phụng dưỡng Thái hậu”, người hầu của cung Trường Nhạc quỳ xuống bẩm báo.
“Ừ”, y phất tay áo, “Lui ra đi!” Vào cung, quả nhiên thấy Kim Nga quỳ ngồi ở bên cạnh, nhẹ nhàng bóp chân cho Vương thái hậu, nàng ta thấy y bước vào trong điện bèn vội vàng đứng dậy hành lễ, “Tham kiến Hoàng thượng.”
“Miễn lễ!”, Lưu Triệt gật đầu, “Nga Nhi có nhiều thời gian rảnh rỗi nên tiến cung phụng dưỡng mẫu hậu đi. Có Nga Nhi ở bên cạnh thì tâm tình của mẫu hậu sẽ tốt hơn nhiều.”
“Dạ!”
“Nga Nhi cũng lập gia đình rồi”, Vương thái hậu mở mắt, “Để người lớn tuổi như nó phụng dưỡng ai gia thì không được hay lắm.”
“Dạ, thưa mẫu hậu”, Lưu Triệt đáp.
“Triệt Nhi, đã đặt tên cho hoàng tử và công chúa mới sinh chưa?”
Lưu Triệt thấy Vương thái hậu có ý bảo, bèn đỡ bà ngồi dậy.
“À”, Lưu Triệt trả lời không mấy để ý, “Hoàng tử tên là Đán, Công chúa thì gọi Yên đi. Đặt tên chữ Cái Trường là được rồi.”
“Cái Trường”, Vương thái hậu trở về chỗ cũ, vui vẻ, “Cũng không phải là tệ. Triệt Nhi, hôm nay Nga Nhi tiến cung, cầu xin ai gia một chuyện. Ai gia thấy cũng không phải là việc lớn nên đã chấp thuận.”
“Thế à?” Lưu Triệt không khỏi liếc mắt nhìn Kim Nga, mặc dù ánh mắt không sắc bén nhưng Kim Nga vẫn vỡ mật kinh hồn cúi đầu xuống. Y dịu giọng, “Nga Nhi có việc gì thì cứ nói trực tiếp với trẫm là được rồi. Nếu trẫm làm được thì sao lại không đáp ứng chứ?”
“Cũng không phải việc gì lớn”, Vương thái hậu đỡ lời, “Nga Nhi được gả cho Đan Dương hầu ở Hoài Nam đã mấy năm mà chưa sinh nở gì, tóm lại là không tốt. Nga Nhi nói mấy ngày trước Trưởng công chúa Phi Nguyệt đã bảo nó là nếu nhận một đứa bé gần gũi bên nhà chồng làm con nuôi, tốt nhất là gái, thì sẽ có thay đổi về đường con cái. Nhưng dù sao Lưu Thiên cũng là con cháu hoàng tộc, Nga Nhi có muốn cũng khó nên mới tìm đến nhờ ai gia.”
“Phi Nguyệt?” Lưu Triệt có vẻ suy tư, trầm ngâm hỏi, “Nga Nhi đã chọn được đứa bé nào vừa ý rồi à?”
“Trần nương nương giới thiệu một cô bé rất tốt là Giang Đô quận chúa Tế Quân hiện giờ còn nhỏ tuổi, giỏi âm luật, dịu dàng dễ thương”, Kim Nga nói, “Nếu được thì Nga Nhi nhất định sẽ đối xử tử tế.”
“Tế Quân…” Lưu Triệt lẩm nhẩm nhắc lại cái tên xa lạ đó, nhạt nhẽo, “Mẹ nó là tội thần, Nga Nhi nhận nuôi dưỡng cũng là một việc thiện.”
“Nói như vậy”, Vương thái hậu nhìn y, “nghĩa là Hoàng thượng đồng ý?”
Kim Nga thấy Lưu Triệt gật đầu thì rất vui mừng, quỳ gối bái lạy, “Tạ ơn Hoàng thượng.”
“Cùng là người một nhà thì cám ơn cái gì chứ?” Vương thái hậu nói tiếp một câu khiến mọi người chợt lặng đi, “Triệt Nhi, nếu một ngày ai gia không còn nữa thì con nhất định phải trông nom Tử Trọng và Nga Nhi cẩn thận.”
“Mẫu hậu!” Lưu Triệt thấy mắt tối sầm xuống. Gần đây, sức khỏe Vương thái hậu càng ngày càng suy yếu, thường xuyên nhức đầu, mắt cũng nhìn không rõ nữa. Trong lòng y cực kỳ lo lắng nhưng cũng không biết làm thế nào, chỉ đành chăm đến Trường Nhạc cung hơn để phụng dưỡng mẹ. Vương thái hậu vỗ vỗ vào tay y trấn an, “Nga Nhi, cháu về trước đi. Ai gia có mấy lời muốn nói với Hoàng thượng.”
“Dạ.” Kim Nga lí nhí đáp, lạy tạ rồi rời đi.
“Triệt Nhi!”, một lúc lâu sau Vương thái hậu mới khẽ nói: “Con dìu ta đi ra ngoài cung Trường Nhạc đi.”
“Dạ!” Lưu Triệt luôn rất hiếu thuận với mẹ nên lúc này không muốn làm trái yêu cầu. “Mẫu hậu muốn đi đâu?”
“Ai gia muốn đến đài Việt Dương để nhìn lại cung Trường Nhạc này một chút.”
“Triệt Nhi, con phải biết rằng năm xưa khi mang thai con, ai gia đã từng đứng ở chỗ đó mà nhìn về cung Trường Nhạc.”
Cung Trường Nhạc dưới ánh nắng mùa thu càng lộ ra vẻ trang nghiêm. Người hầu trong cung theo hành lang đi tới, mang thuốc uống đến cho Hoàng thái hậu.
“Thật không?”
“Đó là lần đầu tiên ai gia trông thấy A Kiều ở cung Trường Nhạc.” Vương thái hậu cảm thấy bàn tay mình bất giác siết chặt hơn vào váy áo, cười không thành tiếng, “Khi đó Đường Ấp quận chúa đúng là người nhận nhiều ân sủng ở trong cung Trường Nhạc. Đậu thái hậu chỉ có duy nhất một cháu gái bên ngoại nên quý như châu báu. Mãi đến khi ai gia có Nga Nhi thì mới có thể hiểu được tình cảm của Đậu thái hậu.”
“Khi đó ai gia nghĩ rằng cô bé này thật là may mắn, bỗng nhiên có được thân phận tôn quý nhất thế gian, nhưng với tính tình thuần hậu, không có tâm kế thì chỉ sợ cũng chưa chắc đã là may mắn. Quả nhiên, sau này mọi chuyện đều ứng nghiệm.”
“Mẫu hậu!” Lưu Triệt nheo mắt, hỏi vẻ lạnh nhạt, “Rốt cuộc là người muốn nói gì?”
“Bây giờ Triệt Nhi cũng có bốn con trai rồi”, Vương thái hậu vẫn không để ý, “Nhớ lại hồi năm Nguyên Quang, A Kiều vì không có con mà lâm vào cảnh quẫn bách, thấy dường như đã trải qua mấy kiếp.”
Y bước hơi chậm lại, không vui, “Mẫu hậu còn nhắc lại chuyện đó làm gì?”
Vương thái hậu không nhìn y mà vẫn tiếp tục dòng suy tưởng, “Dạo này ta vẫn khách quan quan sát A Kiều, thấy nó đã hiểu chuyện hơn so với trước đây rất nhiều. Một người con gái được chiều chuộng như A Kiều thì phải chịu bao nhiêu cực khổ mới có thể rèn giũa được như hôm nay? Triệt Nhi, năm đó mẹ con chúng ta thật có lỗi với A Kiều, vì thế bây giờ con đã nắm được quyền lực, nếu có thể đối xử với nó tốt hơn chút nào thì nên làm.”
Lưu Triệt trầm ngâm một lát rồi nói, “Con biết rồi ạ.”
“Còn Mạch nhi nữa”, Vương thái hậu dặn dò, “Dù sao nó cũng mang dòng máu hoàng gia, cũng nên kính báo với thái miếu, thông cáo cho toàn dân thiên hạ biết.”
“Vâng mấy ngày nữa con sẽ làm.”
“Ai gia già rồi”, Vương thái hậu khẽ thở dài, “cho nên lòng dạ mềm đi rất nhiều. Có lẽ không bao lâu nữa cũng sẽ đi gặp Tiên đế thôi.”
“Chết sống có số, phú quý nhờ trời”, bà lắc đầu, “Những năm qua ta đã từng làm hoàng hậu, bây giờ con ở ngôi vị hoàng đế cũng làm việc rất tốt, ai gia thấy cũng đủ rồi. Có điều…”, bà dừng một chút, “cả đời ai gia lại toàn để con gái mình chịu thiệt thòi, đại tỷ của con thì còn có thể được con chiếu cố, nhưng Đàm Nhi thì…”
“Mẫu hậu…” Lưu Triệt cũng cảm thấy buồn phiền, gắng cười rồi trong mắt chợt lóe lên khí thế hào hùng, “Nhất định có ngày trẫm sẽ đánh tan cả lũ Hung Nô đưa Đàm tỷ trở về, để tỷ ấy một lần nữa ở trước mặt người gọi người một tiếng mẫu hậu.”
Lưu Triệt đưa Vương thái hậu trở về cung Trường Nhạc rồi cho ngự liễn đi theo con đường hành lang trở về cung Vị Ương. Trận sóng gió mấy ngày trước ở lầu Thanh Hoan dĩ nhiên y đã nghe. Y hừ lạnh một tiếng. Ba nhà Trần, Vệ, Vương đã chiếm hết mọi danh phận cho bên ngoại, tranh đấu trong cung Vị Ương còn chưa đủ, giờ còn muốn tiếp tục đấu cả ở bên ngoài cung nữa sao?
Từ năm Kiến Nguyên đến năm Nguyên Quang, y đã chịu đựng đủ rắc rối của bên ngoại nên căm thù đến tận xương tủy những việc kiểu này. Bị ảnh hưởng bởi nguyên nhân sâu xa đó, y đã trục xuất A Kiều đến Trường Môn, nhờ vậy mới áp chế được hai nhà Vệ, Vương không đi theo vết xe đổ của Trần gia quyền thế át quân vương.
Y vốn là người vô cùng tự tin, sau khi cầm quyền đã lập ca cơ Vệ Tử Phu làm hoàng hậu, một tay nâng đỡ Vệ gia thành thế lực hiển hách trong thiên hạ. Y sủng ái Vương Thấm Hinh thì cũng mạnh tay phong thưởng cho nhà họ Vương. Đơn giản vì y tin tưởng rằng chỉ cần muốn thì y luôn có thể thu lại những vinh hoa phú quý mình ban thưởng cho bọn họ bất cứ lúc nào. Nhưng nhà họ Vương hôm nay dường như đã bắt đầu đắc ý đến mức quên hết chừng mực rồi.
Trong số họ ngoại của ba nhà có mặt trên lầu Thanh Hoan, Hoắc Khứ Bệnh được Lưu Triệt yêu thích, còn Trần Thương, chưa nói đến việc không trực tiếp tham dự mà nể mặt A Kiều thì y cũng sẽ không động chạm đến. Còn lại là Vương gia, dù sao cũng đuối lý.
Năm Nguyên Sóc thứ năm, y dần dần chán ghét Vệ Tử Phu nhu mì dễ bảo, phi tần trong cung Vị Ương cũng không có người nào mới lạ. Ngự giá lên Lâm Uyển săn thú, trên đường y đang buồn chán thì gặp dân nữ Vương Thấm Hinh.
Vương Thấm Hình tất nhiên cũng là một trang tuyệt sắc, tuy có lẽ không đẹp bằng Vệ Tử Phu nhưng tính tình vui vẻ hoạt bát khiến y yêu thích không nỡ rời xa. Đã quá lâu y không gặp được người con gái nào cởi mở đến mức chỉ liếc qua cũng có thể thấy tận đáy lòng như vậy. Không biết vì lý do gì mà y lại ân sủng nàng ta đến hơn một năm trời. Nhưng cũng không biết vì lý do gì mà bỗng nhiên y lại cảm thấy nàng ta thật sự không đủ thông minh. Đã không đủ thông minh mà lại phạm sai lầm đến như vậy thì tất nhiên cần bị trừng phạt.
“Dương Đắc Ý!”, y ra lệnh.
“Có nô tài!”
“Truyền ý chỉ của trẫm, thăng Lý dung hoa lên làm tiệp dư, Vương mỹ nhân có hoàng tử thứ ba, cũng thăng làm tiệp dư, ban thưởng cho ở điện Vân La, mà thôi, cho ở điện Thanh Lương đi.”
“Dạ!” Dương Đắc Ý khom người nói, nhắm mắt lại che giấu vẻ vừa kinh ngạc vừa thấu hiểu.
A Kiều không chịu chuyển về cung Vị Ương, Lý Chỉ vừa mới sinh con, y lại quyết định rũ bỏ người con gái có tên Vương Thấm Hinh khỏi cung, Lưu Triệt hơi lưỡng lự, trong đầu chợt lóe lên ý định đến điện Tiêu Phòng nhưng chẳng biết tại sao lại gạt đi, chỉ nói, “Tối nay sẽ đến điện Thừa Hoa.”
Trong điện Thừa Hoa, Hình Nhược ra nghênh tiếp, hơi nhún người bái chào, “Thần thϊếp tham kiến Hoàng thượng.”
“Miễn lễ, Nhược Nhi!” Lưu Triệt làm ra vẻ nâng lên, Hình Nhược theo đó cũng đứng dậy, yểu điệu, “Hoàng thượng tới là phúc phận của Nhược Nhi.”
Gương mặt nàng ta quyến rũ lòng người, Lưu Triệt ngắm nhìn một lúc rồi ra vẻ quan tâm, “Dường như sau khi từ cung Cam Tuyền trở về thì Nhược Nhi càng ngày càng gầy đi đấy.”
“Chắc là vì tiết trời chuyển lạnh làm cho Nhược Nhi thấy nhạt miệng, không có chuyện gì đâu ạ”, Hình Nhược vẫn một mực giữ lễ.
“Thế à?” Lưu Triệt mỉm cười nói, “Vậy thì bảo ngự trù dọn lên vài món ăn để trẫm và Nhược Nhi dùng đi, cũng để xem vì sao lại nhạt miệng luôn thể.”
“Nhược Nhi đa tạ Hoàng thượng.” Hình Nhược thoáng đỏ bừng mặt, quay sang bảo thị nữ Oanh Hương ở bên cạnh, “Đi chuẩn bị đi.”
“Dạ!” Oanh Hương muốn cho chủ nhân vui lòng bèn tự mình đi xuống.
Chẳng mấy chốc, tám món đồ ngự đã được chuẩn bị đầy đủ. Lưu Triệt nếm thử, bỗng nhiên nhớ lại mấy món thức ăn đơn giản mà hương vị lại tuyệt vời năm xưa từng nếm ở lầu Thanh Hoan. Hình Nhược trông người đoán ý, bèn hỏi, “Hoàng thượng không thích ạ?”
“Không phải vậy”, Lưu Triệt đáp cho qua chuyện.
Ngoài điện bỗng nhiên có tiếng ồn ào, y liền tỏ ý không hài lòng. Hình Nhược vội vàng ngừng lại, quay ra bên ngoài hỏi, “Có chuyện gì thế?”
“Bẩm Hoàng thượng và Khinh nga”, Oanh Hương quỳ gối bẩm báo, “Vương mỹ nhân ở điện Phu Hương làm loạn lên đòi yết kiến Hoàng thượng.”
“Cô ta đòi yết kiến Hoàng thượng thì đến chỗ của ta để làm gì?” Hình Nhược tỏ ý không vui, rồi lại quay sang nhìn Lưu Triệt, nũng nịu, “Hoàng thượng.”
“Bảo với Vương tiệp dư hãy an tâm trở về điện Thanh Lương, không cần phải yết kiến trẫm”, Lưu Triệt coi như không có gì xảy ra.
Hình Nhược cúi đầu, mặt hơi biến sắc. Mặc dù điện Thừa Minh không hẻo lánh thê lương như điện Vân La nhưng cũng nằm phía đông cung Vị Ương, cũng là nơi đế vương không mấy khi đặt chân tới, đã đến ở nơi đó chẳng khác nào là cả đời vô duyên với ân sủng của đế vương. Hơn một năm qua, Vương Thấm Hinh của điện Phu Hương nhận đủ mọi ân sủng, lúc có mang hoàng tử, danh tiếng thịnh nhất thì ngay cả Vệ hoàng hậu cũng phải chịu lép vế. Nhưng không ngờ một khi đế vương vừa quay mặt đi thì lập tức rơi vào tình cảnh như thế này. Trong lòng nàng ta không khỏi dấy lên nỗi chua chát. Lòng vua sao bạc bẽo vô tình đến thế.
“Nương nương, nương nương.” Thị nữ Hạ Âm rối rít cầu xin ở bên ngoài điện Thừa Hoa, “Người đừng làm nô tỳ sợ.”
Vương Thấm Hinh nghe nội thị truyền đạt lại ý chỉ thì mặt trắng bệch đi. “Hạ Âm, ta đấu với Vệ Tử Phu hơn một năm qua là để làm cái gì chứ?”, nàng ta thì thào.
“Nương nương, người không được nói như vậy, dù thế nào người cũng còn có Tam hoàng tử nữa mà.”
“Ta không cầu có người thân có khả năng làm việc như Vệ Thanh hay Hoắc Khứ Bệnh giúp ta được vẻ vang”, nàng ta thốt lên vẻ thê lương rồi nở nụ cười cay đắng, “Nhưng ít ra cũng đừng ngăn cản bước đường tiến thân của ta chứ.”
Nàng ta chầm chậm cúi đầu, một giọt lệ ứa ra từ trong khóe mắt.Quyển 2 - Chương 36: Vòng eo thon thả nhẹ tay nângMùa đông năm Nguyên Sóc thứ sáu đến sớm hơn các năm trước, mới đầu tháng Mười một mà tuyết đã rơi mờ mịt khắp cả đế đô Trường An. Lưu Triệt một tay cầm chiếc lò sưởi nhỏ, tay kia chắp sau lưng đi dọc hành lang cung Vị Ương tiến vào điện Tuyên Thất.
“Hoàng thượng!” Lý Thái cùng Tang Hoằng Dương quỳ xuống bái chào.
“Đứng lên đi!” Lưu Triệt ngồi xuống trước án, nhìn lướt qua hai người, “Trẫm gọi các khanh tới là muốn sắp xếp một số việc. Lý khanh, Công Tôn Hoằng không được khỏe, lúc lên triều khanh cần phải trợ giúp nhiều hơn.”
“Thần… Đa tạ Hoàng thượng ưu ái, thần nhất định sẽ hết lòng hết sức.” Lý Thái cúi rạp người xuống, cảm động đến rơi nước mắt. Cho dù là vì lý do gì, việc bổ nhiệm ngày hôm nay chứng tỏ rằng Hoàng thượng đã coi trọng bản thân hắn. Nếu một lúc nào đó Công Tôn Hoằng qua đời thì chức vụ chỉ dưới một người ở trong triều chắc chắn sẽ do hắn tiếp quản.
“Tốt”, Lưu Triệt lên tiếng đáp lại rồi quay sang phía Tang Hoằng Dương, “Tang khanh biết trẫm gọi khanh tới là có ý gì không?”
“Thần thụ hoàng ân, xấu hổ nhận chức đại tư nông, mặc dù không dám nói là đắc dụng nhưng cũng coi là tận tâm tận lực”, Tang Hoằng Dương cụp mắt xuống cung kính bẩm tấu, “Hoàng thượng triệu kiến lúc này chắc là có chuyện về tài chính cần bàn bạc.”
“Hai khanh đều là đại thần đắc lực của trẫm”, Lưu Triệt mào đầu, “Trẫm cũng không dối gạt các khanh. Sang năm hoặc nếu có chậm thì cũng chỉ sang năm sau nữa thì Đại Hán ta nhất định sẽ đại chiến với Hung Nô. Khanh không cần phải nói”, y phất tay ngăn Tang Hoằng Dương, đứng lên đi đi lại lại mấy bước rồi nói tiếp, “Trẫm biết ngân khố còn đủ chi dùng nhưng chiến tranh sẽ rất tốn kém, Tang khanh phải nhanh chóng nghĩ đối sách.”
“Đối sách thì đã có sẵn rồi”, Tang Hoằng Dương thản nhiên đáp. Lý Thái ở bên cạnh khẽ biến sắc mặt, “Đây là vấn đề cực kỳ khó khăn, Tang đại tư nông có biện pháp rồi sao?”
“Muối và sắt quy về triều đình”, Tang Hoằng Dương ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào Lưu Triệt, nhấn mạnh từng từ một.
“Thế này…” Lý Thái kinh hãi, “Thế này sao được.” Giọng nói cứ nhỏ dần. Hắn không phải dạng người cổ hủ như Cấp Ảm nên tất nhiên thấy được lợi ích trong chuyện này, huống chi theo hiểu biết của hắn thì Hoàng thượng là người có hùng tâm tráng chí, việc đối phó với vương gia các nước chư hầu chỉ là chuyện sớm hay muộn. Chuyện ba vương gia làm phản, Hoài Nam tự xin bãi nước năm trước đã gây chấn động không nhỏ, đây chính là thời cơ cực tốt để triều đình thu lại quyền lợi từ bọn họ. Hôm nay Tang Hoằng Dương dám nói như vậy thì chắc chắn đã hiểu rõ tâm tư của Hoàng thượng.
“Hay lắm!” Lưu Triệt vỗ tay, ánh mắt lóe lên, “Tang khanh có tính toán cụ thể gì về chuyện này?”
“Dĩ nhiên là có, nhưng thần dù sao cũng chỉ quản lý tài vụ, tuy có định liệu trước về chuyện này nhưng lại không thể đứng ra giao thiệp với các vương gia chư hầu”, Tang Hoằng Dương đẩy khéo trách nhiệm.
Lý Thái kín đáo thở dài, tiến lên một bước bẩm, “Thần nguyện chịu trách nhiệm chuyện này.”
“Như vậy rất tốt!” Lưu Triệt hài lòng, lên tiếng khích lệ, “Nếu chuyện này thành công, hai vị khanh gia đều có công lớn.”
“Thần không dám nhận.” Trong lòng Lý Thái nửa mừng nửa lo nhưng không hề lộ ra mặt mà chỉ cúi đầu chắp tay bái tạ.
“Vậy thì Lý khanh trở về vạch kế hoạch đi”, Lưu Triệt phất tay cho hắn lui ra, lại nói, “Tang khanh ở lại, trẫm có chuyện muốn hỏi.”
“Dạ.” Tang Hoằng Dương đáp rồi đứng chờ dưới điện còn Lý Thái thì lui ra khỏi điện Tuyên Thất, Lưu Triệt vẫn đứng ngắm nhìn tuyết bay ngoài trời một lúc lâu mà không hề lên tiếng.
“Tuyết năm nay cũng lớn.”
“Đúng vậy, Hoàng thượng.”
“Tang khanh là ngoại thần, mấy ngày nay ra vào nội cung có vất vả lắm không?”
Tang Hoằng Dương ho khan một tiếng, cảm giác hơi buồn cười. “Thần phụng mệnh của Trần nương nương. Công chúa Duyệt Trữ yếu ớt sợ lạnh mà cung Trường Môn lại là nơi rất lạnh nên nương nương bảo thần vào sửa chữa để vào mùa đông ấm hơn”, hắn chắp tay giải thích, nói thêm, “Làm xong cũng chừng được nửa tháng rồi.”
“Sơ Nhi sợ lạnh sao?” Lưu Triệt nhíu mày, thở dài, ngẩng đầu, “Sửa chữa mà cũng cần phải phiền đích thân một Đại tư nông đích thân đốc thúc sao? Huống hồ còn nghe nói là sửa lại toàn bộ cả cung Trường Môn, nếu bây giờ mà xảy ra chiến sự thì Tang Hoằng Dương khanh lấy đâu ra tiền?”
“Dĩ nhiên là từ việc kinh doanh của Tức Lam các.” Tang Hoằng Dương nhướng mày đáp. Lưu Triệt cáu kỉnh, định nói gì đó cuối cùng lại thôi, chỉ khẽ bảo, “Khanh cũng lui ra đi.”
“Dạ.” Tang Hoằng Dương lui lại một bước, quỳ lễ rồi đi ra.
Dương Đắc Ý đứng trong hành lang điện Tuyên Thất trông thấy Lưu Triệt bước ra liền vội vàng nghênh đón, dò hỏi, “Hoàng thượng, tuyết bên ngoài rất lớn, hay là…” Thấy ánh mắt lạnh băng của Lưu Triệt lão lập tức hoảng sợ im bặt.
“Lệnh xuống, chuẩn bị xe”, Lưu Triệt lạnh lùng hạ lệnh.
“Dạ!” Dương Đắc Ý khom người đáp, đang định xoay người truyền lệnh thì lại nghe vị hoàng đế vốn vẫn luôn anh minh quả quyết hơi do dự rồi nói: “Thôi vậy. Mọi người ở lại đây. Dương Đắc Ý, ngươi đi cùng với trẫm.”
“Hoàng thượng!” Dương Đắc Ý vội vàng đón lấy chiếc ô từ tay một nội thị rồi đi theo ra ngoài. Gió Bắc thổi táp vào mặt, bông tuyết vỡ ra lọt vào khe cổ khiến Dương Đắc Ý rùng mình. Sau khi trở thành Ngự tiền tổng quản, hắn rất ít khi đi trong vườn ngự uyển dưới thời tiết như thế này, thế nhưng vị đế vương phía trước vẫn thẳng người bước để lại những dấu chân hằn sâu trong tuyết. Đi theo hướng tây đến Bách Lương đài thì Dương Đắc Ý mới biết thì ra là Hoàng thượng muốn tới cung Trường Môn. Ngày đó, tuy đứng bên ngoài điện Bát Nhã của cung Trường Môn nhưng hắn cũng nghe được lời của Trần nương nương, trong đó có một câu, chính là, “Trường Môn một bước ngang, xe không buồn ghé tới.”
Dương Đắc Ý hầu hạ Hoàng đế suốt bao nhiêu năm nên hiểu rõ bậc đế vương này hơn bất kỳ ai khác. Vì vậy hắn biết rằng trong lòng Hoàng thượng có chút nhớ nhung vị Trần nương nương vừa mới trở về kia, nhưng giờ lầm lũi đội tuyết đi trong gió Bắc lạnh thấu xương thì lão mới phát hiện ra rằng mình còn đánh giá thấp sự coi trọng của Hoàng thượng đối với nàng. Đến khi trông thấy mái hiên cong vυ't của cung Trường Môn thì toàn thân Dương Đắc Ý đã bị tuyết thấm ướt sũng còn Lưu Triệt thì chỉ ướt nhẹ một vạt áo phía trên mắt cá chân. Mạc Sầu đang bưng nước nóng ra ngoài điện Bát Nhã, chợt trông thấy người trước mặt thì ngỡ đang nằm mơ, mặt biến sắc, đánh rơi chậu nước xuống đất kêu loảng xoảng. Cô vội vàng quỳ lạy, “Nô tỳ không biết Hoàng thượng giá lâm, mạo phạm thánh giá, tội đáng muôn chết.”
“Miễn lễ!” Lưu Triệt không hề để ý, cứ thế đi thẳng vào trong điện Bát Nhã. Một luồng khí ấm áp phả thẳng vào mặt, không hề có chút lạnh lẽo. Y nhíu mày, lúc này mới để ý tới mấy cây trụ đồng trong điện đang tỏa ra ánh sáng màu hồng khiến cả không gian có phần trống trải trong điện trở nên ấm cúng.
“Tham kiến Hoàng thượng!” Tất cả nô tỳ trong điện đều quỳ xuống.
“Chủ nhân của các ngươi đâu?” y hỏi khẽ.
“Trần nương nương và Trưởng công chúa Phi Nguyệt mãi gần sáng mới đi ngủ, giờ còn chưa dậy”, Lục Y run rẩy trả lời.
Lưu Triệt nhướng mày, kinh ngạc hỏi, “Vẫn còn chưa dậy ư?” Nói xong y liền đi về hướng tẩm điện, Lục Y ở phía sau hấp tấp nói với theo, “Hoàng thượng, nương nương đêm qua không ngủ ở trong đó.”
Tẩm điện trống không, tấm thảm trải sàn màu đỏ tươi gây cảm giác nhẹ nhàng, quả nhiên không thấy bóng dáng Trần A Kiều. Nhưng Lưu Sơ nghe thấy tiếng động liền vội vã chạy tới, kêu toáng lên, “Phụ hoàng!”, gương mặt hiện rõ vẻ hân hoan.
Cô bé chỉ mặc một chiếc áo lông cừu không dày lắm, khuôn mặt đỏ hồng, có vẻ không hề thấy lạnh. Lưu Triệt cũng không an tâm, hiền từ hỏi, “Sơ Nhi, sao chỉ có một mình con ở đây?”
“Ca ca dậy sớm đi Bác Vọng hiên rồi.” Lưu Sơ nhăn mũi, oán trách, “Theo con thì thời tiết lạnh như thế này cứ ở cung Trường Môn là được rồi, đi xa như vậy để chịu lạnh làm gì.”
Lưu Triệt cười nhạt. Thời tiết như thế này thì Lưu Cứ thường không muốn ra ngoài nhưng hôm nay có Lưu Mạch, chỉ sợ có lạnh hơn nữa Vệ Tử Phu vẫn bắt Lưu Cứ phải tới Bác Vọng hiên.
“Mẫu thân của con đâu?”
“Tối hôm qua không biết mẫu thân và dì Lăng làm gì đó mà thức rất khuya rồi ngủ luôn ở trong thư phòng. Con vừa tới xem, thấy vẫn còn đang ngủ say.” Lưu Sơ mở to cặp mắt thanh khiết như băng tuyết, nói líu lo.
“Thật không?” Lưu Triệt hơi xìu mặt xuống, cầm tay dắt cô bé đi ra ngoài.
Thư phòng nằm ở chái đông điện Bát Nhã, từ lúc chuyển về Trường Môn thì A Kiều và Lưu Lăng rất coi trọng căn phòng này. Có một hành lang dài thông thẳng từ tẩm điện tới thư phòng. Lưu Triệt đi xuyên qua hành lang rồi đẩy cửa bước vào.
“Bẩm Hoàng thượng” Lục Y lúc này mới kịp phản ứng, ngượng ngùng nói, “Trưởng công chúa Phi Nguyệt cũng nghỉ ở bên trong.”
Gió Bắc lạnh thấu xương cuốn theo hoa tuyết thổi luồn qua khe cửa khiến không khí ấm áp trong phòng lập tức tan biến. Lưu Triệt vừa nhấc tấm rèm che thì thấy ngay A Kiều đang nằm ngủ bên trong, mái tóc dài buông xõa quanh gối. Trong điện rất ấm áp nên nàng cũng không mặc nhiều, chỉ đắp trên mình một tấm chăn mỏng nhưng cũng đang dần tụt xuống ngang hông. Y bỗng nhiên nhớ tới một câu bảy chữ “Vòng eo thon thả nhẹ tay nâng.” A Kiều giỏi ca múa nhưng không thường biểu diễn. Ngay như Vệ Tử Phu vốn xuất thân từ một ca cơ nhưng sau khi lên ngôi hoàng hậu cũng rất ít khi ca một khúc, múa một điệu cho y xem, huống chi A Kiều trước đây có thân phận tôn quý như vậy. Sau khúc hát khuynh thành danh chấn thiên hạ, trong những quán trà hàng rượu vẫn râm ran chuyện điệu múa của bậc hồng nhan tuyệt sắc làm nghiêng thành Tức Mặc đêm đó. Y chưa bao giờ biết rằng A Kiều sẽ múa một điệu mê hoặc lòng người như vậy. Nghiêng thành, người con gái này đúng thật có thể làm nghiêng ngả một tòa thành! Y không ngại Lưu Lăng nhưng dù sao hôm nay danh phận đã định, hơn nữa đây đang là cung Trường Môn của A Kiều nên đành quay lại bảo, “Gọi các nàng ấy dậy đi!”
Lục Y len lén bước vào gian trong của thư phòng. Y đứng một mình ở gian ngoài, nhìn thấy giấy rơi lộn xộn đầy đất. Dương Đắc Ý lúc này đã thay y phục, vội vàng nhặt một tờ dâng lên cho y. Đó là một tờ phác thảo sơ đồ trọng nỗ, cũng không phải là trọng nỗ tầm thường mà là loại có nhiều lỗ nỏ, một lần có thể bắn ra mười mũi tên, bên cạnh đề mấy chữ “Liên hoàn nỗ”[1] theo kiểu chữ Triện, nét bút thanh tú nhưng không giống chữ của A Kiều. Lưu Triệt đăm chiêu, dù y không hiểu về chế tạo cơ khí nhưng cũng nhìn ra người vẽ phác thảo có hiểu biết rất sâu về nó. Cách thức vẽ tuy chưa từng thấy nhưng lại rõ ràng và dễ hiểu hơn do thợ chuyên môn vẽ. Nếu quả thật có thể chế tạo ra cơ nỏ như vậy, y thầm đánh giá, sẽ giúp ích rất nhiều trong cuộc chiến Hán Hưng. Có điều nếu tăng thêm số lượng tên bắn ra sẽ khó tránh khỏi ảnh hưởng tới lực bắn và độ chính xác. Y nhặt lên một tờ giấy khác, mở ra xem thì thấy không phải là cơ nỏ mà là bản thiết kế một món đồ trang sức, nhìn trong hình vẽ trông tựa như trâm mà không phải trâm, tựa như thoa nhưng không phải thoa, toàn thân một sắc xanh biếc, nhẹ nhàng như khói, hình dạng như chim yến đang bay.
[1] Nỏ liên hoàn.
“Trần nương nương cùng Trưởng công chúa Phi Nguyệt đêm qua cứ vẽ đi vẽ lại những bức vẽ này tới gần sáng”, Mạc Ưu, Mạc Sầu đứng bên nói.
Trong những trang giấy vung vãi khắp phòng có sơ đồ nỏ cơ, có họa đồ trang sức, cũng có cả phác thảo y phục. Lưu Triệt không khỏi bật cười, trí tưởng tượng của hai người thật quá mức phong phú. Phía trong thư phòng vang lên tiếng sột soạt rồi Lưu Lăng khoác áo lông cừu mỏng bước ra, hành lễ xong vẫn không giấu được vẻ ngái ngủ.
“Kiều Kiều đâu?”, Lưu Triệt dịu giọng hỏi.
“A Kiều tỷ từ trước đến giờ nếu ngủ không đủ sẽ rất cáu kỉnh, Lục Y không gọi dậy được.” Lưu Lăng che miệng ngáp một cái, nếu không phải Lưu Triệt đích thân tới thì ngay cả nàng cũng không chịu dậy.
Bên ngoài điện, tuyết đã ngừng rơi. Lưu Triệt nhìn tuyết phủ ngập vườn, trầm tư một lúc rồi chợt nói, “Lăng Nhi, theo trẫm đi ra bên ngoài một chút.”
Lưu Lăng đang khó hiểu thì lại nghe Lưu Triệt dặn, “Dương Đắc Ý, ngươi không phải đi theo.” Dương Đắc Ý khom người đáp “Dạ”, thấy Lưu Triệt đã chắp tay bước ra khỏi điện thì không dám đi theo.
Lúc này đã gần trưa, tuyết trên lối đi đã được những người dọn dẹp trong cung quét sạch nhưng giờ lại mới rơi xuống phủ một lớp dày gần nửa thước, mặt tuyết xốp khô ráo. Lưu Triệt lội trên tuyết, tiếng bước chân vang lên lạo xạo. Lưu Lăng bất giác lười biếng, giẫm theo dấu chân sẵn có, một hồi lâu thì nghe giọng của Lưu Triệt phía trước: “Lăng Nhi, nếu như không phải là có A Kiều, ta thật sự đã muốn cho rằng muội đang rất ổn.” Y ngẩng đầu, nhận ra đã đi tới rừng trúc của Trường Môn.
“Hoàng huynh đang nói gì đấy?” Nàng vén đám tóc mai đang lòa xòa xuống, cố làm ra vẻ không hiểu. Một cơn gió Bắc thổi tạt qua làm một chùm tuyết bám trên cành trúc rơi trúng vào trán, cảm giác lạnh toát rốt cuộc khiến nàng tỉnh táo lại.
“Trẫm vẫn còn nhớ”, Lưu Triệt nhìn thẳng vào mắt Lưu Lăng, giọng mê hoặc, “Khi mới tới Trường An hồi năm Kiến Nguyên thứ nhất, Lăng Nhi còn là một cô bé tuổi vừa mới cập kê rất xinh đẹp đáng yêu.”
Lưu Lăng thở dài, “Thế mà đã hơn mười năm qua rồi, Lưu Lăng đáng yêu giờ đã không còn đáng yêu nữa.”
“Làm gì có chuyện như vậy?” Lưu Triệt chắp tay thong thả bước một bước trên mặt tuyết, “Lăng Nhi bây giờ còn đẹp hơn năm xưa ấy chứ.”
“Xinh đẹp hay đáng yêu bây giờ cũng không là gì nữa.” Lưu Lăng cúi đầu, “Chẳng qua hoàng huynh không nhận thấy mà thôi.”
“Không nói đến chuyện này nữa”, nàng ngẩng đầu lên, ánh mắt lấp lánh như sao trời, “Hoàng huynh bảo muội ra ngoài là có việc gì thế?”
Mặc dù trên gương mặt nàng vẫn nở nụ cười như hoa lan nhưng Lưu Triệt lại cảm thấy vô cùng xa cách. Những bông tuyết bay lượn vi vυ't giữa rừng, y chợt bắt lấy một bông, đưa lên nhìn nó nhanh chóng tan ra để lại một cảm giác lạnh giá trên những ngón tay. “Trẫm vẫn nhớ”, y làm như vô tình, “Lăng Nhi không giống với Kiều Kiều, muội thích nhất là hoa đào phải không?”
“Đúng rồi”, Lưu Lăng gật đầu, “Làm phiền hoàng huynh phải nhớ giùm cho tiểu muội.”
“À, Lăng Nhi thích hoa đào ở vùng nào nhất?” Bộ dạng y vẫn lơ đãng nhưng vừa hỏi vừa cẩn thận quan sát từng phản ứng rất nhỏ trên nét mặt của Lưu Lăng.
“Tất nhiên là hoa đào vùng Hoài Nam rồi. Ở Hoài Nam vương phủ mà muội sống, phụ vương, à không, phụ thân ưu ái trồng một vườn hoa đào dành riêng cho muội. Mỗi khi mùa xuân đến, hoa đào nở rộ, cả vườn rực rỡ, chói lọi như áng mây, quả thật là rất đẹp.” Lưu Lăng bỗng thở dài, vẻ hoài niệm ngập tràn trong đáy mắt, “Chỉ tiếc là không còn được thấy nữa rồi.”
Tay trái Lưu Triệt đang nắm chặt ở sau lưng chợt thả lỏng ra, “Lúc đầu trẫm vốn không tin mọi người bẩm báo rằng Lăng Nhi bị trúng độc làm mất một phần trí nhớ, nhưng bây giờ thấy cũng tin được vài phần.”
“Hoàng huynh”, Lưu Lăng buồn bã kêu lên, “Muội cũng không vui mà. Làm gì có ai tự nguyện chôn chặt một phần trí nhớ của mình, bản thân lại giống như thành một kẻ mình không quen biết. Lưu Lăng số khổ, chỉ còn biết chấp nhận mà thôi.”
“Trẫm không cần biết chuyện muội mất trí nhớ là thật hay giả”, Lưu Triệt xoay người, “Thế cũng tốt, trẫm cũng không hy vọng có người nhắc lại chuyện năm xưa nữa.”
Y không hề trông thấy vẻ tức giận thoáng hiện lên trong mắt Lưu Lăng. Nàng đảo mắt nén xuống, giọng khô khốc, “Muội biết rồi.”
“Nhưng rốt cuộc hoàng huynh nói chuyện kia là chuyện gì chứ?”
Y kinh ngạc xoay người lại, nhìn chằm chằm vào Lưu Lăng một lát rồi lắc đầu, “Nếu Lăng Nhi quên rồi thì thôi đi.”
“Lăng Nhi tuân theo ý chỉ của hoàng huynh.”
Lưu Triệt nhắm mắt, vẫn chưa thôi thăm dò, “Lăng Nhi bây giờ lại vô cùng thân mật với Kiều Kiều.”
“Đúng vậy!” Lưu Lăng thuận miệng đáp, nàng bỗng nổi ác ý, hỏi ngược lại, “Hoàng huynh nói rằng Lăng Nhi đáng yêu, nhưng thật ra nói về độ đáng yêu thì Lăng Nhi nào dám so sánh với A Kiều tỷ năm xưa?”
Đường Ấp quận chúa Trần A Kiều năm xưa mày tựa xuân sơn, tính cách hừng hực như lửa, vui buồn mừng giận đều chân thành, là dòng suối tươi mát hiếm có trong giới quý tộc thế gia Trường An đầy lọc lừa dối trá. Từ khi bị trục xuất đến Trường Môn vào năm Nguyên Quang thứ năm, trải qua mấy năm phong sương rèn giũa, nàng trở nên dịu dàng đằm thắm nhưng lại mất đi vẻ phong tình như thiêu đốt của năm nào.
Lưu Triệt lòng buồn thảm nhưng ngoài mặt vẫn gắng gượng, “Trẫm cho rằng Hoài Nam quận chúa cũng tránh không khỏi liên quan đến chuyện năm xưa.” Ánh mắt y giá lạnh như băng tuyết.
Lưu Lăng không hề sợ hãi, hất mặt, “Lưu Lăng vừa rồi đã tuân theo thánh ý, thật sự là không muốn nhớ tới hay nhắc tới chuyện năm xưa ấy nữa, cho dù là một câu một chữ.”
Lưu Triệt nhìn nàng chằm chằm một lát, nhớ lại mưu kế liên hoàn trong thư phòng điện Bát Nhã, thì bèn thu hồi ánh mắt dò xét, dịu giọng, “Lăng Nhi có thể ghi nhớ mãi mãi điều này là tốt nhất.”
Nàng từ từ cúi đầu xuống, “Tất nhiên!” Phát hiện thấy ánh mắt của Lưu Triệt xa xăm, dường như nhìn qua vai mình về một hướng nào đó, Lưu Lăng bất giác động lòng, quay lại thì thấy trên khung cửa sổ điện Bát Nhã, A Kiều đang cúi người xuống, mái tóc đen nhánh rủ dài như suối được gió Bắc thổi nhè nhẹ lất phất bay lên thoáng trông như là cầu vồng, lông mày vẫn cong veo như dáng núi.
“Nương nương”, Dương Đắc Ý đứng bên ngoài rèm khom lưng, lo lắng bẩm, “Hoàng thượng chủ ý đến cung Trường Môn thăm nương nương, không ngờ nương nương chưa thức dậy thế nên mới…”
Trần A Kiều như không nghe thấy gì, vẫn ngồi soi gương, “Lục Y, lấy cho ta bộ y phục viền gấm xanh ngọc.”
Lục Y hơi nhún người xuống, lên tiếng đáp “dạ” rồi tự mình đi lấy y phục đến vừa mặc cho A Kiều vừa thận trọng dò xét sắc mặt của nàng. A Kiều ngạc nhiên, “Làm sao vậy? Chẳng lẽ trên mặt ta bỗng nở hoa sao?”
“Không phải đâu ạ”, Lục Y lúng búng đáp, rồi bỗng nhiên trầm trồ, “Nương nương vốn đã xinh đẹp hơn hoa, cần gì phải nói thế để cho hoa thêm sắc chứ?”
Lưu Sơ lội tuyết từ ngoài điện bước vào, đẩy cửa ra tạo nên một luồng gió lạnh khiến cho Mạc Ưu đứng ngay bên cạnh cánh cửa phải rùng mình. “Mẫu thân!” Cô bé gọi toáng lên, “Ca ca trở về rồi.”
“Ừ!” Trần A Kiều chau mày, “Tảo Tảo, con không được để bị nhiễm lạnh đấy.” Nàng quay lại bảo, “Con hãy đội mũ vào đi.”
“Con biết rồi.” Lưu Sơ láu lỉnh, “Con chơi ở bên ngoài một chút thôi, không việc gì đâu.”Quyển 2 - Chương 37: Chặt cây trước nhất là cây đào nơi giếng Lộ[1][1] Cây đào nơi giếng Lộ: Một cảnh xuất hiện trong bài thơ Xuân cung khúc (Khúc hát mừng mùa xuân trong cung) của Vương Xương Linh.
Ngoài hành lang, Thành Liệt thấy Lưu Mạch đạp tuyết từ đằng xa trở lại bèn vội vàng nghênh đón, “Điện hạ đã về.”
“Ừ!” Lưu Mạch đáp một tiếng, cởi chiếc áo khoác lông chồn ra giao cho hắn rồi nhìn hai người đang chậm rãi từ bên ngoài cung Trường Môn bước vào. Người đi phía trước mặc một bộ y phục bằng gấm màu đen, áo khoác cộc tay bó chẽn, ống tay áo rộng lùng thùng bay phất phới theo chiều gió, vẻ mặt lãnh đạm nhưng lại toát ra nét tôn quý khó tả.
“Phụ hoàng, dì Lăng.” Nó chắp tay chào hỏi, khẽ nhíu mày nghĩ xem việc hai người đi cùng nhau là có ý gì.
“Mạch nhi về rồi sao?” Lưu Triệt hỏi vẻ quan tâm nhưng ánh mắt lại không chút ấm áp, “Hôm nay ở Bác Vọng hiên, tiên sinh giảng về chuyện gì?”
“Đông Phương tiên sinh hôm nay giảng về ‘Quá Tần Luận’[2]”, Lưu Mạch trả lời rất mực cung kính.
[2] Quá Tần luận: Một bài viết bổ sung trong thiên “Tần Thủy Hoàng bản kỷ” của Sử ký Tư Mã Thiên, phân tích về nguyên nhân thất bại của triều đại nhà Tần to lớn mà ngắn ngủi.
“Thế à?” Lưu Triệt trầm ngâm, “Vậy Mạch Nhi cảm thấy ý kiến của người xưa trong ‘Quá Tần luận’ thế nào?”
“Tất nhiên là rất hay”, Lưu Mạch trả lời không chút do dự.
Thành Liệt giữ cửa cho Lưu Triệt đi vào điện. Gian điện rộng lớn, mỗi khi làn hơi thở ra đều hóa thành sương trắng, ấm áp như mùa xuân. Hình bóng A Kiều vẫn hiện lên ngay ngắn, tĩnh lặng trên tấm rèm cửa, đang được Lục Y vấn tóc.
“A Kiều tỷ tin Lưu Lăng cũng như Lưu Lăng tin A Kiều tỷ.” Lưu Lăng đứng trên mặt đất mới vừa bị tuyết phủ kín, vẻ tự tin lộ rõ, “Cho nên Lưu Lăng không hề lo lắng.”
Lưu Triệt liền nhớ lại hồi năm Nguyên Quang thứ hai, Hoài Nam biệt viện ở ngoại thành Trường An cũng là một vườn hoa đào như mây hồng rực rỡ, y vừa đi ra khỏi biệt viện thì trông thấy gương mặt tái nhợt của A Kiều. Y bỗng cảm thấy phiền não trong lòng, phất tay áo, “Tất cả lui xuống đi.”
Hôm nay A Kiều búi tóc theo một kiểu gọi là Vọng Tiên Hoàn, đây là kiểu tóc phức tạp nhất. Lục Y mới búi tóc chưa được một nửa, nghe nói như vậy thì không khỏi ngừng tay lại. Trần A Kiều vén nửa mái tóc còn lại lên rồi bảo, “Ngươi lui xuống trước đi!”
“Dạ!” Lục Y cúi đầu vâng lời rồi lui ra theo mọi người. Lưu Mạch định lên tiếng nhưng lại bị Lưu Lăng lôi đi, nó toan giằng ra thì nàng đã chỉ vào rèm đầy ẩn ý.
A Kiều đứng dậy, quay lại hỏi giọng bình thản, “Hoàng thượng có chuyện gì sao?”
Ở bên ngoài bức rèm Hoàng thượng vẫn thấy nàng tỏ vẻ mặt xa cách, mái tóc đen đã búi xong một nửa, nửa kia vẫn còn buông xuôi, quyến rũ đến mê người.
“Kiều Kiều”, y thong thả bước vào, “Nàng… không muốn nói gì đó sao?”
Trần A Kiều chớp mắt, “Thiếp cần phải nói cái gì đây?”
“Nếu là năm xưa”, y cầm một lọn tóc rụng, “A Kiều tỷ nhất định là không muốn xuống nước làm lành với trẫm rồi.”
Nàng hờ hững, “Biển xanh hóa nương dâu, chuyện đời biến đổi nên tâm tình cũng thay đổi từ lâu rồi.”
“Kiều Kiều”, y khẽ vuốt mái tóc của nàng, “Nàng có ấn tượng về những kẻ đuổi giết mình năm xưa hay không?”
“Có thì sao? Không có thì sao?” A Kiều liếc xéo, “Chẳng lẽ Hoàng thượng còn muốn truy cứu chuyện này cho thiếp sao?”
Y định nói câu gì đó nhưng khi trông thấy ánh mắt trong sáng thông tuệ của nàng thì lại không thốt nên lời. Hóa ra là nàng đã biết rõ mọi chuyện. Trần A Kiều biết rõ ràng là như thế sao lại đột nhiên thân thiết như chị em với Lưu Lăng?
“Hoàng thượng!” Nàng đứng dậy, mái tóc chảy xuôi thoát ra giữa những ngón tay của y, “Đã là không thể thì cũng không cần phải nói làm gì. Huống chi thiếp cũng chưa chắc là đã muốn truy cứu.”
Bước tới bên cửa sổ, A Kiều quay lại, “Người biết không?” Nàng chỉ vào chính điện Nguyệt Phù của cung Trường Môn, thoáng rùng mình, “Năm xưa thiếp đứng ở nơi đó và tất cả mọi người chung quanh đều gục ngã dưới chân mình.”
“Kiều Kiều…” Lưu Triệt nghẹn lại, không hiểu điều nàng định nói rốt cục về cái đêm Lưu Lăng và Vệ Tử Phu sai người đuổi giết nàng, hay là hôm mà y hạ chỉ đem trục xuất nàng đến Trường Môn.
“Bao nhiêu là người, màu đã nhuộm hồng cả điện Nguyệt Phù.” Nàng khẽ chớp mắt, thương xót, “Vì thế nên đến tận bây giờ thiếp vẫn không dám đặt chân tới điện Nguyệt Phù. Đôi khi ban đêm thiếp dường như vẫn còn có thể nghe thấy những tiếng kêu khóc từ trong điện truyền đến.”
“Chết là hết, quỷ thần gì nữa.” Lưu Triệt thản nhiên nói, “Chẳng lẽ A Kiều tỷ tin chuyện đó sao?”
“Hoàng thượng hỏi thật kỳ lạ”, Trần A Kiều cười nhạt, “Nếu thiếp không tin thì tại sao lại có câu chuyện Vu cổ kia chứ?”
Lưu Triệt nheo mắt, “Nói cho cùng thì nàng vẫn còn nhớ cái người có tên là Sở Phục đó sao?” Y phất tay áo, quay người đi, trầm giọng, “Nàng phải biết rằng cho dù năm xưa không xảy ra những chuyện ấy thì cũng vẫn phải xử tử Sở Phục. Trong hậu cung của trẫm không dung thứ cho các phi tần làm chuyện đồng bóng.”
Trần A Kiều im lặng, vừa buồn cười lại vừa bi ai. A Kiều, một A Kiều yêu Lưu Triệt đến như vậy thì làm sao dự kiến được tình huống này?
“Nhưng hôm nay đã đề cập đến chuyện này thì trẫm cũng nói luôn”, Lưu Triệt không dừng lại, “Ban đầu Lưu Lăng được phong làm Trưởng công chúa và cho vào ở cung Trường Môn chỉ là kế tòng quyền khi gặp biến. Bây giờ Trường An đã ổn định, trẫm sẽ xây phủ Trưởng công chúa ở Trường An cho nàng ta và cho phép nàng ta tùy ý ra vào cung Trường Môn.”
“Điều này”, Trần A Kiều bị bất ngờ, “Không được!”
Thế nhưng nàng quên mất rằng nàng đang đối mặt với Lưu Triệt, một vị quân chủ Đại Hán không chấp nhận để người khác cự tuyệt mình.
“Đây không phải việc Kiều Kiều nói không được là không được.” Y quay người lại, vẻ cợt nhả, “Lưu Lăng là Trưởng công chúa mà lại ở trong hậu cung thì nhìn chung không thể ở lâu được.”
Trần A Kiều mặt biến sắc. Chẳng phải cung Trường Môn từ trước đến giờ vẫn là nơi ở của các hoàng hậu bị phế truất, vốn vẫn nằm ngoài hậu cung?
Nhị hoàng tử Lưu Cứ học xong ở Bác Vọng hiên trở về, từ đằng xa đã thấy một đám người hầu đứng túm tụm bên ngoài điện Tiêu Phòng.
“Tham kiến Cứ điện hạ!” Thải Vi, thị nữ thân cận của Vệ hoàng hậu quỳ xuống bái chào.
Lưu Cứ tò mò hỏi, “Ai ở trong điện thế?”
“Đại tướng quân Vệ Thanh hôm nay vào cung thăm Hoàng hậu nương nương”, Thải Vi bẩm báo.
“Biết rồi.” Lưu Cứ bước nhanh vào trong điện Tiêu Phòng. Thải Thanh hơi do dự, Thải Vi kéo cô lại. “Dù chuyện có lớn đến đâu thì cũng không được ngăn cản Cứ điện hạ”, Thải Vi khẽ nhắc nhở.
“Mẫu hậu!”, Lưu Cứ cao giọng gọi. Trong điện, Vệ Tử Phu dừng chuyện, mỉm cười nhìn Lưu Cứ bước tới.
“Học xong rồi à?” Nàng ta âu yếm xoa trán Lưu Cứ.
“Dạ!” Lưu Cứ khẽ gật đầu, “Tuyết hôm nay lớn thật đấy. Ở Bác Vọng hiên còn đỡ, trên đường trở về Tiêu Phòng quá lạnh.”
“Điện hạ”, Vệ Thanh không khỏi nhíu mày, “Sao lại có thể yếu đuối như vậy?”
“Cữu cữu”, Lưu Cứ xoay người lại bất mãn nhìn hắn, “Vừa rồi Cứ Nhi không nói là không đi, chỉ oán trách mấy câu cũng không được sao?”
Vệ Thanh im lặng, cười khan một tiếng, có thể là vì Vệ gia hy vọng quá nhiều ở đứa bé này nên yêu cầu nó càng phải hoàn thiện. Thế nhưng một đứa bé lớn lên trong sự cưng chiều của cung Vị Ương tráng lệ sẽ được hoàn thiện như thế nào, thì ngay cả bản thân hắn cũng không dám tin tưởng.
“Cứ Nhi nói cũng đúng.” Vệ Tử Phu khỏa lấp đi, “Hôm nay Thạch tiên sinh giảng cái gì?”
“Thạch tiên sinh giảng Luận Ngữ, con nghe đến thuộc làu rồi.” Lưu Cứ ấp úng nói rồi cúi đầu xuống, “Nhưng con vẫn thích Đông Phương tiên sinh dạy học cho Mạch ca ca hơn.”
Trong một khoảnh khắc, sắc mặt Vệ Tử Phu hơi tái đi, nói nhanh, “Cứ Nhi ngoan, vào trong thay y phục rồi tìm đại tỷ chơi đi.”
Lưu Cứ gật đầu, biết mẫu thân muốn mình đi để thương nghị việc lớn với cữu cữu. Thật ra trong lòng cậu bé rất không thích như vậy, cảm thấy lúc này mẫu hậu rất xa lạ chứ không dịu dàng đầm ấm như thường ngày, nhưng cũng có thể mơ hồ cảm nhận được tình cảnh như ngồi trên băng mỏng của mẫu hậu ở trong cung Vị Ương, chẳng biết làm thế nào đành khẽ dạ một tiếng rồi lặng lẽ lui ra.
“Cứ Nhi quá lương thiện, làm người cũng không đủ quyết đoán.” Vệ Thanh thở dài, “Cứ thế mãi không phải là chuyện tốt.”
“Nó vẫn còn nhỏ mà”, Vệ Tử Phu cười miễn cưỡng, “Trọng Khanh, phải làm phiền đệ dạy dỗ nó nhiều hơn.”
“Dĩ nhiên thần sẽ hết sức.” Vệ Thanh chấp tay nói, vẻ lo lắng hiện rõ, “Mấy hôm trước Hoàng thượng đã giao cho đại thần Bộ Lễ phải làm lễ cho Hoàng tử trưởng Lưu Mạch tế bái thái miếu trước khi hết năm để chính thức nhập vào gia phả hoàng tộc. Chúng ta không thể có cách nào ngăn cản sao?”
“Hoàng thượng không cho chúng ta ngăn cản, vậy thì chúng ta sẽ không hành động gì hết.” Vệ Tử Phu cười lạnh, khẽ gật đầu, “Trọng Khanh, đệ cũng đã biết rằng mọi thứ ở trong cung Vị Ương đều là giả dối, chỉ có tâm ý của Hoàng thượng là thật. Đệ có thấy Vương Thấm Hinh vào cái thời được sủng ái, chỉ là một mỹ nhân nhưng có gan chống lại cả một hoàng hậu như ta, đến hôm nay thì ở đâu rồi không?”
“Thế nhưng theo bề ngoài thì Vương tiệp dư thất sủng là bởi vì họ ngoại quá khoa trương”, Vệ Thanh không hề đổi sắc.
“Thánh sủng còn thì ân nghĩa còn. Thánh sủng hết thì ân nghĩa cũng hết.” Vệ Tử Phu thở dài, “Không phải Vương tiệp dư làm liên lụy tới Vương tiệp dư, nhưng cũng chính Vương tiệp dư làm liên lụy tới Vương tiệp dư!”
Nàng ta đứng dậy, bước xuống dưới điện, cầm tay Vệ Thanh, “Cũng may đệ và Khứ Bệnh không phải như đám người nhà Vương tiệp dư, các đệ giành được công danh từ đầu gươm mũi giáo nên dù Hoàng thượng muốn trục xuất thì cũng phải suy nghĩ cẩn thận.” Một dòng lệ ứa ra trong mắt Vệ Tử Phu, “Nếu có một ngày ta và Cứ Nhi cũng đi tới bước đó thì mong Trọng Khanh hãy nhớ tới tình cảm tỷ đệ những năm này mà chăm sóc cho Cứ Nhi.”
“Hoàng hậu nương nương”, Vệ Thanh sợ hãi quỳ xuống, “Người nói gì vậy, không có Hoàng hậu nương nương thì sao có Vệ Thanh hôm nay? Nào có Vệ gia hôm nay? Vệ Thanh, thậm chí Vệ gia, cùng Hoàng hậu nương nương và Nhị hoàng tử đã là một thể.”
“Trọng Khanh”, Vệ Tử Phu lau nước mắt, buồn bã, “Nơi này không có người, đệ không cần gọi ta là Hoàng hậu nương nương. Hãy gọi một tiếng Tam tỷ, được chứ?”
Vệ Thanh thầm đau xót, nhớ tới cảnh năm xưa tỷ đệ sống nương tựa vào nhau trong phủ Công chúa Bình Dương, khẽ gọi một tiếng, “Tam tỷ!”
“Được rồi!” Vệ Tử Phu trở lại bộ dạng công chính hòa nhã, “Có đôi khi thật sự là tiếc nhớ về những ngày tháng trong quá khứ, không có được địa vị như ngày hôm nay nhưng lại vui vẻ hơn nhiều.”
“Hoàng hậu nương nương nói đi đâu vậy?” Vệ Thanh nhíu mày, “Chúng ta đã đến bước như ngày hôm nay thì cũng không còn đường lui, hơn nữa chúng ta cũng sẽ không lui.”
“Dĩ nhiên rồi.” Vệ Tử Phu đi đi lại lại trên điện, “Ta cũng chỉ nói để nói mà thôi.”
“Nương nương, ngày xưa người nói đối phó với người ở cung Trường Môn kia thì cần phải lấy tĩnh chế động. Thế nhưng hôm nay chúng ta thủ, cô ta tấn công, chẳng lẽ chúng ta trơ mắt nhìn cô ta ngày càng lấy được lòng Hoàng thượng, đành bó tay chờ chết sao?”
“Trọng Khanh”, Vệ Tử Phu đẩy cửa sổ, nhìn về hướng cung Trường Môn, “Đệ nhìn xem, tình thế hôm nay giống năm đó tới mức nào.”
Năm đó, Trần A Kiều là hoàng hậu còn mình là người được sủng ái trong lòng Lưu Triệt.
Hôm nay, nàng ta đã ngồi lên vị trí hoàng hậu nhưng lòng của Lưu Triệt lại dần chuyển dời sang người khác. Thật ra, nàng ta thừa nhận, dù Trần A Kiều không trở về thì trong lòng Lưu Triệt cũng đã không có nàng ta từ lâu rồi, nhưng chỉ cần không phải là Trần A Kiều, nàng ta có Cứ Nhi, có Trọng Khanh và Khứ Bệnh thì vị trí hoàng hậu sẽ không thể lung lay. Nếu như năm đó Trần hoàng hậu có thể dung thứ cho nàng ta được sinh tồn trong chốn hậu cung này thì nàng ta cũng không có hy vọng cao xa sẽ một lần trong đời này kiếp này được ngồi lên vị trí hoàng hậu, làm bậc mẫu nghi thiên hạ. Còn nếu đã tới bước này rồi thì cũng sẽ không buông tay, để lại một lần nữa trở về làm Vệ Tử Phu chỉ có hai bàn tay trắng, mặc cho người đời chà đạp.
“Trọng Khanh, đệ biết không?” Nàng ta chỉ về hướng điện Bát Nhã, giọng héo hắt, “Cho tới tận ngày hôm nay Hoàng thượng vẫn chưa từng ngủ lại cung Trường Môn.”
“Thật sao?” Vệ Thanh trầm tư, “Nói như vậy thì địa vị của Trần hoàng hậu trong lòng Hoàng thượng thật sự không nhẹ.”
Hắn tự giễu trong lòng, có lẽ Khứ Bệnh với tính tình ngang tàng phóng túng đã nói đúng. Đại trượng phu thà nguyện cưỡi ngựa tung hoành chốn sa trường còn hơn là bày mưu tính kế nơi màn trướng. Thế nhưng nếu hắn muốn giữ cho Khứ Bệnh được ngang tàng và phóng túng, bảo vệ được nguyện vọng được cưỡi ngựa tung hoành chốn sa trường cho bản thân mình, thì không thể không làm chuyện bày mưu tính kế, huống chi Vệ Tử Phu lại là tỷ tỷ của hắn.
“Trọng Khanh”, Vệ Tử Phu đi tới giữa điện, áp tay lên tờ giấy in hoa tuyết thượng hạng trên án, “Đệ nên biết rằng ta không phải là Trần A Kiều, ta không có vốn liếng như cô ta, lại được chứng kiến kết cục của cô ta, nên ngay từ khi mới đăng cơ lên vị trí này ta đã hiểu rằng ta cần phải dung thứ và nhẫn nhịn hết người mới này đến người mới khác ở trong lòng Hoàng thượng.”
“Chỉ sợ trên tờ giấy này cũng có Trần A Kiều.” Móng tay nàng ta vạch một vết hằn trên tờ giấy.
“Ta biết rõ ta cần phải nhẫn nhục”, nhưng dù sao ta cũng là hoàng hậu, ta không thể nào nhìn y sủng ái một người khác theo cách như thế, cho dù người đó là hoàng hậu bị phế của y. Nếu trong cung Vị Ương này có những người trời sinh đã không thể cùng tồn tại thì đó chính là ta và cô ta, chỉ e là chính bản thân chúng ta cũng không thể thay đổi được.
“Nhưng lần này ta sẽ phải ra tay rồi.” Vệ tử Phu nhướng mày cười lạnh liếc nhìn vẻ mặt sửng sốt của Vệ Thanh.
“Đệ không cần lo lắng”, nàng ta thản nhiên nói, “Ta biết rõ giới hạn cuối cùng của Hoàng thượng đối với cả ta lẫn Trần A Kiều. Ta sẽ dừng trước giới hạn cuối cùng này, cẩn thận hành sự.”
“Hoàng hậu nương nương”, Vệ Thanh trầm mặc hồi lâu mới mở miệng, “Người định ra tay thế nào?”
“Đến lúc đó tự nhiên đệ sẽ hiểu.” Vệ Tử Phu cúi đầu, nói vẻ mập mờ, “Không phải là ta không tin đệ mà là sợ đệ sẽ phản đối. Hơn nữa, chuyện như vậy càng ít người biết càng tốt.”
“Trước mắt đệ cần phải biết rằng, đầu tiên là”, nàng ta thu tay về. “Ta sẽ hết sức thúc đẩy Hoàng thượng ngủ lại cung Trường Môn.”
“Nương nương”, Vệ Thanh kinh ngạc, “Làm thế nào được chứ?”
“Đệ yên tâm”, Vệ Tử Phu cười ngọt ngào, “Ta đã sớm có cách rồi, đệ không cần để ý.”
Vệ Thanh trầm ngâm một lúc lâu rồi mới nói, “Nương nương đâu cần phải đi tới bước đó.”
“Thế nhưng, nếu như không làm thế”, Vệ Tử Phu lắc đầu, “Cho dù Trần A Kiều có xảy ra chuyện gì thì Hoàng thượng cũng sẽ che chở.”
Đàn ông mà, những thứ không với tới được thì coi trọng nhưng một khi đã chiếm được rồi thì lại vứt bỏ không thương tiếc.
…
“Thần có thể giúp nương nương được điều gì sao?”
“Dĩ nhiên.” Vệ Tử Phu nhỏ giọng, “Ta muốn đệ giúp ta chia rẽ Trần A Kiều và Lưu Lăng.”
“Trưởng công chúa Phi Nguyệt?”, Vệ Thanh ngạc nhiên, đây là người ban đầu trợ giúp cho Vệ gia lên địa vị cao, sau đó lại rời bỏ mà chuyển hướng đầu quân cho Trần A Kiều, “Chẳng phải là nương nương đã từng thử rồi sao?”
“Đến giờ bản cung vẫn không hề tin có một thứ tình cảm chân chính gì đó giữa hai người phụ nữ, huống chi quan hệ giữa hai người lại rắc rối phức tạp đến như vậy.” Vệ Tử Phu nói tiếp, “Cho dù là thứ tình cảm này là thật thì khi Lưu Lăng được gả cho người khác, nhà chồng có xung đột với Trần A Kiều thì cô ta sẽ giúp người nào đây?”
Hồi năm Nguyên Quang, Vệ Thanh còn là Kiến Chương úy và từng đi theo bên cạnh Lưu Triệt nên đã được gặp người con gái đến từ Hoài Nam này. Trong ấn tượng của hắn, nàng dường như mang theo cả khí chất của vùng Giang Nam mơ hồ sương khói mà chỉ riêng Hoài Nam mới có, lúc cười mỏng manh như hoa đào. Lưu Lăng lại không phải là người con gái mệnh bạc như hoa đào, trong thế cục hiện giờ của đế đô mà vẫn được ân sủng hậu hĩnh thì chắc chắn là một nhân vật không đơn giản.
“Nếu như có thể được”, Vệ Thanh đắn đo, “Thần nguyện ý thành thân với Trưởng công chúa Phi Nguyệt.” Dù hắn đã có ba con trai nhưng vẫn khuyết vị trí chính thê[3], lấy địa vị Trường Bình hầu và Đại tướng quân mà thành thân với Trưởng công chúa Phi Nguyệt cũng có thể coi là xứng đôi vừa lứa.
[3] Chính thê: vợ cả.
“Không được”, Vệ Tử Phu lắc đầu, “Trọng Khanh”, nàng ta phiền não đi vài bước, “Chẳng lẽ đệ không rõ, dù Trưởng công chúa có thân phận tôn quý nhưng người thành thân với Lưu Lăng chắc chắn sẽ không được Hoàng thượng ưu ái.”
Trưởng công chúa Phi Nguyệt trên danh phận là em gái họ của Hoàng thượng nhưng thực tế đã từng là người bên gối của y.
Những năm qua, Lưu Triệt dùng tội danh cam luyen để xử trí mấy vị vương gia chư hầu nên dĩ nhiên không thể qua lại với Lưu Lăng, sợ người khác đàm tiếu. Nhưng quân vương nhất định sẽ không có cảm tình với người lấy nàng.
Vệ Thanh là người đứng đầu Vệ gia, thanh thế như mặt trời ban trưa, được Thánh thượng sủng ái, tất nhiên Vệ Tử Phu sẽ không để hắn mạo hiểm.
“Chúng ta phải tìm một người có thân phận tương xứng, lòng hướng về chúng ta nhưng lại không có tác dụng quá lớn trong triều.” Vệ Tử Phu ngẩng đầu, nhìn về phía xa.
Trời đã quá trưa, Vệ Thanh cuối cùng cũng ra khỏi điện Tiêu Phòng, trông thấy một chiếc xe ngựa trang trí rất xa hoa chạy vào cung Vị Ương qua cửa Tư Mã ở phía nam. Người trong xe vén rèm cửa lên để lộ ra khuôn mặt hết sức quen thuộc, là Trưởng công chúa Bình Dương.
Vệ Thanh liền bái chào, “Tham kiến Trưởng công chúa.”
“Thì ra là Trường Bình hầu”, Lưu Tịnh cười nhẹ, hỏi xã giao, “Trường Bình hầu đến yết kiến Hoàng hậu nương nương à?”
“Dạ.” Vệ Thanh khom người đáp.
Lưu Tịnh gật đầu, “Trường Bình hầu đã muốn về phủ thì ta cũng không níu giữ nữa.” Nói xong liền buông rèm xuống không nhìn, trong nháy mắt, cung xa lại lốc cốc chạy về hướng cung Trường Nhạc.
“Đại tướng quân.” Viên giáo úy canh giữ cửa cung bước đến nghênh đón, “Xin mời Vệ tướng quân.”
Vệ Thanh thở một hơi dài buồn bã, thuận miệng hỏi, “Bình Dương trưởng công chúa đi thỉnh an Thái hậu sao?”
“Hình như là thế”, viên giáo úy trả lời không chắc chắn, “Nghe nói Giang Đô quận chúa mà phu nhân của Đan Dương hầu tấu xin được nhận về nuôi dưỡng đã đến Trường An rồi. Thái hậu từ lâu vẫn nghe tiếng quận chúa này ôn nhu thanh tao, khí độ cử chỉ thuộc vào hạng nhất nên có ý muốn gặp. Đoán chừng là Trưởng công chúa cũng tới tham dự náo nhiệt.”
Giếng Lộ vào đêm gió mởn đào
Điện tiền cung Vị bóng trăng cao
Bình Dương ca múa nên ân sủng
Xuân lạnh bên hiên tặng cẩm bào.Quyển 2 - Chương 38: Từ đây trưởng thứ đối mặt nhau“Vậy sao?” Vệ Thanh dừng bước. Tin tức về chuyện Kim Nga tấu xin thu nhận nuôi dưỡng con gái hoàng tộc được Lưu Triệt đồng ý không phải là bí mật nên hắn cũng biết. Thật ra thì nếu Tế Quân quận chúa này không phải là dòng dõi của tội thần thì với thân phận con gái hoàng tộc, làm sao có thể tùy tiện giao cho người khác nuôi dưỡng. Việc này coi như là để giúp đỡ cho cả hai bên, thật sự cũng không phải là việc lớn. Vấn đề là ở chỗ chủ ý thu nhận nuôi dưỡng do Trưởng công chúa Phi Nguyệt Lưu Lăng đề xuất, còn người được lựa chọn này lại do phế hậu Trần A Kiều đưa ra.
Vương thái hậu tự thấy mình làm con gái cả bị thiệt thòi nên sủng ái ba mẹ con Tu Thành quân. Tất cả mọi người trong thành Trường Anh đều biết rằng lúc đầu Thái hậu muốn gả con gái của Tu Thành quân là Kim Nga cho Tề Vương. Tề Vương thất bại bị diệt quốc, Chủ phụ Yển đền tội, cuộc hôn nhân này tự nhiên không thành nên mới chuyển sang gả Kim Nga cho Hoài Nam thế tử Lưu Thiên. Lúc đầu Vệ gia cũng không để ý tới cuộc hôn nhân này, vì thế mà đã sơ ý để cho Trưởng công chúa Phi Nguyệt Lưu Lăng tạo thành quan hệ em chồng chị dâu với Kim Nga. Bởi vì Lưu Lăng có quan hệ mật thiết với Trần A Kiều nên Kim Nga cũng qua lại gần gũi với Trần A Kiều. Chuyện này mà thành thì cả nhà Tu Thành quân tất sẽ thân thiện với phế hậu.
Vệ Thanh thở dài, Kim Nga có thể nào tác động làm Vương thái hậu thay đổi ý kiến trong một chừng mực nhất định không? Vệ gia của bọn họ xuất thân hèn mọn, ngôi vị hoàng hậu của tỷ tỷ Tử Phu không ổn định bằng Trần hoàng hậu năm xưa. Nếu ở trong cung Vị Ương, cả Hoàng thượng và Thái hậu cùng nghiêng về Trần hoàng hậu thì Vệ Tử Phu khác gì ngồi trên đống lửa, thế nên cũng khó trách Vệ Tử Phu không tiếc thủ đoạn muốn cứu vãn tình thế. Khi Vệ gia còn đang trong thời nghèo hèn, bọn họ chỉ mong một ngày nào đó có thể dựa vào lực lượng của mình mà thoát khỏi đói nghèo là đã thỏa mãn rồi. Nhưng đến lúc trèo lên được ngôi cao thì mới biết trên đó cũng có những khó xử. Người sống trên thế gian vốn không thể nào mọi chuyện như ý, chỉ có thể tiếp tục lao vào tình thế hiện tại để chiến đấu mà thôi.
Khi Đan Dương hầu phu nhân Kim Nga dẫn Lưu Tế Quân tới thì mẫu thân Tu Thành quân và Bình Dương trưởng công chúa đã có mặt ở cung Trường Nhạc.
“Kim Nga tham kiến Thái hậu, tham kiến Bình Dương trưởng công chúa.”
“Nga Nhi đứng lên đi.” Vương thái hậu mỉm cười nói, “Đây chính là Giang Đô quận chúa Lưu Tế Quân đó sao?”
Một cô bé chừng sáu, bảy tuổi phía sau Kim Nga quỳ xuống, giọng nói mềm mại, “Tế Quân tham kiến Thái hậu nương nương, tham kiến Trưởng công chúa, Tu Thành quân điện hạ.”
Vương thái hậu gật đầu khen ngợi: “Đúng thật là một đứa trẻ lanh lợi.” Bà vịn vào Tu Thành quân đứng lên bảo, “Tế Quân, tới gần đây cho ai gia xem nào.” Sau lần nói chuyện thật lâu với Lưu Triệt, trở về y nhớ ra bèn tuyên Tiêu Phương sắp xuất cung tới chữa bệnh cho Vương thái hậu. Tiêu Phương không hổ danh là Y kiếm song tuyệt, châm cứu một đợt, thêm mấy thang thuốc bổ nữa thì bệnh nhức đầu của Vương thái hậu liền biến chuyển tốt đẹp. Lưu Triệt vui mừng, ban thưởng hậu hĩnh cho Tiêu Phương nhưng lại ra lệnh cho hắn phải ở trong kinh thành, không được tự tiện bỏ đi.
Tế Quân đưa mắt nhìn Kim Nga, thấy sắc mặt nàng ta nhu thuận, miệng cười tươi tắn thì liền buông tay ra, chầm chậm bước lên tới trước mặt Vương thái hậu. Vương thái hậu nắm tay quan sát cô bé thật kỹ. Tế Quân có thân hình nhỏ bé, vóc dáng gầy gò. Xuất thân từ một gia tộc lớn, mặc dù Giang Đô vương phủ liên tiếp gặp biến cố nhưng khí độ trời sinh vẫn còn đó, nét mặt thanh tú, cặp mắt dịu dàng nhưng rất lanh lợi. Bà trông thấy thế rất vui, hỏi giọng hòa nhã, “Tế Quân, từ nay về sau cháu sẽ về làm con của Đan Dương hầu có được hay không?”
Với tình cảnh hiện tại của phủ Giang Đô vương, bà đoan chắc rằng Lưu Tế Quân tất sẽ đồng ý, huống chi đây còn là việc mà ngay cả Hoàng đế cũng đã chấp thuận. Thế nhưng Tế Quân lại cúi đầu, nói một cách chậm rãi nhưng rõ ràng, “Tế Quân là con nối dòng của Vương tộc Giang Đô, giờ làm con gái người khác thì thật không phải với cha mẹ, vì thế không thể dễ dàng nhận lời.”
Vương thái hậu sững lại, sắc mặt từ từ sầm xuống. Bầu không khí trong cung Trường Nhạc trở nên căng thẳng. Lưu Tịnh thấy thế bèn vội vàng bước tới, nắm lấy tay Lưu Tế Quân dỗ dành, “Tế Quân có tâm tư như vậy thì cũng thật hiếm có. Chi bằng làm thế này, Tế Quân vẫn là Giang Đô quận chúa như cũ, chỉ cần nhận thêm cha nuôi mẹ nuôi cho có thêm người thương yêu mình, chẳng phải là vẹn cả đôi đường sao?”
Lưu Tế Quân ngẩng đầu lên nhìn, Lưu Tịnh liền cảm thấy ánh mắt mà cô bé sáu, bảy tuổi đang nhìn sang vừa giá lạnh vừa thấu hiểu, nhưng chỉ lát sau cô bé đã cụp mắt xuống, nhỏ nhẹ, “Tế Quân cẩn tuân ý chỉ, tạ ơn Trưởng công chúa Bình Dương đã nói giúp.”
Sắc mặt Vương thái hậu cũng trở lại bình thường. Lưu Tịnh chêm vào để khỏa lấp, “Đã như vậy rồi còn gọi Trưởng công chúa gì nữa. Tế Quân vốn là quận chúa hoàng tộc, hôm này lại nhận thêm cha mẹ nuôi hiển hách như vậy thì hãy gọi ta một tiếng là bà đi.”
“Trưởng công chúa còn trẻ như thế này”, Lưu Tế Quân không đồng ý, “Tế Quân e rằng gọi như thế sẽ làm Trưởng công chúa già đi đấy.”
Mọi người trong cung điện tức thời cùng bật cười. Lưu Tịnh quay sang nói với Kim Nga, “Hãy nhìn mà xem, cô con gái mới của cháu này, mồm miệng mới láu lỉnh làm sao.”
“Thái hậu nương nương!” Nội thị Minh Đạt khom người bẩm báo, “Hoàng hậu nương nương và Vệ Trường công chúa, Dương Thạch công chúa tới thỉnh an.”
Hắn chưa dứt lời thì Vệ Tử Phu mặc bộ trang phục hoàng hậu đã nâng tay áo thướt tha bước vào trong điện, mỉm cười bái chào, “Nô tỳ tham kiến Thái hậu nương nương.”
“Hoàng hậu đứng lên đi.” Vương thái hậu xua tay, hỏi, “Cứ Nhi đâu rồi?”
“Hôm nay có bão tuyết, Cứ Nhi từ Bác Vọng hiên trở về thì bị nhiễm lạnh, sau đó uống một ít canh gừng rồi phát sốt, giờ đang nằm ngủ.”
“Như vậy cũng được.” Thái hậu gật đầu, “Chớ để giống như năm ngoái khiến ai gia phải lo lắng.”
Ánh mắt Vệ Tử Phu ảm đạm, nếu năm ngoái Lưu Cứ không bị bệnh nặng thì Trần A Kiều sao thành công được. Tuy trong bụng nàng ta oán hận nhưng ngoài mặt vẫn dịu dàng, “Cứ Nhi làm cho mẫu hậu phải lo lắng. Tử Phu sẽ săn sóc tốt không để xảy ra chuyện nữa.”
“Tế Quân tham kiến Hoàng hậu nương nương, Vệ Trường công chúa, Dương Thạch công chúa.” Lưu Tế Quân ở bên bái chào theo đúng lễ nghi trong cung.
“Đây chính là Tế Quân quận chúa đó ư?” Vệ Tử Phu nhìn sang, “Quả nhiên là danh bất hư truyền.”
“Phỉ Nhi”, nàng ta xoay người lại, “Chẳng phải là con thường than vãn rằng ngoài mấy chị em bọn con ra thì trong cung không có công chúa nào cùng độ tuổi hay sao. Hôm nay có Tế Quân nữa là tốt rồi. Con và Vân Nhi phải quan tâm thật tốt đến Quận chúa Tế Quân đó.”
Lưu Phi nhoẻn miệng cười, cất tiếng vâng dạ rồi vẫy tay thân mật với Lưu Tế Quân, “Tế Quân muội muội, ta và Vân Nhi dẫn muội đi xem cung Vị Ương nhé.”
Lưu Tế Quân thầm cau mày, nhưng thấy Thái hậu và Kim Nga đều đồng ý thì đành phải đi theo.
“Từ cung Trường Nhạc đi về hướng tây chính là cung Vị Ương. Tế Quân, khi nào muội rảnh rỗi thì tỷ dẫn muội đến xem điện Tiêu Phòng của chúng tỷ. Điện Tiêu Phòng đẹp lắm.”, Lưu Vân hào hứng.
“Tế Quân cảm ơn ý tốt của Dương Thạch công chúa.”
“Tế Quân muội muội thật đáng thương”, Lưu Phi thở dài, “Nếu không phải… thì muội cũng vẫn còn là quận chúa của một nước, không cần phải ăn nhờ ở đậu. Bây giờ Phi Nguyệt cô cô và Đan Dương hầu tiếp nhận muội cũng là xứng đáng.”
“Vệ Trường công chúa”, Lưu Tế Quân nhướng mắt, nghiêm mặt, “Nếu thật là phụ vương Tế Quân mưu phản mà tới tình trạng bây giờ thì Tế Quân không còn gì để nói. Tế Quân giữ vững thân phận của mình, cố hết sức làm bổn phận của người con gái. Nhưng nếu vì thù nhà mà Tế Quân mang lòng oán giận thì đó lại là điều không phải của Tế Quân.”
Lưu Phi sững người nhìn cô bé trước mắt, tuy thân hình gầy guộc nhưng sống lưng thẳng tắp.
“Muội muội có thể nghĩ được như vậy”, cô đánh trống lảng, “Tất nhiên là tốt rồi.”
Điện Tuyên Thất.
“Cái gì”, Lưu Triệt hưng phấn hỏi, “Cô bé kia đúng thật đã nói như thế sao?”
“Đúng là như vậy.” Dương Đắc Ý khom người đáp lời.
Giang Đô quận chúa thân thế phức tạp, tuổi còn nhỏ nhưng rất lanh lợi. Lưu Triệt nghi ngờ, “Nhưng Trần hoàng hậu không quen biết Lưu Tế Quân thì làm sao lại nhắc tới cô bé với phu nhân của Đan Dương hầu được chứ?”
“Việc này…”, Niếp Mông lưỡng lự, “Ngày trước sống ở bên ngoài cung, Trần nương nương đã từng đến Giang Đô một thời gian, tuy không vào phủ Giang Đô nhưng chắc cũng nghe người Giang Đô nhắc tới tiểu Quận chúa.”
Lưu Triệt không tin, một quận chúa của vương gia chư hầu chỉ ru rú xó nhà thì có thể có được bao nhiêu danh tiếng mà lưu truyền bên ngoài chứ?
“Việc xây dựng phủ đệ Trưởng công chúa cho Trưởng công chúa Phi Nguyệt tiến hành thế nào rồi?”
“Chắc cũng sắp xong rồi”, Dương Đắc Ý khom người đáp, “Xây ở bên cạnh phủ Mạt Lăng hầu, do Tang Hoằng Dương đại nhân cung ứng tiền và lương thực.”
“Như vậy là được rồi.” Lưu Triệt gật đầu, “Ngoài ra, chuyển lời tới phu nhân Đan Dương hầu là cần phải cảm ơn Trưởng công chúa Phi Nguyệt cùng Trần hoàng hậu thúc đẩy việc này, bảo cô ta khi rời khỏi cung Trường Nhạc thì đừng ngại dẫn Lưu Tế Quân đến cung Trường Môn một chuyến.”
Cung Trường Môn.
Tuyết rơi dày đặc mấy ngày liên tiếp cuối cùng cũng ngừng. Trần A Kiều nhìn mặt trời mùa đông lấp ló xuất hiện, khẽ thở dài. Nàng cứ tập trung suy nghĩ suốt mấy ngày nay xem mình rốt cuộc là như thế nào ở trong thời đại này. Vua nắm thiên hạ, Lưu Triệt chỉ cần nói một câu đã khiến cho nàng không thể làm gì được, chỉ có thể lẳng lặng nhìn Lưu Lăng thu nhập đồ đạc chuẩn bị chuyển ra bên ngoài ở.
“Được rồi”, Lưu Lăng vỗ vỗ vào má nàng, “Cũng không phải là sinh ly tử biệt gì, sau này vẫn có thể lén xuất cung gặp nhau mà.”
“Làm sao mà giống nhau được.” Trần A Kiều nhắm mắt, trà xanh mới pha còn bốc khói xanh biếc rất thích hợp để uống trong điều kiện thời tiết như thế này. “Từ nay về sau muội coi như là được tự do, mỗi một mình tỷ phải ở lại trong chốn hậu cung này, tẻ nhạt muốn chết được.”
Lưu Lăng cũng ra vẻ buồn bã nhưng trong mắt thì rõ ràng hiện lên ý cười, “Có mà được tẻ nhạt, chỉ riêng việc lừa gạt, nghĩ mưu tính kế đấu đá với nhau cũng đủ làm tỷ mệt chết rồi.”
Trần A Kiều đang định phản bác thì chợt nghe tiếng nha hoàn vén rèm cửa bên ngoài điện bẩm báo, “Nương nương, phu nhân Đan Dương hầu dẫn Giang Đô quận chúa tới chơi.”
Hai người hơi ngạc nhiên cùng nhìn nhau, vừa lúc thấy tầm rèm cửa được cuốn lên, Kim Nga dắt Lưu Tế Quân bước vào.
Lưu Tế Quân khẽ gật đầu, kín đáo nhìn hai người con gái trong điện Bát Nhã, một thanh tao thoát tục, một xinh đẹp diễm lệ, quả nhiên đều nhan sắc nghiêng thành, không hổ danh tiếng truyền khắp Trường An. Kim Nga hỏi thăm, “Nương nương đang rảnh rỗi mà sao không thấy Hoàng tử trưởng và Công chúa Duyệt Trữ?”
Trần A Kiều đứng dậy đáp, “Hôm nay thời tiết tốt, chắc Mạch Nhi dẫn Tảo Tảo đến trường bắn chơi rồi.”
“Nương nương thật có phúc, có hai con thông minh lanh lợi như vậy”, Kim Nga khen ngợi, bỗng nhiên cảm thấy điện Bát Nhã ấm áp khác thường, bèn đưa mắt nhìn chung quanh, “Không có lò sưởi nhưng vẫn thật là ấm áp, Kim Nga phải lĩnh giáo Trần nương nương rồi.”
“Cũng không có gì”, Trần A Kiều đứng dậy nhẹ nhàng đáp, “Ta xưa này không thích đốt lửa nên mới nhờ Tang tư nông chế tạo giúp. Nói ra thì cũng không có gì đáng kể lắm, có nhìn thấy mấy cây cột này không?” Nàng chỉ vào mấy cây trụ đồng trong điện, “Chúng đều rỗng ruột, không phải dùng để chống đỡ cho cung điện mà là để dẫn nước từ lò đun vào bên trong và dưới đất, cho dù bên ngoài có lạnh đến thế nào thì trong này vẫn ấm áp.”
Kim Nga thán phục, “Suy nghĩ của nương nương thật hay. Lúc khác Nga Nhi cũng phải học theo nương nương, mời người đến làm một chiếc như thế này ở Hầu phủ.”
Lưu Tế Quân thi lễ, “Tế Quân đa tạ Trần nương nương và Trưởng công chúa Phi Nguyệt đã nhớ tới.”
Lưu Lăng trông thấy cô bé có phong thái ôn tồn lễ độ, liên tưởng tới thân thế trớ trêu và vận mệnh của cô bé trong sử sách nên thầm thương xót, nắm tay kéo lại bảo: “Sau này là người một nhà rồi, Tế Quân không cần phải khách khí.” Sau đó nàng lấy ra một cái vòng tay, “Tặng cho cháu làm quà ra mắt nhé.”
Lưu Tế Quân ngần ngừ, đang định từ chối thì Lưu Lăng đeo luôn chiếc vòng tay vào cổ tay trái cô bé. Chiếc vòng tay rất đẹp, ánh ngọc xanh biếc, trên thân có khắc những họa tiết nối liền với nhau cực kỳ tự nhiên tựa như một bông hoa sen nhỏ. Tế Quân rất thích nhưng vẫn lên tiếng từ chối, “Tế Quân còn nhỏ, không dám nhận đại lễ của Trưởng công chúa.”
“Tế Quân không cần khách khí với cô ấy”, Trần A Kiều lườm Lưu Lăng một cái rồi lại quay sang cười tươi tắn, “Cô ấy đã tặng rồi thì ta cũng không thể tay không được. Tế Quân thích thứ gì nào?”
“Ừm…”, Lưu Tế Quân ngập ngừng rồi ánh mắt dần sáng lên, “Tế Quân từ nhỏ tập âm luật nên rất thích đàn tỳ bà. Nghe nói Trần nương nương am hiểu nhất môn này, có thể gảy cho Tế Quân nghe một khúc được không?”
“Hay quá!” Kim Nga vỗ tay tán thưởng, “Kim Nga biết tiếng nương nương đã lâu mà chưa từng được nghe khúc nào, hôm nay nhờ Tế Quân mới được chính tai nghe, đúng là may mắn của Kim Nga vậy.”
Trần A Kiều bèn gật đầu, ra lệnh, “Mang đàn tỳ bà tới đây.”
Một lát sau, Lục Y đã mang cây đàn tỳ bà từ phòng trong tới. Trần A Kiều nhận lấy bỗng cảm thấy hơi khó khăn. Nàng không hiểu sâu về đàn tỳ bà, chỉ gảy được mấy khúc cổ điển nhưng Hán cung Thu nguyệt[1] thì không thích hợp, còn Thập diện mai phục tuy rất hay nhưng làm sao có thể gảy ra khúc đàn miêu tả Tây Sở Bá Vương trước mặt hoàng tộc họ Lưu.
[1] Hán cung thu nguyệt: Một khúc nhạc cổ nói nên tâm tình của cung nữ thời xưa thường bị áp bức, khóc lóc thê lương, gợi nên sự đồng cảm của mọi người.
Nàng thầm quyết định, nhẹ nhàng dạo dây đàn rồi gảy một khúc nhạc. Lưu Tế Quân nhắm mắt, dường như được tận mắt nhìn thấy mặt sông trong đêm xuân, hương hoa thoang thoảng, hớn hở nói, “Nương nương đàn thật hay, không biết tên khúc nhạc là gì?”
“Xuân giang hoa nguyệt dạ”[2], Trần A Kiều thu đàn, khí định thần nhàn nói.
[2] Xuân giang hoa nguyệt dạ (Đêm trăng hoa trên sông xuân) là một bài thơ của Trương Nhược Hư.
“Xuân giang hoa nguyệt dạ”, Lưu Tế Quân ngân nga từng chữ, “Quả nhiên tên rất hay, thật hợp với khúc đàn. Chẳng hay có lời không?”
“Có, để ta viết ra giấy cho Tế Quân mang về nhé.”
Lưu Tế Quân khẽ quỳ gối, “Tế Quân đa tạ ân điển của nương nương.”
Đảo mắt thì bóng chiều đã ngả về tây, Kim Nga bắt buộc phải ra về mà vẫn cứ cầm tay Lưu Lăng lưu luyến mãi không rời. Lưu Lăng bật cười khuyên nhủ, “Chỉ ít ngày nữa sẽ được ở cùng một chỗ với nhau rồi, cần gì phải nhung nhớ.” Kim Nga hiểu ra mới chịu rời tay rồi xoay người dẫn Lưu Tế Quân bước đi.
Lưu Lăng quay lại, thấy A Kiều đứng trước điện, ánh mắt nàng đơn cô không khỏi thần người ra, khẽ chau mày.
Thoáng cái đã đến ngày cuối cùng của năm Nguyên Sóc thứ sáu. Theo thường lệ, Hoàng thượng và Hoàng hậu phải dẫn phi tần, hoàng tử đến lễ bái thái miếu. Thái miếu là nơi tế lễ tổ tông, ngoài Hoàng hậu tất cả các phi tần đều không được vào, phải chờ ở ngoài điện.
Lưu Triệt mặc lễ phục, mũ miện màu đen chắp tay đứng trước bậc thềm của thái miếu, dưới ánh mặt trời mùa đông lộ ra vẻ lạnh lùng tôn quý. Vệ Tử Phu bước xuống long xa, gạt tay thị nữ ra rồi bước từng bước lên thái miếu, nếp váy của bộ trang phục tế lễ màu đen trải dài phía sau.
“Hoàng thượng”, Vệ Tử Phu khẽ cúi đầu, dịu dàng nói, “Đi vào thôi.”
Lưu Triệt nghiêng người nheo mắt, nhìn chiếc long xa đang chầm chậm chạy cách đó không xa, thản nhiên bảo, “Chờ chút đã!”
Dưới bậc thềm thái miếu, Lý Chỉ thoáng một nét cười nhạt, chẳng lẽ Vệ hoàng hậu còn thua một bậc sao?
Đám phi tần thốt lên một tiếng kinh ngạc nhìn người phụ nữ mặc trang phục màu tím, không son phấn vịn tay Lục Y xuống xe rồi nhẹ nhàng bước tới, tựa hồ còn tôn quý hơn cả Vệ Tử Phu mặc xiêm y hoàng hậu. Vệ Tử Phu không hề đổi sắc, nhìn nàng thong thả bước lên bậc thềm, đây là lần đầu tiên hai người chính thức gặp mặt từ khi Trần A Kiều hồi cung tới nay. Nàng ta bỗng nhiên nhớ lại lúc mới vào cung đã tình cờ được nhìn thấy Trần hoàng hậu đi cùng với Hoàng thượng. Khi đó thần thái Trần hoàng hậu kiêu ngạo tôn quý, còn Hoàng thượng đêm trước còn ôm ấp vỗ về nàng ta, lúc đó lại nhìn người ấy với ánh mắt nhu hòa, chợt thấy vô cùng tuyệt vọng, dường như tất cả những gì đã có trong một khắc đều đổ vỡ tan tành.
Thế nhưng, Vệ Tử Phu vẫn đứng ngay ngắn. Trần A Kiều, hôm nay ta mới là hoàng hậu của giang sơn Đại Hán này.
Lưu Triệt liếc qua vẻ mặt của Vệ Tử Phu, cười nhạt, đưa tay ra nắm lấy tay Trần A Kiều. A Kiều khẽ nhăn mặt, hơi có vẻ không tình nguyện, nhưng trong tình huống khó xử như vậy thì chỉ có hành động của nam nhân này mới có thể hóa giải sự chú ý của người bên cạnh. Nàng thầm thở dài, nhìn Lưu Mạch đứng trong đám người. Nếu không phải vì Mạch Nhi thì nàng cần gì phải nhún mình mà xuất hiện ở đây. Ngày kính cáo sự tồn tại của Hoàng tử trưởng trước thái miếu, nàng là mẹ đẻ thì sao có thể vắng mặt? Nhưng Trần A Kiều lẽ nào lại phải cúi đầu trước Vệ Tử Phu cơ chứ?
Tham tế phụ trách lễ nghi thái miếu đứng im ngơ ngác một lúc rồi mới tiến lên bẩm báo, “Hoàng thượng, thái miếu, ngoài Hoàng hậu thì phi tần không được tự ý vào.”
Lưu Triệt nhìn xéo lão, ánh mắt lạnh như băng tuyết. Dương Đắc Ý nhìn mặt đoán ý, vội vàng bước lên phía trước mắng, “Ngu ngốc, Trần hoàng hậu là ai? Đây chính là cháu ngoại của Văn hoàng đế, cháu gái của Cảnh hoàng đế, nếu người không thể vào thì còn ai có thể vào?”
Mọi người chung quanh không ai phát hiện được khoảnh khắc ấy, mặt Vệ Tử Phu đã tái nhợt đi.
Trong thái miếu vàng son rực rỡ, chỉ khi tế tự thiên tử mới có thể dùng chính đỉnh tám quỹ[3] trang nghiêm tôn quý. Ánh vàng phát ra từ linh vị của bốn đời hoàng đế trước của Đại Hán khiến Trần A Kiều chói mắt, nàng cúi đầu, nhớ tới hình ảnh Cảnh Đế yêu thương mình khi còn nhỏ thì trong lòng đau xót, suýt nữa rơi lệ. Thế sự biến ảo, nếu cữu cữu dưới suối vàng biết mình bị Lưu Triệt bạc đãi thì có đau lòng không đây?
[3] Đinh và quỹ là những đồ tế lễ. Đinh là cái vạc, còn quỹ là bát lớn đựng đồ ăn. Số lượng đinh và quỹ nói lên địa vị tôn quý của người được tế tự. Chế lễ từ thời nhà Chu đã quy định, chỉ có bậc thiên tử mới được tế bằng chín đỉnh tám quỹ.
Kính cáo thái miếu là chuyện lớn hàng đầu trong một năm nên ngay cả Lưu Triệt cũng không dám chậm trễ, nhanh chóng bước lên đứng trang nghiêm trước án, sau đó nhạc tế tấu lên, chủ tế vào vị trí. Lưu Triệt vái theo nghi lễ rồi cung kính khấn, “Tiểu tử Mạch lưu lạc bên ngoài nay đã trở về được nhận vào gia tộc, nhưng cũng nên biết phải cung kính lễ nghĩa, nhân ái hiếu thuận, không được lười nhác, không gần tiểu nhân, giữ gìn phép tắc!”
Tiếp đó chủ tế hô: “Xin mời hai vị hoàng tử tham bái các vị tiên hoàng.”
Trong thái miếu, Lưu Mạch, Lưu Cứ mặc y quan chính thức cùng tiến lên nghiêm trang lễ bái. Các quan viên, phi tần trong điện lẫn ngoài điện đều quỳ bái. Tế tự diễn ra rất lâu, khi kết thúc đã là sau giờ Ngọ. Hoàng đế dùng thể thức long trọng nhất thừa nhận sự tồn tại của Hoàng tử trưởng Lưu Mạch. Từ lúc này, các quan lại Đại Hán như có thể nhìn thấy dưới Hoàng đế có một hoàng tử ưu tú.
“Hoàng thượng”, trong điện Tuyên Thất, thừa tướng Công Tôn Hoằng bị bệnh đã lâu không thiết triều gắng gượng đi tới, cung kính hỏi, “Tiền triều chưa bao giờ gặp tình huống như Hoàng tử trưởng Lưu Mạch thế này, không biết rốt cuộc coi là dòng trưởng hay dòng thứ.”
Mọi người đều nín lặng, thật ra về xuất thân tôn quý thì không một hoàng tử nào có thể so với Lưu Mạch có mẹ là cháu ngoại của Hiếu Văn hoàng đế tiền triều, song từ khi Vệ gia có người được phong hoàng hậu thì ân sủng không ai bì kịp, quyền thế bên ngoại cực lớn.
Trên điện, Lưu Triệt khép hờ mắt, sắc mặt không biết là vui hay giận.
“Dĩ nhiên là dòng trưởng rồi.” Quan Nội đình Trương Thang bước lên tấu, “Chắc mọi người chưa quên rằng lúc Trần nương nương có mang Hoàng tử trưởng và Công chúa Duyệt Trữ thì vẫn chưa có ai là hoàng hậu.”
Trong điện, Tang Hoằng Dương liếc nhìn Trương Thang. Quan Nội đình Trương Thang chính là người xét xử vụ án Vu cổ của Trần hoàng hậu năm đó. Sở trường của lão là đoán ý quân chủ, lần này cũng không phải ngoại lệ. Hơn nữa lão đứng ra bênh vực cho Trần gia thì Trần gia cũng sẽ bỏ qua chuyện cũ cho lão.
Điều Trương Thang nói là sự thật, ngay cả tiên sinh dạy học cho Nhị hoàng tử Lưu Cứ là Thạch Khánh và Trang Thanh Địch cũng không thể phản bác. Công Tôn Hoằng ngầm dò xét sắc mặt Lưu Triệt, thấy ánh mắt của Hoàng đế thăm thẳm, không tỏ ý vui mừng nhưng cũng không phản đối thì cười khẽ. Chuyện này coi như ván đã đóng thuyền.
Song Công Tôn Hoằng thực không ngờ rằng ở trong cung Trường Môn, Trần A Kiều lại tỏ thái độ không mấy vui mừng khi sự việc phát triển đến nước này.
“Mẫu thân!” Lưu Mạch từ thái miếu trở về, nhìn thấy mẫu thân có vẻ lo âu sầu não chẳng hề vui sướng gì thì lấy làm lo lắng, khẽ gọi nàng.
“Mạch Nhi!” Trần A Kiều quay lại, thấy con trai lộ vẻ ưu tư thì hơi do dự hỏi, “Nói cho mẫu thân biết, con có hy vọng được giống như phụ hoàng không?”
Lưu Mạch lập tức hiểu ý tứ A Kiều, “Thật ra thì con thích ở ngoài hơn, nhưng như hiện giờ cũng đã tốt rồi.” Cậu cúi đầu khẽ nói.
A Kiều bật cười, dịu dàng xoa trán Lưu Mạch, “Mạch Nhi, con phải biết rằng mẫu thân chỉ hy vọng con và Tảo Tảo sống tốt là được rồi, không hy vọng xa vời.”
“Chẳng cần con có thừa nhận hay không thì ông ấy vẫn là phụ hoàng của con”, Trần A Kiều bỗng nhiên nói, “Đừng chống lại ông ấy nữa, con nên biết từ hôm nay trở đi, số người soi mói từng cử chỉ hành động của con đã nhiều hơn trước kia nhiều.”
Lưu Mạch thở nhẹ một hơi, yếu ớt đáp, “Dạ.”
“Mẫu thân không cách nào ngăn được con bước lên con đường hôm nay bởi vì đây là thứ con phải có.” Nàng nói tiếp, “Nhưng Mạch này, một khi tên của con đã chính thức viết lên ngọc phả thì con sẽ phải mang một gánh nặng không thể vứt bỏ, cho dù không muốn tranh đoạt vị trí cũng phải sẽ phải tranh đoạt, con phải suy nghĩ thật kỹ.”
“Mẫu thân không cần lo lằng cho Mạch Nhi”, Lưu Mạch ngẩng đầu, chí khí tỏa ra từ cặp lông mày, “Mẫu thân phải tin tưởng rằng con sẽ bảo vệ được cho mẫu thân và Tảo Tảo.”
Trần A Kiều lắc đầu, không thể nào lừa gạt được bản thân, động tác vừa rồi của Lưu Mạch giống cha nó như đúc.Quyển 2 - Chương 39: Lại một đêm bùng cháy hoa đènViên quan chép sử tới hỏi niên hiệu của năm đúng lúc Lưu Triệt rời điện Tuyên Thất đi đến đài Bách Lương dự yến, đang nghĩ về việc đi săn thú mùa thu ở rừng thượng uyển nên y thuận miệng trả lời luôn là “Thú.”
Hôm nay là ngày tiễn năm cũ đón năm mới nên ngay cả Vương thái hậu cũng rời cung Trường Nhạc. Thời gian gần đây bà đã khỏe hơn, ngồi ở vị trí thủ tọa trên đài Bách lương nhìn Lưu Triệt bước lên giữa tiếng bái chào của các phi tần, hỏi khẽ, “A Kiều đâu?”
Ánh mắt Lưu Triệt thoáng hiện vẻ u ám, “Chắc là nàng cảm thấy người hơi khó ở nên không tới?”
Vương thái hậu cũng không để ý lắm đến chuyện này, liền gật đầu, “Hoàng thượng tới rồi thì cũng nên khai mạc yến hội đi.”
Người hầu kẻ hạ trong cung nối nhau bước vào thắp lên những cây nến to bằng bắp tay chiếu rọi đài Bách Lương sáng như ban ngày. Các ca cơ, vũ công hát hay múa đẹp ở dưới đài xướng lên những lời ca uyển chuyển. Lưu Triệt và Vệ Tử Phu chia nhau ngồi ở hai bên Vương thái hậu. Vệ Tử Phu hành lễ xong mới ngồi xuống.
“Phụ hoàng”, Chư Ấp công chúa Lưu Thanh hớn hở gọi, bước lên dâng chén rượu, “Nhi thần chúc phụ hoàng khắp thiên hạ, chúc Đại Hán ta mãi mãi trường tồn.”
Lưu Triệt mỉm cười khen hay, đón lấy rồi uống một hơi cạn sạch. Trong đó tất nhiên là rượu Tân Phong vì mặc dù không mấy người biết rằng Hoàng đế cũng giống như Hoàng tử trưởng không thể uống Bích Nhưỡng Xuân thịnh hành khắp Trường An trong thời gian gần đây, nhưng Vệ hoàng hậu thì lại biết điều này. Lưu Triệt nhìn người con gái mà y luôn yêu thương, kể từ khi mẹ con A Kiều hồi cung thì y hầu như không còn trông thấy cô bé ở khoảng cách gần như vậy. Y nghĩ đến đây thì không khỏi liếc mắt nhìn Vệ Tử Phu ở cách mình không xa, dưới ánh nến thấy nàng ta đang mỉm cười ngồi ngay ngắn, dáng vẻ đoan chính toát lên phong thái của một bậc mẫu nghi thiên hạ.
“Phụ hoàng”, Lưu Thanh nũng nịu cất tiếng, ngẩng đầu nhìn lên, trong mắt chan chứa khát vọng, “Thanh Nhi mới học được một khúc ca múa, phụ hoàng tới điện Tiêu Phòng để Thanh Nhi múa cho phụ hoàng xem được không?”
“Thanh Nhi”, Vệ Tử Phu quay đầu lại quở trách, “Phụ hoàng bận rộn việc nước, con không được quấy rầy người.”
Lưu Thanh lí nhí vâng dạ nhưng vẫn len lén nhìn xem ý tứ của Lưu Triệt. Trước đây, rất nhiều lần cô đã làm như vậy, thì đa phần là cứ đến nửa đêm phụ hoàng sẽ giá lâm tới điện Tiêu Phòng với mẹ con cô, song lần này Lưu Triệt lại vén ống tay áo uống một ngụm rượu, thản nhiên nhìn lướt qua gương mặt tươi cười của Lưu Thanh, lạnh nhạt, “Để hôm khác đi.”
Vệ Tử Phu lập tức thấy lòng quặn thắt. Nỗi đau này chỉ chầm chậm dâng lên, không quá mãnh liệt nhưng lại không thể nào chịu đựng nổi. Nàng ta nhìn vào gương mặt kinh ngạc lẫn thất vọng không che giấu nổi của con gái. Một Lưu Thanh luôn được sủng ái, Chư Ấp công chúa chưa bao giờ bị bỏ rơi thì làm sao hiểu nổi nỗi bi thương khi không còn được hưởng ơn vua.
Trên đài, các phi tần thấy tình hình như thế thì đều hiểu. Có người nhướng mày nhếch môi nhìn hả hê, cũng có người như đang suy tư, có người tỏ vẻ thê lương vờ vịt của mèo khóc chuột. Nhưng hoàng hậu cho dù mất ơn vua vẫn là hoàng hậu. Vệ hoàng hậu nắm quyền ở hậu cung cũng chưa làm chuyện gì gọi là có lỗi với Hoàng thượng, bên ngoài vẫn có Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh nắm giữ binh quyền, bên trong còn có Lưu Cứ thừa kế hoàng tộc. Mặc dù Trần hoàng hậu mơ hồ có xu thế lấn át nhưng lòng vua khó dò, làm sao biết người có ý để cho hai nhà Trần, Vệ kiềm chế lẫn nhau hay không?
Lý Chỉ cúi đầu, sau khi Vương Thấm Hinh thất thế, ở cung Vị Ương ngoài Hoàng hậu ra thì chỉ có nàng và Hình Nhược là hai phi tần có địa vị cao nhất. Hình Nhược lại không sinh được con nối dòng, nếu như Vệ hoàng hậu mất ngôi thì… Trong lòng nàng khẽ dâng lên một niềm ao ước, nhưng chợt nghĩ đến cuộc sống cô đơn lạnh lẽo ở điện Thanh Lương tại cung Trường Môn liền giật nảy mình, liếc nhìn sang phía Hình Nhược đang ngồi bên cạnh, khẽ than một tiếng rồi ôm lấy đứa con trai đầu lòng.
Đương kim Hoàng thượng anh minh quyết đoán, ai có thể bày đặt quỷ kế qua được mắt y. Chi bằng dựa vào con trai, an phận thủ thường ở cung Vị Ương này cho tới cuối đời, chờ Hoàng thượng thỉnh thoảng ghé tới, coi như tất cả ý nghĩa của cuộc đời này đều nằm ở đó. Tứ hoàng tử Lưu Đán vừa mới đầy hai tháng tuổi nằm trong ngực nàng chẳng biết sao lại nhíu mày, giãy giụa mấy cái không thoải mái rồi khóc òa lên. Bị mọi người nhìn chằm chằm, Lý Chỉ tay chân luống cuống nhưng vẫn không dỗ được Lưu Đán nín khóc.
“Đán Nhi làm sao thế?” Vương thái hậu ngồi trên, hiền hòa hỏi với sang.
Một vú em đứng hầu bên cạnh đón lấy Tứ hoàng tử từ trong lòng Lý Chỉ, nhanh nhẹn kiểm tra một hồi rồi quỳ xuống bẩm, “Chắc là Đán điện hạ lúc trước ăn nhiều quá.”
Vương thái hậu hiểu ra, xua tay, “Vậy thì ngươi bế Đán Nhi xuống trước đi.” Lưu Triệt cũng thoáng cười, ánh mắt nhìn Lý Chỉ lấp lánh khó hiểu.
Lưu Triệt biết rằng một khi y có mặt thì ngoài mẫu hậu ra sẽ không có phi tần nào có thể vui hết mình. Y thấy đã khuya mà Vương thái hậu cũng đã mệt liền nói, “Hôm nay kết thúc ở đây thôi, mọi người về nghỉ đi.”
Các phi tần đều tinh ý lên tiếng vâng dạ, lục tục đứng dậy tiễn Vương thái hậu được Minh Đạt đỡ tay dìu trở về cung Trường Nhạc.
“Hoàng thượng!” Vệ Tử Phu dịu dàng hỏi, “Tối hôm nay muốn đến ở với vị muội muội nào đây?”
Lưu Triệt không đáp, mặc dù trong cung Hán không có quy định, nhưng thông thường Hoàng đế sẽ nghỉ ở điện Tiêu Phòng vào đêm tiễn năm cũ đón năm mới để thể hiện rằng Hoàng hậu chính là người có địa vị tôn quý nhất trong hậu cung. Việc Lưu Thanh vừa mới mời cho thấy chính do Vệ Tử Phu mượn việc này để xui cô bé làm. Y chỉ không ngờ là khi bị mình đáp trả lạnh nhạt mà Vệ Tử Phu vẫn có thể giữ được thái độ dịu dàng, cười nói lễ độ như thế. Nghĩ đến đây thì dù có lòng dạ sắt đá cũng vẫn nảy sinh đôi chút xót thương. Trong ấn tượng của y, Vệ Tử Phu luôn là người con gái xinh đẹp dịu dàng, thông minh thức thời. Vì thế y cảm thấy nàng ta phù hợp, liền nguyện ý nâng đỡ lên ngôi vị hoàng hậu. Song ngôi vị hoàng hậu quá nặng nề đã dần dần làm mòn đi những nét trong trẻo thuần mỹ mà y yêu thích ở nàng ta. Vệ Tử Phu dần dà đã trở thành chiếc bóng mờ sau cái ngai hoàng hậu tôn quý. Phảng phất hiện giờ vẫn là dung nhan năm đó, như bông hoa hé nở trong ngày xuân nhưng y lại thấy rõ ràng ẩn bên trong một tia tàn lụi.
“Tử Phu cứ về nghỉ ngơi trước đi”, Lưu Triệt từ chối khéo, “Trẫm đến điện Tuyên Thất một chút.”
“Thần thiếp tuân chỉ.” Vệ Tử Phu tạ lễ đúng quy cách rồi mỉm cười rời đi.
Lý Chỉ lại nhận thấy rõ ràng rằng sau dáng vẻ hoa lệ đó là nỗi bi thương khắc sâu trong tâm khảm.
Lưu Triệt trở về đến điện Tuyên Thất thì tuyết rơi càng lúc càng lớn. Khí hậu ở Trường Anh hanh khô, vào mùa đông, tuyết rơi như hoa khiến khí trời không hề có chút cảm giác ẩm thấp. Dương Đắc Ý hầu hạ ở bên cạnh thấy sắc mặt Lưu Triệt dưới ánh nến hiện lên vẻ âm trầm một hồi lâu, chợt nghe y hỏi, “Bây giờ là mấy giờ rồi?”
“Bẩm Hoàng thượng”, Dương Đắc Ý khom người đáp, “Gần tới canh ba rồi. Hoàng thượng nên nghỉ ngơi đi.”
“Ừ”, Lưu Triệt trầm ngâm, nhớ lại những ngày tháng xưa kia khi A Kiều luôn có mặt ở trong điện Tuyên Thất cùng y xử lý xong tất cả mọi công việc rồi hai người mới dìu nhau trở về điện Tiêu Phòng. Sau năm Nguyên quang thứ năm, y chưa từng bước vào Trường Môn nửa bước, chôn vùi những ký ức ấm áp đó xuống tận sâu đáy lòng. Vệ Tử Phu không có những tình cảm như của A Kiều đối với y, ngay cả sau khi lên đến ngôi vị hoàng hậu cũng chỉ biết ở trong Tiêu Phòng yên lặng đợi chờ y đến.
“Khởi giá đến cung Trường Môn”, y chợt nghe thấy giọng nói của mình.
Dương Đắc Ý vâng dạ, cung cúc bước ra chuẩn bị.
Lưu Triệt ngồi trên ngự liễn, không hề cảm giác thấy gió tuyết. Màn đêm trong cung Vị Ương cực kỳ yên tĩnh, có thể nghe được rõ ràng cả những tiếng cung nhân đạp tuyết kêu loạt xoạt hoặc là tiếng tuyết rơi xuống rào rạt. Từ xa đã trông thấy ánh đèn dầu trong cung Trường Môn, Lưu Triệt bỗng nhiên không thể nén nổi cảm giác ấm áp đang dâng lên từ đáy lòng.
Thì ra là vẫn còn có lòng đấy sao? Y tự mỉa mai, bao nhiêu năm qua thật cũng chỉ là một vòng tròn rất lớn rồi cuối cùng lại trở về điểm ban đầu. Không, thật ra không phải là điểm ban đầu. Lúc đó nàng là Quận chúa Đường Ấp nức tiếng kinh thành còn y chỉ là một vị quân chủ bị quản thúc đang cầu sinh tồn trong bối cảnh cung đình quỷ quyệt. Hôm nay, y là đế vương quyền nghiêng thiên hạ, còn nàng thì sao? Nàng chỉ laà một người bị thế nhân gọi là phế hậu trong cung Trường Môn.
Trần A Kiều chưa bao giờ là Vệ Tử Phu. Nàng dù thông minh hay không thông minh cũng sẽ chẳng bao giờ chiều theo ý của y, mặc cho có phải bêu đầu sứt trán suốt bao nhiêu năm qua, cũng không chịu đổi tính. Thật ra nếu một A Kiều như vậy mà có biến thành Vệ Tử Phu thì liệu y có thể vẫn chấp nhận không chịu buông tay?
“Mưa nào ngược lên trời, nước đổ rồi khó hốt”[1]. Thật ra thì đều giống nhau mà thôi, lúc đó dù nàng có gọi thế nào cũng không thể làm y quay đầu lại, còn hôm nay cho dù y đã quay đầu lại nhưng dù làm thế nào A Kiều vẫn không trở về điện Tuyên Thất cùng y, âu yếm gọi y hai tiếng Triệt Nhi.
[1] Ý câu này là: Những chuyện đã qua rồi thì cứ để nó qua đi, dù có hối hận cũng không thể làm lại được nữa.
Y đã từng hứa hẹn xây dựng một lầu vàng cho nàng, cùng nàng sống cuộc sống hạnh phúc ở trong tòa lầu vàng đó, thế nhưng chỉ trong một khắc đã hờ hững quay người bỏ đi, để mặc cho toà lầu vàng dần thành hoang phế rồi sụp đổ trong lòng nhau.
Ngày đó, nàng nhiều lần cầu xin y tới Trường Môn, nhưng y chỉ nhìn mà cảm khái, cứ thế buông rơi để mặc nàng tuyệt vọng.
Tháng đó, nàng bay nhảy ở trong thành Trường An, cho dù trông thấy cũng không chịu gọi tên y, mặc cho gặp nhau thì vẫn lách người bước qua.
Năm đó, nàng để con gái lại còn bản thân thì dẫn Mạch Nhi trốn khỏi Trường An, nếu không phải vì Lưu Lăng thì có lẽ vẫn chưa quay trở lại bên cạnh y.
Bọn họ đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội, đã tổn thương biết bao nhiêu lần, rốt cuộc ai trong hai người họ có lòng dạ ác độc hơn ai?
Sau nàng, y không bao giờ đụng vào con gái quý tộc nữa. Lúc đó y cho là không bao giờ mình muốn gặp lại bất kỳ một cô gái nào có bóng dáng của nàng. Nhưng hôm nay nghĩ lại thì có lẽ là bởi vì không có một người nào, không có một người con gái quý tộc nào có được loại khí chất tôn quý như nàng. Kiều Kiều! Vào thời điểm thân mật, y đã gọi nàng như vậy, gọi thật lâu để nàng thật sự trở thành một nàng Kiều ở trong lòng y. Cho dù vào thời điểm chán ghét, y luôn tâm niệm nhớ tới những điểm xấu của nàng nhưng hôm nay nhớ lại thì trong mắt y đều là những điểm tốt.
Khi ngự liễn đến cung Trường Môn thì đã quá canh ba. Cả Trường Môn hoàn toàn yên tĩnh. Nội thị gác đêm thấy ngự giá thì ai nấy đều kinh ngạc, hoảng hốt quỳ lạy rồi định chạy vào bẩm báo nhưng Lưu Triệt khoát khoát tay ngăn lại.
“Trần nương nương ngủ chưa?” Dương Đắc Ý khẽ hỏi.
“Hình như còn chưa ngủ. Nương Nương từ trước đến giờ luôn đi ngủ muộn, cho Hoàng tử trưởng và Công chúa Duyệt Trữ ngủ xong rồi mới một mình trở về phòng.”
Trong điện Bát Nhã không khí vẫn ấm áp, tạo thành một thế giới riêng khác hẳn bên ngoài điện. Lưu Triệt im lặng, đi không tiếng động trên nền thảm màu đỏ tươi mềm mại. Y vèn rèm lên, thấy trong phòng ngủ tỏa khói xanh bảng lảng bình yên. A Kiều ngồi trước cửa sổ, đêm đã khuya nên nàng mặc váy ngủ. Nàng nhìn y, vẻ mặt kinh ngạc. Hoa đèn lách tách, ánh lửa bập bùng chiếu lên gương mặt nàng càng tạo thêm những nét quyến rũ.
Y nhớ lại cảnh nàng ở điện Tiêu Phòng những năm trước, tất cả vẫn y nguyên. Dường như thời gian không để lại dấu vết gì trên nàng, còn với y, thời gian thì lại như cả một con sông dài chảy qua, bảy năm đã lặng lẽ để lại biết bao ký ức.
Lưu Triệt lướt nhìn khắp điện Bát Nhã, cao giọng quát hỏi, “Thật hay cho đám nô tài này, chủ nhân còn chưa ngủ mà chúng bay đã ngủ như chết rồi sao?”
A Kiều ngẩng đầu, đứng lên nói, “Do thiếp ngủ muộn nên bảo họ đi ngủ trước đấy. Tại sao Hoàng thượng tới đây?” Nàng không hề cố ý nhưng thân hình vẫn hiện rõ những đường cong mê hồn khiến Lưu Triệt hoa hết cả mắt.
“Tại sao ư?” Lưu Triệt mỉm cười nhưng ánh mắt vẫn lạnh băng, “Thiên hạ này là của trẫm, có chỗ nào trẫm không thể tới được… Kiều Kiều?”
A Kiều im lặng, thói quen cao ngạo đã ăn sâu vào tiềm thức của người đàn ông này nên vừa mở miệng đã khiến tâm trạng của nàng trầm xuống, “Thiếp cho là”, nàng cúi đầu lạnh nhạt, “Người nên đến điện Tiêu Phòng.”
Gió Bắc lạnh lẽo thổi tung rèm, táp vào cơ thể ăn mặc phong phanh của nàng. Trong thiên hạ có người con gái đẹp vì sự quyến rũ ẩn sau vẻ nghiêm trang, lại có cô gái đẹp vì càng ở gần càng thấy tính cách chân thật. Trần A Kiều và Vệ Tử Phu đều là những cô gái như vậy, nhưng vào khoảnh khắc này Lưu Triệt cảm thấy vẻ thanh tú ý nhị này thì tất cả những người con gái hiện có trong thiên hạ đều không thể nào sánh bằng.
“Muộn thế này rồi sao Kiều Kiều còn chưa an giấc?” Lưu Triệt khẽ hỏi, khóe miệng hằn lên một nếp nhăn như cười.
Mấy ngày qua, dù muốn hay không thì nàng cũng quen dần với sự có mặt của y nhưng đến nay vẫn chưa từng ở chung một chỗ trong đêm khuya. Theo bản năng, A Kiều cảm nhận được mùi vị nguy hiểm nhàn nhạt tràn ngập trong không khí. Nàng len lén liếc nhìn cây Dưỡng Thần hương đã cháy được hơn một nửa trên án, trong lòng cảm giác được an ủi, hờ hững, “Sau khi Lăng Nhi đi, mọi người ngủ sớm, thiếp mãi đến đêm vẫn thấy vô vị, cộng thêm thói quen ngủ muộn nên giờ vẫn ngồi đây.”
Trên án còn bày một bàn cờ đang đánh dở, Lưu Triệt bước tới, nhấc một con cờ lên, nói, “Để trẫm tiếp Kiều Kiều một ván.” Giọng y thoảng nhẹ như gió, nghe không ra ý vui vẻ.
A Kiều mỉm cười đáp, “Dạ được!”, rồi xoay người dặn dò hạ nhân, “Đi pha một bình trà nóng, nhớ đặc một chút.”
“Hoàng thượng đã biết rằng”, nàng ngồi đối diện với y, nhấc bên quân đen, “A Kiều không hiểu mấy về cờ vây. Hoàng thượng nếu không ngại thiệt thòi thì chơi cờ năm quân với A Kiều nhé.”
“Ồ?” Lưu Triệt lại cảm thấy hứng thú, hỏi, “Chơi như thế nào?”
“Thật ra thì rất đơn giản.” Nàng liền giải thích sơ qua, Lưu Triệt nge xong bèn nhặt lấy mấy quân trong bàn cờ bỏ ra ngoài, tạo nên những âm thanh trong veo giữa đêm tuyết tĩnh lặng.
Y hỏi, “Hồi trước Kiều Kiều và Lăng Nhi cũng thường chơi môn cờ này sao?”
“Đúng thế.” A Kiều gật đầu.
Thành Tục vén rèm bưng trà vào. Trà xanh vừa pha còn bốc hơi nóng hổi, cặp chén ngọc bích cổ xưa chạm vào có cảm giác ấm áp, rất thích hợp để uống trong đêm đông. Lưu Triệt cầm một chén, trầm ngâm, “Kiều Kiều luôn biết những vật kỳ lạ này.” Lời nói hàm ý sâu xa.
“Là mấy thứ đồ chơi vặt vãnh không đáng nhắc tới mà thôi.” A Kiều nhẹ nhàng nhấp một hớp trà, khoan khoái nhắm mắt lại mà không hề phát hiện ở phía đối diện, ánh mắt của Lưu Triệt càng lúc càng sâu hơn.
Trà đặc khiến tinh thần tỉnh táo, đêm đã khuya thế này rồi nên nàng không dám giả vờ buồn ngủ để tỏ ý tiễn khách. Nàng cũng không dám nghĩ đến chuyện chọc giận Lưu Triệt để tự đưa mình vào tình cảnh nguy hiểm, chẳng thể làm gì khác hơn là gắng gượng giữ tỉnh táo, hy vọng có thể bình yên ngồi đến sáng. Dù nàng cũng biết hy vọng này xa vời nhưng nếu bắt phải cúi đầu bịt tai thì nàng cũng không thể làm gì được.
Chơi cờ năm quân cũng đơn giản, Lưu Triệt chơi được vài ván thì bắt đầu thành thạo. A Kiều tập trung ứng phó, hai bên có thắng có bại. Bỗng Lưu Triệt khẽ cảm thán, “Đã lâu không có ai đánh cờ thật sự với trẫm như Kiều Kiều.”
A Kiều yên lặng, không nói, thầm nghĩ: Vì người là quân vương nên sẽ không có ai muốn vì một việc nhỏ như vậy chọc giận ngươi. Thật ra thì ở một mức độ nào đó, ta cũng sợ ngươi vì biết rằng một bậc quân chủ như ngươi sẽ không làm những chuyện ảnh hưởng tới lợi ích của bản thân, rốt cuộc vẫn là thân phận của ta che chở cho ta mà thôi.
Trần A Kiều đột nhiên cảm thấy bàn tay Lưu Triệt đang mơn trớn khuôn mặt mình. Theo phản xạ, nàng né tránh nhưng Lưu Triệt đã lạnh lùng giữ lấy cổ tay nàng. Nàng muốn giằng ra theo bản năng nhưng lại không dám dùng toàn lực, đành nghiến răng chịu đựng bàn tay cứng như thép của Lưu Triệt. Lưu Triệt vốn cũng không phải vị quân vương trói gá không chặt, A Kiều biết thời niên thiếu y đã từng trải qua gian khổ luyện đấu kiếm, cưỡi ngựa, bắn cung. Nàng định đứng dậy thì thấy eo lưng đã bị giữ chặt.
“Kiều Kiều”, Lưu Triệt thì thầm, từ từ sáp sát má nàng. Nàng nhìn vào đôi mắt y. Đôi mắt đen láy thật sắc bén ẩn chứa vẻ không khoan nhượng nhưng lại sâu thăm thẳm như đại dương mang đầy hơi thở yêu thương.
Ánh mắt thật quen thuộc. Con người cũng thật quen thuộc.
Nàng ngơ ngẩn, một đoạn ký ức trong khoảnh khắc ập đến.
Lưu Triệt dắt tay nàng lúc thiếu niên.
Lưu Triệt nói câu “Kim ốc tàng Kiều.”
Lưu Triệt lần đầu trao nàng nụ hôn.
Lưu Triệt lúc hôn lễ.
Lưu Triệt từ phía sau ôm lưng nàng.
Lưu Triệt lúc nói không phụ bạc nàng.
Lưu Triệt có hùng tâm tráng chí.
Lưu Triệt lúc vừa lên ngôi bị kiềm chế.
Lưu Triệt vì Vệ Tử Phu chống lại nàng.
Lưu Triệt vô tình bỏ đi.
Hình ảnh cuối cùng như một gáo nước lạnh xối vào đầu khiến A Kiều chợt tỉnh táo trở lại, ánh mắt sáng lên.
Vành môi Lưu Triệt mơn man trên cổ nàng thật dịu dàng mà nóng bỏng, khiến nàng gần như run rẩy, nó có chút không giống với tính cách lạnh lùng tàn khốc của y. Nàng xoay người làm một động tác cự tuyệt, vẻ mặt kiên cường. “Kiều Kiều!” Lưu Triệt nheo mắt, nói giọng không vui, “Đến nước này rồi, nàng còn muốn thế nào nữa?”
“Thiếp không muốn gì cả.” Trần A Kiều lộ vẻ đau khổ nhìn xoáy vào mắt y, “Thiếp chỉ không làm được, không làm được thì coi như chưa có chuyện gì xảy ra. Chúng ta cứ giống như mấy ngày qua, người ở cung Vị Ương của người làm quân vương, thiếp ở cung Trường Môn của thiếp sống bình lặng, không tốt sao?”
“Không tốt.” Lưu Triệt mím môi, cặp môi y rất mỏng. Thời gian qua nàng vẫn không hiểu, vì vậy khi từ cặp môi y phun ra mấy câu lạnh như băng thì nàng liền tê liệt, “Kiều Kiều, nàng phải biết rằng dù nàng có lấy thân phận gì thì vẫn không có quyền nói chữ không.”
Khuôn ngực y dán chặt vào thân thể của nàng. A Kiều thầm hối hận tại sao mình lại ngủ muộn như vậy, tại sao lại ăn mặc mỏng manh như vậy, từng chút hơi nóng thấm vào da thịt, vừa xa lạ vừa hoảng loạn. Lưu Triệt cuồng nhiệt ôm chặt lấy nàng, định cởi váy áo của nàng. Nàng mím môi giãy giụa, chợt cảm thấy tay y như một ngọn lửa, sờ đến đâu là da thịt nàng run rẩy đến đó, thoáng sơ hở đã thất thủ Kinh Châu[2].
[2] Thất thủ Kinh Châu: Kinh Châu là một địa điểm chiến lược trong “Long trung sách” của Gia Cát Lượng năm 207 khi ông thực hiện cuộc Bắc Chinh lần thứ nhất. Khi đã chiếm được Kinh Châu, “Long trung sách” gần như đã thành công, thì quan trấn thủ kinh Kinh Châu là Quan Vũ lại vì phát động cuộc chiến khác mà sơ hở để mất Kinh Châu, trở thành nguyên nhân lớn khiến cho chiến lược thất bại.
“Kiều Kiều”, nàng nghe y thán tụng bên tai, “Nàng thật xinh đẹp!” Thật nóng bỏng. Thật lạnh lùng. Nàng ngượng ngùng mở mắt ra nhìn, dường như là ảo giác, thấy chút xót thương hiện lên tận sâu trong đáy mắt Lưu Triệt. Đó là người mà nàng đã từng vừa yêu, vừa hận, khi sát kề bên mới biết rằng thân thuộc như đã được khắc ghi trong xương trong cốt.
Từ đáy lòng nàng vang lên hai giọng nói, một là của A Kiều sinh ra là để yêu thương chan chứa, mong chờ, vui sướng; còn giọng nói kia là của A Kiều muốn chết đi vì hận, chỉ mong một cước đạp văng y ra rồi chửi mắng cho thỏa thích. Từ sau khi linh hồn A Kiều và Nhạn Thanh hợp lại làm một, nàng chưa từng gặp lại tình trạng linh hồn giằng xé thế này, tranh chấp giữa hai bên sục sôi như nước với lửa khiến nàng không thể cử động được.
Đúng lúc này, y lại ôm siết lấy nàng, “Kiều Kiều.” Lưu Triệt nhìn nàng, mắt ánh lên vẻ ngạc nhiên lẫn buồn cười, “Làm sao nàng lại giống như chưa bao giờ…?” Nói đến đây thì y ngậm miệng, da dẻ nàng mịn màng như gấm khiến y yêu thích không nỡ rời tay.
A Kiều cảm thấy uất ức, nói theo một góc độ khác thì nàng thật sự chưa bao giờ trải qua chuyện này, làm sao kháng cự được Lưu Triệt đã quá thành thạo giữa ngàn hoa, huống chi trong đó còn có một thứ tình cảm gọi là yêu. Rõ ràng là nàng hận y đến mức nghĩ tới là thấy khinh bỉ nhưng mỗi lần gặp mặt thì trong lòng lại dậy lên một đoạn ký ức yêu thương.
Trong phần lớn các trường hợp, con người không có khả năng chống lại được tình yêu, có thể nén xuống nhưng không thể xua tan.
Cuối cùng thì cũng đã đến bước này. Nàng nuốt dòng lệ chực trào ra, mở to mắt nhìn người đàn ông cận kề trong gang tấc, người mà nàng có yêu, cũng có hận. Y cũng trở nên tình mê ý loạn, hơi thở dồn dập, không cởi được áo trong, liền giật phăng đi.
A Kiều đẩy y ra, định luồn qua với lấy tấm chăn đắp lên người thì lại bị Lưu Triệt ôm chặt lấy, tay và môi y ve vuốt khắp thân thể nàng khiến nó nóng lên rừng rực . Nàng thấy khó thở, cả người mềm nhũn. Ý nghĩ kháng cự trong nàng bị sức nóng và đoạn ký ức yêu thương kia đánh bại, không quan tâm tới động tác của y nữa.
Bàn tay Lưu Triệt vẫn ve vuốt vòng eo của nàng, lưỡi y đang mơn trớn nàng cũng dần tiến sâu hơn. Nàng hoảng hốt, định cắn vào đầu lưỡi của y thì y cười nhẹ né tránh. Lúc này không còn thấy bóng dáng của bậc đế vương máu lạnh đâu nữa. “Kiều Kiều, nàng là của ta”, y thì thầm vào tai nàng như một lời tuyên thệ rồi từ từ nhún xuống.
Nàng cứng cỏi nhìn chằm chằm vào y, đến khoảnh khắc y tiến vào nàng cắn thật sâu vào vai y. Hoa đèn bùng lên, hương cũng dần dần cháy hết, chỉ còn lại tro tàn. Lưu Triệt bị đau, nhưng cũng không né tránh. Một giọt nước mắt của nàng rơi xuống vai y, ấm áp, nóng bỏng. Nàng cũng chẳng muốn nghĩ thêm, cảm giác càng lúc càng rõ, từng tấc, từng tấc nóng bỏng, nàng thoáng thấy đau đớn.
A Kiều nhắm mắt cảm nhận, miệng vô tình cũng dần hé mở. Vết máu chỗ vết răng sâu đã dần dần đông lại. Nàng lặng người, cảm thấy ngỡ ngàng. Rõ ràng đây là người đã từng vô số lần ân ái nhưng lại xa cách lâu tới mức không còn biết phải cầm tay thế nào. Song cũng rõ ràng đây là một người xa lạ, thế mà vào khoảnh khắc này lại gần gũi hơn bất kỳ người nào trên cõi đời. Phải đối mặt như thế nào đây? Chẳng qua chỉ là một tích tắc buông thả mà thôi.
Ít nhất vào lúc này, bọn họ là hai người gần gũi nhất trên thế gian, không cần biết đến những đối chọi gay gắt trước đây hay về sau.
Nàng đột nhiên cảm thấy rã rời, muốn nhắm mắt ngủ một giấc thật say và xem những gì vừa trải qua chỉ là một giấc mộng, nhưng trong lòng lại hiểu sâu sắc rằng đó là sự thực không cách nào phủ nhận được.
Lưu Triệt xót xa nhìn A Kiều, nhìn nàng xõa tóc nằm ở trên giường, đầy suy tư. Là vợ chồng với A Kiều nhiều năm như vậy, y tự cho rằng mình đã hiểu nàng như lòng bàn tay nhưng vào lúc này chợt thấy mơ hồ. Ánh mắt y lướt qua dấu vết sinh nở hình cánh hoa bên đùi A Kiều, dừng ở nốt chu sa màu sắc thâm nâu trên ngực nàng. Cùng là thân thể ấy, cũng nhạy cảm như vậy, do xa cách quá lâu sao? Quen thuộc đến thế mà lại mang theo một thoáng xa lạ, phảng phất trong thân thể nàng có một linh hồn khác đang cư ngụ. Nhìn nàng, từ quật cường trong khoảnh khắc trở nên mênh mang, từ cứng đờ trong khoảnh khắc trở nên mềm mại, vẻ băng lạnh nơi đáy mắt bị y dần hòa tan thành một miền quyến rũ mê muội. Vào khoảnh khắc này, A Kiều mỹ lệ đến mức khiến ai cũng phải thốt lên kinh ngạc.
Còn y, có thể lưu lại vẻ mỹ lệ đó được bao lâu?Quyển 2 - Chương 40: Mỹ nhân phương Nam tên Giai LaMồ hôi từng giọt từng giọt từ trên trán nhỏ xuống khiến y dần tỉnh táo. Lưu Triệt mệt mỏi ôm lấy vòng eo A Kiều gọi khẽ, “Kiều Kiều!”
A Kiều xoay người đi, đứng dậy mặc lại y phục. Ánh mắt Lưu Triệt cứ từng chút từng chút một lạnh đi, “Kiều Kiều!” Dưới ánh nến, đôi chân thon dài của A Kiều ánh lên nõn nà, mê hoặc lòng người.
“Hoàng thượng đã có thứ mình muốn, chắc trở về cung Vị Ương được rồi.”
Ánh nến nhảy nhót in lên vành mi cong vút của nàng một vầng sáng mờ ảo quyến rũ nhưng Lưu Triệt không chú ý. “Kiều Kiều nghĩ như vậy sao?”, y sẵng giọng có vẻ không vui. A Kiều vẫn đang vùi sâu vào cảm giác tự chán ghét bản thân nên không hề để ý, cúi đầu quay đi, tư thế quật cường.
Lưu Triệt không giận mà cười gằn, “Được, được lắm.” Y đứng dậy, hô gọi, “Người đâu.”
Nội thị đứng hầu ngoài mành nơm nớp đi vào mặc lại y phục cho Lưu Triệt, vì quá sợ hãi nên động tác luống cuống. Lưu Triệt nhướng mày, muốn xả giận nhưng liếc thấy A Kiều lại gắng gượng nén xuống.
“Bãi giá trở về điện Tuyên Thất”, Lưu Triệt buông thõng một câu rồi đi thẳng ra khỏi điện Bát Nhã, không quay đầu lại.
Bức rèm che không ngừng rung động, Trần A Kiều quay người bỏ vào trong, nghe thấy những tiếng huyên náo ở bên ngoài rèm, cung nữ, nội thị đồng loạt, luôn miệng bái chào. Lưu Triệt dừng bước, nhìn một cung nữ đang quỳ lạy ở gần nhất. Cung nữ này mặc bộ y phục màu xanh, có thân hình khá thon thả trông rất dịu dàng đáng yêu, khuôn mặt cúi thấp nên không thấy được dung nhan, chỉ có chiếc trâm cài bên tóc mai đang đung đưa.
“Ngươi tên gì?” Y hỏi giọng lạnh nhạt.
Giai La sợ hãi nhưng cũng kịp phản ứng, vội vàng ngẩng đầu lên đáp, “Nô tỳ tên là Giai La.”
Trời đã dần dần sáng rõ, hơn nữa nội thị cũng đã thắp đèn khắp chung quanh. Lưu Triệt động lòng, ngắm nhìn gương mặt khá là xinh đẹp của Giai La rồi buông thõng, “Đi theo trẫm.” Nói xong, y không dừng lại, bước luôn lên ngự liễn.
Giai La lập tức cảm thấy rất nhiều ánh mắt dồn lên người mình, kinh ngạc có, ghen tị có, khinh thường cũng có. Trong lòng cô vui mừng đến mức không tin nổi nhưng vẫn thầm e dè tự hỏi, lo lắng về tương lai, cứ quỳ mãi ở đó không biết phải làm thế nào.
“Giai La cô nương”, Dương Đắc Ý đã đi theo sau ngự liễn thấy thế bèn quay đầu lại cười, giục: “Còn không đi theo ư.”
“Nương nương!” Khi Lục Y vén rèm đi vào thì ngự liễn đã đi xa, cô bồn chồn lo lắng hỏi, “Nương nương vì sao cứ phải chọc giận Hoàng thượng chứ?”
A Kiều mím môi, nhìn ra ngoài cửa sổ. Tuyết đã ngừng rơi, ánh ban mai le lói phía đằng đông hòa với ánh tuyết làm cho không gian sáng hơn so với ngày thường. Nàng định ngồi xuống nhưng lại cảm thấy toàn thân đau nhức, cúi đầu nhìn thì thấy những vết hôn lộ ra ở trên tay, chân, cảm thấy buồn bực, khẽ gắt gỏng, “Mang bồn nước nóng vào đây.”
Lục Y nhìn nàng thật lâu, không dám cãi lời, đành khom người đáp, “Dạ!”
Tại điện Phi Sương, Lý Chỉ sáng ra vừa thức dậy thì đã nghe được những tin tức về cung Trường Môn đêm qua.
“Người thị nữ đó sáng nay đã được Hoàng thượng ban chỉ phong làm tiệp dư rồi. Dương công công đã nói với bên ngoài là Hoàng thượng muốn dẫn cô ta đi Thượng Lâm Uyển chơi mấy ngày”, Văn Tâm ở bên khẽ nói, khuôn mặt loáng thoáng hiện lên vẻ yêu thích lẫn ngưỡng mộ.
“Văn Tâm hâm mộ cô ta sao?”, Lý Chỉ không khỏi liếc mắt nhìn người thị nữ thân tín của mình.
“Nô tỳ không dám”, Văn Tâm phát hoảng cuống quýt quỳ xuống, trông thấy ánh mắt đầy ý tứ của Lý Chỉ thì đánh bất đắc dĩ nói, “Nói về hâm mộ thì có ai ở trong hậu cung là không hâm mộ chứ? Chẳng qua chỉ là một nô tỳ hầu hạ bên cạnh Công chúa Duyệt Trữ thế mà chỉ trong một đêm đã được kề cận mặt rồng, có địa vị giống như chủ nhân rồi.”
“Hoàng thượng rất hào phóng nên không phải là không có cái chuyện một bước lên trời như vậy ở trong cung Vị Ương này.” Lý Chỉ mỉm cười đáp, “Chẳng phải Vệ hoàng hậu năm xưa cũng là một người phu nhân nho nhỏ rồi thăng chức lên sao?”
“Nhưng khi đó Vệ hoàng hậu đã sinh được hoàng tử duy nhất cơ mà”, Văn Tâm ấm ức không phục.
“Nói như người”, Lý Chỉ dừng bước, cân nhắc rồi hỏi, “cũng có lý. Vị tiệp dư mới kia tên là gì?”
“Nghe nói là họ Doãn, tên Giai La. Là người được Trưởng công chúa Quán Đào tiến vào cung năm ngoái để chăm sóc Công chúa Duyệt Trữ.”
“Nam có giai mộc, gọi là đằng la”, Lý Chỉ khe khẽ ngâm nga, “Tên rất hay, chắc cũng phải là một cô gái mà ai trông thấy cũng muốn yêu thì mới có thể vượt mặt Trần hoàng hậu được.”
“Phì”, Văn Tâm bĩu môi, “Nghe nói chẳng qua chỉ ở mức trung bình khá, so với Trần hoàng hậu còn kém xa.” Cô liếc thấy sắc mặt chủ nhân liền vội vàng bổ sung, “Đương nhiên là kém hơn chủ nhân nhiều.”
“Cái con nha đầu này”, Lý Chỉ phì cười.
“Chỉ có Trần hoàng hậu kia mới là khó coi”, Văn Tâm nói vẻ suy tư, “Mới vừa được sủng hạnh thế mà Hoàng thượng lại lấy một nô tỳ sinh ra trong phủ Đường Ấp hầu từ trong cung của baà ta đi theo, khác nào là giáng một cái tát giữa mặt bà ta.”
“Chuyện này cũng thật bất ngờ”, Lý Chỉ cười yếu ớt, ánh mắt hiện lên vẻ không giải thích được, “Trước đây xem thái độ của Hoàng thượng đối với Trần hoàng hậu thì ra cho là Hoàng thượng muốn nâng niu nàng ta trên tay thật lâu, thế mà không ngờ chỉ một đêm đã trở mặt. Văn Tâm”, nàng vội hỏi, “Có ai biết chuyện Trần hoàng hậu được sủng hạnh ở cung Trường Môn đêm qua hay không?”
Văn Tâm xua tay đáp, “Người đi theo Hoàng thượng tới cung Trường Môn vốn đã rất ít, huống chi Hoàng thượng còn đuổi hết mọi người ra ngoài. Nghe nói chỉ có Dương Đắc Ý công công chờ ở ngoài điện, mà Dương công công thì luôn rất kín miệng.”
“Thế thì”, Lý Chỉ xoay người lại, cau mày tạo thành một nếp nhăn nho nhỏ, “sau khi Hoàng thượng rời cung, trong cung tất sẽ dậy sóng.”
“Sao cơ ạ?” Văn Tâm kinh ngạc hỏi lại.
“Ngươi không cần biết.” Lý Chỉ khoát tay, “Chúng ta chỉ cần nhìn cho kỹ mà thôi.”
Nếu Hoàng thượng rời khỏi, Thái hậu thì lại ít khi quan tâm đến cung Vị Ương, như vậy thì quyền uy nhất trong cung Vị Ương rộng lớn này chính là Vệ hoàng hậu. Cho dù Vệ Tử Phu nổi danh là hiền thục ôn hòa cẩn thận và đã ẩn nhẩn lâu như vậy nhưng liệu có dễ dàng bỏ qua một thời cơ hiếm có như thế này không?
Ngày mồng Một của năm Nguyên Thú thứ nhất, Hoàng đế dẫn vị tiệp dư mới được phong đi tới Thượng Lâm Uyển khiến cho không ít người phải kinh ngạc. Nhưng Hoàng thượng từ khi nắm được thực quyền tới nay vẫn luôn chuyên chế độc đoán, không nghe theo ý kiến của ai, cũng may là chấp chính còn khá nghiêm minh quyết đoán khiến mọi người bái phục. Những người hay biết liền suy đoán chuyện cung Trường Môn đêm hôm đó sinh động như thật.
Ngày đầu tiên năm mới, Trưởng công chúa Quán Đào cũng tới cung Trường Môn thăm con gái đã cách biệt khá lâu.
“A Kiều”, bà trông thấy con gái mặc chiếc áo lông dày nặng nề đang ngồi ở trong điện nhàn nhã uống trà xanh thì nheo mắt lại. Mặc dù A Kiều không cố tình nhưng những biến đổi dù nhỏ nhặt trên thân thể nàng làm sao có thể che mắt được người đã nuôi nấng mình.
“Mẫu thân”, Trần A Kiều quay đầu lại, vui vẻ chào hỏi.
“Con”, Lưu Phiếu nghi ngờ hỏi, “và Triệt Nhi rốt cuộc là như thế nào?”
Nụ cười dần tắt trên gương mặt A Kiều, “Mẫu thân cần gì phải hỏi chứ?” Nàng quay mặt đi.
Trưởng công chúa Quán Đào lại cảm thấy đau lòng, cố gượng cười nói, “Con không muốn nói thì mẫu thân cũng không hỏi nữa. Chỉ tiếc là cái con tiện nhân Giai La kia”, bà nói giọng oán hận, “lại không chịu nhớ ân đức phủ Đường Ấp hầu đã chứa chấp cả nhà nó. Nó đã bất nhân thì ta cũng bất nghĩa.”
A Kiều kinh ngạc nhìn mẫu thân, nói, “Thật ra chưa hẳn là Giai La đã nguyện ý như vậy. Mẫu thân bảo cô ấy phải thế nào, chống lại ý chỉ của Hoàng thượng sao?”
“A Kiều”, Lưu Phiếu khá bất ngờ, “Con trước nay vẫn không chịu được cảnh Triệt Nhi dẫn người con gái khác đi ngay dưới mắt mình cơ mà. Con làm sao vậy?”
A Kiều nhẹ nhàng đáp, “Con đã nhận ra, mẫu thân còn chưa nhận được ra sao? Mẫu thân xem, năm xưa con truy cứu Vệ Tử Phu thì đã nhận được kết quả gì. Huống chi là Giai La sẽ không trở thành một Vệ Tử Phu khác được.”
“Chẳng lẽ…”, Lưu Phiếu vẫn oán hận, “Cứ như vậy bỏ qua cho cô ta sao?”
“Nếu không thì mẫu thân nghĩ phải làm như thế nào?” A Kiều rót cho Lưu Phiếu một chén trà, “Muốn tạo ra một Vệ Thanh khác sao?”
Năm đó, nếu không phải Lưu Phiếu hận Vệ Tử Phu mà cho người bắt Vệ Thanh thì Lưu Triệt chưa chắc đã chú ý tới một gã chăn ngựa rồi từ đó đề bạt Vệ Thanh. Trường Bình Hậu đại tướng quân cũng sẽ không có cảnh oai phong như ngày hôm nay. Mặc dù thành công của Vệ Thanh không nhất thiết phải bắt đầu từ chuyện này nhưng không có chuyện xưa thì đâu có ngày nay. Thời thế cũng không tạo dựng nổi một Vệ Thanh, còn A Kiều thì không muốn lặp lại câu chuyện như vậy. Lưu Phiếu kinh ngạc nhìn Trần A Kiều, bỗng nhiên thở dài hỏi, “A Kiều, có phải mẫu thân đã già rồi hay không?”
A Kiều ngạc nhiên, “Làm gì có chuyện như vậy?”
“Mẫu thân nhớ lại mình thời tuổi trẻ, trên được mẫu hậu nương chiều, dưới có Cảnh Đế tôn kính, làm mưa làm gió trong cung Vị Ương. Đối nhân xử thế khôn khéo có thừa, ai thấy Trưởng công chúa Quán Đào cũng phải chịu nhịn, nhưng bây giờ vẫn không sáng suốt bằng con.”
A Kiều an ủi, “Hiện giờ Hoàng thượng vẫn rất tôn trọng mẫu thân đó chứ.”
“Thế nhưng Triệt Nhi vẫn không chấp nhận việc ta can dự triều chính.” Lưu Phiếu tỏ vẻ tiếc nuối, mơn man khuôn mặt A Kiều, thương tiếc, “A Kiều, con bầu bạn ở bên cạnh y cực khổ lắm phải không?”
A Kiều đột nhiên cảm thấy đau xót muốn khóc, liền vội vàng cúi đầu che giấu, “Làm gì có chuyện như vậy? Mà có như thế thì con cũng ứng phó được.”
“A Kiều lúc còn nhỏ rất tùy hứng, không xem xét tình hình, cũng không nhìn sắc mặt người khác mà cứ luôn là theo ý thích của mình, kiêu ngạo quá đỗi.”
“Bây giờ con cũng vẫn tùy hứng như vậy đấy chứ”, A Kiều nháy mắt, “Nếu không, mẫu thân nhìn mà xem, làm sao con lại khiến Hoàng thượng tức giận bỏ đi chứ?”
Lưu Phiếu bật cười, “Nếu hôm nay con vẫn còn có thể tức giận y thì nghĩa là y thật sự vẫn có chút vị trí trong suy nghĩ của con đấy.” Bà trông thấy A Kiều có vẻ giật mình liền trầm giọng, “Thiên hạ này đã là thiên hạ của bọn trẻ các con từ lâu rồi. Mẫu thân không tham gia vào nữa, mẫu thân tin tưởng rằng con có thể ứng phó thật tốt nhưng nếu phải chịu thiệt thòi thì hãy tìm mẫu thân, bất cứ lúc nào cũng được.”
“Dạ.” A Kiều gật đầu, những đau đớn trong lòng cũng được mẫu thân dần khỏa lấp.
“Chỉ tiếc rằng”, Lưu Phiếu thở dài, “thế thì có lợi cho Doãn Giai La quá. Nhưng mà cũng tốt, A Kiều cũng không thể chỉ có toàn kẻ địch ở Vị Ương, mong rằng cô ta sẽ nhớ đến những tình cảm quá khứ mà tương trợ nhiều hơn cho con. Người nhà cô ta còn trong tay chúng ta, cô ta cũng không thể đối xử bất lợi với con.”
“Thật ra thì Giai La cũng là người đáng thương”, A Kiều ngoảnh đầu đi, thở dài, “Mẫu thân, mẹ thấy không, những quý tộc có xuất thân giống như chúng ta hay những người vinh hoa phú quý có thật sự cho rằng nhận được ân sủng của Hoàng thượng là hạnh phúc?”
Nàng quay đầu nhìn về hướng cung Vị Ương, “Cho dù là Vệ Tử Phu, là con, hay là những người ở trong cung Vị Ương cho đến hàng nghìn hàng vạn người con gái khác, ai sẽ được coi là có hạnh phúc thật sự đây?”
Kỳ Môn quân đao thương sáng loáng hộ tống chiếc xe lớn hoa lệ chạy nhanh về hướng Thượng Lâm Uyển. Doãn Giai La ngồi co ro trong xe. Một ngày trước đây, cô còn chưa được ngồi trong một chiếc long xa hoa lệ cao quý như thế này với thân phận là chủ nhân. Long xa được trải thảm thật dày, những thị nữ thuộc về cô dâng lên lò sưởi, sưởi ấm tay chân cho cô. Một nội thị mặc áo xanh vén màn xa, cung kính bẩm, “Tiệp dư nương nương, đã đến Thượng Lâm Uyển.” Gió Bắc lạnh thấu xương lọt qua khe rèm cửa được vén lên khiến cô không khỏi rùng mình một cái, vịn vào tay người thị nữ mà vẫn rét run người. Trong khoảnh khắc, bộ y phục bằng gấm vóc mỏng manh bị gió thổi dán chặt vào da thịt.
Vị đế vương mặc trang phục gấm hoa màu đen cũng vừa bước xuống khỏi long xa, nhìn về phía cô, cười hỏi: “Thế nào rồi? Giai La.”
“Không sao ạ.” Giai La liền tươi tỉnh, nở nụ cười hoàn mỹ đáp lời. Lưu Triệt có phong độ tôn quý khó mô tả nổi, cô nằm mơ cũng không nghĩ rằng có một ngày mình lại được gần gũi thân mật với y đến như vậy. Cô ngước lên nhìn y, ánh mắt chứa đựng ý mê loạn không kìm nén nổi. Hôm nay, bậc đế vương oai hùng kia không chỉ là vua của cô, mà còn là phu quân của cô. Những tình ý một thuở thiếu nữ tràn đến, cô khe khẽ dựa vào người y. Song dù đã gần gũi thân mật, nhưng trong lòng cô vẫn còn còn những âu lo không nói rõ ra được. Một người con gái hèn mọn như cô thì tại sao lại có thể lọt vào mắt bậc đế vương khác hẳn một trời một vực cơ chứ?
Cô tự biết rằng mình không xinh đẹp hơn người. Lúc đầu hầu hạ Công chúa Duyệt Trữ ở Chiêu Dương điện, cô được gặp mặt nhưng khi đó Hoàng thượng cũng không hề chú ý đến cô. Cô suy nghĩ suốt mấy canh giờ trên đường từ cung Vị Ương đến Thượng Lâm Uyển mà vẫn không thể nào tìm ra manh mối.
Lưu Triệt ngoảnh đầu ra lệnh, “Đưa Doãn tiệp dư đến điện Trường Trữ, những Kỳ Môn quân còn lại đi theo trẫm.” Y tung mình cưỡi lên con ngựa do giám mã đưa đến, phi thẳng đi không hề quay đầu nhìn lại nữa.
Giai La thấy ấm ức nhưng không dám để lộ ra, chỉ đi theo người dẫn đường tới điện Trường Trữ. Thượng Lâm Uyển chính là vườn ngự uyển do Lưu Triệt chú tâm xây dựng với những chỗ xa hoa đẹp đẽ không kém cung Vị Ương. Điện Trường Trữ thì tất nhiên là không cần phải nói, cũng rất ấm áp. Cung nữ mang tới cho cô một chiếc áo lông cáo, cho miệng nói, “Nương nương khoác thêm vào đi.”
“Ừ.” Doãn Giai La liền nhận lấy khoác lên người rồi ngồi xuống trước gương ngắm nhìn dung nhan của mình. Rõ ràng là vẫn giống hôm qua nhưng hôm nay được ăn mặc lộng lẫy, cô trở nên kiều diễm gấp mấy lần. Cô thầm vui mừng nhưng nhớ tới dung nhan của Trần A Kiều thì liền thấy nhạt đi.
“Ngươi tên gì?” Cô trông thấy người thị nữ có gương mặt khá là linh lợi bèn hỏi.
Người thị nữ liền quỳ gối bẩm, “Nô tỳ tên là Dao Sinh, là thị nữ của điện Trường Trữ lo về trang phục cho Tiệp dư nương nương trong những ngày tới.”
Doãn Giai La mỉm cười gật đầu nói, “Nếu ngươi tận tâm hầu hạ, ta tất sẽ không bạc đãi.”
Nàng chưa từng nói như vậy trước mặt người khác nên lúc này không khỏi lo lắng rằng nói như vậy có đủ hay không. Cũng may là Dao Sinh làm như không biết lai lịch của nàng, cung kính khom người đáp, “Dạ!” Giai La nhất thời không che giấu nổi, cười thầm, phảng phất cứ như thật sự là một tiệp dư nương nương có nền tảng gia đình hùng hậu. Đêm rất muộn Lưu Triệt mới trở về. Giai La ở trong điện Trường Trữ nghe tiếng Hoàng thượng xuống ngựa, tiếng Dương công công căn dặn mọi người từ đằng xa cho tới khi đến gần. Khi tiếng giày của bậc đế vương bước lộp cộp ở trên hành lang Thượng Lâm Uyển thì Giai La lại thấy luống cuống chân tay, vội vàng đứng dậy chờ Lưu Triệt vào trong điện thì nhún mình bái chào, “Thần thiếp tham kiến Hoàng thượng.”
Dưới ánh nến, nghe tiếng Lưu Triệt trả lời nhàn nhạt tựa hồ có điều không vui, cô thấp thỏm ngẩng đầu nhìn lên, áo lông cáo trên vai tuột xuống, lọt vào trong đôi mắt đen nhánh sắc sảo của Lưu Triệt.
“Giai La!” Lưu Triệt cúi xuống ôm lấy, Giai La dịu dàng ngoan ngoãn khép hàng mi.
Đêm ở Thượng Lâm Uyển cũng sâu thẳm và lạnh lẽo giống như cung Vị Ương.Quyển 2 - Chương 41: Hồng hạnh đầu cành thắm ý xuânHoàng thượng tới Thượng Lâm Uyển chưa được mấy ngày thì Thái hậu lại tái phát bệnh cũ, đầu càng lúc càng đau, nghiêm trọng đến mức không còn nhìn thấy gì cả. Không có Hoàng thượng, người làm chủ trong cung Vị Ương là Hoàng hậu Vệ Tử Phu vội vàng rời điện Tiêu Phòng để hầu hạ bên giường bệnh Vương thái hậu, một mắt truyền các thái y vào hội chẩn, một mắt phái người phi ngựa bẩm báo Hoàng thượng ở Thượng Lâm Uyển. Lưu Triệt nghe tin thì rất ngạc nhiên nhưng vẫn sắp xếp, “Mời Tiêu Phương tiên sinh của Tử Dạ y quán vào cung chữa bệnh cho Thái hậu.” Dương Đắc Ý cho là Hoàng đế nghĩ tới mẫu thân thì chắc sẽ lên đường hồi cung song Lưu Triệt vẫn hàng ngày dẫn mọi người đi săn thú như cũ, ngoài mặt cũng không tỏ vẻ gì là quá lo lắng, không biết là do tin tưởng vào y thuật của Tiêu Phương hay đang nghĩ gì trong lòng.
“Tiêu tiên sinh.” Vệ Tử Phu cùng với Tiêu Phương đi vào cung Trường Nhạc, nhẹ giọng hỏi, “Bệnh của Thái hậu nhờ vậy vào tiên sinh.”
Tiêu Phương đón lấy hòm thước từ tay Lộng Triều rồi quay đầu, ánh mắt bình thản, điềm đạm đáp lời, “Tiêu Phương nhất định sẽ cố gắng hết sức.” Nội thị tiến lên kéo màn che để lộ ra dung nhan hơi tiều tụy của Vương thái hậu.
“Tiêu tiên sinh”, Đan Dương hầu phu nhân Kim Nga ở một bên dò hỏi, “Sức khỏe của Thái hậu nương nương thế nào?”
Tiêu Phương chẩn mạch xong quay sang hỏi nội thị bên cạnh, “Nương nương vẫn dùng phương thuốc ta kê lần trước đúng thời hạn chứ?”
“Vẫn luôn dùng đúng hạn.” Minh Đạt khẽ khom người, “Vốn vẫn tốt nhưng mấy ngày qua đột nhiên bệnh chuyển xấu.”
Tiêu Phương mở hòm thuốc, “Thảo dân lại châm cứu thêm một lần nữa cho Thái hậu nương nương.”
Vương thái hậu gật đầu, “Làm tiên sinh vất vả rồi.”
Tiêu Phương bày một dãy ngân châm[1] trên tấm vải trắng, dùng lửa hơ qua rồi nhẹ nhàng cắm vào huyệt đạo của Vương thái hậu, sau nửa canh giờ mới rút ra.
[1] Ngân châm: Kim bạc.
“Thái hậu nương nương cảm thấy thế nào?” Hắn thu châm, khẽ hỏi.
Vương thái hậu từ từ mở mắt, “Đỡ hơn nhiều rồi.”
Mọi người trong cung đều thở phào nhẹ nhõm. “Y thuật của Tiêu tiên sinh thật cao minh”, Vệ Tử Phu tán thưởng, “Từ Cứ Nhi cho tới Thái hậu nương nương bây giờ đều nhờ ơn của Tiêu tiên sinh. Tiên sinh không muốn ở lại Ngự y thự, thật sự đáng tiếc.”
Tiêu Phương đứng dậy, cúi đầu, “Hoàng hậu nương nương khen quá lời, Tiêu Phương thực không dám nhận.” Gương mặt hắn trắng trẻo, hồng hào như ngọc khiến ngay cả Vệ Tử Phu cũng không thể không thầm khen một câu là nhân vật tuyệt đại.
“Thảo dân viết thêm cho Thái hậu nương nương một phương thuốc, dùng xong chắc sẽ ổn.”
Nội thị dâng lên giấy mực, Tiêu Phương nhận lấy, hơi suy nghĩ rồi viết ra. Minh Đạt nhận đơn thuốc, cung kính nói, “Đa tạ Tiêu tiên sinh.”
Tiêu Phương khẽ khom người lui về sau một bước, quỳ lạy, “Thảo dân cáo lui”, rồi dẫn Lộng Triều đi ra khỏi cửa.
Đi trong hành lang của cung Trường Nhạc, nội thị áo xanh dẫn đường phía trước mỉm cười quay đầu lại nói, “Ngày trước Tiêu tiên sinh từng đảm nhiệm chức vị trong Ngự y thự, chẳng hay có muốn gặp ai không?”
Tiêu Phương ngần ngừ đáp, “Cũng không muốn… Hơn nữa, việc này không hợp cung quy thì phải?”
“Những người khác dĩ nhiên là không hợp cung quy.” Nội thị gật đầu, “Nhưng Tiêu tiên sinh đã trị lành bệnh cho Thái hậu nương nương, là đại phu của Nhị điện hạ, còn là sư phụ của Trần nương nương, Dương công công tất sẽ không trách tội.”
Tiêu Phương liền động lòng. Sau khi rời khỏi Ngự y thự thì chỉ nghe được những tin tức lõm bõm về A Kiều, nhớ tới những loại huân hương mà A Kiều phối chế, lòng lưỡng lự rồi khẽ gật đầu, “Đã như vậy thì xin phiền công công.”
Ngự y thự nằm ở phía đông cung Vị Ương. Khi còn đảm nhiệm chức vụ cung đình ở Ngự y thự, Tiêu Phương sống khá khép mình, không giao thiệp nhiều với ai. Những thái y khác của Ngự y thự e dè thân phận của hắn nên cũng không làm khó. Hắn đứng đợi trong các một hồi rồi nói vẻ thất vọng, “Đi thôi!”
Nội thị hỏi lại, “Tiêu tiên sinh không có chuyện gì khác thật sao?”
Lộng Triều theo phía sau, nghiêng đầu nhìn thật lâu, đột nhiên lên tiếng, “Nhạn Thanh tỷ tỷ dạo này thế nào?”
Mọi người lặng ngắt, biết người mà thiếu niên này hỏi chính là Trần nương nương. Quan thái y nói lảng sang chuyện khác, “Những chuyện khác chúng tôi không biết, nhưng chắc là Trần nương nương vẫn khỏe mạnh bình an. Sau khi Tiêu tiên sinh đi rồi người cũng có mấy lần lấy thêm huân hương, đều cùng một loại dược liệu giống nhau. À, đúng rồi, vài ngày trước người có nói là hiệu quả kém đi nên thêm vào một vị Phụ tử.”
Tiêu Phương gõ vào trán Lộng Triều, “Đừng làm người khác khó xử, đi thôi!” Hắn bước ra khỏi y quan nhưng trong lòng vẫn còn hoài nghi, Phụ tử là vị thuốc không giúp được gì cho công hiệu của Dưỡng thần hương, A Kiều muốn nó để làm gì. Hắn nhớ lại thành phần dược liệu của Dưỡng Thần hương, bước chân đột nhiên chững lại.
“Tiêu tiên sinh!” Nội thị quay đầu lại, hỏi, “Có chuyện gì vậy?”
Hắn trầm mặc hồi lâu rồi lắc đầu đi tiếp.
Ra khỏi Ngự y thự là đã gần đến cửa Tư Mã môn để xuất cung ở phía đông. Nhìn qua tường của hoàng cung là có thể cung Trường Môn thấp thoáng dưới rặng trúc xanh phía xa. Phụ tử là một vị thuốc, mặc dù tên là Phụ tử nhưng khi phối hợp vừa đủ với Phòng phong, Đỗ hành, Tửu liên, Bạch phục linh, Cam thảo sẽ thành một phương thuốc điều hòa kinh nguyệt rất ôn hòa. Nam nữ sau khi ân ái với nhau, nếu người con gái không muốn có thai thì phải uống trong vòng mười canh giờ, tổn thương với thân thể rất nhỏ. Trong phương thuốc thời xưa có ghi lại nhưng hiện giờ rất ít người am hiểu. Năm đó khi A Kiều bái làm môn hạ của hắn thì hắn đã từng giảng cho nàng nghe khi ở Đường Cổ Lạp Sơn.
Tiêu Phương dừng bước ngoài cung Vị Ương, quay đầu nhìn về hướng cung Trường Môn.
“Tiêu ca ca”, Lộng Triều quay sang nhìn hắn, cặp mắt đen lay láy ánh lên vẻ tò mò, “Huynh đang nhìn cái gì thế?”
“Không có gì.” Tiêu Phương lắc đầu, quay người lại tiếp tục bước về phía trước.
A Kiều hiện giờ đang làm những việc gì ở trong tòa cung điện đó? Mới bắt đầu vào năm mới mà Hoàng đế lại bất ngờ đi đến Thượng Lâm Uyển, chẳng lẽ trong chuyện này có biến cố gì đó sao. Trên miệng Tiêu Phương thoáng hiện nụ cười giễu cợt, A Kiều dồn hết tâm tư chế ra Dưỡng Thần hương nhưng cuối cùng vẫn không có tác dụng.
Điều trị như vậy qua nửa tháng, bệnh tình Thái hậu dần chuyển biến tốt đẹp. Cũng sắp tới tết Nguyên Tiêu. Hôm ấy, sau giờ Ngọ, Vương thái hậu vừa tỉnh dậy thì cảm giác hơi choáng váng, Đan Dương hầu phu nhân đến thỉnh an liền lo lắng, “Hay lại mời Tiêu tiên sinh đến xem sao.”
“Cũng chỉ dùng ít thuốc là khỏe thôi”, Vương thái hậu xưa tay, “Không cần phiền toái Tiêu tiên sinh nữa đâu.”
“Nhưng sức khỏe của Thái hậu mới quan trọng.” Vệ Tử Phu khéo léo đỡ lời, “Nếu sức khỏa Thái hậu có tổn hại, Hoàng thượng tất sẽ lo lắng.”
Vương thái hậu nghe vậy chỉ cười cười không phản đối nữa.
Vệ Tử Phu dìu Vương thái hậu từ trong cung Trường Nhạc đi ra ngoài, thấy trong cung đâu đâu cũng là cảnh tượng hân hoan, mỗi điện đều được cung nữ treo đèn rực rỡ, khắp chốn mừng vui.
“Đáng tiếc Triệt Nhi chưa trở về.” Vương thái hậu thở dài, “Cung đình mà không có Hoàng đế thì không hoàn toàn là cung đình nữa.”
“Hoàng thượng mặc dù không thể cần kề bên gối Thái hậu nhưng vào một ngày như hôm nay thì nhất định rất nhớ tới Thái hậu nương nương”, Vệ Tử Phu an ủi.
“Hoàng tổ mẫu”, Vệ Trường công chúa Lưu Phỉ dắt tay Nhị hoàng tử Lưu Cứ từ đầu hành lang đi tới, “Tôn nhi chúc hoàng tổ mẫu thân thể an khang, tết Nguyên Tiêu vui vẻ.”
“Được tồi.” Vương thái hậu đáp, nụ cười trên mặt vẻ chân thành, “Cứ Nhi”, bà cầm tay đứa cháu trai, âu yếm hỏi, “Gần đây Cứ Nhi học sách gì?”
Lưu Cứ ngoan ngoãn sà vào lòng Vương thái hậu, “Thạch tiên sinh đã giảng đến Trang Tử rồi ạ.”
“Trang tử rất hay. Cứ Nhi phải học cho tốt nhưng nhớ không để được cảm lạnh nữa đấy.”
“Cháu nhớ lời dạy bảo của hoàng tổ mẫu.”
Vương thái hậu vỗ vỗ tay Lưu Cứ, “Đáng tiếc A Kiều không chịu mang Mạch Nhi tới đây, ai gia cũng nhiều ngày không gặp Mạch Nhi rồi.”
Nụ cười của Vệ Tử Phu hơi sượng lại nhưng vẫn dịu dàng nói, “Nếu mẫu hậu nhớ tới Hoàng tử trưởng thì có thể sai người đến cung Trường Môn bảo Hoàng tử trưởng tới. Thiên hạ này đâu có cái lý gì không để cho tổ mẫu gặp cháu chứ?”
Vương thái hậu không khỏi bất ngờ liếc nhìn Vệ Tử Phu một cái, nhưng chỉ thấy nụ cười rạng rỡ của nàng ta, không nhìn ra ý gì.
“Cũng có lý”, Vương thái hậu trầm ngâm nói, “Minh Đạt, lệnh xuống bảo mời Hoàng tử Mạch và Công chúa Duyệt Trữ tới cung Trường Nhạc. Phái người khôn khéo một chút, đừng chọc cho A Kiều mất hứng.”
“Dạ!” Minh Đạt đáp.
Vương thái hậu đang nói chuyện với mấy phi tần khác thì Minh Đạt tiến lên bẩm báo, “Hoàng tử Mạch và Công chúa Duyệt Trữ đến rồi.”
Quả nhiên hai đứa trẻ xinh đẹp như ngọc tiến vào trong cung, cùng quỳ xuống lạy, “Tham kiến Hoàng thái hậu.”
“Bà nội!” Lưu Sơ nhào tới vào lòng Vương thái hậu, hỏi giọng nũng nịu: “Bà nội có nhớ Sơ Nhi không?”
“Nhớ”, Vương thái hậu âu yếm gí mũi cô bé, “Mẫu thân của cháu không chịu tới đây sao?”
Không ngờ Lưu Sơ lắc đầu, “Mẫu thân không có ở trong cung Trường Môn.”
Vương thái hậu ngạc nhiên, “Mẫu thân của cháu đâu?”
“Cháu không biết, xế chiều có cung nhân tới cung Trường Môn bẩm báo điều gì đó, mẫu thân liền đi ra ngoài.”
Minh Đạt vẻ mặt kỳ quái đi vào, khẽ bẩm bên tai Thái hậu, “Trong điện Cố Soạn của cung Trường Nhạc hình như có người.”
Vương thái hậu giật mình, từ sau khi Đậu hoàng hậu qua đời thì điện Cố Soạn đã bỏ trống, sao hôm nay lại có người ở trong đó? “Ngươi dẫn người đi xem”, Vương thái hậu trầm mặt, “Trong hậu cung của Đại Hán ta tuyệt đối không để xảy ra chuyện cẩu thả.”
Trong cung Trường Nhạc, Vệ Tử Phu nắm chặt tay. Trần A Kiều, ngươi đừng trách ta, mỗi tấc trong chốn hậu cung này đều là chỗ nguy hiểm. Vinh, sủng, lên, xuống, sinh tử vô thường. Mà ta, vốn không phải là người khiêm cung nhẫn nhịn!
Năm đó, ta hăng hái đánh một trận, kéo người xuống khỏi vị trí hoàng hậu, hôm nay sao có thể trơ mắt nhìn ngươi ép tới từng bước? Cho dù là người phụ nữ có thân thế hiển hách nhất của Đại Hán cũng không bảo vệ được người thân là phi tần nhưng lại có tội danh tư thông với người khác.
Năm đó, khi ta còn là một phu nhân nhỏ nhoi trong cung Vị Ương, ngươi từng bước ép sát, mấy lần đẩy ta vào chỗ chết. Hôm nay, đến phiên ta hồi báo ngươi. Lần này sẽ không còn ai che chở được cho người, ngay cả là Hoàng thượng. Cung Vị Ương như điện Tu La, từng bước tử sinh. Đạo lý này chính do ngươi là người đầu tiên dạy ta.
“Hoàng hậu nương nương!” Vệ Tử Phu nhớ lại vẻ mặt lo lắng của Vệ Thiếu Nhi, “Kế hoạch nếu thành, Trần A Kiều cố nhiên vạn kiếp bất phục. Nhưng nếu lộ ra ngoài thì sao?”
Khi đó, nàng ta gạt gạt hoa đèn, lạnh lẽo nói, “Năm đó, nếu lộ chuyện, ta cũng vạn kiếp không thể vãn hồi. Nhưng rốt cuộc ta đã vượt qua. Không dám mạo hiểm thì làm sao có thể thành công đứng vững ở cung Vị Ương này được chứ?”
Trong điện Cố Soạn, Minh Đạt đẩy cửa ra, Dưới ánh lửa, một người con gái quay đầu lại, y phục may từ gấm trắng toát lên vẻ hoa lệ tinh tế, mắt mày như vẽ, cao quý đoan trang tựa như phượng hoàng trong lửa, cực kỳ quen thuộc.
“Trần nương nương”, Minh Đạt lưỡng lự, “Sao lại là người?”
Vương thái hậu thấy hậu cung xảy ra biến cố như thế thì sầm mặt xuống, đuổi hết mọi người về rồi mới xử lý.
“Tử Phu”, Vương thái hậu gọi lại, sắc mặt mệt mỏi, “Trường Bình hầu dù sao cũng là đệ đệ của con, con bảo ở lại cùng nghe.”
Vệ Tử Phu hơi run rẩy, khuôn mặt tái nhợt, gắng gượng đáp, “Dạ.”
Vương thái hậu liền vịn vào tay Minh Đạt đi về hậu điện, mặt trầm như nước, “Vệ tướng quân, Trường Bình hầu, ai gia muốn biết tại sao đúng ngày tết Nguyên Tiêu mà người không ở Hầu phủ lại vào cung Trường Nhạc của ai gia?”
Vệ Thanh quỳ gối dưới điện, im lặng một lúc lâu, đưa mắt liếc nhìn Vệ Tử Phu đứng phía sau Vương thái hậu một cái rồi mới bất đắc dĩ bẩm, “Tối nay có người tới phủ của thần nói rằng Hoàng hậu nương nương có việc cần gặp, thần lo lằng cho Hoàng hậu nương nương nên mới…”
“Tử Phu chưa từng”, Vệ Tử Phu mở miệng nói một câu hàm hồ.
“Như vậy thì có người giở trò ư?” Vương thái hậu hừ lạnh, hỏi tiếp, “Ai là người truyền chiếu?”
“Là người hầu của gia tỷ Thiếu Nhi.”
Hắn biết rằng Vệ Tử Phu muốn động thủ với Trần hoàng hậu trong khoảng mấy ngày này nên vốn rất lo lắng, lại nghe người kia nói rằng tình hình có biến, nương nương cho đòi gấp nên mới không hoài nghi mảy may mà cứ thể lẻn vào cung.
“Vốn là mọi chuyện đều tốt, Tiêu Phương đã vào cung Trường Nhạc nhưng không ngờ Trần hoàng hậu thực sự là một người có tính tình cao ngạo, ngay cả Thái hậu truyền cho đòi cũng không chịu đến. Hoàng hậu nương nương và Thiếu chưởng sứ phu nhân không giải quyết được nên mới cho gọi Hầu gia đến thương lượng.” Hắn nhớ rằng người đó đã nói như vậy nên xóa hết dấu vết rồi lập tức hành động. Vệ Tử Phu thở dài, lần này mặc dù coi là suy nghĩ đã chu toàn nhưng lại không ngờ được biến cố như vậy. Việc đã làm thì tất có dấu vết, lần này không thành công, chỉ cần có người nghĩ một chút sẽ nhận ra có điều không minh bạch.
Cung Trường Nhạc giăng đèn kết hoa trong ngày tết Nguyên Tiêu, chỉ có một ngôi điện trống là vắng vẻ yên tĩnh không có lấy một bóng người. Trần A Kiều không chịu đi nên Vệ Tử Phu đã hẹn hắn tới gặp mặt ở chỗ này. Ánh trăng sáng tỏ, hắn nhẹ nhàng đẩy cửa sổ ra, gọi khẽ: “Tam tỷ.”
Trong điện quả nhiên có bóng dáng một người con gái mặc đồ trắng. Người đó quay đầu lại nhưng ánh sáng trong điện nhạt nhòa nên không trông thấy rõ mặt. Vệ Thanh chợt giật mình, “Ngươi không phải là Hoàng hậu nương nương.”
Người con gái ngồi ở trên ghế trong bóng tối cười lanh lảnh, “Trường Bình hầu quả nhiên là cảnh giác.” “Xòe” một tiếng, ngọn đèn ở trên tay được thắp lên tỏa ánh sáng yếu ớt nhưng cũng soi rõ khuôn mặt nàng, khí chất cao quý, thanh tú vô song.
“Ngươi… Trần nương nương?”
Vệ Thanh nhận ra gương mặt này. Bao nhiêu năm đã qua mà người con gái này vẫn có nét mặt giống hệt như năm xưa khi còn ngồi trên long xa hoa lệ đi qua cung Kiến Chương, xinh đẹp đến mức ngay cả hoa mẫu đơn cũng phải tự ti mặc cảm. Dường như là năm tháng không lưu lại một chút dấu tích gì ở trên người nàng. Khi đó, Trần hoàng hậu vén tấm rèm che trên long xa lên và nhìn về phía hắn bằng ánh mắt khinh thường, chậm rãi nói với dáng điệu cao quý như từ tầng mây nhìn xuống: “Ngươi chính là Vệ Thanh?” Hắn quỳ dưới đất, chỉ có thể trông thấy đôi hài mũi vểnh cao đắt tiền tinh xảo mà hắn cả đời chưa từng thấy dưới chân. Hắn len lén nhìn dung nhan của nàng, mặc dù chưa chắc đã xinh đẹp hơn tỷ tỷ Vệ Tử Phu nhưng vẻ kiêu căng ngạo mạn thì đúng là kinh người.
Người con gái như vậy thì chỉ có thể đứng xa tôn kính chứ làm sao có thể chung đụng lâu dài. Lúc đó hắn đã nghĩ rằng khó tránh là Hoàng thượng dần dần không chịu được cảnh phải đối mặt với nàng. Về sau thì rốt cục đã phế hậu. Hắn liền nghĩ rằng tốt rồi, thời kỳ Kim ốc tàng Kiều đã thành quá khứ, người con gái đó sẽ không bao giờ xuất hiện ở trước mặt Vệ gia bọn họ nữa. Nhiều năm trôi qua, ngay cả Vệ Tử Phu cũng đã dần dần già đi nhưng nàng lại tựa lội ngược dòng nước trở về, những nét kiêu ngạo đã được tẩy đi, ánh mắt trong sáng hơn cả năm xưa.
Vào khoảnh khắc như điện giăng chớp giật đó, trong đầu Vệ Thanh hiện lên rất nhiều ý niệm mà điều quan trọng nhất là hắn biết mình gặp chuyện không hay rồi. Hắn vội vàng định lui ra thì đã nghe tiếng Trần A Kiều vỗ tay, “Trường Bình hầu đã tiến vào mà chẳng lẽ vẫn còn có ý muốn toàn thân lui ra ư?”
“Vệ Thanh, người coi hoàng cung Đại Hán là phủ Trường Bình hầu của ngươi sao?”, Vương thái hậu hỏi giọng lạnh lẽo.
“Thần… không dám.”
“Kỳ Môn quân”, bà nhắm mắt lại rồi ra lệnh, “Áp tải Trường Bình hầu xuống đợi Hoàng thượng về cung sẽ giải quyết sau.”
Lập tức có Kỳ Môn quân bước lên điện, “Vệ tướng quân, xin mời.”
Vệ Thanh bất đắc dĩ đứng lên, nhìn trấn an Vệ Tử Phu rồi đi theo người áp giải ra ngoài.
“Thái hậu nương nương”, Minh Đạt nhìn Vương thái hậu vẻ lo lắng, “Chắc nương nương mệt mỏi lắm rồi?”
“Không có gì đáng ngại.” Vương thái hậu khẽ xua tay, nghe tiếng nội thị bên ngoài điện bẩm báo: “Tiêu Phương cầu kiến Thái hậu nương nương”, bà thản nhiên bảo, “Tuyên hắn vào đi.”
“Tại sao Tiêu tiên sinh mãi tới bây giờ mới đến?”
Tiêu Phương hành lễ xong rồi thì bình thản đáp, “Thật ra thì thảo dân đã vào cung lâu rồi nhưng chẳng biết tại sao bỗng nhiên không thấy tung tích viên nội thị dẫn đường cho thảo dân đâu nữa, thế cho nên mới tới trễ.”
“Vậy sao?” Vương thái hậu không khỏi liếc mắt nhìn Vệ Tử Phu.
“Thái hậu nương nương không phải lo ngại nữa”, Tiêu Phương chẩn mạch rồi cười nói.
“Như vậy thì xin đa tạ Tiêu tiên sinh”, Vương thái hậu rút tay về, “Ai gia hơi mệt một chút.”
“Đã như vậy thì”, Tiêu Phương đáp, “thảo dân xin cáo lui.”
“Cũng được. Minh Đạt, ngươi gọi thêm người rồi đích thân đưa Tiêu tiên sinh ra khỏi cung. Hoàng hậu bận rộn cả ngày cũng mệt mỏi rồi, cũng lui ra đi. Trong những ngày này tuyệt đối không được rời khỏi điện Tiêu Phòng.”
Việc đã đến nước này, Vệ Tử Phu ngược lại, trở nên bình tĩnh, “Thần thiếp tuân lệnh.”
Minh Đạt liền khom nười dìu Vương thái hậu đứng dậy, hỏi, “Thái hậu nương nương về tẩm điện nghỉ ngơi nhé?”
“Không”, Vương thái hậu xua tay, “Ai gia đi thăm A Kiều.”Quyển 2 - Chương 42: Cung đàn vừa phất, tiếng còn ngânKhi Vương thái hậu tới nơi thì thấy Trần A Kiều đang ngồi trên điện âu yếm nhìn Lưu Mạch và Lưu Sơ chơi đùa chòng ghẹo nhau chí chóe ở bên cạnh.
“Xét theo tình hình hiện nay thì A Kiều lại hơi ung dung vui vẻ quá đấy”, Vương thái hậu vừa lên tiếng vừa đi vào.
“Nếu không thế thì phải thế nào chứ?” A Kiều ra vẻ bất đắc dĩ, “A Kiều phải quỳ xuống khóc lóc với Thái hậu nương nương là A Kiều bị oan uổng sao?”
“Nếu thế thì đã không phải là Trần A Kiều nữa.” Vương thái hậu ngồi xuống, quay sang cung nhân, “Đưa Hoàng tử trưởng cùng công chúa Duyệt Trữ về cung Trường Môn.”
“Dạ!” Cung nhân đáp.
“Mẫu thân!” Lưu Sơ lo lắng nhìn A Kiều. A Kiều bước đến trước mặt cô bé vỗ về, “Không có chuyện gì đâu, một lát nữa mẫu thân sẽ về với con và ca ca.”
Vương thái hậu bật cười, A Kiều, dường như con rất tự tin, chuyện này có thể dễ dàng cho qua như vậy được sao?
“A Kiều, nói cho ai gia biết tại sao con lại tới điện Cố Soạn trong cung Trường Nhạc của ai gia?”
“Hồi đêm hôm qua có nội thị của cung Trường Nhạc tới cung Trường Môn nói rằng Thái hậu nương nương tuyên triệu A Kiều nên A Kiều liền theo tới đó”, A Kiều đứng dậy đáp lời, đôi mắt chớp chớp đầy vẻ vô tội.
“Hừ”, Vương thái hậu nổi giận, “Thật quá to gan, dám mạo nhận cả tên ai gia. A Kiều còn nhận ra được tên nội thị đó không?”
Trần A Kiều nghiêng đầu suy nghĩ một chút rồi lắc đầu, “Chưa chắc đã nhận ra được.”
Đến giờ thì đã có thể thấy rõ ràng những ẩn khuất trong chuyện này rồi nhưng vấn đề là tại sao Trường Bình hầu Vệ Thanh lại xuất hiện ở điện Cố Soạn chứ? Chỉ có một cách giải thích chính là có một bàn tay nào đó đứng sau giật dây, mà người đó có phải là A Kiều không? Vương thái hậu suy nghĩ thật kỹ lưỡng rồi nhìn xoáy vào A Kiều, “A Kiều, trước giờ con không nhận ra một chút manh mối nào về chuyện hôm nay sao?”
“Thái hậu nói như vậy là có ý gì đây?” A Kiều liền ấm ức hỏi lại, “Nếu như A Kiều biết sơ qua một chút thôi thì tại sao còn xuất hiện ở điện Cố Soạn?”
Cách giải thích này cũng có vẻ hợp lý. Khi ân sủng, Hoàng thượng đối với Vệ Tử Phu ngày càng nhạt đi, muốn đối phó Vệ Thanh thì việc bắt hắn ở điện Cố Soạn kết hợp với những chứng cứ này cũng là quá đủ rồi. Vệ Thanh quyền cao chức trọng, Hoàng thượng phải lệ thuộc vào hắn nhưng cũng nghi kỵ hắn. Bắt được lỗi như thế này là có cơ sở để cho hắn ngồi rảnh rỗi một thời gian. A Kiều thì dù sao cũng là phi tần. Mặc dù trong lòng mọi người đều hiểu rõ rằng Trần A Kiều quyết không gian díu với người của Vệ gia nhưng nói thế nào việc cô nam quả nữ ở chung một chỗ trong điện cũng làm tổn hại danh tiết. Đó là việc tối kỵ đối với các phi tần trong hậu cung. A Kiều sẽ không tự đưa thân mình nhảy vào lửa. Nếu thế thì ở trong cung Vị Ương lại có người tài năng đến như vậy, một hòn đá hạ hai con chim, một công đôi việc, vừa gây tổn hại cho hai nhà Trần, Vệ mà vừa không để lại dấu vết sao?
Vương thái hậu suy nghĩ như vậy nhưng nét mặt vẫn sa sầm, “A Kiều, mặc dù quá nửa là con bị người khác mưu hại nhưng dù sao việc con bị bắt gặp ở với Vệ Thanh trong cùng một đêm vẫn là sự thật, ai gia lệnh cho con cũng giống như Vệ hoàng hậu bị quản chế trong cung Trường Môn đợi Hoàng thượng trở về xử lý, con có phục hay không.”
Trần A Kiều lập tức rưng rưng nước mắt, bướng bỉnh ngoảnh đầu đi, run giọng đáp, “A Kiều tuân lệnh!”
Ánh mắt của nàng thật sự khiến cho người thương xót. Vương thái hậu trông thấy cũng không thể nhẫn tâm, dịu dàng khuyên nhủ, “Hoàng thượng anh minh, nhất định sẽ không làm khó con.”
Trần A Kiều khẽ vâng dạ một tiếng rồi cúi đầu nói, “Nếu như thế thì A Kiều xin cáo lui trước.”
Thượng Lâm Uyển.
Doãn tiệp dư hầu hạ mười mấy ngày, vẻ mặt càng lúc càng tươi tắn yêu kiều. Thượng Lâm Uyển cách biệt hẳn với cung Vị Ương nên tạm thời không bị những sóng gió kia làm liên lụy. Cô uể oải đứng dậy để cho Dao Sinh hầu hạ trang điểm, thầm thở dài, thật lòng nguyện ước được cùng Hoàng thượng vĩnh viễn sống ở Thượng Lâm Uyển không bao giờ trở về cung Vị Ương nữa.
“Nương nương”, nội thị Thượng Viêm vội vã chạy tới điện Trường Trữ bẩm báo, “Hoàng thượng có ý chỉ là lập tức trở về Trường An. Xin Tiệp dư nương nương hãy chuẩn bị đi.”
Giai La giật mình kinh hãi, vội vàng quay đầu lại khiến mái tóc đen xõa xuống. Dao Sinh lập tức quỳ xuống, dập đầu nói, “Nô tỳ đáng chết.” Doãn Giai La chẳng hề quan tâm, chỉ hỏi, “Đang yên lành thế tại sao bỗng nhiên lại phải về Trường An chứ?”
“Nô tài cũng không rõ”, Thượng Viêm liền đáp, “Sáng nay có tin tức gì đó từ Trường An đưa tới, Hoàng thượng xem xong thì liền sầm sắc mặt, nghiến răng ra lệnh lập tức trở về Trường An, trông có vẻ còn vội vàng hơn cả lúc trước khi đi Thượng Lâm Uyển.”
Tâm trí Giai La dần dần trở nên nặng nề, giấc mơ vừa rồi đẹp như vậy mà ngay lập tức bị thực tế trước mắt phá nát tan tành. Cung Vị Ương kia có biết bao nhiêu là phi tần xinh đẹp mỹ miều, Hoàng thượng trở về đó thì có còn nhớ đến mình nữa sao? Cô như người mất hồn ra lệnh, “Thu dọn đồ đạc đi!”
Vị đế vương tuyệt tình chẳng buồn liếc nhìn cô lấy một cái, bước thẳng lên xe ngự. “Nương nương”, thị nữ trấn an, “Mấy ngày vừa qua Hoàng thượng đã sủng ái nương nương như vậy, trở về cung Vị Ương cũng tốt.”
Doãn Giai La cười yếu ớt. Sủng ái, thế nào thì mới được coi là sủng ái? Trong lòng cô vẫn tràn đầy nghi hoặc, nếu như Hoàng thượng thật sự sủng ái thì tại sao mỗi lần mình hầu hạ đều không thấy ánh mắt sắc bén lạnh như băng của bậc đế vương có chút nào tan chảy?
Vị Hoàng đế đã có lệnh nên chuyến trở về Trường An còn gấp gáp hơn cả khi đến Thượng Lâm Uyển, xe ngựa chạy rầm rập, thoáng cái đã tới đầu đường phố Trường An.
Doãn Giai La vén rèm lên, trông thấy chiếc xe ngự phía trước rẽ ngoặt đi, không vào cửa Tư Mã môn ở phía bắc mà đi đường vòng.
“Hoàng thượng định đi đâu thế?”
Viên giáo úy thừa lệnh hộ tống cô về cung giục ngựa tới bên cạnh xe, cung kính bẩm, “Hoàng thượng căn dặn là tạm thời không vào cung Vị Ương mà đến Trường Môn. Xin mời Tiệp dư nương nương về cung trước.”
Một trận gió Bắc thổi qua trước cửa Tư Mã môn khiến Doãn Giai La tức thì cảm thấy không giữ nổi tấm rèm cửa, đành trơ mắt nhìn nó buông rơi xuống. Chiếc xe ngự hoa lệ biến mất ngay trước mắt, thì ra người duy nhất mà Hoàng đế nhớ nhung trong lòng chính là Trần nương nương.
Trước cung Trường Môn.
Dương Đắc Ý vừa đỡ Lưu Triệt xuống xe thì thấy từ Kỳ Môn quân cho tới bảo vệ theo lệnh của Thái hậu, nhất loạt chống đao quỳ xuống hô vang, “Tham kiến Hoàng thượng!”
Lưu Triệt chắp tay đứng trước bậc thềm cung Trường Môn không đi tiếp. Dương Đắc Ý cảm thấy hơi kỳ lạ nhưng vẫn giữ đúng tôn ti không dám mở miệng. Lát sau Lưu Triệt than nhẹ một tiếng rồi cất bước tiến vào trong. Vừa tới ngoài điện Bát Nhã, đã ngửi thấy một làn hương quen thuộc, lại nghe cả tiếng đàn tỳ bà đinh đinh đang đang. Các cung nhân trong điện quỳ xuống làm đại lễ, loáng thoáng có vài khuôn mặt xa lạ, không hoàn toàn là người cũ của cung Trường Môn. Bên trong điện, Lưu Sơ đang đắc ý hân hoan gảy một khúc đàn tỳ bà, ngẩng đầu lên hỏi, “Mẫu thân, đoạn tiếp theo gảy thế nào?”
Trần A Kiều bất đắc dĩ lắc đầu, “Tư thế tay của con sai rồi.” Nàng nắm tay con gái gảy một đoạn, quả nhiên lưu loát dễ nghe hơn rất nhiều.
Lưu Sơ chán nản, “Tế Quân không được mẫu thân dạy dỗ nhưng vẫn gảy hay như vậy, sao con lại không gảy được.”
“Con tưởng Tế Quân chỉ cần một ngày đã đánh đàn được sao? Ngẫm ra thì cô bé cũng luyện rất lâu rồi đấy”, Trần A Kiều lườm con.
Lưu Triệt đứng ở ngoài rèm cửa mỉm cười nhìn Lưu Sơ loay ha loay hoay mà vẫn không thể gảy ra một bản, dường như cũng giống A Kiều hồi nhỏ, không có thiên phú quá cao về âm luật, tiếng đàn gảy lên cũng không hơn tiếng bật bông là bao nhiêu. Nếu ai mà gảy một khúc tệ như vậy trước mặt y thì e là y không nổi giận cũng lập tức gào lên bảo dừng. Chỉ có mẹ con nàng là trước kia hay hiện giờ đều có thể được dễ dàng tha thứ.
“Phụ hoàng”, Lưu Sơ vô tình ngẩng đầu nhìn thấy y, ánh mắt hơi sáng lên nhưng rồi lại hứ một tiếng, quay mặt đi.
Trần A Kiều thở dài, quay đầu lại nhìn Lưu Triệt vén rèm lên, thong thả đi vào.
“Nô tỳ tham kiến Hoàng thượng”, Lục Y quỳ xuống bái chào. Vẻ mặt A Kiều vẫn hết sức bình tĩnh như hết thảy đều trong dự liệu. Lưu Triệt thầm nhận xét dung nhan của nàng dù trên danh nghĩa bị quản thúc ở cung Trường Môn nhưng không hề có vẻ tiều tụy.
“Chẳng phải Hoàng thượng đi Thượng Lâm Uyển ư, sao lại trở về nhanh như vậy?” A Kiều hỏi giọng đều đều.
Lưu Triệt nhếch miệng hỏi lại, “Kiều Kiều đã biết rõ rồi sao còn cố hỏi làm gì?”
“Phụ hoàng”, Lưu Sơ tức giận, dùng sức kéo dây tỳ bà kêu “đinh” một tiếng, ngón tay đánh đàn hắn lên vết máu. “Công chúa Duyệt Trữ!”, Lục Y đang đứng bên cạnh kinh hãi la lên, nhưng cô bé tựa hồ như không nghe thấy, cố chấp vênh mặt lên hỏi, “Giai La tỷ tỷ của con đâu?”
Ngay cả Lưu Triệt cũng không khỏi lúng túng, đành ho nhẹ một tiếng, “Phụ hoàng sẽ phái cho con một nô tỳ khác được hay không?”
Lưu Sơ nhìn y một hồi, bỏ cây tỳ bà xuống, không thèm mang tất mà cứ thế chân trần đi thẳng ra khỏi điện. A Kiều nhìn theo cau mày, dặn, “Lục Y, đi theo trông coi Tảo Tảo.”
“Dạ”, Lục Y quỳ gối đáp, liếc nhìn A Kiều vẻ lo lắng rồi chạy theo Lưu Sơ.
“Kiều Kiều”, Lưu Triệt trầm mặc một lát rồi xoay người lại hỏi, “Nói cho trẫm biết tại sao nàng lại xuất hiện trong điện Cố Soạn?”
“Hoàng thượng hỏi vậy là có ý gì?” Vẻ mặt A Kiều có chút ai oán, vô tội, “A Kiều đã bẩm báo với Thái hậu nương nương rồi, có nội thị nói phụng mệnh Thái hậu nương nương tuyên A Kiều tới cung Trường Nhạc. Ý chỉ của Thái hậu nương nương thì ngay cả A Kiều cũng không dám làm trái, vì thế mới đi.”
“A”, Lưu Triệt khẽ mỉa mai, “Sau khi nàng hồi cung, mẫu hậu ít gặp nên mới tin nàng. Nhưng nàng thực cho là, theo hiểu biết của trẫm đối với nàng, mà trẫm cũng tin tưởng nàng của ngày hôm nay sẽ không hoài nghi chuyện nội thị tuyên chỉ hay sao?”
Trần A Kiều không lộ biểu cảm, hồi lâu mới nói, “Muốn A Kiều cảm ơn Hoàng thượng để mắt tới A Kiều sao?”
“Kiều Kiều đúng là thông minh.” Lưu Triệt nhìn chằm chằm vào nàng, ánh mắt sắc bén, “Nếu như là bất kỳ ai khác ngoài Vệ Thanh, áng chừng hôm nay Kiều Kiều sẽ không dễ dàng bị quản thúc tại cung Trường Môn, nhưng lại là Vệ Thanh.”
Trong thiên hạ, không ai lại có thể tin tưởng Trần A Kiều sẽ làm ra chuyện gì khuất tất với Vệ Thanh. Vương thái hậu không tin, Lưu Triệt cũng sẽ không tin. Nước cờ này tuy hiểm nhưng thật sự tương đối cao minh.
“Kiều Kiều”, Lưu Triệt thở dài, “Nếu không phải là sự thật bày ra trước mắt thì trẫm không thể nào tin nổi rằng Kiều Kiều năm xưa đơn giản ngây thơ như vậy mà bây giờ cũng từng bước biết bày mưu tính kế.”
“Con người mà, cũng không thể vĩnh viễn đơn giản ngây thơ, hơn nữa lại còn đã vấp ngã”, Trần A Kiều lơ đãng đáp, “Hoàng thượng nên biết rằng, nếu không phải Vệ Tử Phu đối phó với thϊếp trước, thì thϊếp cần gì phải làm như thế?”
Lưu Triệt cười gằn, “Chuyện của Vệ gia, trẫm sẽ có cách xử lý khác. Trẫm chỉ vẫn không hiểu được tại sao Kiều Kiều đã tính trước tất cả lại còn xuất hiện ở điện Cố Soạn?”
Làm như vậy cố nhiên là có thể tiến thêm một bước chứng thực tội danh của Vệ Thanh nhưng cũng đẩy bản thân mình vào hoàn cảnh khó xử, ngay cả khi hai người lòng sáng như gương nhưng mình là phi tần hậu cung lại ở cùng một cung thất với ngoại thần vào ban đêm thì sao có thể tránh khỏi trừng phạt?
“Bởi vì”, A Kiều ngoảnh mặt sang chỗ khác, thanh âm xa vắng, “A Kiều thật muốn nhìn xem Hoàng thượng sẽ trừng phạt A Kiều thế nào?”
Năm đó, A Kiều đang ngồi trên ngôi vị hoàng hậu cao quý thì bị khép vào tội danh Vu cổ, bãi lui về cung Trường Môn. Còn hôm nay, A Kiều ở cung Trường Môn gần như với hai bàn tay trắng, Lưu Triệt còn có thể đoạt được của nàng cái gì đây? Thật sự nàng rất muốn nhìn xem thế nào.
Rời khỏi cung Trường Môn rồi sang vấn an Vương thái hậu xong, Lưu Triệt không tới chỗ của phi tần nào mà trở về điện Tuyên Thất xử lý đống công vụ chồng chất.
“Hoàng thượng!” Dương Đắc Ý châm đèn, tiến lên nhẹ giọng nói, “Trời tối rồi!”
“Ồ”, Lưu Triệt ngẩng lên, quả nhiên thấy hoàng hôn đang dần buông xuống.
“Niếp Mông”, Lưu Triệt ra lệnh, “Ngươi tới chỗ Kỳ Môn quân dẫn Vệ Thanh tới đây.”
Niếp Mông lẳng lặng vâng lời, không tiếng động lui ra, lát sau dẫn Vệ Thanh vào điện.
“Tội thần Vệ Thanh tham kiến Hoàng thượng.”
Lưu Triệt nhìn Vệ Thanh quỳ lạy dưới điện, trong lòng nhất thời cảm khái. Cởi bỏ bộ quân trang xa xỉ thường thấy trong năm Nguyên Sóc, ngồi trong nhà giam hai ngày, sắc mặt Vệ Thanh khó tránh vẻ tiều tụy nhưng vẫn không mất đi tư thế oai hùng hiên ngang.
“Vệ Thanh!” Lưu Triệt lạnh lùng hỏi, “Ngươi có biết tội của ngươi không?”
Vệ Thanh trầm mặc hồi lâu rồi đáp, “Thần không biết.”
Hai ngày này ở trong Kỳ Môn quân, hắn đã lật đi lật lại mọi việc. Hai tội danh Vệ hoàng hậu mưu hại Trần nương nương cùng với việc hắn tư thông với cung phi sẽ ảnh hưởng rất lớn tới Vệ gia. Hắn cũng nghĩ đến giải pháp chết thì cùng chết, kéo Trần A Kiều xuống đài để tỷ tỷ độc chiếm một cõi hậu cung, nhưng vừa nghĩ đến khí chất trong sáng tuyệt đối của người con gái nơi điện Cố Soạn thì chẳng biết tại sao hắn lại không đành lòng.
Trong đêm Nguyên Tiêu ấy, người con gái kia ở trong điện Cố Soạn tối đen như mực đã quay đầu lại hỏi hắn, “Trường Bình hầu đã tiến vào đây, chẳng lẽ còn muốn toàn thân trở ra?”
Đây rõ ràng là một cạm bẫy. Bọn họ cho mình là người thiết kế cạm bẫy mà không nghĩ con mồi đang đứng ở một bên cười nhạo. Nhưng nếu Trần A Kiều có trí tuệ như vậy thì sao lại thảm bại tại cuộc đấu trong cung năm đó. Phàm đã không có ai kiên định bảo vệ thì chỉ còn cách tự mình vượt mọi chông gai. Nàng có suy nghĩ như vậy, chắc hẳn đã có chuẩn bị đối mặt với mọi chuyện phát sinh, mấy mánh lới vặt vãnh đó lại có thể qua mặt được y? Hơn nữa Vệ Tử Phu cùng Vệ Thanh vốn là cùng vinh cùng nhục, qua nhiều năm như vậy còn phân chia rõ ràng được sao?
“Ngày đó thần vào cung Trường Nhạc, đích xác là do nhận thông báo. Cũng không biết Trần nương nương sẽ ở trong điện Cố Soạn.” Vệ Thanh dập đầu, “Những lời Vệ Thanh nói đều là sự thật.”
“Trẫm tin ngươi nói thật tình”, giọng Lưu Triệt chứa đầy sát khí. “Nhưng chỉ một tên quan nho nhỏ tới truyền tin, ngươi đường đường là đại tướng quân Đại Hán lại có thể bất chấp cung quy xông vào cung Trường Nhạc giữa đêm khuya sao?”
“Huống chi, nếu không phải Vệ gia của ngươi thật sự có âm mưu thì với sự cảnh giác của Trường Bình hầu sao lại có thể vừa nghe đã tin tưởng người khác như thế?”
Vệ Thanh buông xuôi, “Thần biết tội rồi.”
Lưu Triệt bụng đầy lửa giận. quay đầu, phất tay, “Ngươi… Trở về phủ Trường Bình hầu của ngươi đi. Phạt bổng lộc ba năm, nếu như không có việc không cần tới gặp trẫm.”
Dưới điện, Vệ Thanh nắm chặt tay, khẽ dập đầu ba lần, nặng nề nói, “Tội thần cáo lui, xin Hoàng thượng bảo trọng.”
Đợi Vệ Thanh đi xa, Dương Đắc ý mới tiến lên cúi đầu hỏi, “Hoàng thượng, đến giờ ăn rồi. Có tới chỗ nương nương nào hay không?”
Lưu Triệt lắc đầu, giọng mệt mỏi, “Không cần, cứ ăn trong điện Tuyên Thất được rồi. Ngoài ra, truyền ý chỉ của trẫm, Vệ hoàng hậu quản chế hậu cung bất lực, thêm vào không biết cách dạy dỗ đệ đệ, tự mình sám hối đi.”
Dương Đắc Ý nhìn vào bóng lưng Hoàng đế, cúi đầu thật sâu, đáp một tiếng, “Dạ.”
Xử trí người của Vệ gia như vậy, A Kiều thì sao? Lưu Triệt nhớ lại ân ái nồng nàn trong đêm bão tuyết, ngoảnh đi ngoảnh lại đã xa lâu rồi. Thực ra, Kiều Kiều, nếu thật lòng muốn trừng phạt thì trẫm có quá nhiều lựa chọn, nhưng như vậy e là chúng ta sẽ càng lúc càng xa. Có phải đó là tâm ý của nàng?
Lúc ngự chỉ truyền tới điện Tiêu Phòng thì Vệ Tử Phu đang gảy đàn, bỗng “phựt” một tiếng rồi dây cung đã đứt đoạn.
“Hoàng hậu nương nương!” Thái Vi kinh hô một tiếng, trong lòng sầu thảm, đứt dây đàn vốn là điềm không may.
“Bản cung không việc gì.” Vệ Tử Phu ưỡn thẳng lưng.
Càng ở vào thời khắc như thế này thì càng không thể suy sụp. Bởi vì, nếu suy sụp thì đúng là thừa nhận thất bại thảm hại rồi.
“Phủ Thiếu chưởng sứ có điều tra ra tên thị vệ truyền lời cho Trường Bình hầu không?”
Thái Vi lắc đầu, “Thiếu chưởng sứ phu nhân đã lật tung cả Trần phủ cũng không tìm thấy tung tích người mà Vệ hầu gia nói.”
Tâm trạng của Vệ Tử Phu dần trở nên nặng nề, thật ra đã phải lường trước như vậy. Chẳng phải viên nội thị nàng ta sai đi truyền chỉ cho Tiêu Phương và Trần A Kiều cũng biến mất không còn dấu vết sao, không nên trông chờ sự may mắn như thế.
“Vậy, Hoàng thượng xử trí Trần A Kiều ra sao?” Vệ Tử Phu lượt tay trên cây đàn đã bị đứt dây, hỏi vẻ tình cờ.
“Việc này…”, Thái Vi và Thái Thanh đưa mắt nhìn nhau, đều thoáng do dự.
Vệ Tử Phu buồn bực, cả giận, “Có chuyện gì không thể nói?”
Chưa đến mức cứ thế bỏ qua chứ?
Thái Thanh bất đắc dĩ, bẩm, “Hoàng thượng để cho Trần nương nương mang theo Công chúa Duyệt Trữ tạm thời trở về phủ Đường Ấp hầu rồi.”
Vệ Tử Phu đột nhiên cảm thấy trống rỗng, giống như vừa sử dụng hết sức lực đánh ra một quyền nhưng lại trúng vào bị bông mềm nhũn, tinh thần rã rời.Quyển 2 - Chương 43: Quanh cảnh tiết Thượng tự[1] thật đẹp[1] Lễ Thượng Tự: Thời nhà Chu, cứ đến ngày Thượng tỵ của tháng thứ ba trong năm (ngày Thượng tỵ là ngày Tỵ của tuần đầu tiên trong tháng, mỗi tuần khi đó có mười ngày), người ta sẽ tổ chức buổi lễ trừ tà ma, đuổi bệnh tật, giải vận xui. Ngày này gọi là lễ Thượng Tự. Sẽ có nữ vu sư thực hiện nghi lễ cho mọi người ở bên bờ sông, dùng nước sông tắm gội, gột tẩy tất cả những thứ xấu xa, đen đủi. Sau này vì thấy ngày Thượng tỵ theo Âm lịch thường không cố định nên đến thời Ngụy Tấn, người ta lấy cố định ngày mùng ba tháng Ba Âm lịch làm lễ Thượng Tự.
Tháng Hai, mùa xuân năm Nguyên Thú thứ nhất.
Chiếc xe ngựa lớn hoa lệ lóc cóc trên đường phố đông đúc của Trường An rồi dừng lại ở trước cửa Tử Dạ y quán. Một người đàn ông có khuôn mặt thanh tú, mặc bộ y phục gấm màu đen xuống xe, chắp tay đi tiếp, mặc dù không biểu lộ gì nhưng lại ngầm mang vẻ tôn quý khiến cho mọi người đi ngang qua đều phải dừng bước theo.
“Công tử”, Dương Đắc Ý cười bẩm, “Phu nhân đang ở bên trong.”
Lưu Triệt gật đầu, quan sát đám đông đang đi qua đi lại không ngừng bên trong y quán. Gần đây Tử Dạ y quán nổi tiếng khắp Đại Hán, tất cả các đại phu ngồi trên sảnh đường khám bệnh đều nổi danh cả nước. Mức thu phí khám bệnh đối với người bình dân cũng không đắt quá, hơn nữa hiện giờ do Tiêu Phương cai quản, Tiêu Phương lại là người có lòng cứu nhân độ thế nên dần dần xoá bỏ quy định mỗi ngày chỉ khám mười người mà A Kiều đặt ra. Người đến chữa bệnh đành phải xếp hàng ở trước cửa y quán, dù có phải chờ một ngày một đêm cũng không một câu oán hận.
Lúc này, Tiêu Phương đang nhíu mày bắt mạch cho một thanh niên ngồi trước mặt. Người thanh niên mặc bộ y phục màu xanh nhạt, trang phục hoa lệ, trang sức đẹp đẽ trông ra dáng tôn quý nhưng sắc mặt khô vàng, hiển nhiên là sức khoẻ không tốt.
“Tiêu đại phu”, ông lão đứng bên cạnh người thanh niên lên tiếng hỏi, “Thiếu gia nhà ta thế nào?”
Tiêu Phương khẽ nhướng mày, phẩy tay đáp, “Tạm thời thì không sao nhưng nếu công tử không cố gắng điều dưỡng thì e rằng trong vòng ba năm nữa bệnh sẽ nặng thêm, nguy hiểm đến tính mạng.”
Ông lão tỏ vẻ lo âu, nói với Tiêu Phương giọng nhún nhường, “Xin phiền Tiêu tiên sinh giúp đỡ thiếu gia nhà ta một chút.”
“Hi thúc”, người thanh niên tỏ vẻ không quan tâm lắm, “Thúc không nên lo lắng như vậy chứ…” Hắn liếc mắt nhìn Tiêu Phương, “Nghe nói Tiêu tiên sinh là đệ nhất danh y của Đại Hán chúng ta, không biết có phải là thật hay không?”
Tiêu Phương chỉ nín lặng rồi khiêm tốn đáp, “Phương không có năng lực, làm sao dám nhận lấy danh tiếng như vậy? Nhạn Nhi”, hắn xoay người lại gọi, trông thấy A Kiều đặt những chiếc thẻ tre trong tay xuống rồi đứng nhìn sang.
“Con hãy chẩn mạch cho vị công tử nãy xem có thể phát hiện ra điều gì hay không?”
Người thanh niên nhướng mày lên, định nói gì đó nhưng thấy gương mặt thanh cao xinh đẹp của Trần A Kiều thì ngẩn người ra không thốt nên lời, cảm thấy rất quen thuộc nhưng lại không nhớ nổi là đã gặp ở đâu. Hôm nay Trần A Kiều đến Tử Dạ y quán nên không thể ăn mặc quá sang trọng, chỉ mặc áo xanh quần trắng, nếu không có cách búi tóc thì đã gần như là trang phục của đàn ông rồi. Cho dù Lưu Đường đã gặp thì cũng làm sao ngờ được rằng người con gái đẹp nhất Đại Hán ngày xưa, Quận chúa Đường Ấp Trần A Kiều, lại ăn mặc như vậy xuất hiện ở một y quán?
A Kiều liền đưa tay bắt mạch, mới chạm tay vào đã cảm thấy mạch tựa như không có lấy một tia đập. Nàng nhíu mày, di chuyển ngón tay tới vị trí mạch tiếp theo thử lại, quả nhiên thấy dường như có một tí mạch ngưng trệ, hẳn là mạch chạy lệch lạc mà ngàn người cũng khó gặp một lần.
“Mạch ngưng mà không tắc, yếu mà không tán, tựa như trong lòng tích tụ mà không cách nào phát tán đi được. Sa đà trong rượu, dần dần tổn hại tới gan.” Trần A Kiều nhướng mày nhìn về phía Tiêu Phương, hỏi vẻ chắc nịch, “Sư phụ, con nói đúng chứ?”
Lưu Triệt chắp tay từ bên ngoài y quán bước vào, từ tốn nói, “Tiêu tiên sinh quả nhiên y thuật thật giỏi, dạy dỗ được đồ đệ cũng thật có bản lĩnh.” Y không lộ vẻ gì, cho dù Dương Đắc Ý đã hầu hạ y bao nhiêu năm nhưng giờ khắc này cũng không biết được y đang vui hay buồn. Trần A Kiều chỉ nín lặng, chợt cảm thấy mạch nơi tay dường như hơi chậm lại thì không khỏi để ý quan sát người thanh niên, nhưng chỉ thấy hắn vẫn tỏ nét mặt tươi cười không có gì khác thường. Ánh mắt Tiêu Phương hơi tối lại, cúi đầu hành lễ, “Lưu công tử.”
Lưu Triệt quay sang bảo A Kiều, “Nàng ra ngoài cũng lâu rồi, nên trở về nhà đi.”
Trần A Kiều không còn cách nào đành khẽ gật đầu, mỉm cười chào Tiêu Phương, “Sư phụ, đồ nhi cáo lui trước.”
Ra khỏi y quán, Lưu Triệt dìu A Kiều lên xe ngựa, cảm thấy A Kiều có vẻ hơi cứng người ra nhưng không phản kháng.
“Hoàng thượng”, Niếp Mông ngồi đằng trước xe hạ thấp giọng hỏi: “Trở về phủ Đường Ấp hầu sao?”
“Không”, Lưu Triệt xua tay đáp, “Đi loanh quanh một lúc trong thành Trường An đi.”
Niếp Mông nhận lệnh, liền đánh chiếc xe ngựa rảo bước trên đường phố Trường An.
Trần A Kiều không khỏi ngạc nhiên liếc mắt nhìn Lưu Triệt, xem ra y cũng phát hiện thấy có gì không đúng. Nàng khẽ thở dài, quả nhiên là một vị quân chủ vô cùng tinh anh. Nếu vừa rồi không phải nàng chẩn mạch cho người kia thì ngay cả nàng cũng chưa chắc đã phát hiện ra được. Xe cứ thế đi đến một nơi khá yên tĩnh, quả nhiên có một toán người mặc áo đen từ trên mái hiên ở góc phố xông tới vây quanh xe ngựa. Tên thủ lĩnh toán áo đen rút trường đao ra, đằng đằng sát khí, “Lưu Triệt, ngươi hãy để lại mạng đi.”
Bên trong xe, Lưu Triệt nhếch miệng, “Đúng là gϊếŧ mãi cũng không hết những bọn loạn thần tặc tử này.”
Trước xe, Niếp Mông ngẩng đầu, vứt chiếc mũ rộng vành sang một bên, nhướng mày vỗ tay, liền có một đội Kỳ Môn quan từ cuối phố xông tới. “Tập kích Hoàng thượng là một tội phải tru di cửu tộc. Những thứ nghịch tặc này, không tha cho một tên nào cả”, Niếp Mông quát lên.
Đám người áo đen lâm vào tình hình bất lợi nhưng không kẻ nào hoảng sợ lùi bước, tên thủ lĩnh ngửa mặt lên trời cười một tràng dài, “Ta đáng lẽ phải nghĩ trước rằng ngươi đã làm Hoàng đế ở cung Vị Ương thì sao có thể chỉ dẫn theo mấy người thế này đi ra ngoài cơ chứ?”
“Thái tử điện hạ”, giọng gã dần lộ vẻ chua xót, “Thuộc hạ hôm nay cũng phải chết dưới lưỡi đao của Lưu Triệt, đến an ủi anh linh của người ở trên trời đây.”
Bên trong xe, Lưu Triệt biến sắc mặt. Y lên ngôi đã gần hai mươi năm, đang độ cường thịnh nên triều thần cũng tương đối do dự đối với hai vị hoàng tử, chỉ giữ thái độ quan sát cho nên đến bây giờ vẫn còn chưa lập thái tử. Như vậy thì thái tử theo lời của người áo đen kia nói thì chỉ có thể là vị thái tử đầu tiên của Hán Cảnh Đế, ca ca của Lưu Triệt, người anh họ của A Kiều mà suýt nữa nàng đã cưới, thái tử bị lật đổ, Lưu Vinh.
Năm xưa chính là Vương thái hậu và Quán Đào trưởng công chúa Lưu Phiếu đã bắt tay nhau lật đổ ngôi vị thái tử của Lưu Vinh. Y bị giáng làm Lâm Giang vương, sau rồi chết ở đất Phiên. Cũng chính vì nguyên nhân đó mới giao ước cuộc hôn nhân của Lưu Triệt với Trần A Kiều. Lâm Giang vương Lưu Vinh chết rồi, Cảnh Đế niệm tình phụ tử nên cũng có chút thương xót, không truy cứu đến gia quyến của y. Theo trí nhớ, Lưu Vinh có một người con thứ tên là Lưu Đường, sau khi phụ thân chết thì đứa con này cũng mất tăm tích.
Nếu năm xưa Lưu Đường không được gia nhân dẫn đi trốn thì hai mẹ con Vương hoàng hậu có bỏ qua cho hắn hay không chứ? A Kiều cũng không biết, nàng thở dài một hơi, chuyện dây mơ rễ má như vậy thì Lưu Đường có cố ý báo thù cũng hợp tình hợp lý. Nhớ lại khuôn mặt của người thanh niên trong Tử Dạ y quán, quả nhiên có rất nhiều nét giống Lưu Vinh.
Lưu Vinh ca ca! Người thiếu niên như đoá hoa hồng giữa buổi chiều xuân đó cứ phai nhạt dần theo thời gian, biến mất khỏi trí nhớ ký ức của nàng, nếu không có người thanh niên hôm nay thì chắc là nàng không còn nhớ nổi.
Bên trong xe, khuôn mặt Lưu Triệt âm trầm bất định, bỗng nhiên ôm lấy A Kiều, đặt một nụ hôn lên má nàng rồi dặn, “Kiều Kiều, nàng phải cẩn thận đó.” Y rút kiếm, hất tung rèm xe nhảy xuống.
“Hoàng thượng!” Niếp Mông đang chém gϊếŧ, mũi kiếm sắc bén vừa cắm vào thân một người áo đen, trông thấy Lưu Triệt thì kinh hãi nói, “Hoàng thượng hãy trở về trong xe đi kẻo bọn thích khách tấn công làm thương tổn đến người.”
Bọn áo đen bị Kỳ Môn quân chém gϊếŧ khốc liệt đã mất hết nhuệ khí, giờ trông thấy bóng dáng Lưu Triệt thì không ngờ lại phấn chấn hẳn lên, cố gắng chém gϊếŧ xông tới chỗ y.
Lưu Triệt lạnh lùng nhìn những thi thể nằm la liệt bên cạnh, xác đám người áo đen có, xác Kỳ Môn quân cũng có. Y đột nhiên nói, “Bắt sống hết những kẻ còn lại.”
Niếp Mông ngạc nhiên nhưng Hoàng thượng đã ra lệnh thì phải nghe theo, cũng may là lúc này Kỳ Môn quân đã chiếm thế thượng phong, chỉ còn có vài tên áo đen đang chật vật chống đỡ. Qua thời gian chừng hai tuần hương thì tất cả đều bị bắt giữ.
“Hoàng thượng!” Niếp Mông lau vết máu trên lưỡi kiếm, đi tới bên Lưu Triệt rồi quỳ sụp xuống, trên tay áo vẫn còn dính máu, “Vi thần không làm nhục sứ mạng, đã đánh gục mười sáu tên nghịch tặc, bắt sống được bốn tên. Xin hỏi sẽ xử trí như thế nào?”
Lưu Triệt gật đầu, “Áp giải về phủ Đình Uý, giao cho Trương Thang. Bảo Trương Thang bằng bất cứ cách gì cũng phải tra ra cho trẫm.”
“Ngoài ra, ban lệnh xuống, phong toả các cổng thành, tìm cho ra Lưu Đường trong thành Trường An.”
“Dạ!” Niếp Mông nhận lệnh.
Lưu Triệt quay đầu lại, thấy A Kiều vén rèm xe ngựa lên, sắc mặt bình thản, ánh mắt đầy vẻ thấu hiểu thì thầm thở dài. Y vốn không muốn A Kiều gặp phải những chuyện chém gϊếŧ như thế này nhưng lại quên mất rằng vụ chém gϊếŧ trong cuộc đời nàng lại là do chính y gây ra. Cho tới bây giờ, đao quang kiếm ảnh hay là đầu rơi máu chảy đều đã là chuyện bình thường.
“Kiều Kiều”, y lên xe, không quay đầu lại mà chỉ thấp giọng nói, “Trẫm đưa nàng về phủ Đường Ấp hầu nhé.”
“Vâng.”
“… Sau ngày hôm nay, không được tùy tiện ra khỏi phủ nữa. Chắc ban nãy Lưu Đường không nhận ra nàng nhưng sau hôm nay đã biết được thân phận của nàng, nếu gặp lại thì tất nhiên sẽ bất lợi đối với nàng.”
Trần A Kiều ngẫm nghĩ một lúc lâu rồi bỗng nhiên lên tiếng, “Hoàng thượng, vừa rồi thϊếp chẩn mạch cho Lưu Đường, thấy bệnh của hắn thực sự đã đến mức nguy kịch, nếu không được sư phụ của thϊếp điều trị thì chưa chắc đã được ba năm.”
“Trẫm cũng không định làm khó Lưu Đường.” Lưu Triệt nhìn nàng một lát, “Rốt cuộc hắn cũng là con cháu họ Lưu chúng ta. Trẫm có thể tha cho con cháu của Giao Đông vương và Giang Đô vương mà lại không dung thứ cho một Lưu Đường được sao? Chỉ cần hắn có thể bỏ qua, thì trẫm cũng có thể coi như không có vụ ám sát lần này, vẫn đối xử tử tế.”
Trần A Kiều im lặng, nàng cũng không chắc lắm việc Lưu Triệt nói như vậy là giả bộ hay thật lòng, nhưng Lưu Triệt bây giờ đã một mình nắm giữ vương quyền, trị vì thiên hạ, Lưu Đường có tồn tại cũng thật sự là bé nhỏ không đáng kể. Tuy nhiên cho dù thế nào thì nàng cũng không muốn Lưu Đường chết không kèn không trống. Có lẽ là thời thiếu niên, nàng đã vô tình có lỗi đối với Lưu Vinh. Nếu không có nàng và mẫu thân thì Lưu Vinh đã có cơ hội trị vì thiên hạ, thế mà cuối cùng lại phải lặng lẽ chết đi. Trong mấy năm bị Lưu Triệt ghẻ lạnh, nàng đã từng thầm nghĩ, nếu như ban đầu nàng được gả cho Lưu Vinh, một Lưu Vinh nhân từ khoan hậu, thì có phải sẽ hạnh phúc hơn hay không? Thế nhưng chẳng bao giờ có hai chữ “Nếu như”, huống chi nàng cũng không yêu Lưu Vinh, nhưng dù thế nào cho tới bây giờ, nàng vẫn không muốn người thiếu niên đã từng mỉm cười thân ái gọi mình là A Kiều muội muội trong một ngày xuân ở cung Vị Ương phải chết.
Thoáng chốc đã đến phủ Đường Ấp hầu. Qua khoảng trống giữa những lá cờ hiệu bay phất phới trước đầu xe, nàng đã thấy cổng và sân màu đỏ thắm rộng rãi của Hầu phủ. Lưu Mạch đã mấy ngày không được gặp, đứng ở trước cửa trông thấy xe ngựa thì cặp mắt lập tức sáng rực.
“Mẫu thân!” Mạch Nhi gọi vang.
A Kiều nhìn nó, bất giác nhớ lại Lưu Vinh của hai mươi năm trước cũng có phong độ, nụ cười ấm áp tương tự.
“Vô tình nhất chính là bậc đế vương”, nàng đã nghe thấy câu nói này suốt bao năm, có vô số chuyện như vậy hoặc là tương tự như vậy chứng minh tính chính xác của nó. Bỗng nhiên thấy xót xa, nàng nhủ thầm với lòng mình, “Mạch Nhi, mẫu thân sẽ không bao giờ để cho con phải chịu những nỗi thống khổ như thế.”
Chợt thấy bàn tay mình ấm áp, nàng nhìn xuống thì ra là tay của Lưu Triệt đã đặt lên. “Kiều Kiều”, y nhìn vào mắt nàng, “Trẫm sẽ không để cho Mạch Nhi bước theo con đường của Lưu Vinh.”
Lưu Vinh thất thế là vì Hán Cảnh Đế bỏ rơi mẹ con bọn họ. Lưu Triệt thầm hiểu rằng A Kiều coi trọng hai đứa con trai, gái của mình đến mức nào. Nếu một lời hứa hẹn như vậy có thể làm cho A Kiều thêm an tâm thì y cũng chẳng nề hà mà nói ra.
Phủ Đình úy khua chiêng gõ mõ lục soát trong thành Trường An suốt nửa tháng nhưng vẫn không có tin tức của Lưu Đường. Trong mấy ngày, quan Nội đình Trương Thang rất phiền não, mặc dù lão rất nhiều thủ đoạn tra tấn tù nhân nhưng trước những nhân vật thực sự như heo chết không sợ nước sôi này thì cũng hết cách. Nghiêm hình tra khảo nửa tháng, có tới ba tên áo đen tự sát nhưng cũng chỉ tra ra được chủ nhân của chúng quả nhiên là Lưu Đường, con trưởng dòng thứ của Lâm Giang vương trước kia. Năm đó hắn được lão bộc mang ra khỏi phủ Lâm Giang vương rồi lưu lạc ở miền biên giới Đại Hán. Hiện giờ sức khỏe Lưu Đường không tốt nên mới tới Trường An cầu thuốc. Trương Thang hỏi thêm về khả năng Lưu Đường trốn tránh ở đâu thì chúng không nói một lời.
Lưu Triệt dĩ nhiên không hài lòng trước kết quả như thế nên đã mấy lần nổi trận lôi đình. Trương Thang cũng chỉ còn cách cố gắng hết sức, dặn thuộc hạ quản chế nghiêm mật tên áo đen cuối cùng không để cho gã dễ dàng tìm tới cái chết. Cả thành Trường An lạnh lẽo tiêu điều, ai nấy đều cảm giác được bầu không khí bất thường.
Chớp mắt đã đến tháng Ba, thời gian tiết Thượng tự của mùa xuân. Từ trước đến giờ, tiết Thượng tự phải ra bờ sông làm nghi thức giải hạn. Những ngày này, Trần A Kiều không muốn để cho mẫu thân phải lo lắng nên cũng không bước chân ra ngoài phủ Đường Ấp hầu. Cuối cùng đã có thể thoải mái nên trong lòng nàng rất vui vẻ, Tảo Tảo lại càng không phải nói.
Giờ Dần là giờ Thái hậu cùng Hoàng đế và phi tần trong cung tế tự, còn các thế gia, quý tộc, hoàng thân phải đến giờ Mão mới được xuất hành. Mùng ba tháng Ba, một đoàn xe ngựa rầm rầm rộ rộ chạy ra khỏi phủ Đường Ấp hầu hướng về sông Giao Vị nằm ở phía Bắc Trường An, mang theo một đội quân sĩ của Trần phủ.
Những thế gia, quý tộc, hoàng thân còn lại của thành Trường An cũng muốn tới đó. Trần A Kiều ở trên xe nghe thấy tiếng đoàn xe của các nhà khác hàn huyên với nhau. Phong Dã ở bên ngoài bẩm, “Nương nương, là người nhà Mạt Lăng hầu.”
A Kiều vén rèm lên, quả nhiên nhìn thấy bên tay phải là một chiếc xe ngựa tôn quý, bên kia Lưu Lăng cũng đang vén rèm mỉm cười.
Lưu Lăng bảo người hầu, “Nói một tiếng với phu nhân Hầu gia là ta đi cùng với Trần nương nương.” Nàng dẫn Lưu Quang xuống xe, thị vệ biết Trưởng công chúa Phi Nguyệt xưa nay giao du thân mật với A Kiều nên không để ý lắm, chỉ gật đầu đáp ứng.
Trần A Kiều cũng lệnh cho xe dừng lại để Lưu Lăng bước lên, hỏi đùa, “Có mấy ngày không gặp mà Lăng Nhi càng thêm kiều diễm, có lang quân vừa ý thật rồi sao?”
Lưu Lăng trầm mặc hồi lâu rồi khoan thai ngâm nga:
“Nguyện được người một dạ,
Bạc đầu chẳng phân ly.[2]
[1] Hai câu thơ trong bài Bạch đầu ngâm (Khúc ngâm đầu bạc) của Trác Văn Quân.
Ở thời đại này, tìm đâu ra một người như vậy chứ? Tỷ thấy không, những người phụ nữ xinh đẹp như tỷ hay là Trác Văn Quân cũng đều bị phụ bạc cả.”
Trần A Kiều không biết nói gì, nghĩ tới mối quan hệ mập mờ không rõ ràng giữa mình và Lưu Triệt thì thấy câu nói “mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh” quả nhiên là đúng.
“Cho nên”, Lưu Lăng vênh mặt, “Muội quyết chí không lấy chồng, cũng tuyệt đối không để bản thân mình chịu thiệt thòi. Làm một bông hoa vĩnh viễn không già trong chốn quyền quý ở giữa thành Trường An phồn vinh hoa lệ này cũng không phải là tệ.”
Đang nói chuyện, xe ngựa đã đến bờ sông. Gió xuân sớm thổi qua mặt sóng làm rơi rụng lớp lớp hoa đào, vô cùng mỹ lệ. Sau lễ tế tự chính là hội Đạp thanh[3]. Lớp lớp binh lính đứng canh giữ ở phía sau nên không sợ có ai tìm đến. A Kiều và Lưu Lăng không sợ lạnh nên để chân trần lội xuống sông Vị Hà bắt những chú cá sống sót sau mùa đông, té nước vào nhau khiến cả hai trong chốc lát đều ướt đẫm. Lưu Sơ sợ lạnh, đứng ở trên bờ hâm mộ nhìn xuống, hò hét, “Mẫu thân, dì Lăng, lên đây đi, nếu không sẽ cảm lạnh đấy.”
[3] Hội Đạp thanh: Hội này cũng trong ngày mùng ba tháng Ba, Âm lịch, thanh niên nam nữ cùng nhau du xuân.
Lên bờ có người đã chờ sẵn để hầu các nàng đổi y phục khô ráo. Lưu Lăng ôm Lưu Sơ, rủ rê, “Tảo Tảo, chúng ta đi chơi diều chứ?”
Lưu Sơ tò mò trông rất đáng yêu, “Diều là cái gì ạ?”
“Thế này nhé, Tảo Tảo ở dưới đất cầm một sợi dây kéo thả còn nó thì bay trên trời, đó gọi là diều.” Tính Lưu Lăng vốn dứt khoát, nói là làm, liền bảo người tìm thanh trúc và giấy. Nàng và A Kiều đều khéo tay nên chỉ chốc lát đã làm được một con diều giấy có khung bằng trúc tinh xảo. A Kiều bảo Tảo Tảo đứng xuôi chiều gió rồi phóng diều ra. Nhờ sức gió tháng Ba, chiếc diều lập tức bay lên chao liệng trên trời cao. Lưu Sơ cười vui sướng. Bỗng thấy cánh diều chao đảo như sắp rơi, theo bản năng định chạy đuổi theo. Mọi người chung quanh đều ngẩng đầu nhìn cánh diều hình bướm xinh đẹp chao lượn trên bầu trời, tấm tắc khen, không ai phát hiện ra một đoàn người từ bờ sông Vị Hà đang bước tới.
Gió đột nhiên chuyển mạnh giật đứt dây diều, cánh diều hình bướm dạt dần về phía thượng du sông trong tiếng thở dài của mọi người, nó đảo một cái rồi rơi xuống chân một người áo xám. Lưu Sơ hưng phấn bó cuộn dây lại, chạy ào tới, hét toáng lên, “Ca ca!”
Tất cả mọi người đều quỳ lạy, bái chào, “Tham kiến Hoàng thượng.”
Lưu Triệt tỏ vẻ bình thản bảo: “Đứng lên đi.” Y nhìn về phía A Kiều và Lưu Lăng đầy ẩn ý.
Trưởng công chúa Quán Đào bước lên hỏi, “Sao Hoàng thượng lại tới đây?”
Lưu Triệt đưa đẩy, “Tế tự xong, trẫm nhớ tới cô cô nên sang đây thăm.”
Đông Phương Sóc nhặt con diều dưới chân lên, lật qua lật lại xem xét rồi khen ngợi, “Quả là tinh xảo.”
Lưu Lăng và A Kiều liếc nhìn nhau, khiêm tốn đáp, “Mấy trò vặt vãnh thôi mà, tiên sinh quá khen rồi.”
Lưu Triệt đã lớn tuổi nhưng trong lòng vẫn còn tính trẻ con ưa náo nhiệt. Y ôm lấy A Kiều, đứng đối diện với cái chậu trước mặt hỏi, “Các khanh có thể đoán ra trong chậu đựng vật gì không?”
A Kiều khẽ cau mày, đang nghĩ cách lùi ra một bước thì đã nghe Lưu Triệt hừ lạnh một tiếng, bàn tay ôm eo nàng càng siết chặt hơn. Nàng bất đắc dĩ thở dài, thầm nghĩ, được rồi, vẫn ở trong giới hạn chấp nhận được.
Từ trong chậu truyền ra tiếng lạo xao, chứng tỏ là vật sống. Mọi người đoán một hồi nhưng đều không đúng.
“Chắc là rắn”, Đổng Yển đoán, lại thấy Lưu Triệt lắc đầu, “Mặc dù không phải nhưng cũng gần đúng rồi đấy.”
Đông Phương Sóc tiến lên một bước, lắc lư đầu đoán, “Là rồng nhưng không có sừng; là rắn có chân, không phải tắc kè thì là thằn lằn!”
Lưu Triệt mỉm cười, “Vẫn là Đông Phương Sóc đúng rồi.” Y quay sang bảo thưởng cho Đông Phương Sóc mười súc lụa, mở cái chậu ra thì đúng như vậy.
Lưu Sơ vỗ tay khen, “Đông Phương tiên sinh quả nhiên thông minh. Không trách ca ca luôn tôn kính tiên sinh.”
Đổng Yển đứng bên cạnh không phục, “Đông Phương tiên sinh thông tuệ như thế, Yển ra một câu đố, tiên sinh không ngại đoán chứ?”
“Lệnh hồ trở, lão bách đồ, y ưu á, nghi hồng nha?”
Đông Phương Sóc xưa nay không ưa Đổng Yển cùng Hoàng thượng chơi bời lêu lổng, săn thú đá cầu, làm bộ suy tư một lát liền cười nói, “Lệnh chắc là mệnh lệnh, hồ chắc là vật đựng cơm, trở là răng không ngay ngắn; lão là người được mọi người kính trọng; bách là quỷ đình; đồ là đường còn ướt nhão nhoét; y ưu á là nói không chừng; nghi hồng nha, đây không phải là hai con chó cắn nhau sao.”
Mọi người đều thán phục. Lưu Lăng cúi đầu, đang định tìm một vấn đề thật khó khăn để bắt bí hắn thì lại thấy A Kiều lắc đầu, ngầm ý bảo thôi đi.
Đến lúc trời tối, Trương Thang phái người tới bẩm báo phát hiện tung tích Lưu Đường trong thành Trường An, Lưu Triệt lập tức tỏ vẻ nghiêm túc, trở về cung Vị Ương để xử lý.
Trần A Kiều tán gẫu với Lưu Lăng, kể lại lần làm khó Đông Phương Sóc ở điện Tuyên Thất trước kia.
“Đông Phương Sóc quả nhiên không hổ được sử sách lưu danh là đối đáp giỏi.” Lưu Lăng cũng phụ họa, “Muội nghĩ mãi mà vẫn không nghĩ ra vấn đề cuối cùng kia.”Quyển 2 - Chương 44: Gượng cười xoá bỏ mọi ân oánA Kiều trở về lầu Mạt Vân thì cứ suy nghĩ mãi. Chẳng lẽ nửa cuộc đời này lại cứ từng ngày từng ngày trôi qua như thế hay sao? Nàng chợt nghe thấy có tiếng thở nhè nhẹ trong gian phòng trống trải liền làm mặt lạnh, bình tĩnh hỏi, “Ai?”
“Nương nương?” Lục Y mỉm cười, “Người nói gì…” Còn chưa dứt lời thì một bóng đen sau bức rèm gấm đã lao vụt ra, mũi kiếm loé lên trong đêm tối rồi kề vào cổ Trần A Kiều.
Lục Y kinh hãi suýt hô toáng lên, người kia khẽ gằn giọng, “Nếu như ngươi không cần tính mạng của chủ nhân thì hô lên xem.”
Trong bóng tối bốc lên mùi máu tươi nhàn nhạt, Trần A Kiều không hề bối rối, nhẹ nhàng hỏi, “Ngươi bị thương? Lục Y, thắp đèn lên.”
Lục Y cúi đầu đáp một tiếng rồi tiến lên châm nến.
Quả nhiên là gương mặt trẻ trung mà quen thuộc của Lưu Đường. A Kiều thầm than một tiếng, nói: “Ngươi vô ý vào phủ Đường Ấp hầu hay cố ý tới tìm ta?”
Lưu Đường không biết trả lời thế nào. “Sao ngươi không hoảng sợ?”, hắn nhìn vẻ mặt thanh thản của Trần A Kiều.
“Lúc phụ thân ngươi qua đời, ngươi còn nhỏ”, Trần A Kiều nói: “Ta chưa từng gặp ngươi.”
“Thế nhưng ta đã thấy ngươi”, Lưu Đường ngắt lời, “Trong thư phòng phụ thân ta có treo một bức tranh của ngươi nhưng nhìn cao quý ngạo mạn nên lần đầu tiên gặp mặt ta không nhận ra.”
“Phụ thân ngươi trên trời nếu có linh thiêng sẽ không hy vọng huyết mạch duy nhất của ông ấy vì báo thù mà tự chôn vùi bản thân.”
Sắc mặt Lưu Đường bi phẫn, “Thế nhưng là con cái mà không báo thù cho phụ thân thì có thể làm người được sao?”
A Kiều giễu cợt, “Nếu như vậy, ngươi có hận Tiên hoàng đã phế bỏ ngôi vị thái tử của phụ thân ngươi hay không? Có hận Cơ nương nương vì không giữ mồm miệng nên đắc tội với Tiên hoàng hay không? Vô tình nhất ấy là đế vương, được làm vua thua làm giặc, ngươi nghĩ kỹ chưa?”
“Trần nương nương”, Lưu Đường vẫn bướng bỉnh, “Ngươi cho là nói thế thì ta sẽ tha cho ngươi sao?”
Trần A Kiều nở nụ cười hoà hoãn. Luu Đường trông thấy mắt nàng dưới ánh nến soi nghiêng ánh lên vẻ ngạo nghễ không gì sánh kịp. Nàng khống chế thanh kiếm trong tay hắn, vặn một cái khiến thanh kiếm dài ba thước văng ra, đánh trúng mất đỉnh đồng trên án vang lên một tiếng “cạch” nặng nề.
“Xảy ra chuyện gì?” Người của Hầu phủ cảnh giác hô lớn ngoài lâu, “Nương nương, có chuyện gì thế?”
Mũi kiếm vừa rời khỏi cổ A Kiều, Lục Y thở phào nhẹ nhõm, thét lớn, “Bắt thích khách.”
Tiếng động lớn như thế tất nhiên kinh động tới đến Trưởng công chúa Quán Đào.
“Thật to gan, dám hành thích A Kiều. Thị vệ Hầu phủ ở đâu mà để người tiến vào cũng không biết”, Lưu Phiếu luôn miệng khiển trách. Bà trông thấy mặt thích khách liền im bặt, nhớ tới những ồn ào gần đây trong thành Trường An thì hiểu ra mọi chuyện.
“Mẫu thân”, A Kiều gạt đi, “Chắc là hôm nay tất cả đều ra ngoài nên thủ vệ Hầu phủ mới hơi lơi lỏng hơn thường ngày. Mẫu thân đừng trách bọn họ nữa.”
Lưu Phiếu bình tĩnh lại, ra lệnh, “Giải lên phủ Đình Uý.”
“Dù sao cũng là con cháu của Cao Tổ, không thể quá tuyệt tình”, A Kiều thở dài, “Tiếp đãi ở trong phủ một đêm, ngày mai hãy giải đi.”
Lưu Sơ ở bên cạnh nghe vậy tò mò nhìn sang, “Hắn là ai vậy?”
“Đó là đường ca của con”, A Kiều dịu dàng, “Tên là Lưu Đường.”
Lưu Sơ sáng mắt, “Đường ca ca này có chiều con như ca va không vậy? Sao…”, cô bé nghi hoặc hỏi tiếp, “Đường ca ca lại hành thích mẫu thân?”
“À”, A Kiều xoa đầu, mắng yêu, “Con muốn biết thì tự hỏi đường ca ca đi.”
Lưu Đường tỉnh dậy sau cơn hôn mê, vừa mở mắt ra đã thấy một cô bé xinh đẹp như ngọc đang chống má nhìn mình, mặt mũi trông hơi giống Trần nương nương đêm qua.
“Đường ca ca”, cô bé nháy mắt, “Sao muội chưa từng gặp ca ca nhỉ?”
Lưu Đường im lặng, lúc này mới phát hiện đang bị trói cứng, không thể động đậy. Người con gái kia thật là khó hiểu, đêm qua giữa hai người xảy ra việc binh đao như vậy nhưng hôm nay vẫn đồng ý để con gái đến gần mình.
Quan Nội đình Trương Thang nhận được tin từ phủ Đường Ấp hầu đưa tới thì bất giác lau mồ hôi đang túa ra trên trán.
Hôm qua, cuối cùng một nhà dân ở thành Trường An phát hiện được Lưu Đường, một mặt phái người đuổi bắt, một mặt báo cho Hoàng thượng phát lệnh điều Kỳ Môn quân ở trong thành phối hợp truy nã nhưng không ngờ dưới thiên la địa võng như vậy mà thủ hạ của Lưu Đường đã liều chết chống cự để cho hắn chạy thoát. Nếu lần này vẫn không thể bắt được Lưu Đường… Trương Thang nhớ tới sự vô tình của Lưu Triệt khi nổi giận mà không khỏi thấy lòng ớn lạnh. Cũng may theo tin báo thì Lưu Đường đã bị thương nên chắc chắn phải lưu lại dấu vết, nhưng không ngờ lão chưa kịp lần theo dấu vết tìm ra tung tích của Lưu Đường thì phủ Đường Ấp hầu đã tới báo rằng nghịch phạm Lưu Đường đêm qua lẻn vào phủ Đường Ấp hầu, suýt nữa làm Trần nương nương đang ở tạm trong Hầu phủ bị thương. Nếu để cho thiên tử ở trong cung Vị Ương biết Lưu Đường bị phủ Đình Uý của lão truy bắt thế mà vẫn đột nhập được vào khuê phòng của Trần nương nương thì e rằng sẽ càng thêm thịnh nộ. Trương Thang không dám chậm trễ, đích thân dẫn người chạy tới phủ Đường Ấp hầu áp tải Lưu Đường về.
Hầu phủ cho bố trí Lưu Đường ở trong lầu khách cách xa nội viện. Lưu Đường bị nhốt một đêm, sắc mặt có vẻ nhợt nhạt nhưng những vết thương trên người đã được băng bó và không hề bị suy sụp tinh thần như lão tưởng tượng. Trương Thang lạnh lùng đánh giá rồi lên giọng, “Lưu Đường, ngươi đã mấy lần hành thích Hoàng thượng và Trần nương nương, vậy đã biết tội chưa?”
Lưu Đường khinh thường đưa mắt nhìn lão một lượt rồi hừ một tiếng, quay đầu đi. Trương Thang cũng không tức giận, ra lệnh cho thuộc hạ đứng chung quanh, “Dẫn đi.”
Bốn gã sai nha lực lưỡng bước lên khoá chặt Lưu Đường lại rồi áp giải đi ra ngoài cửa. Trương Thang trông thấy Lưu Sơ mặc váy áo dài loà xoà đứng ở ngoài cửa bèn vội vàng cúi mình bái chào, “Thần Trương Thang, tham kiến công chúa Duyệt Trữ.”
Lưu Sơ gật đầu, nhìn lướt qua Lưu Đường mặt mũi tái nhợt rồi bảo, “Trương đại nhân, ông phải đối xử tử tế với Đường ca ca của ta đó.”
Trương Thang trầm ngâm một lúc rồi đáp, “Thần đã biết.”
“Tảo Tảo!” Một cô gái xinh đẹp mặc bộ y phục đỏ từ sau phòng khách đi ra nói: “Làm sao con vẫn còn ở đây, mẫu thân đang tìm con đấy.”
Lưu Sơ liền nhanh nhảu đáp lời, “Vâng. Dì Lăng, con đang định về đây.”
Trương Thang nghe vậy liền biết cô gái này chính là Trưởng công chúa Phi Nguyệt nổi tiếng Trường An, quả nhiên là dung nhan rực rỡ đẹp tựa hoa đào.
“Người này là?” Lưu Lăng nhìn Lưu Đường bị áp giải đi.
“Khởi bẩm Trưởng công chúa Phi Nguyệt, người này chính là Lưu Đường, con trai trưởng dòng thứ của Lâm Giang vương ngày xưa. Đêm qua hắn lẻn vào Hầu phủ hành thích Trần nương nương, thuộc hạ đang định giải về phủ Đình úy tra hỏi.”
“Ồ?” Lưu Lăng bất giác ồ lên, “Đi thôi!” Nàng dẫn Lưu Sơ đi về hướng lầu Mạt Vân.
Trương Thang nhìn theo bóng nàng, ngơ ngẩn một hồi rồi xoay người lại ra lệnh, “Đi theo ta. Áp giải Lưu Đường về điện Tuyên Thất gặp Hoàng thượng.”
“A Kiều tỷ không muốn thấy Lưu Đường phải bỏ mạng chứ?”
Trần A Kiều thôi không chơi với con vẹt đang nhảy nhót trong l*иg, mỉm cười nhìn Lưu Lăng đang tha thướt bước vào trong lầu, nói, “Người hiểu tỷ tỷ chỉ có Lăng Nhi vậy.”
“Thế nhưng tỷ tỷ vẫn giao gã cho Trương Thang cơ mà.”
“Trương Thang là người hiểu rõ tâm ý của Hoàng thượng nhất.” Trần A Kiều bình thản trả lời, “Tỷ không biết ý đồ cụ thể của Hoàng thượng đối với Lưu Đường như thế nào? Nhưng cũng không thể vì những điều phỏng đoán mà chậm trễ trị bệnh cho Lưu Đường.”
“Tóm lại là trước hết cứ quan sát một chút đã. Nếu bỏ chạy thật sự thì chính thức phạm tội phản nghịch mất.”
A Kiều cũng không muốn đi hỏi thăm tình hình Lưu Đường để phải gặp mặt Hoàng thượng, chỉ nghe nói rằng Hoàng thượng đã triệu Tiêu Phương đến điều trị cho Lưu Đường. Nàng cũng cảm thấy hài lòng, thì ra Lưu Triệt cũng có những lúc không phải là một người tàn nhẫn.
Cuối mùa xuân năm Nguyên Thú nguyên niên, Hoàng thượng triệu Tư Mã Tương Như ở vùng phía Tây trở về, lại phái Bác Vọng hầu Trương Khiên đi sứ vùng Tây Nam. Các vương tử chư hầu cũng đã biết chuyện Hoàng thượng không hiểu từ đâu tìm ra đứa con lưu lạc Lưu Đường của huynh trưởng Lưu Vinh và phong làm Cú Dung hầu.
Khi Cú Dung hầu Lưu Đường mới phong đi nhận đất, Trần A Kiều dẫn Lưu Sơ đến đưa tiễn. Lưu Đường mỉm cười nghe giọng nói trẻ con non nớt của Lưu Sơ, lơ đãng liếc về hướng chiếc long xa buông rèm che kín đậu ngoài xa. Người con gái trong chiếc long xa kia chắc đang rất hạnh phúc. Cho đến hôm nay thì hắn đã có thể nhận ra ân tình ngày đó nàng che chở cho mình. Phụ thân, hắn thầm nghĩ, chắc là người ấy vẫn còn nhớ đến phụ thân, cũng không uổng công phụ thân nhớ tới người ấy suốt bao nhiêu năm qua. Vận mệnh là cái gì đó thật kỳ quái, có khi chỉ một lần bỏ lỡ mà đau thương vĩnh viễn.
Khi chiếc xe ngựa của Cú Dung hầu bon bon chạy ra khỏi thành Trường An thì câu chuyện tranh đoạt thảm thiết thời Cảnh Đế năm xưa đã đến lúc hạ màn, ngay cả những dư âm cuối cùng cũng tan biến đi trong bối cảnh vui sướиɠ quanh vinh của Đại Hán đang bao trùm cả đất nước. Đến cuối năm Nguyên Thú nguyên niên, dưới sự phối hợp hành động của Tang Hoằng Dương và Lý Thái, chính sách muối sắt quy công đã được mặc nhiên áp dụng trên toàn lãnh thổ Đại Hán. Các vương tử chư hầu cũng có người oán hận nhưng cuối cùng đều phải làm theo lệnh.
Một hôm, Lưu Triệt vời Tang Hoằng Dương đến điện Tuyên Thất, tính toán xem của cải trong khố liệu có đủ để cung cấp dê bò tuấn mã cho quân đội hay không. Các triều thần liền hiểu rằng một cuộc đại chiến quy mô lớn giữa Hán Hung đã bắt đầu được châm ngòi rồi.
Cũng vào năm này, con gái trưởng của hoàng đế Đại Hán Lưu Triệt là Vệ Trường công chúa Lưu Phỉ xinh đẹp duyên dáng ở điện Tiêu Phòng đã ăn mừng ngày sinh nhật tròn mười bốn tuổi của mình. Chuyện hôn nhân của cô liền được đưa vào chương trình nghị sự của hoàng thất.
Vệ Tử Phu gảy đàn thánh thót trong điện Tiêu Phòng, hiểu rằng đây chính là cơ hội tốt nhất của mình. Từ ngày đầu tiên Trần A Kiều trở về Trường An và một lần nữa tiến vào hậu cung thì nàng ta phát hiện ra rằng mình đã không còn hiểu được người con gái luôn rõ như ban ngày của thời xưa nữa. Nếu có thể thì nàng ta tình nguyện được đối mặt với Trần A Kiều tính nóng như lửa đốt nhưng ruột để ngoài da của ngày xưa, hay ít ra cũng không là một đối thủ chẳng biết đường nào mà lần như bây giờ.
Hoàng hậu ở trong cung Vị Ương bị thất thế chính là do Trần A Kiều ra tay, đến khi đoạt lại được sự sủng ái của Lưu Triệt thì nàng lại nhởn nhơ rời cung, tạm trở về ở trong phủ Đường Ấp hầu. Lần tạm trở về này thoáng cái đã gần một năm. Hoàng thượng lại vui vẻ để mặc. Tuy người thường xuyên đi thăm Trần A Kiều nhưng dù sao y vẫn là vua của một nước nên không thể ở lâu lại bên ngoài. Hơn nữa Lưu Triệt vẫn đến qua đêm với các phi tần trong cung Vị Ương như cũ nhưng tính theo số lượng thì lại dường như không bằng ngày trước.
Vệ Tử Phu cảm thấy lòng chua xót. Hoàng thượng ơi Hoàng thượng, năm xưa người gỡ trâm cài tóc của nàng ta xuống mà khen rằng “Mái tóc đẹp quá!” Thế mà dần dần đã không còn giữ hình bóng của nàng ta trong tim nữa. Nàng ta đã từng trao cho y tất cả tấm chân tình nhưng rồi tình yêu cứ từng ngày từng ngày thở thành băng giá. Đôi khi nàng ta thậm chí còn hoài niệm lại thời Trần A Kiều nắm giữ ngôi hoàng hậu, lúc đó nàng ta ở cung Vị Ương mặc dù gian khổ nhưng lại được Hoàng thượng sủng ái, có các con gái tạo thành một gia đình hoà thuận vui vẻ đầm ấm. Sau này y dần dần có nhiều con gái hơn thì cũng mất đi tình cảm đầm ấm này. Đã không còn tình cảm đó, nàng ta cũng chỉ còn cách phải từng bước tìm đường sinh tồn ở trong cung Vị Ương.
“Hoàng hậu nương nương!” Thải Thanh bước lại, thấy nàng ta buồn bã rơi nước mắt thì trong lòng thầm thương xót, khuyên nhủ, “Đêm đã khuya rồi, nương nương nên ngủ đi thôi.”
“Ừ”, Vệ Tử Phu buông đàn, dặn dò, “Ngày mai sai người báo tin cho Thiếu chưởng sứ phu nhân nhé.”
Cuối năm Nguyên Thú nguyên niên, phủ Đường Ấp hầu nghênh đón một vị khách hiếm có.
Trần A Kiều đặt quyển sách trên tay xuống, ngạc nhiên ngẩng đầu lên, “Bình Dương trưởng công chúa tới chơi ư?”
“Dạ!” Lục Y quỳ đáp, “Mọi người nói như thế.”
Bình Dương trưởng công chúa Lưu Tịnh thời thiếu nữ cũng được coi là có quan hệ tốt với A Kiều nhưng đến năm Kiến Nguyên thì trở mặt giúp Vệ Tử Phu làm loạn, sau đó hai người không còn gặp riêng nhau nữa, thế mà bây giờ lại tới chơi là có dụng ý gì? A Kiều ngẫm nghĩ rồi bảo, “Mời Trưởng công chúa vào đi.”
Khi Lưu Tịnh còn là thiếu nữ thì đã nhiều lần tới lầu Mạt Vân, lần này bước vào, trong lòng thầm cảm khái. Thế sự biến đổi quả nhiên ngoài dự liệu của con người.
“Tịnh tỷ tỷ chịu tới phủ Đường Ấp hầu thật sự là rồng tới nhà tôm”, Trần A Kiều ra đón.
“Nhiều năm không gặp rồi”, Lưu Tịnh nhìn nàng, “mà muội vẫn thế, chẳng khác xưa là bao.”
Cả hai đều là những người từng trải sóng gió ở hoàng gia nên dù cho trong bụng có nghĩ thế nào cũng không hề để lộ ra trên mặt.
A Kiều kéo tay Lưu Tịnh đi vào, nói, “Muội muội mới kiếm được một loại lá trà, Tịnh tỷ tỷ không ngại thì nếm thử xem, nếu thích thì mang một ít về uống.”
“Ồ”, Lưu Tịnh liền cảm thấy hứng thú, “Ngay cả hoàng đệ cũng khoe trà ở chỗ A Kiều là tốt nhất, tỷ tỷ quấy quả rồi.”
Trà Bích Loa Xuân do Tang Hoằng Dương tìm ra được trước đây ít ngày được đưa đến, bưng lên thì quả nhiên là hương thơm mê hồn hệt như tên gọi. Lưu Tịnh khen luôn miệng nhưng dù sao thì vẫn có chuyện cần nói nên liền đặt chén xuống, nhìn sang A Kiều.
Trần A Kiều liền xoay người lại, “Lục Y, ta muốn tìm một quyển sách, ngươi ra ngoài lấy giúp ta đi.”
Lục Y lui ra, Lưu Tịnh ướm lời, “Mấy ngày trước, Thiếu chưởng sứ phu nhân đến thăm tỷ, nói rằng Vệ Trường công chúa là anh em họ với Tương Nhi, cũng là chỗ quen biết, nếu có thể giao ước tơ duyên thì đúng là một việc tốt.”
A Kiều chớp mắt, lúc này mới nhớ ra rằng cô con gái luôn cười dịu dàng, cực kỳ giống Vệ Tử Phu cũng đã đến tuổi cập kê. Lần đầu tiên nàng trông thấy Lưu Phỉ ở cung Vị Ương thì đã cảm thán cho vận mệnh của cô, một đại công chúa sớm phải chịu tang vị hôn phu, sau lại bị phụ thân cưỡng ép gả cho phương sĩ Loan Đại, cuối cùng Loan Đại cũng bị Lưu Triệt xử tử khiến cô phát điên lên.
Vị hôn phu lần đầu của cô chính là Bình Dương hầu Tào Tương, người con độc nhất của Trưởng công chúa Bình Dương. Hôm nay, Trưởng công chúa Bình Dương tới đây mà nói thẳng vào vấn đề như thế thì chắc là cũng không định chấp nhận cuộc hôn nhân này. A Kiều phảng phất nhìn thấy lịch sử ở trước mặt nàng dâng lên một con sóng rồi chậm chạp chuyển vào khúc ngoặt.
Thật ra thì ngay từ lúc nàng và Lưu Triệt gặp lại; hay khi Mạch Nhi, Tảo Tảo sinh ra đời, hoặc là sớm hơn nữa vào lúc Hàn Nhạn Thanh xuyên không nhập thể Trần A Kiều, thì lịch sử đã không còn là lịch sử nguyên bản. Theo cách đánh giá của A Kiều thì Lưu Tịnh luôn luôn là một người đầu cơ chính trị, xét theo những thành tựu giành được dưới thời Hán Vũ Đế thì nàng ta đúng là một người vô cùng khôn khéo. Hôm nay Vệ gia không còn oai phong nữa, nàng ta đương nhiên muốn xem xét lại cuộc hôn nhân này.
Lưu Tịnh nhìn Trần A Kiều đầy ý tứ, “Đáng tiếc là Sơ Nhi còn nhỏ, nếu không thì cũng rất là xứng đôi với Tương Nhi.”
Trần A Kiều không biết nên khóc hay cười. Chưa nói đến tuổi tác, cũng không nói có tâm đầu ý hợp hay không, cho dù là mọi chuyện đều tốt thì Tảo Tảo và Tào Tương cũng có huyết thống quá gần, nhất định không thể hạnh phúc.
“Tịnh tỷ”, nàng vào chuyện chính, “Rốt cuộc là tỷ muốn nói cái gì? Nói thẳng đi, A Kiều nghe đây.”
“Tỷ thừa nhận rằng ban đầu đã xem thường muội, chưa bao giờ nghĩ rằng người Triệt đệ yêu thích nhất suốt bao nhiêu năm qua lại chính là muội. Những ân oán năm xưa đến nay cũng đã quá lâu rồi, không cần nhắc lại nữa. Hôm nay, A Kiều muội cũng chưa coi là đứng vững ở cung Vị Ương, nếu như có tỷ tương trợ thì dựa vào địa vị của tỷ ở trong lòng Triệt đệ chắc cũng sẽ không để cho muội thất vọng đâu.”
“Tiên phu Bình Dương hầu qua đời đã nhiều năm, Trường Tín hầu anh dũng cường tráng đến nay còn chưa lập gia đình. A Kiều, hẳn là muội hiểu được ý của tỷ.”
Trần A Kiều nhớ lại câu nói sau cùng của Trưởng công chúa Bình Dương trước khi rời đi.
Yêu? Nàng tự hỏi mình, Lưu Triệt yêu nàng sao. Có lẽ, nhưng nếu nàng vẫn như cũ xung đột vương quyền với y thì chắc y cũng không ngần ngại lần nữa gạt bỏ. Lưu Tịnh quả nhiên là nhà đầu cơ chính trị sắc sảo. Theo lịch sử, nàng ta tái giá với Đại tướng quân Vệ Thanh củng cố tư cách chính trị mà cũng đoạt được quyền lực cho mình. Nàng cho là Lưu Tịnh ít nhiều cũng yêu Vệ Thanh nhưng không ngờ rằng sau khi đánh giá tình hình thì nàng ta lại có quyết định ngược lại như vậy. Nếu như nàng thật sự là Trần A Kiều trước kia thì đương nhiên sẽ không cự tuyệt lời đề nghị này, thế nhưng, nàng không phải. Liễu Duệ cũng không phải là người nàng có thể hoàn toàn sai khiến được. Do tình cờ trùng hợp mà bọn họ cùng tới một thời đại, trong lòng mỗi người đều có một pháo đài, kể cả về chuyện tình cảm, không hoàn toàn tình nguyện thì nhất định không chịu khuất phục. Nàng là thế, Lưu Lăng là thế, Liễu Duệ là thế, Tang Hoằng Dương cũng là thế.
Liễu Duệ đã như vậy thì làm sao có thể bắt hắn vì bất cứ lý do gì phải chấp nhận thành thân với Trưởng công chúa Bình Dương được chứ?Quyển 3 - Chương 45: Mười dặm áo đỏ lòng nặng trĩuTháng Giêng năm Nguyên Thú thứ hai, Hoàng đế quyết định gả Vệ Trường công chúa Lưu Phỉ cho Lý Giai, con út của ngự sử đại phu Lý Thái. Nửa tháng sau, dân chúng thành Trường An vẫn còn xôn xao bàn tán về hôn lễ xa hoa thời thịnh thế khi đương kim Hoàng đế lần đầu tiên gả con gái. Đoàn người đón dâu mặc trang phục màu đỏ trải suốt cả một con đường dài tới mười dặm. Ở điện Tiêu Phòng, Lưu Phỉ mặc lễ phục đỏ tươi như màu máu. “Mẫu hậu!”, cô quay đầu lại lần cuối, giọng nghẹn ngào, ánh mắt u oán.
“Phỉ Nhi ngoan.” Vệ Tử Phu dỗ dành con gái nhưng cũng không ngăn được mình rơi nước mắt, “Chuyện này không thể làm khác được.” Hôn nhân của công chúa Đại Hán vốn mang hàm nghĩa chính trị sâu sắc. Ngự sử đại phu Lý Thái ngày càng được Hoàng thượng coi trọng. Năm nay, thừa tướng Công Tôn Hoằng bệnh ngày càng nặng, Hoàng thượng lại cho trưởng nữ đến Lý gia, dĩ nhiên lộ rõ ý tứ trong đó.
Dùng một cuộc hôn nhân để lôi kéo chức vụ thừa tướng trọng yếu ngoài triều vào trận doanh của Vệ gia là chuyện mà Vệ Tử Phu mong muốn. Vệ Trường công chúa là người thông minh, huống chi Lưu Triệt đã đích thân quyết định nên không thể nuốt lời. Nhưng cô vẫn đăm đắm nhìn ra ngoài điện, khẽ hỏi, “Mẫu hậu, người thử nói xem nếu biểu ca Khứ Bệnh thấy con xuất giá thì có đau khổ không?” Với tính cách dịu dàng kín đáo thừa hưởng từ mẫu thân, thường ngày cô không dám bộc lộ tình cảm của mình vì sợ bị người khác nhòm ngó, nhưng đến lúc này cô không còn giấu được hy vọng. Chỉ cần chàng thất thần vì ta chốc lát thì cũng không uổng ta ái mộ suốt bao năm.
Vệ Tử Phu thấy lòng đau xót, thật ra đứa con gái đáng thương này cũng bị cung Vị Ương làm cho nhỡ nhàng giống như mình. “Dĩ nhiên rồi. Phỉ Nhi của mẫu thân đẹp như thế.” Nàng ta cố tỏ ra tươi tỉnh, nhưng trong lòng hiểu rõ Hoắc Khứ Bệnh đang tăng cường huấn luyện quân Phiêu kỵ chuẩn bị cho cuộc đại chiến Hán Hung sắp tơi, chưa chắc đã cam tâm đến dự buổi hôn lễ này. Lưu Phỉ cười rạng rỡ, vịn tay hỉ nương chậm rãi bước ra khỏi điện Tiêu Phòng.
“Hoàng hậu nương nương!” Thải Vi quỳ gối nói, “Đại hôn lễ sắp bắt đầu rồi, người cũng nên ra ngoài đi thôi.”
“Không vội.” Vệ Tử Phu ổn định lại tâm tư, cười nhạt, “Càng vào những lúc như thế này lại càng phải ăn mặc thật lộng lẫy mới có cơ hội chiến thắng.”
Theo lễ nghi của nhà Hán, công chúa xuất giá phải cùng với hôn phu đến điện Tuyên Đức quỳ lạy từ biệt Hoàng đế và Hoàng hậu rồi mới lên kiệu hoa về nhà chồng.
Lưu Triệt đứng trên điện Tuyên Đức nhìn xa xăm. Vệ Tử Phu hơi cúi đầu bước về phía y. Nàng ta mặc lễ phục màu lục nhạt với đuôi áo rất dài, được hai cung nữ nâng phía sau. Bộ xiêm y của hoàng hậu vốn đã vô cùng trang trọng, lúc này lại toát lên dáng vẻ thướt tha đến kỳ lạ, ai nhìn vào cũng thấy ngưỡng mộ. Đã một năm, y chưa từng gặp Vệ Tử Phu.
Vệ Tử Phu quỳ ở bậc thềm dưới điện bái chào, “Thần thϊếp tham kiến Hoàng thượng.”
“Mời Hoàng hậu đứng lên đi”, y cười nói.
Vệ Tử Phu ngẩng lên, mái tóc nàng ta búi rất chùng, là kiểu tóc của hoàng hậu trong những trường hợp trang trọng nhưng lại rất nhu hòa. Nàng ta không trang điểm, ánh mắt u oán. Lưu Triệt phảng phất như thấy lại Vệ Tử Phu của nhiều năm trước. Lúc đó ở tiền đường của phủ Bình Dương hầu, nàng ta mới vừa tròn đôi tám, động tác mềm mại, hát xong một khúc thì cũng nhìn y bằng ánh mắt dịu dàng như thế. Chỉ là… Lưu Triệt khép mắt, tự hỏi lòng đã chẳng còn tình cảm yêu thương như lúc ban sơ. Thỉnh thoảng, ngay cả y cũng cảm giác bản thân mình cực kỳ tàn nhẫn, một khi trong lòng đã gạt bỏ ai đó thì không bao giờ muốn ngoảnh lại dù chỉ một lần. Vương Thấm Hinh như thế, Vệ Tử Phu cũng như thế. A kiều cũng từng như thế, nhưng cuối cùng nàng lại trở thành ngoại lệ duy nhất.
Vệ Tử Phu ngồi xuống bên phải Lưu Triệt, chiếc áo cổ thấp để lộ làn da trắng nõn nà. Hỉ nương dìu tay Vệ Trường công chúa đi tới dưới điện, tấm khăn trùm đầu màu đỏ ngăn trở tầm mắt Lưu Phỉ khiến cô chỉ biết nhẹ nhàng quỳ xuống bái lạy theo đúng lễ nghi, “Nữ nhi bái biệt phụ hoàng và mẫu hậu.”
Lưu Triệt gật đầu, “Vệ Trường, về nhà chồng phải hiếu thuận với cha mẹ chồng, tuân thủ đạo làm vợ biết chưa?”
“Dạ con biết.”
Lưu Triệt đợi Lưu Phỉ lên kiệu hoa đi xa rồi mới đứng lên, nửa cười nửa không nói, “Tử Phu phải chịu cực khổ rồi.”
Vệ Tử Phu thoáng run người, vội vàng đáp, “Việc này là do thần thϊếp tận lực làm hết chức trách, sao dám kêu khổ.”
“Vậy thì tốt.” Lưu Triệt nhìn mãi cho đến khi nàng ta một lần nữa cúi đầu mới nhẹ nhàng nói, “Tử Phu ở điện Tiêu Phòng suy nghĩ suốt một năm như thế cũng là đủ rồi. Từ hôm nay trở đi trẫm giao lại cung Vị Ương này cho nàng, hy vọng nàng đừng làm trẫm thất vọng nữa.”
Vệ Tử Phu dịu dàng đáp, “Thần thϊếp kính cẩn tuân lệnh Hoàng thượng.”
Lưu Triệt không quay đầu lại, cứ thế bước khỏi điện Tuyên Đức. Vệ Tử Phu đứng dưới bậc thềm của điện Tuyên Đức, từ từ ưỡn thẳng lưng. Thanh đệ, thế này cũng đủ rồi. Nếu như Trần A Kiều không thừa cơ đánh ngã triệt để Vệ gia chúng ta, vậy chúng ta sẽ lại đứng dậy trong thành Trường An này để nghênh tiếp, để xem tương lai sẽ biến hóa kỳ lạ thế nào?
Vệ Tử Phu rưng rưng nước mắt, thu hồi ánh nhìn lưu luyến đang hút theo bóng lưng Lưu Triệt. Cho dù thế nào thì ta vẫn là hoàng hậu trong cung Vị Ương! Trong thiên hạ này chỉ có hoàng hậu là nữ chủ nhân danh chính ngôn thuận duy nhất của tòa cung điện này!
Tháng Ba năm Nguyên Thú thứ hai, thừa tướng Công Tôn Hoằng bệnh nặng lâu ngày cuối cùng đã qua đời. Lưu Triệt ra lệnh an táng trọng thể rồi giao cho bố chồng của Vệ Trường công chúa là Lý Thái làm Thừa tướng.
Cùng tháng này, nỏ liên hoàn do Công chúa trưởng Phi Nguyệt sáng chế đã được kiểm chứng và chế tạo hàng loạt.
Cuối tháng Ba, Lưu Triệt lệnh cho Trường Tín hầu Liễu Duệ làm chủ tướng thống lĩnh hai vạn kỵ binh, dưới trướng có Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh và Trấn Viễn hầu Lý Quảng mỗi người một vạn kỵ binh xuất kích đánh Hung Nô. Người có tâm xem việc này là bằng chứng về địa vị của phi tần hậu cung trong lòng Hoàng Thượng. Thời đại thuộc về Vệ gia sắp đi qua, ngay cả chiến trường là nơi họ chiếm ưu thế và luôn giành thắng lợi cũng bị người khác đoạt mất.
Tiết Thực vừa ra khỏi giáo trường của Phiêu kỵ quân thì trông thấy Hoắc Khứ Bệnh mặc bộ y phục màu vàng còn Triệu Phá Lỗ đang đứng bên cạnh mỉm cười.
“Có chuyện gì thế?” Tiết Thực gật đầu chào rồi hỏi.
Sau khi được triệu hồi từ Bắc Bình về Trường An, Tiết Thực phụng lệnh Hoàng đế gia nhập vào quân Phiêu kỵ với kỳ vọng sẽ đào tạo nên một đội kỵ binh dũng mãnh khác dựa vào kinh nghiệm trong kỵ binh Khâu Trạch. Có thể nói rằng, Lưu Triệt hết sức sủng ái Hoắc Khứ Bệnh nên đã nghiên cứu kỹ lưỡng cả việc chọn người có tuổi xấp xỉ với hắn để dễ dàng hòa hợp. Tiết Thực từng lo lắng bản thân với bối cảnh có Trần thị ngấm ngầm đứng sau sẽ phải hành sự thế nào trong Phiêu kỵ quân, sao cho vừa không phụ ơn tri ngộ của Liễu Duệ vừa không phụ lương tri của kẻ làm quân nhân như mình. Liễu Duệ gạt đi, chỉ nói rằng việc nên làm thì cứ làm, đừng suy nghĩ quá nhiều. Hắn cảm thấy an lòng, càng thêm bội phục nhân phẩm của Trường Tín hầu Liễu Duệ. Một năm trôi qua, hắn cũng dần kết thành giao tình sinh tử với Hoắc Khứ Bệnh ngoài việc là con cháu quý tộc kiêu hãnh thì cũng giống như mình, luôn chân thành son sắt, kính phục kẻ mạnh, một lòng thờ phụng quan điểm tranh đấu công bằng. Có lẽ chính vì vậy mà dù Vệ gia ngày càng ảm đạm, ngay cả Đại tướng quân Vệ Thanh cũng mất đi tín nhiệm thì Hoắc Khứ Bệnh vẫn được Hoàng thượng sủng ái như cũ.
“Lại sắp xuất kích Hung Nô rồi”, Triệu Phá Lỗ hưng phấn, giọng nói không giấu vẻ sốt ruột muốn được chiến đấu. Luyện quân ngàn ngày chỉ dùng trong một khắc. Một thanh kiếm được tôi luyện tốt hay xấu cũng phải kinh qua sa trường mới có thể khẳng định được.
“Đúng vậy!” Tiết Thực bình thản đáp. Hắn không giống như Hoắc Khứ Bệnh lần trước lập công là nhờ may mắn, mà từng trải qua vô số lần chém gϊếŧ trong chiến tranh nên đã sớm mất đi cảm giác sục sôi máu nóng.
“A Thực”, Hoắc Khứ Bệnh không cười, dõi ánh mắt sắc bén chăm chú nhìn Tiết Thực, “Ngươi sẽ trở về dưới trướng Liễu tướng quân hay ở lại Phiêu kỵ quân của ta?”
“Việc này”, Tiết Thực hơi ngần ngừ, “Chắc phải nhờ mệnh lệnh của Trường Tín hầu.” Dù sao thì chủ tướng của lần xuất chinh này là Trường Tín hầu Liễu Duệ chứ không phải là Vệ Thanh.
Ánh mắt Triệu Phá Lỗ thoáng ảm đạm, “Nếu như…” Hắn đột nhiên nhớ tới Tiết Thực liền ngậm miệng không nói nữa.
Tiết Thực cảm thấy một luồng sóng nhiệt chạy lên não, kích động nói, “Sẽ không như vậy đâu, Trường Tín hầu Liễu Duệ tuyệt đối không phải loại người đó.”
Trước khi xuất chinh, Liễu Duệ triệu tập các vị tướng quân tại Trường An để thương thảo việc quân cơ. Sau khi nghiên cứu bản đồ và phân tích tình thế, Liễu Duệ liền cười chỉ vào cửa khẩu Lũng Tây, “Quan Quân hầu, ta muốn ngươi xuất quân từ đó, vượt qua núi Yên Chi, tập kích các bộ lạc Hung Nô như Chiết Lan, Lô Hầu, ngươi có dám nhận lệnh không?”
“Liễu tướng quân”, phó tướng Tô Kiến kinh hãi, “Chiến tuyến thật sự quá dài, Quan Quân hầu lại nhỏ tuổi, sợ không đảm nhiệm nổi.”
Các phó tướng còn lại cũng lộ vẻ lo lắng, thậm chí trong lòng còn nghi ngờ phải chăng Liễu Duệ cố tình mượn cuộc chiến này để trừ bỏ Hoắc Khứ Bệnh được Hoàng thượng sủng ái, nhằm chặt đứt hy vọng cuối cùng của gia tộc Vệ thị.
“Các vị tướng quân”, Liễu Duệ lại lên tiếng, “Sách lược chiến tranh này do Hoàng thượng đích thân định ra.”
Mọi người lập tức im lặng, tâm tư khác nhau. Đôi mắt sáng quắc của Liễu Duệ lại nhìn Hoắc Khứ Bệnh. Hoắc Khứ Bệnh mạnh mẽ ngẩng đầu, ánh mắt toát ra hào khí vặn dặm, dứt khoát nói, “Thuộc hạ Hoắc Khứ Bệnh nhận lệnh.”
Liễu Duệ mỉm cười, ánh mắt lộ vẻ khen ngợi, “Tốt, quả nhiên là giang sơn lại có nhân tài xuất hiện. Trường Bình hầu chắc chắn vui mừng khi có người nối nghiệp rồi.”
“Khứ Bệnh đã nhận lệnh”, Hoắc Khứ Bệnh tối sầm khi nghe thấy danh hiệu của cữu cữu mình, ngẩng đầu, “nhưng có thêm yêu cầu quá đáng là muốn mượn Liễu Duệ tướng quân một người.”
“Ồ?” Liễu Duệ khá bất ngờ nhưng vẫn tươi cười hỏi lại, “Ai vậy?”
“Kỵ Đình hầu Tiết Thực.”
“Tiết Thực được lệnh đặc biệt của Hoàng thượng điều sang Phiêu kỵ quân, dĩ nhiên ta sẽ không điều động.”
Hoắc Khứ Bệnh nhìn hắn một hồi, mới đáp, “Vậy thì tốt rồi.”
Liễu Duệ nói tiếp, “Những người còn lại theo ta tới Bắc Bình hội quân cùng Trấn Viễn hầu rồi thương lượng sau.”
“Ngoài ra…” Liễu Duệ nghiêm nghị, “Chuyện hôm nay mang tính chất cơ mật. chư vị nhớ cho kỹ, không được tùy tiện tiết lộ ra ngoài. Nếu tiết lộ sẽ bị xử theo quân pháp.”
Các tướng quân đều vâng lệnh rời đi, Hoắc Khứ Bệnh lại ôm quyền đứng một bên.
“Sao thế?” Liễu Duệ hỏi, “Quan Quân hầu có gì cần nói sao?”
“Chủ tướng…”, Hoắc Khứ Bệnh hơi chần chừ, “Thật ra chủ tướng không cần phải so sánh như thế.”
“Ngày đó ta là thủ hạ hành quân dưới trướng cữu cữu của ngươi.” Liễu Duệ quay đầu lại nhìn tấm địa đồ rộng lớn bằng da dê treo trên tường, “Vệ tướng quân cũng biết ta là nghĩa huynh của Trần nương nương nhưng không hề sinh lòng hiềm khích. Liễu Duệ ta là người ân oán phân minh.”
Tháng tư năm Nguyên Thú thứ hai, ba vạn kỵ binh dưới sự chỉ huy của Liễu Duệ và Hoắc Khứ Bệnh tiến ra khỏi thành. Trong lần gặp mặt quân vương cuối cùng tại điện Tuyên Thất, Lưu Triệt cười nói, “Trẫm chờ Trường Tín hầu thắng trận trở về, lập nên quân công bất hủ, nếu như thành thân quyến thì chẳng phải càng đáng mừng hơn sao?” Lưu Triệt là em trai nên cũng được biết lòng ưu ái của Công chúa trưởng Bình Dương đối với Trường Tín Hầu.
Liễu Duệ bất giác phiền lòng. Bình Dương công chúa trưởng Lưu Tịnh là cô gái cao quý nhưng xa vời, xinh đẹp thì đúng là xinh đẹp thật nhưng đối với hắn cũng chỉ là một cái bóng mơ hồ. “Không nhớ tới việc này nữa”, hắn tự nhủ.
Phương xa, thảo nguyên đã nhuộm một màu xanh của cỏ xuân bừng bừng sức sống. Chiến tranh đang chực bùng phát, Trường Tín hầu Liễu Duệ cuối cùng cũng nghênh đón thời đại thuộc về mình. Cùng ngày đại quân ra khỏi thành, Lưu Triệt sai người đón Trần nương nương từ phủ Đường Ấp hầu trở về cung Trường Môn.Quyển 3 - Chương 46: Ngựa xéo Hung Nô nức tiếng anh hùngTháng Tư năm Nguyên Thú thứ hai.
Vào ngày xuất chinh, Hoắc Khứ Bệnh thay quân phục, vừa mở cửa phòng thì thấy vẻ mặt lo lắng của mẫu thân.
“Khứ Bệnh”, Vệ Thiếu Nhi thở dài, “Mẫu thân biết con có chí hướng của mình, là người có bản lĩnh khiến cữu cữu của con cũng phải coi trọng. Mẫu thân không thể ngăn cản con xuất chinh, cũng không muốn ngăn cản, chỉ cần khi con gϊếŧ giặc ở trên chiến trường luôn ghi nhớ mẫu thân ở thành Trường An, ở trong phủ Thiếu chưởng sứ này chờ con trở về là được rồi.”
“Mẫu thân”, Hoắc Khứ Bệnh mỉm cười đáp, “Con đã biết.”
Vệ Thiếu Nhi nhìn dáng vẻ oai hùng của con trai đang dắt ngựa rời đi lại không an lòng, dù sao lần này cũng không giống năm Nguyên Sóc thứ sáu có đệ đệ Vệ Thanh bảo hộ, việc nó ra sa trường chỉ là cưỡi ngựa xem hoa. Lần này Khứ Bệnh phải tự mình cầm quân ra chiến trường chém gϊếŧ bằng đao thật kiếm thật vô cùng hung hiểm. Hơn nữa bà cũng hiểu con mình to gan lớn mật không sợ trời, không sợ đất, chỉ e nó lại cứ tìm nơi nào nguy hiểm nhất để xông vào.
“Quan Quân hầu”, Hoắc Khứ Bệnh vừa ra khỏi phủ Thiếu chưởng sứ thì có nội thị từ phía đông đi tới, tay nâng khay tựa như vừa thừa lệnh Hoàng thượng gọi giật lại.
Hoắc Khứ Bệnh nhíu mày, “Có chuyện gì?” Đừng bảo là có biến cố gì đó làm chậm trễ việc hắn xuất chinh.
Nội thị cười nói, “Cũng không có chuyện gì. Hôm qua Công chúa Duyệt Trữ hồi cung, nghe nói mấy ngày nữa Hầu gia sẽ xuất chinh nên một mực đòi Hoàng thượng tới tiễn nhưng không được chuẩn y. Công chúa liền sai nô tài mang tặng Hầu gia lá bùa cầu phúc cho người bình an trở về.” Tiếp đó, nội thị vén tấm lụa phủ bên trên, lấy ra một chiếc túi gấm.
Trong tâm trí Hoắc Khứ Bệnh hiện lên hình ảnh cô bé có khuôn mặt linh lợi. Đến hôm nay, hắn đã không còn cách nào thuyết phục bản thân làm ngơ trước những tình cảm tốt đẹp dành cho cô. Đó là cô công chúa nhỏ được sủng ái nhất của Hoàng đế nhưng không hề đanh đá kiêu căng ngạo mạn mà lại rất thấu hiểu lòng người. Hắn mỉm cười nhận lấy, lên ngựa rồi nói, “Ta biết rồi, hãy chuyển lời cảm tạ của ta tới Công chúa Duyệt Trữ.”
Vệ Thiếu Nhi đứng ở của phủ trông thấy bèn nhíu mày, xem chừng tiểu công chúa của Trần gia vẫn có quan hệ tốt với Khứ Bệnh. Bà biết Khứ Bệnh rất bưởng bỉnh, đã quyết định việc gì thì ngay cả bà là mẫu thân cũng không thể lay chuyển được. Những câu nói của Vệ Tử Phu năm đó ở đình nghỉ chân trong cung Vị Ương hiện lên trong lòng bà.
“Muội muội”, bà thầm nghĩ, “Muội tất không ngờ đến kết quả ngày hôm nay. Khứ Bệnh vốn cao ngạo, rốt cuộc cũng là người phàm, chỉ sợ người nó yêu thương lại chính là cô bé chưa đầy tám tuổi đó.”
Hoắc Khứ Bệnh lên đường, tách đại quân với Liễu Duệ rồi mỗi người đi một hướng. Hắn dẫn Triệu Phá Lỗ, Tiết Thực, Triệu Tín mang theo một vạn kỵ binh với tốc độ nhanh như chớp ra Lũng Tây, vượt dãy núi Ô Sao tới hành lang Hà Tây[1].
[1] Hành lang Hà Tây hay còn gọi là hành lang Cam Túc, về cơ bản là một chuỗi các ốc đảo nằm dọc theo rìa phía bắc cao nguyên Thanh – Tạng. Phía nam là cao nguyên Thanh – Tạng cao vυ't và hoang vắng, phía bắc là sa mạc Gobi và vùng đồng cỏ Ngoại Mông. Ở cực tây, tuyến đường phân làm ba, hoặc đi về phía bắc hoặc phía nam của Thiên Sơn ở hai bên lòng chảo Tarim. Ở cực đông là các dãy núi bao quanh Lan Châu trước khi đến thung lũng Vị Hà và Trung Quốc bản thổ.
“Khứ Bệnh”, Triệu Phá Lỗ thúc ngựa tới bên cạnh hắn, khẽ báo cáo, “Bộ lạc Hung Nô ở ngay phía trước rồi.”
“Ừ.” Hoắc Khứ Bệnh gật đầu. Thảo nguyên dưới nắng xuân khiến cho lòng người ngây ngất nhưng kỵ binh không mang nhiều quân nhu nên phải lấy chiến tranh nuôi chiến tranh. Trên khuôn mặt tuấn tú trẻ trung của hắn thoáng hiện lên một tia sát khí, hắn hạ lệnh: “Gϊếŧ, không để một ai sống sót. Lấy đủ khẩu phần lương thực và nước uống, thiêu hủy toàn bộ những gì còn lại.”
Đây là chiến trường nên không cho phép có lòng từ bi. Từ bi trên chiến trường chính là tàn nhẫn với bản thân mình, đó là đạo lý tất cả mọi người đều hiểu. Không một ai dị nghị, khi kỵ binh cưỡi khoái mã mang giáp sắt công phá xóm làng thì bộ lạc chỉ còn toàn những người Hung Nô già yếu không hề có phản ứng. Rất nhanh, tất cả hóa thành biển máu. Một lúc lâu sau, đại quân lại rời đi cũng nhanh như lúc đến, để lại sau lưng là một biển lửa hoang vắng và thê lương. Chỉ qua sáu ngày ngắn ngủi, Hoắc Khứ Bệnh đã liên tục triệt phá năm bộ lạc Hung Nô. Trước khi người Hung Nô kịp báo tin đến vương đình thì kỵ binh Đại Hán đã vượt qua núi Yên Chi tiến thẳng vào nội địa Hung Nô.
“Khứ Bệnh, nếu chiến bại thì một vạn kỵ binh chúng ta sẽ phải vùi thây ở thảo nguyên, không thể trở về quê hương”, Tiết Thực cưỡi trên tuấn mã lo lắng nói.
“Thì sao?” Hoắc Khứ Bệnh nhướng mày, thản nhiên nói, “A Thực sợ ư?”
“Sợ?” Tiết Thực bị hắn kích liền bộc lộ hào khí, “Lão tử sống đến hôm nay vẫn còn chưa biết chữ sợ viết như thế nào!”
Bọn họ phi ngựa ngược chiều gió. Gió thảo nguyên thổi vù vù tạt vào mặt, lúc đầu họ còn cảm thấy đau rát nhưng dần dần không cảm giác gì nữa. Mỗi người chỉ mang theo khẩu phần lương thực và nước uống đủ cho một ngày, đến nơi nào có nước thì nghỉ ngơi một lát, trên đường hễ gặp bộ lạc Hung Nô nào cũng không hề buông tha. Thảo nguyên bốn bề đều giống nhau, dần dà không còn phân biệt được phương hướng.
“Hay bị lạc đường?” Ngay cả Triệu Phá Lỗ cũng lo lắng, trên vùng thảo nguyên vốn xa lạ đối với người Hán này thì rõ ràng quân Hung Nô chiếm ưu thế hơn hẳn. Nổi tiếng như Phi tướng quân Lý Quảng còn hết lần này đến lần khác bị lạc đường, nếu không có Trường Tín hầu Liễu Duệ thì e rằng cho đến hôm nay vẫn còn đau khổ vật lộn trên con đường phong hầu của mình.
“Không đâu.” Bọn họ đang nằm ngủ dưới bầu trời sao của vùng thảo nguyên. Tiết Thực chỉ vào ngôi sao Bắc Cực sáng rõ trên bầu trời, “Trường Tín hầu từng nói rằng cho dù con người có ở đâu thì vì sao kia vẫn vĩnh viễn chỉ về phương bắc, chỉ cần có nó ở trên trời thì chúng ta sẽ không bao giờ bị lạc đường.”
“Trường Tín hầu đúng là thông tuệ.” Triệu Tín mỉm cười, “Đôi khi ngay cả ta là người Hung Nô cũng không bằng, bản thân ta cũng chưa từng đặt chân tới vùng đất này.”
“Năm đó, nếu không có Trương Tín hầu thì e rằng ta đã đầu hàng Hung Nô từ lâu rồi”, hắn nói đầy cảm khái.[2]
[2] Triệu Tín vốn là một tiểu vương Hung Nô, nhưng đã hàng Hán, quay lại đánh Hung Nô.
“Từ núi Yên Chi đi theo hướng tây bắc là đến núi Cao Lan”, Triệu Tín nghiêm nghị nói, “Người xưa tương truyền núi Cao Lan là thánh địa của người Hung Nô, ở đó tất sẽ gặp đại quân của bọn chúng.”
“Tốt!” Hoắc Khứ Bệnh hào sảng ghé miệng vào bình tu nước ừng ực rồi quăng chiếc bình ra xa, buông gọn, “Ngày mai tiếp tục hành quân!”
Mặc dù thiết kỵ của quân Hán hành quân nhanh như chớp, trên đường đi gặp bất kỳ người Hung Nô nào đều đuổi gϊếŧ, tuyệt không để một ai sống sót, nhưng bọn họ đi cả nghìn dặm trên thảo nguyên nên khi tới được dưới chân núi Cao Lan thì đối phương cũng đã biết là có một đạo thiết kỵ binh như vậy. Dưới chân núi Cao Lan, Hoắc Khứ Bệnh lần đầu tiên kể từ khi rong ruổi trên thảo nguyên đối mặt với một đạo quân Hung Nô hùng mạnh gồm bốn vạn người do những thanh niên trai tráng của hai bộ lạc Hồn Tà, Hưu Đồ tạo thành.
Một vạn kỵ binh giáp chiến với bốn vạn người Hung Nô nhưng không một ai cảm thấy sợ hãi. Những ngày hành quân cấp tốc và tiễu trừ các bộ lạc Hung Nô vừa qua đã làm bùng phát tính hiếu chiến ẩn sâu trong lòng mọi người. Chính những người Hung Nô này đã xâm phạm đất nước họ, hãʍ Ꮒϊếp đàn bà con gái trên quê hương họ, gϊếŧ người nhà của họ. Cuối cùng, cũng có một ngày người Hán tấn công tới tận sào huyệt, tựa như một lưỡi đao sắc bén đâm vào bụng bọn chúng, vậy thì còn có lý do gì để không hăng hái đánh một trận thật sự. Đó cũng chính là mục đích khiến bọn họ hành quân ngàn dặm xa nhà tới đây.
Vào lúc ý niệm “không thành công thì cũng thành nhân” hiện lên trong đầu mỗi binh lính quân Hán thì trận ác chiến bắt đầu nổ ra. Người Hung Nô kinh ngạc trước sức chiến đấu ngoan cường mãnh liệt của quân Hán. Đám người Hán vẫn luôn yếu ớt, chỉ cần dí ngón ty cũng có thể xô ngã trong ký ức đột nhiên mạnh mẽ hung hãn hơn cả đàn sói của Trường Sinh Thiên, khi vó ngựa giày xéo lên tim người Hung Nô thì họ không thể không thừa nhận đây là một đội ngũ hùng mạnh hơn hẳn so với tưởng tượng của mình. Từ lúc giáp chiến đến lúc tạm ngừng, hai bên vẫn duy trì thế giằng co.
Hoắc Khứ Bệnh hạ lệnh cho mọi người nghỉ ngơi dưới chân núi Cao Lan. Hắn đứng một mình trong đêm nhìn lên ngọn núi sừng sững giữa bóng tối. Công bằng mà nói thì ngọn núi Cao Lan này thật ra không hiểm trở bằng Hoa Sơn mà hắn từng vượt qua. Hoắc Khứ Bệnh nhớ lại lời mẫu thân nói trước lúc ra đi. Hắn là đứa con độc nhất của người, nếu không chiến thắng thì hắn sẽ không thể sống sót trở về đoàn tụ, thế nên chỉ được phép thắng, không được thất bại.
Chiếc túi gấm mềm mại vẫn đeo trên ngực hắn trong suốt cuộc hành trình dài dằng dặc từ Lũng Tây đến nay. Hắn không nhớ về những vui buồn cùng ba cô em họ công chúa tôn quý mà chỉ nhớ tới cô bé không thích gϊếŧ chóc kia. Đáng tiếc rằng, hắn lại là kẻ trời sinh ra để gϊếŧ chóc. Ngựa xéo Hung Nô là giấc mộng của hắn. Giờ ước mơ đó sắp được thực hiện khiến hắn không thể ngủ nổi. Hắn nghĩ tới rất nhiều chuyện. Ví như chuyện tranh đấu mãi mãi không ngừng trong hậu cung ở thành Trường An và khuôn mặt phảng phất nét cười của Hoàng thượng. Cữu cữu nói rằng hai cậu cháu nhờ may mắn gặp được một Hoàng thượng như vậy nên mới có cơ hội cưỡi ngựa cầm binh bảo vệ biên cương. Nhưng cữu cữu đã bị liên lụy vào cuộc chiến trong cung đình, đến nỗi phải sống những ngày buồn tẻ, không thể dẫn đại quân tiến vào lãnh thổ của người Hung Nô lần nữa.
Hắn nhớ tới lễ thành thân của Vệ Trường công chúa hồi tháng trước. Hắn cũng đã đến tuổi kết hôn, trước ngày xuất chinh, mẫu thân đã bắt đầu lựa chọn tiểu thư thế gia quý tộc để hắn thành gia lập thất, nhưng giấc mộng của hắn lại nằm ở vùng thảo nguyên này. Vì giấc mộng của mình, hắn chưa bao giờ chuẩn bị sẵn sàng để trở về quê hương. Người như hắn thì làm sao có thể nắm tay một người con gái, hứa hẹn dâng cho nàng cả cuộc đời?
“Khứ Bệnh”, Triệu Phá Lỗ gọi hắn với giọng trong trẻo quen thuộc, “Nghỉ thôi. Hành quân liên tục như vậy cũng mệt mỏi lắm rồi. Nếu không đủ tinh thần thì làm sao chém gϊếŧ bọn Hung Nô được chứ?”
Hoắc Khứ Bệnh nhìn về hướng doanh trại của quân Hung Nô, đôi mắt đen nhánh ánh lên vẻ kiên quyết, “Ta sợ rằng chỉ cần nghỉ một chút là mình sẽ không còn tinh thần nữa.” Hắn mỉm cười đáp rồi phi thân lên ngựa, hô vang, “Tất cả huynh đệ, chuẩn bị xuất kích.”
Trận đánh thứ hai do quân Hán phát động còn kịch liệt hơn cả trận đánh đầu tiên. Người Hung Nô luôn miệng chửi rủa quân Hán xảo trá đã đánh lén khi trời còn chưa sáng, nhưng dưới ánh đao loang loáng như tuyết thì mọi lời oán trách đều trở nên vô nghĩa. Bộ mặt tàn khốc của chiến tranh đã hiện ra trước hai dân tộc, trong số những người đã ngã xuống có kẻ địch, cũng có cả chiến hữu của mình.
Hoắc Khứ Bệnh phất tay ra lệnh, một đội nỗ binh[3] tiến lên, giương nỏ liên hoàn nhằm bắn quân Hung Nô. Trong bóng tối, quân Hung Nô cho đó là cung tên nên không coi trọng. Tên bay vun vυ't như châu chấu, hàng loạt quân Hung Nô nối nhau lớp lớp ngã gục. Thủ lĩnh quân Hung Nô hoảng sợ rút lui, Hoắc Khứ Bệnh dò theo đấu chân, thúc ngựa đuổi theo. Ngựa phi như bay trên thảo nguyên, tiếng vó dồn dập kích động tâm hồn mỗi người. Tướng bại trận trước hết là thua ở khí thế, chỉ lát sau đã bị Hoắc Khứ Bệnh đuổi kịp.
[3] Nỗ binh: Đội quân chuyên dùng nỏ.
Hoắc Khứ Bệnh đánh cho gã từ trên lưng ngựa ngã vật xuống đất, lạnh lùng quát hỏi, “Ngươi cũng xứng làm người Hung Nô sao? Không phải người Hung Nô coi việc chiến bại bỏ chạy là nhục nhã sao?”
Trận này tiêu diệt năm ngàn quân địch, bắt sống con trai của Hồn Tà vương và chém chết một vương gia Hung Nô khác. Quân Hán mệt mỏi rã rời, tựa sát vào nhau ngủ gà ngủ gật. Ánh dương dần tỏa rạng, soi tỏ vùng thảo nguyên hỗn độn những đống thi thể. Hỗn Tà vương dẫn quân tới cứu con trai, hai bên đều đã kiệt sức.
“Các huynh đệ”, Hoắc Khứ Bệnh tung người nhảy lên ngựa, trầm giọng nói, “Đánh xong trận này, chúng ta về nhà.” Chúng ta sống trở về nhà, có cận kề cái chết mới biết sống là chuyện tốt đẹp đến nhường nào.
Quân Hán anh dũng vùng lên, chiến đấu quyết tử, ánh mặt trời ở cuối chân trời đỏ rực như máu người Hung Nô đã đổ xuống, tính mạng ở nơi này không đáng giá một xu.
Cuối cùng quân Hán cũng thắng lợi, ba trận ác chiến tiêu diệt gần chín nghìn quân địch. Từ nay, Hoắc Khứ Bệnh trở thành một truyền thuyết bất bại trong quân đội Đại Hán, cùng với cữu cữu của mình là Trường Bình hầu Vệ Thanh và Trường Tín hầu Liễu Duệ được xưng tụng là ba đại danh tướng tuyệt thế triều Hán Vũ Đế, làm mờ nhạt danh vọng của những lão tướng như Trình Tri Tiết, Lý Quảng…
Khi Hoắc Khứ Bệnh dẫn theo những kỵ binh còn sống trở về lãnh thổ Đại Hán, quân Phiêu kỵ bộc phát hoan hô. Phía đông, Trường Tín hầu Liễu Duệ cũng báo tin chiến thắng. Từ đầu đến cuối, triều Hán Vũ Đế là thời đại của những anh hùng.
Rất nhiều năm sau, mọi người nhìn lại giai đoạn lịch sử này đều cảm khái, tiếc không sinh ra sớm ba trăm năm để được ngắm cảnh huy hoàng cường thịnh đó.
Ngày mồng năm tháng Tư năm Nguyên Thú thứ hai, Liễu Duệ dẫn chủ lực quân Hán gồm hai vạn kỵ binh tới hữu Bắc Bình. Không ai biết Trường Tín hầu Liễu Duệ đã phân nhiệm vụ gì cho Trấn Viễn hầu Lý Quảng ở trong trướng nhưng ngày hôm sau Lý Quảng đã dẫn một vạn kỵ binh của hữu Bắc Bình và của các địa phương xung quanh điều tới biến mất không còn tung tích. Trường Tín hầu Liễu Duệ chỉ huy trung quân từ từ tiến về cánh trái của Hung Nô, nơi nào đi qua cũng thẳng tay tiêu diệt các bộ lạc của đối phương.
Ngày mười ba tháng Tư, đại quân gặp quân tiên phong của Hung Nô do Tả Hiền vương Mãng Thái chỉ huy ở Ô Lan Ba Thác, phân cách bởi bờ sông Nhược Lạc. Mãng Thái cưỡi tuấn mã Hung Nô nhìn sang bờ sông bên kia, thấy trong trướng quân Hán dựng lá cờ thêu chữ Liễu.
“Không được khinh thường Liễu Duệ.” Thiền vu Y Trĩ Tà của Hung Nô đích thân cầm quân xuất chinh lần này đã từng dặn hắn ta trước khi tới đây: “Trong chiến dịch Mạc Nam năm xưa, hắn và bộ hạ đã tự tay bắt được Hữu Hiền vương Lạc Cổ Tư ở Hà Nam. Trung Hành Thuyết từng giao chiến với hắn cũng phải khen ngợi hắn là một nhân tài.” Lúc ấy, hắn ta bĩu môi cho rằng Liễu Duệ chẳng qua lại là một tướng lĩnh bám váy nữ nhân có quan hệ với hoàng đế triều Hán giống như Vệ Thanh trước đây. Hắn ta không thể tin hoàng đế triều Hán ngồi ở thành Trường An phồn hoa xa xôi kia lại may mắn đến như vậy, người thân của những người phụ nữ trong tay y đều là cao thủ hành quân đánh trận. Đứa con út Ngạc La Đa mà hắn ta thương yêu nhất đã chết chính ở trong tay Liễu Duệ năm đó nên hắn ta nhớ kỹ mối thù này suốt hai năm qua. Hắn ta cũng không tin rằng nếu chém gϊếŧ công bằng trên chiến trường thì người Hung Nô có Trường Sinh Thiên che chở lại thua người Hán yếu ớt chỉ ăn lúa gạo lớn lên.
Ngày mười bốn tháng Tư, hai quân hội chiến.
Quân Hán cưỡi tuấn mã vượt sông, bọt nước bắn tung tóe lên người nhau, trong nháy mắt đã chảy xuôi xuống theo áo giáp. Mãng Thái dũng mãnh hơn người, quát lớn một tiếng rồi đứng ở bờ sông hò hét, “Các dũng sĩ Hung Nô, không cho đám người Hán man rợ này bước qua bờ sông Nhược Thủy của chúng ta nửa bước.” Hắn ta quát xong liền vung đao chém vào đùi ngựa một quân Hán khiến con ngựa hoảng sợ chồm vó trước lên. Người lính Hán kia không thể khống chế được dây cương ngã nhào xuống, trong giây lát bị người phía sau giẫm lên. Cũng không ai rảnh rỗi để ý, cho dù chỉ một khắc.
Từ trong trung quân, quân Hán tách ra một tuấn mã trắng tuyền, tướng quân trên ngựa đội mũ giáp màu xám, oai phong lẫm liệt. Người này hừ lạnh một tiếng, đón lấy cây cung cứng từ hộ vệ phía sau, giương cung lắp tên nhắm chuẩn Mãng Thái bắn tới. Mũi tên rít lên xé gió bắn trúng tay phải của Mãng Thái, đầu mũi tên cắm vào tận xương. Mãng Thái đau điếng, suýt nữa đánh rơi cả thanh loan đao đang cầm trên tay, vừa ngẩng đầu thì liền biến sắc, giọng run lên, “Lý Quảng?”
Phi tướng quân Lý Quảng! Viên tướng quân kia chính là Lý Quảng được truyền tụng qua hai câu thơ:
“Ví thử Long Thành Phi tướng trấn
Ngựa Hồ đâu dám vượt Âm Sơn.”
Quân Hán tức thì hoan hô như sấm động, sĩ khí dâng cao. Lý Quảng nhìn chăm chú vùng chiến trường thuộc về mình, chờ đợi bao lâu mới mở ra được cơ hội trời cho này? Trong khoảnh khắc quyết định sinh tử trên chiến trường, dù biết không thể nhưng ông vẫn bất giác nhớ lại lời mà Trường Tín hầu Liễu Duệ đã từng nói khi hai người bí mật họp bàn trong trướng.
“‘Phùng Đường chóng già, Lý Quảng khó phong’, Lý Quảng, ông có biết vì sao mình lại khó được phong hầu như thế hay không? Thân là thống soái ba quân nhưng lại thích cái dũng của kẻ thất phu. Cho dù là dẫn trăm người truy kích Hung Nô hay là tìm đường sống trong cõi chết, chẳng qua cũng chỉ là mạo hiểm. Một người chỉ biết mình thì lấy đâu ra quân sĩ đồng lòng?”
Lý Quảng nín lặng. Ông có tính cách tự phụ, trước giờ vốn chưa từng nghe ai. Nhưng người đối diện chính là Trường Tín hầu Liễu Duệ, nếu như không có Liễu Duệ chỉ điểm trong cuộc chiến Mạc Nam vào năm Nguyên Sóc thứ sáu thì ông cũng không thể nào được phong danh hiệu Trấn Viễn hầu. Nửa đời ông chinh chiến trên lưng ngựa, cuối cùng được phong hầu lại là nhờ một người mới chỉ điểm. Nhưng chính vì ông là quân nhân, hiểu rõ đạo lý quân tử không được phụ dù chỉ một lần ân huệ, nên ngay cả tộc đệ Lý Thái trở thành thừa tướng nhờ vào hôn lễ với Vệ Trường công chúa mà mơ hồ ủng hộ Vệ gia thì ông vẫn nhớ tới ân tình của Liễu Duệ nên không chịu hùa vào.
“Ta giao hai vạn kỵ quân cho ông. Để xem khi Lý Quảng có chiến trường thì sẽ lập nên chiến tích huy hoàng thế nào?”
Lý Quảng chia quân Hán thành bốn phần, luân phiên vượt sông phát động tiến công nhưng chỉ giao chiến một lát thì lui về. Lúc mới bắt đầu, người Hung Nô tin là thật, vất vả ứng phó, rốt cuộc sau mấy lần bị lừa mới tỉnh ra. Mãng Thái ở bờ bên kia giậm chân mắng chửi nhưng toàn tiếng Hung Nô nên quân Hán không hiểu, cũng không thèm để ý. Đến lúc tối mịt,người Hung Nô đã mỏi mệt thì Lý Quảng hạ lệnh toàn lực tiến công. Khi người Hung Nô vừa có phản ứng thì tốp kỵ binh đi đầu của quân Hán đã tới được giữa dòng Nhược Thủy.
Đó là cuộc chiến cực kỳ gian khổ, quân Hán lớp trước ngã xuống lập tức có lớp sau tiến lên, không sợ hy sinh, đạp trên thi thể đồng đội để vượt qua. Thế công mãnh liệt của thiết kỵ Đại Hán đã chia cắt đội hình của người Hung Nô, tiếp đó là cận chiến khốc liệt. Quân Hán vượt trội ở sĩ khí hung mãnh, lại có Phi tướng quân danh chấn Hồ Hán chỉ huy, một mình một ngựa dẫn đầu chém gϊếŧ rất nhiều binh lính Hung Nô. Máu tươi đổ xuống dòng Nhược Thủy rồi chầm chậm xuôi về hạ du, càng lúc càng nhạt. Người Hung Nô tử thương nặng nề, Mãng Thái dẫn tàn quân liều chết chạy trốn về hướng tây bắc.
“Thôi được rồi.” Lý Quảng ngẩng đầu nhìn Mãng Thái đang bỏ chạy, cười hào sảng, “Hắn có thể chạy thoát trận này nhưng phía trước còn có thiết kỵ của Trường Tín hầu chờ hắn.”
Nếu chỉ huy trung quân là Phi tướng quân Lý Quảng, vậy thì Trường Tín hầu Liễu Duệ đi đâu? Quân Hán quay mặt nhìn nhau, không một ai biết đáp án.
Lúc này Trường Tín hầu Liễu Duệ đang dẫn một vạn kỵ binh dưới trướng Lý Quảng, trong đó có cả kỵ binh Khâu Trạch do chính tay hắn đào tạo nên, nổi danh khắp Đại Hán, được xưng Đại Hán song hùng cùng với Phiêu kỵ quân của Hoắc Khứ Bệnh, từ trước đến giờ vẫn chỉ hành quân trong nước, chưa bao giờ đặt chân lên vùng thảo nguyên Mạc Bắc.
Vừa tới thảo nguyên một ngày, Liễu Duệ ngồi trên lưng ngựa ngoảnh lại nhìn mặt trời vừa nhú lên ở phía sau. Người đời đều nói Hoắc Khứ Bệnh dũng cảm mạo hiểm nhưng không biết rằng lá gan của Liễu Duệ còn lớn hơn cả Hoắc Khứ Bệnh.
Liễu Duệ dũng cảm nhưng không mạo hiểm, tất cả mưu lược của hắn đều dựa trên sự hiểu biết sâu sắc về giai đoạn lịch sử này. Nếu như không có chuyện Triệu Tín quy hàng người Hồ thì sau cuộc chiến Mạc Nam, Y Trĩ Tà vẫn nghe theo đề nghị của Trung Hành Thuyết dời vương đình về Mạc Bắc. Vì thế lần này Y Trĩ Tà có thể yên tâm dẫn quân tiến về phía trước, không lo vương đình bị tập kích. Thế nhưng giới hạn xa nhất của việc luồn sâu tập kích là do con người lập nên, chỉ sợ chính bản thân người Hung Nô cũng không thông thạo thảo nguyên bằng Liễu Duệ có ký ức thời hiện đại.
Liễu Duệ luồn sâu tập kích còn thông thạo hơn cả Hoắc Khứ Bệnh về mặt che giấu dấu vết. Vì thế khi hắn lội qua sông Khắc Lỗ Luân, vượt qua núi Sắc Lặc tiến sát tới vương đình Hung Nô thì vương đình không hề hay biết. Cho dù Y Trĩ Tà có chủ ý phân bổ quân lực để đối phó với cánh quân Hán bố trí không biết để làm gì này thì tuyệt đối cũng không ngờ rằng mục đích của quân Hán là nhằm vào sào huyệt của mình.
“Truyền lệnh xuống”, Liễu Duệ không sợ hãi bất kỳ nguy hiểm nào nên không thèm che đậy dấu vết, ra lệnh, “Hễ là người Hung Nô thì đều gϊếŧ sạch.” Hung Nô là một dân tộc dũng mãnh như cỏ dại, lửa thiêu không hết sẽ lại sinh sôi khi gió xuân về. Lúc này hắn đành phải quên đi những gì được giáo dục từ nhỏ mà nhẫn tâm ra quyết định như vậy.
“Nhớ kỹ!” Hắn nghiêm nghị hạ lệnh, “Lưu ý có tin tức của công chúa trưởng Nam Cung thì không được làm tổn hại.”Quyển 3 - Chương 47: Ân tình rơi lệ giữa bụi trầnCon người khi bắt buộc phải lựa chọn thì đầu tiên sẽ che chở cho người thân thiết nhất. Vương đình Hung Nô hùng vĩ là nơi cất giữ thánh vật của Hung Nô, có không ít người quyền quý sinh sống. Liễu Duệ đứng trong đại trướng của vương đình nhìn những pho tượng vàng tế trời thờ phụng vợ chồng Thiền vu.
Thiền vu Y Trĩ Tà hiện giờ của Hung Nô là em trai Thiền vu Quân Thần, chiếm đoạt vị trí thiền vu từ tay cháu mình. Người Hung Nô không coi trọng chế độ cha truyền con nối như người Hán mà chỉ tôn sùng thực lực. Y Trĩ Tà có thực lực nên bọn họ thừa nhận hắn ngồi vào vị trí thiền vu. Thiền vu Y Trĩ Tà có mấy Át chi[1], trong đó có một pho tượng Át chi bằng vàng vẽ mày kẻ mắt, mặt mũi ôn nhu trông không giống người Hung Nô mà trông giống người Hán. Liễu Duệ sầm mặt, đây áng chừng là Công chúa trưởng Nam Cung, người tỷ tỷ của Hán Vũ Đế Lưu Triệt đã được gả cho Hung Nô để cầu hòa.
[1] Át chi: Vợ của thiền vu Hung Nô.
Quá nửa số người trên thế gian ca tụng Vương Chiêu Quân đại nghĩa lẫm liệt nhưng mấy ai từng nghĩ tới một người công chúa được yêu chiều từ thuở nhỏ, một lá ngọc cành vàng thực sự, đã từ biệt Trường An phồn hoa ấm áp một mình tới vùng đất hoang vu xa lạ, đối mặt với kiếp sống cô tịch tàn nhẫn. Nàng không hề muốn sống một cuộc đời cô tịch như vậy. Nhưng đệ đệ của nàng là Hán Vũ Đế danh chấn thiên cổ, uy danh hiển hách cũng không thể trợ giúp cho nàng mà còn làm cho cuộc sống của nàng thêm khổ sở.
Bên ngoài trướng, quân Hán vẫn thảm sát không chút lưu tình. Có một thị nữ mặc trang phục Hung Nô lảo đảo chạy khỏi căn lều vải gần sát đại trướng, một lính Hán nhìn thấy bèn vung đao định chém thì đột nhiên sững lại. Người thị nữ ngẩng lên, khuôn mặt dù đã bao năm dãi dầu phong sương miền Tái Bắc nhưng vẫn còn lưu lại nét ôn nhu đặc trưng của con gái Giang Nam. Thanh đao trong tay người lính đột nhiên nhẹ bẫng. Nếu có thể thì gã cũng không muốn lấy đi tính mạng của đồng bào mình. Hơn nữa người đó còn rời xa quê hương lưu lạc ngoại quốc nhiều năm vì đất nước. Người thị nữ ú ớ mấy tiếng rồi đột nhiên như phát điên, giật những thứ đồ trang sức Hung Nô ném xuống đất, nói bằng tiếng Hán hơi ngọng nghịu, “Mau, đi cứu Át chi của chúng ta”, cô ta tiến lên muốn ôm lấy chân người lính Hán nhưng bị né tránh theo bản năng, “Không phải, là Nam Cung công chúa, nàng bị Mô Hiết điện hạ khống chế rồi.”
“Nam Cung công chúa”, người lính Hán giật mình, dùng đao chém toạc tấm vải trướng, quả nhiên nhìn thấy một tên Hung Nô vẻ mặt quyết tử, tay cầm loan đao đang kề ngang cổ họng khống chế một cô gái mặc trang phục Hung Nô.
“Đám người Hán các ngươi hủy vương đình của chúng ta”, Mô Hiết chỉ vào quân Hán, hung hăng quát lớn bằng tiếng Hung Nô, ánh mắt toát lên vẻ điên cuồng, cười sằng sặc, “Vậy ta sẽ gϊếŧ Công chúa Nam Cung của các ngươi. Dù lần này các ngươi có lập công lớn nhưng nếu hoàng đế người Hán biết được rằng tỷ tỷ của hắn chết ngay trước mặt các người thì các người chẳng những không được ban thưởng mà còn bị xử tử.”
Lưu Đàm bị Mô Hiết dùng loan đao khống chế vẫn ngẩng cao đầu để lộ đôi mắt mỹ lệ mà cương quyết. Bao năm sống ở vùng đất xa lạ này, ngay cả bản thân nàng cũng nghĩ rằng mình đã dần bị đồng hóa thành một người phụ nữ Hung Nô, suốt cuộc đời không được thấy lại bóng dáng đồng bào mình.
“Vậy là đủ rồi.” Nàng thầm nhủ, “Đệ đệ, đệ đã làm rất tôt, không uổng công năm xưa mẫu thân nước mắt lưng tròng tiễn ta xuất giá, không uổng công ta chịu khổ nhiều năm ở đất Tái Bắc này.”
Lưu Đàm nhắm mắt lại rồi ngẩng cổ lao mình vào thanh loan đao, thì thầm, “Nếu như sự tồn tại của ta thành gánh nặng cho Đại Hán thì chẳng bằng để ta trả giá một lần cuối cùng.”
Mô Hiết kinh hãi, vội vàng giảm lực trên thanh loan đao nhưng thanh đao vẫn cứa trên cổ Lưu Đàm một vết thật sâu. “Tiện nhân”, gã giận điên người, trở tay tát Lưu Đàm một cái, “Gan không nhỏ nhỉ.” Cái tát toàn lực của gã hằn dấu trên mặt Lưu Đàm, thân thể vốn yếu ớt mảnh mai của nàng không chịu được, suýt nữa thì ngã nhào xuống đất nhưng cũng không còn khí lực tìm tới cái chết.
Quân Hán thấy Công chúa trưởng Nam Cung bị đối xử như vậy lập tức gầm lên giận dữ, tràn đầy căm phẫn. “Nếu ngươi còn dám đυ.ng vào Công chúa của chúng ta…”, một người giương mạch đao chỉ vào Mô Hiết, “Chúng ta chắc chắn băm thây ngươi thành vạn mảnh.”
Mô Hiết thấy đám quân Hán vừa rồi còn như lang như hổ nhưng lại có vẻ do dự khi Át chi Khế Chư nằm trong tay mình thì tinh thần lại phấn chấn, bên bờ vực thẳm bỗng lóe lên một tia hy vọng sinh tồn. Gã túm tóc Lưu Đàm lần ra khỏi căn lều, quân Hán hận đến ứa máu mắt, muốn ăn sống nuốt tươi, uống máu gã nhưng cũng đành lui bước nhường một con đường cho gã chạy đi.
“Công chúa”, người thị nữ lúc trước khóc lóc ngã quỵ xuống đất. Chẳng lẽ bao nhiêu năm chờ đợi mỏi mòn như vậy nhưng không phải là hy vọng hồi hương mà lại là lệnh bài bán mạng?
Khi Trường Tín hầu Liễu Duệ nghe tin báo chạy tới thì Mô Hiết đang chém đứt dây cương buộc con tuấn mã. Con tuấn mã hí vang một tiếng, chồm hai chân lên rồi chở Mô Hiết và Át chi Khế Chư mà gã ôm cứng trong lòng xông qua quân Hán, chạy thẳng ra khỏi vương đình. Liễu Duệ cũng phi thân lên ngựa. Con ngựa hắn cưỡi tên là Truy Phong, là vua của đám ngựa hoang sinh trưởng ở vùng Đường Cổ Lạp Sơn giá lạnh khủng khϊếp, được Mạnh Tắc Nhiên thuần phục, sau đó tặng cho A Kiều rồi A Kiều tặng lại cho hắn, ngày đi ngàn dặm, khỏe mạnh khác thường.
Thảo nguyên bao la bát ngát chỉ có tiếng gió rít ào ạt bên tai, thổi lớp cỏ xanh rạp xuống mặt đất, không hề có một chỗ ẩn thân. Mô Hiết phóng ngựa điên cuồng nhưng con ngựa phải chở hai người nên không thể nào chạy thoát khỏi Liễu Duệ. Gã nghe tiếng vó ngựa càng lúc càng rõ ở phía sau thì mắt thoáng hiện lên một tia sắc lạnh, cúi đầu nhìn vào cặp mắt sâu thẳm của Lưu Đàm.
Từ khi nàng công chúa người Hán có vẻ xinh đẹp quyến rũ khác hẳn con gái Hung Nô được gả cho Quân Thần thiền vu với số tuổi có thể làm phụ thân của nàng thì các tù trưởng quý tộc trên thảo nguyên cũng bắt đầu như những con sói đói rình rập. Không chỉ Y Trĩ Tả mà ngay cả gã cũng từng mơ mộng về nàng, nhưng vào thời điểm sống chết thì còn có gì là không thể vứt bỏ? Mô Hiết cười lạnh một tiếng, ngồi trên lưng ngựa quay đầu lại hỏi, “Ngươi muốn công chúa của ngươi phải không?” Gã nói thứ tiếng Hung Nô mà Liễu Duệ không thể nào hiểu được, cặp mắt hiện lên vẻ điên cuồng tàn ác, vung tay đẩy Lưu Đàm xuống ngựa, chỉ cần Liễu Duệ dừng lại chăm sóc cho Lưu Đàm là gã có thể chạy thoát.
Mô Hiết nghĩ như vậy nhưng gã không ngờ được rằng một cô gái yếu ớt rơi vào tình cảnh này lại nảy sinh dũng khí dám liều mạng. Khi thân thể còn đang lơ lửng giữa không trung, Lưu Đàm bỗng túm chặt lấy gã khiến gã dùng hết toàn lực cũng không cách nào tránh thoát, lảo đảo suýt ngã khỏi lưng ngựa.
Lưu Đàm cảm thấy nửa thân thể bị kéo lê trên mặt đất rất đau đớn, cảm giác giống như hồi năm kia, khi nàng mất đi đứa con của mình, ở bên trong lều trướng lạnh lẽo lẳng lặng khóc thầm, chung quanh không có một người, một thân nhân nào. Thật ra thì cái chết cũng không đáng sợ, đáng sợ chính là sống cuộc đời cô đơn trống rỗng.
Máu của Lưu Đàm chảy tạo thành một vệt dài, Liễu Duệ cố giục ngựa nhanh hơn nhưng vẫn không kịp, đành nhìn Mô Hiết phía trước mắt rực hung quang, vung loan đao lên chém xuống bả vai Lưu Đàm ngay trước lúc nàng phải buông tay. Hắn thúc ngựa vọt đến bế thốc vị công chúa Hán triều bị số phận đày đọa nhưng lại khiến mọi người ta kính nể, chỉ một chớp mắt nhưng đã là quá lâu, Mô Hiết đã phóng ngựa chạy xa.
Liễu Duệ nheo mắt ngắm trúng lưng Mô Hiết, dùng hết sức lực phóng thanh mạch đao trong tay ra. Thanh đao cắm vào lưng Mô Hiết rung bần bật nhưng không rơi xuống, đủ thấy lưỡi đao cắm rất sâu. Mô Hiết kêu một tiếng thảm thiết, không dám quay đầu lại mà tiếp tục chạy, thoáng cái đã mất dạng.
Công chúa trưởng Nam Cung nằm trong lòng hắn, gương mặt không còn chút sắc máu nhưng vẫn không chịu nhắm mắt, bình tĩnh nhìn hắn, hỏi, “Ngươi là ai?”
“Ta”, Liễu Duệ khẽ mím môi, “Là chủ tướng Đại Hán cầm quân tiến công Hung Nô lần này, Trường Tín hầu Liễu Duệ.”
“Trường Tín hầu”, Lưu Đàm thì thào nhắc lại, “Ta chưa từng nghe tên. Ngươi không biết thần tử Đại Hán gặp bản công chúa thì phải tự xưng là vi thần sao?”
Liễu Duệ không buồn để ý, “Vết thương của Công chúa trưởng cần được băng bó.” Hắn nói rồi bế nàng xuống ngựa, “Xin đắc tội.”
Ở nơi vô cùng lạnh giá như vùng Mạc Bắc, người dính một vết thương như vậy mà không được băng bó thì e rằng chỉ đi lại ngoài trời một thời gian ngắn sẽ chết dần. Lưu Đàm biết rõ điều này, lại ở Hung Nô nhiều năm nên đã sớm phai nhạt lễ giáo nam nữ, liền khẽ gật đầu nói, “Xin làm phiền Hầu gia.”
Liễu Duệ liền cởi bỏ áo khoác, xé một vạt áσ ɭóŧ băng bó cho Lưu Đàm. Nhát đao Mô Hiết chém vào vai Lưu Đàm sâu thấy xương, so với nó thì những trầy xước dưới hai chân do bị ngựa kéo lê thật không đáng kể. Hắn lấy kim sang dược trị liệu ngoại thương vô cùng hiệu quả của Trần A Kiều đắp kín miệng vết thương cho Lưu Đàm, trong lúc lơ đãng liếc sang thấy ngoài vết đao, trên vai còn có những vết sẹo chằng chịt khác.
“Ngươi thấy kỳ quái lắm sao?” Lưu Đàm thản nhiên hỏi, “Ngày trước, vào năm đầu tiên ta được gả cho Thiền vu Quân Thần, có một ngày Quân Thần đi ra ngoài, Đại át chi lão phái người đến lều trướng của ta, dùng đao chém ta bị thương.” Địa vị công chúa Đại Hán tôn quý ở trên vùng đất này chẳng những không đáng được nhắc tới mà trái lại còn là nguyên nhân gây họa, cũng chỉ có thể dựa được vào bản thân mình là người con gái Hán xinh đẹp và ân sủng của hai đời thiền vu.
Liễu Duệ băng bó thật kỹ vai và hai chân của nàng rồi nói, “Sau này Công chúa trưởng trở về Đại Hán rồi thì không còn một ai dám đối xử với người như thế nữa.”
“Về nhà”, Công chúa trưởng Nam Cung nhắc lại vẻ mơ màng, “Ta còn về được sao?”
“Sao lại không?” Liễu Duệ bế Lưu Đàm lên ngựa, cho ngựa quay trở về nhưng lo lắng cho thương thế của nàng nên không dám phi nước đại, “Thái hậu và Hoàng thượng luôn nhớ thương người.”
“Nhưng…” Lưu Đàm có vẻ lưỡng lự, “Trách nhiệm của ta là kết hôn để cầu hòa, mặc dù hôm nay…” Nàng còn chưa dứt lời thì Liễu Duệ đã cười sang sảng cắt ngang, “Kết hôn cầu hòa là thứ kế sách hèn kém trong lịch sử nhà Hán. Đại Hán của ta có đất đai rộng lớn, vô số thanh niên trai tráng, còn có vị quân chủ anh minh và các tướng lĩnh dũng mãnh thì làm sao có thể đổ trách nhiệm tồn vong lên vai một người con gái yếu ớt được chứ.”
Lưu Đàm kinh ngạc trước hào khí của hắn, thấy lòng ấm áp, hồi tưởng lại hình ảnh của mẫu thân và đệ đệ đang nhạt nhòa dần trong trí nhớ của mình. Khi nàng ra đi thì đệ đệ mới chỉ là một đứa bé chừng năm, sáu tuổi, thế mà hôm nay đã trở thành một bậc đế vương mà thiền vu của Hung Nô nhắc tới cũng phải kinh hãi.
“Đại Hán… bây giờ tình hình như thế nào?”
“Tình hình Đại Hán bây giờ rất tốt. Hoàng thượng anh minh, bên ngoài đánh Hung Nô, bên trong phát triển nông nghiệp, quốc gia giàu có phồn vinh. Công chúa trưởng trở về lần này nhất định sẽ rất vui.”
Hai người đang trò chuyện thì thấy quân Hán từ đằng xa đuổi tới. Đoàn quân trông thấy hai người liền cất tiếng hoan hô như sấm động, cùng xuống ngựa đồng thanh bái chào, “Tham kiến Công chúa trưởng Nam Cung, tham kiến Liễu tướng quân.”
Lưu Đàm ngồi trên lưng ngựa, cuối cùng trên khuôn mặt cũng xuất hiện nụ cười thanh thản, mãi đến giờ phút này mới có cảm giác chân thật là được gặp lại người thân cách biệt lâu ngày. “Ta không nghĩ rằng trong suốt cuộc đời mình, quân Hán có thể đánh tới đây. Nên nhớ nơi này chính là Mạc Bắc.”
“Chỉ cần trong lòng con người còn có niềm tin thì mọi kỳ tích đều có thể xuất hiện”, Liễu Duệ mỉm cười.
Vương đình huy hoàng của Hung Nô ngày xưa nay đã thành biển máu. Liễu Duệ phân ra một đội quân hộ tống Công chúa trưởng Nam Cung trở về Đại Hán còn mình thì dẫn phần còn lại vu hồi chặn đánh Y Trĩ Tà.
Ngày mười tám tháng Tư năm Nguyên Thú thứ hai, trong lều lớn của trung quân Hung Nô. Y Trĩ Tà thấy Mô Hiết phi ngựa về báo tin thì quát lên như sấm, “Không thể thế được! Vương đình ở Mạc Bắc, làm sao đám người Hán kia có thể đến đó được chứ?”
“Tất cả đều là sự thật.” Mặc dù Mô Hiết đã được băng bó lại vết thương nhưng sắc mặt gã vẫn còn tái nhợt, “Vương đình đã thành phế tích, Át chi Khế Chư, bọn chúng cũng đã cứu đi.”
Mặt mày Y Trĩ Tà tái mét, ai có thể dễ dàng chịu được mối thù phá nhà, mối hận đoạt vợ, huống chi hắn còn là thiền vu của Hung Nô. Chẳng lẽ là trời xanh đã bỏ Hung Nô? Hắn bỗng nhiên cảm thấy tang thương, nghĩ tới bản thân tự nhận là có thiên phú dũng mãnh phi thường, lại biết nghe lời can gián, có thể coi như minh chủ nhưng sao lại liên tiếp gặp phải khắc tinh Lưu Triệt lẫn đám Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh, Liễu Duệ kia chứ? Vương đình bị tập kích, ngay cả tượng vàng tế trời cũng đã mất, nếu để cho quân đội Hung Nô biết được tin tức này thì chỉ e rằng lòng quân dao động, càng thêm thất bại thảm hại. Y Trĩ Tà quét ánh mắt âm tàn lướt qua Mô Hiết, bỗng nhiên bảo, “Mô Hiết, ngươi cũng mệt rồi, lui xuống nghỉ ngơi trước đi.”
Mô Hiết liền ôm quyền đáp, “Đa tạ Thiền vu!”
Y Trĩ Tà chợt rút loan đao chém ngang cổ Mô Hiết. Đầu Mô Hiết rơi xuống, đến chết gã cũng không hiểu được vì sao gã đã liều chết chạy khỏi vương đình mà vẫn không chạy thoát được số kiếp.
Y Trĩ Tà lớn tiếng hét gọi, “Người đâu?” Thị vệ bên ngoài lều trướng liền vén rèm tiến vào.
“Mô Hiết to gan ý đồ hành thích bản thiền vu”, Y Trĩ Tà thản nhiên nói, “Hiện đã bị chém đầu. Khiêng gã xuống đi.”
Ngày mười chín tháng Tư năm Nguyên Thú thứ hai, Trường Tín hầu Liễu Duệ rút quân về Long Thành, gặp quân đội của Y Trĩ Tà. Mặc dù đã chuẩn bị tâm lý nhưng thấy thiết kỵ của quân Hán xuất hiện ở phía sau thì quân Hung Nô vẫn cảm thấy cực kỳ kinh ngạc. Y Trĩ Tà thấy Liễu Duệ liền tức giận điên cuồng, quát lên, “Các con dân Hung Nô, gϊếŧ chết hết tất cả những tên Hán man dám xâm nhập vào thảo nguyên của chúng ta kia đi.”
Hai quân đối chiến mấy ngày liền vô cùng khốc liệt. Nhiều năm sau, người Hung Nô khi nhắc tới trận chiến này, nhắc tới kỵ binh Khâu Trạch thì vẫn còn tỏ vẻ sợ hãi. Đến ngày thứ ba, cuối cùng trung quân Hán cũng tới. Quân Hán trước sau giáp công, giành thắng lợi hoàn toàn, tiêu diệt gần hai vạn quân địch, gϊếŧ chết Tả Hiền vương, Mạc Hoàn vương cùng tướng quốc và gần một ngàn đô úy, bắt được vô số dê bò trâu ngựa của Hung Nô.
Người Hung Nô liều chết che chở cho Y Trĩ Tà công phá vòng vây, dẫn theo tàn quân chưa đầy ngàn người bỏ chạy về hướng Mạc Bắc, trên đường lại gặp phải một ngàn kỵ binh quân Hán đi hộ tống Công chúa trưởng Nam Cung. Tàn quân Hung Nô đã mất ý chí chiến đấu, mệt mỏi đói khát nên không thể là đối thủ của kỵ binh quân Hán trong thế lấy nhàn thắng mệt, thoáng chốc đã bị vây kín.
Y Trĩ Tà trông thấy Lưu Đàm liền cất tiếng gọi, “A Đàm!”
Lưu Đàm cưỡi ngựa thở dài, đến lúc này mà chẳng lẽ Y Trĩ Tà vẫn cho rằng nàng còn nặng tình vợ chồng tha cho hắn một lần hay sao? Huống chi là giữa hai người vốn cũng chẳng có tình cảm gì đáng kể. Chưa nói đến việc Quân Thần thiền vu còn chưa khuất mà hắn đã nhìn nàng bằng ánh mắt da^ʍ tà, sau khi Quân Thần thiền vu mất đi liền cướp đoạt chiếm hữu nàng.
Đã biết bao nhiêu lần hắn trèo lên người nàng để phát tiết lửa giận đối với Đại Hán, đối với Lưu Triệt? Không có cách nào vượt qua được địa vị hoàng đế nhà Hán ở thành Trường An phồn hoa phía xa, hắn chỉ có thể lựa chọn cách thức làm nhục người thân của người đó để tự lừa dối bản thân về chiến thắng. Giữa hai người luôn có quá nhiều ngăn cách, quá nhiều ứng phó, quá nhiều thô bạo, quá nhiều thù địch, quá nhiều hoài nghi, dù cho thân thể gần nhau như vậy nhưng tâm hồn chưa từng hòa hợp với nhau, mở đầu đã sai rồi thì tất cả đều sai theo.
Lưu Đàm giục ngựa quay đầu bỏ đi. Y Trĩ Tà giận tím mặt nhưng cũng nhận thấy rằng quân Hán đang bảo vệ Lưu Đàm. “Không cần đánh nhau dây dưa với quân Hán, tiến công vào chỗ Khế Chư át chi, chỉ cần bắt được nàng thì đám quân Hán này sẽ không dám làm loạn”, hắn thấp giọng ra lệnh cho đám quân lính chung quanh. Quân Hán phải tách ra một bộ phận lớn để bảo vệ Lưu Đàm nên đành giương mắt nhìn Y Trĩ Tà thoát khỏi trùng vây.
“Bỏ đi”, Lưu Đàm thở dài, “Có đuổi theo cũng không kịp nữa. Chúng ta đi thôi.” Nàng ra roi giục ngựa phi thẳng về hướng đông nam không hề ngoảnh lại.
“Quân ta đánh nhau với Tả Hiền vương Hung Nô ở Ô Lan Ba Thác xong thì vốn phải tới đây sớm hơn nhưng lạc đường trên thảo nguyên mất mấy ngày nên mới tới muộn.” Trong trướng trung quân, Chấn Viễn hầu Lý Quảng ngại ngùng bẩm. Liễu Duệ không nói gì. Lý Quảng có thiên phú đi lạc đường, hắn đành xin chịu thua.
“Chấn Viễn hầu, ông đại thắng trận Ô Lan Ba Thác, lần này hội quân cùng bản tướng đánh bại quân chủ lực của Hung Nô là có công nhưng lạc đường làm hỏng việc quân cơ là có lỗi, ông có phục không?”
Lý Quảng trang nghiêm đáp, “Thuộc hạ phục.”
Quân Hán giành được toàn thắng đã chấm dứt trận đại chiến Hán Hung năm Nguyên Thú thứ hai. Sự rộng lớn hoành tráng của trận chiến khiến cho người đã phát động nó là Vũ Đế Lưu Triệt cũng phải kinh hãi, là trận chiến lưu truyền danh tiếng ngàn thu thời kỳ vũ khí lạnh. Từ đó về sau, Mạc Nam không còn vương đình Hung Nô, còn dân tộc Hung Nô vô cùng dũng mãnh từng hoành hành trên thảo nguyên cũng dần suy bại.
“Liễu tướng quân”, Lý Quảng bẩm, “Quân ta có nên khải hoàn về triều hay không?”
“Chờ một chút nữa đi.”
“Chờ gì nữa?”
“Chờ…”, Liễu Duệ đang nhớ về người con gái xinh đẹp đáng kính trong vương đình của Hung Nô kia, mỉm cười đáp, “Công chúa trưởng Nam Cung.”
“Công chúa trưởng Nam Cung?” Lý Quảng mới đầu hơi sửng sốt nhưng rồi liền vui mừng, “Tướng quân lập nhiều công lớn như thế, trở lại kinh thành tất Hoàng thượng và Thái hậu sẽ trọng thưởng.”
Liễu Duệ phất tay, “Ta phải viết thư báo tin cho Hoàng thượng về tình hình chiến chinh lần này đã.” Lý Quảng hiểu ý, cáo từ lui ra khỏi trướng.
Ba ngày sau, Công chúa trưởng Nam Cung về tới trung quân của quân Hán, Trường Tín hầu Liễu Duệ hạ lệnh thu quân về triều. Khi trông thấy cổng thành quận Sóc Phương, Lưu Đàm ngồi trên ngựa bật khóc nức nở.Quyển 3 - Chương 48: Gió Nam thổi rớt lệ ba xuânTháng Tư năm Nguyên Thú thứ hai, quân Hán rời khỏi thành Trường An không lâu thì bệnh tình của Vương thái hậu lại bắt đầu rục rịch tái phát, nhưng lần này thì không chỉ cung nữ, nội thị của cung Trường Nhạc mà ngay cả bản thân Vương thái hậu cũng không mấy để ý, chỉ bảo cứ tiếp tục uống thuốc theo đơn Tiêu tiên sinh đã kê trước đây. Qua mấy ngày, tuy dần bớt đau đầu nhưng sức khỏe của Thái vẫn không thể hồi phục hoàn toàn. Trần A Kiều nghe được tin này lúc đang sai dỡ bỏ tất cả những địa long sưởi ấm trong điện Bát Nhã, nhíu mày hỏi, “Khi phát bệnh thì Thái hậu đau đầu kịch liệt hay chỉ âm ỷ thôi?”
Lục Y cũng thận trọng, “Nghe người trong cung Trường Nhạc nói rằng lần này phát bệnh không kịch liệt như trước kia, hiện tượng mắt không nhìn thấy cũng không xảy ra nên mọi người rất lạc quan, nói ít ngày nữa sẽ khỏi.”
Sắc mặt Trần A Kiều trầm xuống, “Bọn họ thì biết cái gì?” Nàng lắc đầu, “Thường nói bệnh không sợ nặng mà chỉ sợ không phát. Tình trạng như thế thì bệnh của Thái hậu đã hiểm nghèo lắm rồi.”
Nàng lập tức ra lệnh, “Chuẩn bị sẵn sàng rồi đi theo ta tới cung Trường Nhạc.”
Xe ngựa của Trần A Kiều còn chưa tới cung Trường Nhạc thì bệnh của Vương thái hậu đã lại tái phát. Bệnh tình lần này cực kỳ hung hiểm, bị hôn mê không thể tỉnh dậy làm kinh động đến Lưu Triệt khiến y bỏ hết tất cả chính sự trong điện Tuyên Thất, hầu hạ bên giường bệnh Vương thái hậu. Các thái y hội chuẩn xong đều lắc đầu, không dám bẩm báo. Lưu Triệt giận dữ quát mắng, “Một đám phế vật vô dụng, trẫm nuôi đám thái y các người làm cái gì?” Đám thái y hoảng sợ quỳ rạp dưới thềm, cuống quýt dập đầu, “Thần không có năng lực, thần không có năng lực.” Cũng may Lưu Triệt vốn không trông cậy quá nhiều vào bọn họ, buồn bực nói, “Lui cả xuống đi.” Y ra lệnh cho Dương Đắc Ý, “Mau mời Tiêu tiên sinh tiến cung.”
Vệ Tử Phu bước lên, lựa lời khuyên nhủ, “Tiêu tiên sinh y thuật cao minh, Thái hậu lại là người hiền khắc có trời giúp, chắc sẽ không có việc gì.”
Lưu Triệt nhắm mắt, áp chế nỗi sợ hãi luẩn quẩn trong lòng, “Có lẽ thế.”
Tây Bắc báo về tin chiến sự, Lưu Triệt bất đắc dĩ đứng dậy dặn dò, “Chờ Tiêu tiên sinh tới trị liệu cho mẫu hậu xong thì Tử Phu hỏi tình trạng của mẫu hậu cho trẫm.”
Vệ Tử Phu khép tay áo lại đáp, “Dạ, thưa Hoàng thượng.”
Chỉ lát sau thì Minh Đạt dẫn Tiêu Phương vào. Tiêu Phương hành lễ với Vệ Tử Phu rồi ngồi xuống bên giường, bắt mạch cho Thái hậu hồi lâu rồi sau đó viết một phương thuốc và dặn với vẻ nghiêm trọng, “Theo phương thuốc này, cách hai canh giờ uống một lần.” Hắn lấy kim ra châm vào các huyệt Tình Minh, Nhân Trung trên mặt Vương thái hậu, chỉ thấy bà rên một tiếng rồi dần tỉnh lại.
Vệ Tử Phu thở phào nhẹ nhõm, đi theo Tiêu Phương ra ngoài, hỏi, “Thái hậu đã tỉnh lại, có còn đáng ngại gì nữa không?”
Tiêu Phương lặng lẽ nhìn người phụ nữ xinh đẹp dịu dàng trước mặt, nghĩ đến đêm Nguyên Tiêu biến hóa quỷ quyệt hồi năm trước, “Hoàng hậu nương nương”, hắn không để lộ chút biểu cảm nào, chỉ từ tốn đáp, “Thần phải bẩm báo sự thật là Thái hậu nương nương đã như đèn cạn dầu, không còn biện pháp khả thi.”
Mấy từ thê thảm đó buông ra khiến ngay cả Vệ Tử Phu cũng không chịu nổi, nàng lui về phía sau một bước, ngỡ ngàng khó tin, “Những điều tiên sinh nói là thật sao?”
“Thần cả đời làm nghề y, dù không dám xưng là cao thủ nhưng nếu còn có biện pháp thì đâu dám đem tính mạng của Thái hậu nương nương ra đùa giỡn.”
Vệ Tử Phu bỗng quay đầu lại, cao giọng ra lệnh, “Người đâu, tới điện Tuyên Thất mời Hoàng thượng đến đây.”
Thải Thanh đứng ở đằng xa trông thấy sắc mặt hai người không hề thay đổi thì hiểu rằng tình hình vô cùng nguy hiểm liền khom người vâng dạ rồi nhanh chóng đi ngay. Lưu Triệt trên đường vội vã chạy về trong lòng đã thoáng dự cảm thấy điều chẳng lành. Nhìn sắc mặt Tiêu Phương, y lập tức biết giờ đã là vô vọng nhưng vẫn gặng hỏi, “Thật sự là không thể dùng thuốc được nữa sao?”
“Thái hậu cả đời hao tâm tổn trí, sức khỏe sớm đã suy kiệt. Thần gắng sức điều dưỡng bấy lâu nay nhưng đến bước này cũng đành bó tay.” Tiêu Phương suy nghĩ một chút rồi nói, “Dùng kim châm cứu vào huyệt đạo có thể kéo dài nhưng cuối cùng chỉ có thể dùng nhân sâm duy trì tính mạng mà thôi.”
Lưu Triệt xưa nay vẫn hiểu về y thuật và tính cách của Tiêu Phương nên không ép, mệt mỏi nói, “Làm phiền Tiêu tiên sinh rồi.”
Người người nườm nượp đưa thuốc đến cung Trường Nhạc khiến Vương thái hậu láng máng hiểu ra sự tình. Hơn nữa bản thân bà cũng tự hiểu bệnh tình của mình ngày càng trầm trọng. Một hôm nhân lúc Tiêu Phương châm cứu xong, bà khẽ hỏi, “Tiêu tiên sinh đừng ngại, cứ nói thật xem ai gia còn có thể sống được bao lâu?” Nội thị Minh Đạt đứng sau lưng khóc không thành tiếng.
Tiêu Phương khẽ cân nhắc rồi nói, “Thần tận lực thì có thể bảo đảm nương nương không việc gì trong hơn nửa tháng, những ngày tiếp theo chỉ có thể dựa vào thuốc bổ mà thôi.”
Vương thái hậu gật đầu, tính mạng của bà đã dần đến điểm kết thúc nhưng trong lòng bà lại không có một chút buồn bã ai oán, ngược lại càng thấy thanh thản. Năm xưa bà rời nhà xuất giá về Kim gia, vợ chồng hòa thuận, sinh con gái đầu lòng, đã từng cho rằng cuộc đời mình cứ thế êm đềm trôi đi. Nhưng không ngờ mẫu thân xem một quẻ tượng rồi giành lại bà từ nhà chồng và đưa vào phủ Thái tử. Đôi khi ngẫm lại, bà thấy mặc dù cả đời Triệt Nhi không được gặp mặt bà ngoại nhưng lại giống hệt về tính quả quyết. Sau đó quả nhiên số mệnh của bà cực quý, từng bước đi lên vị trí hoàng hậu, cuối cùng làm chủ cung Trường Nhạc. Nhưng lúc lâm chung, bà hồi tưởng lại cuộc đời mình thì thấy những điều ấy đều thật khiên cưỡng. Đến thời khắc này, bà chỉ thấy thương nhớ con cái của mình. Bà có bốn đứa con gái và một đứa con trai, trừ Đàm Nhi thì những đứa còn lại bề ngoài có vẻ rất hạnh phúc, nhưng là người mẹ, bà lại thấy đau lòng. Vì mấy đứa con bà đều cô độc trong vỏ bọc hạnh phúc của chính mình.
Tu Thành sớm góa bụa, một nách hai đứa con một trai một gái, khó nhọc sinh tồn trong hoàng tộc. Bình Dương cũng trở thành quả phụ, ham hố quyền lực nên e rằng sớm muộn cũng sẽ chạm vào vảy ngược[1] của Triệt Nhi. Đến khi bà không còn trên đời nữa thì Bình Dương sẽ ra sao? Long Lự thời trẻ phóng đãng, đến bây giờ có thấy hối hận hay không?
[1] Trong tác phẩm Thuyết Nan của Hàn Phi Tử có đoạn viết: Rồng là một con vật có thể đùa bỡn, thậm chí có thể cưỡi. Nhưng ở dưới cổ của nó có cái vảy ngược dài một thước. Ai động đến sẽ bị nó gϊếŧ ngay. Các vị vua chúa cũng có cái vảy ngược, kẻ du thuyết không sờ phải cái vảy ngược của vua chúa thì mới là người giỏi.
Còn Đàm Nhi? Người bà có lỗi nhất trong cuộc đời này chính là Đàm Nhi. Vì tiền đồ của mình và Triệt Nhi, bà đã đẩy con gái vào con đường nguy hiểm, dùng hôn nhân để đổi lấy hòa hiếu. Trong số tất cả mấy người con trai con gái của mình, người bà đau lòng nhất chính là Đàm Nhi, còn người bà thương yêu nhất là Triệt Nhi.
Bao nhiêu năm qua, bà theo dõi con trai đi ngày một xa trên con đường của một đế vương, dù vui mừng nhưng cũng lo lắng. Lo nó quên mất bản tâm ban đầu, ngày càng tàn ác lạnh lùng có thể làm tổn hại người thương yêu nhất mà không biết hối hận. Cuối cùng, nó sẽ đứng trên đỉnh cao nhất của thế giới và cũng trở thành người cô đơn nhất, ngoảnh đầu lại cả mẫu thân cũng không còn, biết nương tựa vào ai?
Thời gian như nước trôi qua cầu. Đế vương cũng không thể níu kéo được tính mạng của mẫu thân. Y đành phải triệu hồi tất cả tỷ tỷ của mình về túc trực bên cạnh Thái hậu. Nửa tháng sau, bệnh tình của Vương thái hậu lại một lần nữa nguy kịch. Liễu Duệ từ hữu Bắc Bình báo tin chiến trận nhưng Lưu Triệt không còn lòng dạ nào để xem, y trực bên mẫu hậu nửa ngày, sau đó trở về điện Tuyên Thất, đọc tin báo liền vô cùng kinh ngạc.
“Mẫu hậu”, Lưu Triệt hớt hải quay lại báo tin, ánh mắt ẩn chứa nỗi bi thương sâu thẳm, “Tiền phương báo Trường Tín hầu Liễu Duệ luồn sâu tập kích vương đình Hung Nô, giải cứu được hoàng tỷ Nam Cung. Hoàng tỷ đang trên đường trở về rồi.”
Vương thái hậu nằm trên giường bệnh, ánh mắt chợt sáng lên rồi lại ảm đạm. “Triệt Nhi!”, bà thều thào nói, “Con không cần gạt mẫu hậu.”
“Mẫu hậu, là thật đó.” Lưu Tịnh cũng ở trước giường bệnh, rung rưng, “Tịnh Nhi cũng đã xem tin báo, mẫu hậu hãy vì Đàm muội mà gắng thêm một chút.”
Lưu Triệt phái thị tòng đi đón Lưu Đàm, tới thành Sóc Phương thì gặp đại quân của Liễu Duệ, sau đó Lưu Đàm cùng với thị tòng phi ngựa gấp về kinh thành.
“Trưởng công chúa”, thị tòng không đành lòng nhìn miệng vết thương đã nứt toác trên mình Lưu Đàm, “chúng ta nghỉ một chút rồi hãy đi tiếp.”
Lưu Đàm đang giục ngựa đằng trước quay đầu lại, lạnh lùng quát hỏi, “Ngươi có biết cái gọi là chuyện có nặng có nhẹ?” Mẫu thân nằm trên giường bệnh đau khổ chờ nàng về, lúc này sao nàng có thể nghỉ ngơi?
Sáng ngày mùng sáu tháng Năm năm Nguyên Thú thứ hai, khuôn mặt Vương thái hậu chợt trở nên hồng hào, tinh thần cũng biến chuyển tốt hơn. Lưu Triệt thấy vậy thì trong lòng sầu thảm, biết thời khắc cuối cùng của mẫu thân đã đến.
“Triệt Nhi”, Vương thái hậu hiền hòa nhìn đứa con trai độc nhất, thấp giọng, “Mẫu hậu cầu xin con mấy việc có được không?”
Trong lòng Lưu Triệt đau nhói nhưng y gắng gượng cười lớn, “Mẫu hậu muốn trẫm làm chuyện gì, phàm là chuyện mà trẫm có thể làm được thì lập tức đáp ứng.”
Vương thái hậu chầm chậm nhìn một vòng Tu Thành quân, Bình Dương trưởng công chúa, Long Lự trưởng công chúa đang rưng rưng đứng trước mặt rồi nói, “Nếu mẫu hậu không còn nữa thì con phải hứa với mẫu hậu là sẽ đối xử tử tế với A Thanh, Tử Trọng và Nga Nhi.”
Lưu Triệt gật đầu, “Trẫm tất sẽ làm được.”
“Ngay cả khi Bình Dương và Long Lự có điều gì không đúng thì cũng phải xét trên tình cảm chị em ruột mà đối xử cho tốt.”
“Dạ được!”
Bình Dương, Long Lự và Tu Thành cùng khóc òa lên. Lưu Triệt tự mình cho Vương thái hậu uống nước sâm. Vương thái hậu thở một hơi thật dài, “Triệt Nhi, gọi A Kiều tới giúp mẫu hậu được không?”
Lưu Triệt đặt chén nước sâm xuống, đáp, “Mẫu hậu chờ một chút.”
Trần A Kiều tới cung Trường Nhạc, chờ ở trước cửa điện rồi khoác tay Lưu Triệt cùng tiến vào. Nhìn thấy dung nhan tiều tụy quen thuộc của Vương thái hậu trên giường bệnh, trong lòng nàng dâng lên nỗi bi thương, bái chào: “Thái hậu mạnh khỏe!”
Vương thái hậu liền khẽ cười đáp, “Chắc chẳng cách nào khỏe lên được nữa rồi.”
“A Kiều”, bà nắm lấy tay nàng, âu yếm, “Con biết không? Có một thời gian ta rất ao ước được như con.”
“Trong cung Vị Ương, dù ai gia hay con trai con gái của ai gia cũng không ai có thể sống ngay thẳng được như con. Đáng tiếc, sau này chính Triệt Nhi đã phá hủy mất phần tính cách đơn giản của con, thật có lỗi.”
A Kiều cúi mặt, thời gian chớp mắt một cái, chuyện đã thành lãng quên. Lúc ấy rõ ràng Thái hậu có thể ngăn cản, nhưng lại không làm. Hôm nay lại nói lời xin lỗi còn có ích gì? Có điều đến lúc này thì nàng cũng không muốn trái ý người sắp ra đi.
“Sau khi con hồi cung, ai gia quan sát thấy Triệt Nhi càng quan tâm đến con. Thật ra là mẹ, có lúc ai gia còn hiểu Triệt Nhi hơn chính bản thân nó. Nó vẫn luôn rất yêu con, trước kia đã yêu, hiện giờ càng yêu. Chẳng qua tình yêu trước kia bị lu mờ trước quyền thế. Nó tàn nhẫn với con, con có thể hận, có thể oán nhưng đừng nên oán hận quá lâu. Bởi vì ai gia là mẹ nên không nỡ nhìn con trai mình không hạnh phúc. Nếu như con không thể bỏ qua, vậy ai gia thay nó nói lời xin lỗi.”
A Kiều cảm giác nước mắt đang dần ứa ra, “Người không cần nói như vậy.” Nàng sợ bà không chịu nổi, “Con không thể đáp ứng người được.”
Vương thái hậu lặng đi, “A Kiều, từ khi con trở lại hoàng cung vẫn chưa từng gọi ta một tiếng mẫu hậu.” Nàng không muốn thừa nhận quan hệ với Lưu Triệt nên dĩ nhiên không chịu gọi mẫu thân của y là mẫu hậu. Nàng ngoảnh mặt đi, im lặng không nói gì.
Vương thái hậu thở dài, nhẹ giọng nói, “Con gọi Triệt Nhi vào đây cho ai gia.”
A Kiều gật đầu, định đứng dậy nhưng Vương thái hậu vẫn nắm chặt tay. Nàng không đành lòng giằng ra, bèn cất giọng gọi, “Hoàng thượng!”
Lúc Lưu Triệt vào điện thì nhìn thấy đôi mắt hiền từ của mẫu hậu, vẫn là đôi mắt đã dõi theo y từ lúc bé đến lúc trưởng thành, rồi từng bước trở thành đế vương.
“Triệt Nhi!” Vương thái hậu cầm tay y đặt lên tay A Kiều, “Ai gia hy vọng hai con ngày sau tình cảm tốt đẹp, đừng phụ bạc nhau lần nữa.”
Lưu Triệt cảm thấy bàn tay A Kiều ở bên dưới khẽ run lên nhưng nàng không cố giãy ra, trong lòng y bi thương, “Mẫu hậu, Triệt Nhi nhất định sẽ không để cho người thất vọng.”
Vương thái hậu nhắm mắt, thở dài, “Đáng tiếc là vẫn không thể đợi được Đàm Nhi.”
Trần A Kiều rơi lệ, “Đàm tỷ nhất định sẽ về rất nhanh thôi. Nếu Thái hậu nương nương không đợi được thì tỷ ấy sẽ rất đau khổ.”
Vượt qua ngàn dặm nhưng không kịp nhìn mặt thân nhân lần cuối, nỗi khổ đó sao Lưu Đàm có thể chịu được?
“Hoàng thượng, Thái hậu”, Dương Đắc Ý chạy ào trong hành lang, mừng rỡ, “Công chúa trưởng Nam Cung đã về rồi.”
Lưu Đàm phi ngựa cả chặng đường không nghỉ, về đến Trường An vào giữa trưa. Cửa cung Vị Ương mở rộng để nàng cứ thế phi thẳng vào mà không gặp bất kỳ trở ngại nào. Vừa vào đến nơi, Lưu Đàm cảm giác như rơi vào hầm băng, hét lên một tiếng, “Mẫu thân!” Nước mắt nàng chảy ròng ròng, nhỏ xuống mặt Vương thái hậu nóng hổi, Vương thái hậu gắng hết sức tỉnh lại, nhìn thoáng qua rồi nở nụ cười.
“Hoàng thượng, Công chúa, Trần nương nương”, Minh Đạt nhẹ nhàng tiến lên, rơi lệ nói, “Thái hậu nương nương đi rồi!” Lưu Đàm liền rũ ra không còn chút sức lực, gục xuống người Vương thái hậu lả đi.
Lưu Triệt khẽ bảo, “Để cho Công chúa trưởng Nam Cung nghỉ thêm một lát rồi hãy vời thái y chăm sóc.” Y quay đầu nhìn A Kiều bằng ánh mắt xa vắng, chậm rãi quay người bước ra khỏi điện.
Vệ Tử Phu khẽ bảo cung nữ lui xuống, băng bó vết thương đã toác miệng cho Lưu Đàm xong, ra ngoài điện không thấy Lưu Triệt liền hỏi, “Hoàng thượng đâu rồi?”
Viên nội thị canh giữ ngoài cửa điện quỳ lạy, trả lời, “Hình như Hoàng thượng đến cung Vị Ương.”
Vệ Tử Phu gật đầu, quay lại nhìn vào bên trong cung Trường Nhạc. Bình Dương, Long Lự vẫn đang khóc, Trần A Kiều quỳ gối trước sập, tay trái còn đang bị Vương thái hậu nắm lấy. Nàng ta kinh ngạc nhìn món đồ trang sức có hoa văn tựa như những giọt máu đang nhỏ xuống ở trên giường, bản thân mình lại đang đứng ngoài điện như một người xa lạ. Nàng ta là hoàng hậu chốn cung đình này, thế nhưng Vương thái hậu trước khi chết lại không gọi, thật là mỉa mai biết nhường nào. Vệ Tử Phu buông một tiếng cười rời rạc: “Trở về thôi!” Trong nét cười lộ rõ nỗi đau khổ mà ngay bản thân nàng ta cũng không muốn che giấu thêm. Trở lại cung Vị Ương nàng ta mới biết, khi Lưu Triệt quay về không hề đi đâu mà bước thẳng tới điện Linh Tâm, nơi Vương thái hậu đã từng sống.
Vì liên quan đến mẫu thân nên Lưu Triệt không phân cho phi tần đến sống ở điện Linh Tâm. Mặc dù Vương thái hậu đã rời đến cung Trường Nhạc sau khi Lưu Triệt đăng cơ nhưng điện Linh Tâm vẫn thường xuyến được quét dọn. Có lẽ, đối với Lưu Triệt, nơi đó có ký ức về thời thơ ấu và dấu ấn của mẫu thân. Mặc dù bình thường Lưu Triệt chưa từng thể hiện mình để tâm đến những thứ này, nhưng vào khoảnh khắc mẫu thân vừa mất thì ngay cả một bậc đế vương sắt đá như y cũng có những nỗi đau đớn không nói nên lời.
Vệ Tử Phu đứng ở đình nghỉ chân bên ngoài điện Linh Tâm nhìn vọng về đoàn Kỳ Môn quân đao thương sáng lòa đang tiến qua cửa điện ở đằng xa, lòng dâng lên một nỗi thê lương. Nàng ta cúi đầu, hiểu rõ người mà Lưu Triệt muốn gặp lúc này tuyệt đối không phải là mình. Không biết qua bao lâu, nàng ta bỗng nghe thấy Thải Thanh ở bên cạnh khẽ bẩm, “Nương nương, Trần nương nương cũng tới.”
Vệ Tử Phu lặng người, ngẩng đầu lên nhìn thấy có một người con gái mặc cung trang màu trắng đang đi trên hành lang cung Vị Ương phía trước điện Linh Tâm, trông giống hệt Trần A Kiều từ cách búi tóc cho tới y phục thường ngày. Đến gần thì mới nhận ra đó là Doãn tiệp dư ở điện Cao Môn.
“Ồ, là Doãn tiệp dư!” Thải Thanh kinh ngạc kêu lên, “Cô ta tới đó làm gì vậy?”
Sau khi từ Thượng Lâm Uyển trở về hồi năm Nguyên Thú đầu tiên, Doãn Giai La được chuẩn đoán là đã có mang. Đến tháng Mười thì cô sinh con gái. Lưu Triệt ban tên Hàm, phong tên chữ là Di An nhưng thôi không đến điện Cao Môn với Doãn tiệp dư. Chuyện cá chép hóa rồng cho tới nửa tháng độc chiếm ân sủng năm xưa đã trôi qua như giấc mộng Nam Kha[2].
[2] Giấc mộng Nam Kha: Dùng để hình dung cõi mộng hoặc một ước vọng không tưởng của một người nào đó. Thành ngữ này có nguồn gốc từ cuốn tiểu thuyết Tiểu sử Nam Kha Thái Thú của tác giả Lý Công Tá đời Đường, Trung Quốc thế kỷ IX sau Công Nguyên.
Vệ Tử Phu chỉ nhếch miệng cười nhạt. Cung Vị Ương hoa lệ này từ trước tới giờ vẫn luôn là chốn so mưu đấu trí với nhau, có người được sủng ái, có người thất sủng, có người ngu ngốc, có kẻ xấu chơi. Thật ra thì chơi xấu cũng không phải là không thể, nhưng nếu thủ đoạn không cao thì rất có thể sẽ chết không có chỗ chôn. Doãn Giai La hiển nhiên vì này lựa chọn cách thức được ăn cả ngã về không, không thành công cũng thành nhân.
Cũng chỉ đến mức vậy thôi, một Doãn Giai La đi đường tắt vào hậu cung trong thời gian ngắn thì làm sao có thể so sánh được với nàng ta là hoàng hậu đã cả đời lăn lộn trong cung Vị Ương? Vệ Tử Phu ngồi trên đình nghỉ chân lạnh lùng nhìn Doãn Giai La lao vào một cuộc chiến mà chắc chắn sẽ bị thua ngay từ lúc khởi đầu.
Doãn Giai La đi tới trước điện Linh Tâm liền bị thị vệ canh giữ ở trước cửa điện ngăn lại, lễ phép nói, “Doãn tiệp dư, Hoàng thượng đang ở bên trong, không được tự ý đi vào.”
Giai La hít một hơi thật sâu, bấm ngón tay giữa vào lòng bàn tay rồi thản nhiên hỏi, “Các ngươi chưa từng vào hỏi thì làm sao biết Hoàng thượng không muốn gặp ta?”
Trong điện truyền ra giọng Lưu Triệt trầm trầm, “Ai đấy?”
Các thị vệ đưa mắt nhìn nhau, cao giọng bẩm báo, “Là Doãn tiệp dư cầu kiến.” Lưu Triệt thần người một lúc mới nhớ được Doãn tiệp dư là ai, nhắm mắt không nói gì nữa, thị vệ thì liền thu đao kích lại để cho Doãn Giai La đi vào.
Giai La vào trong điện, đập vào mắt cô là hình ảnh vị đế vương đang nhắm mắt khoanh tay ngồi ở chính giữa, gương mặt khuất trong bóng tối không hiểu ý tứ thế nào. Cô vội vàng hất đầu cho mái tóc đen xõa ra, nghiêng người quỳ xuống trước mặt Hoàng đế, khẽ bái chào, “Giai La tham kiến Hoàng thượng.”
Có mười bốn ngày cực kỳ quan trọng trong cuộc đời cô. Hồi đó, Hoàng thượng từng nhiều lần vuốt ve mái tóc đen dày của cô với vẻ mặt bâng khuâng. Cô gửi gắm tất cả hy vọng cuộc đời mình vào bào thai trong bụng, nhưng cuối cùng cô lại sinh hạ được một bé gái. Cô oán, cô hận, cô cho người bế nó ra thật xa, có gặp cũng làm như không thấy để nguôi ngoai đi nhưng vẫn không chịu được khi nghe tiếng Hàm Nhi khóc để rồi lại giàn giụa nước mắt bế con trở về. Mặt mũi, hàng mi của Hàm Nhi đều giống hệt cô. Săm soi từng chút một, trong lòng cô không khỏi u oán, tại sao nó lại không có lấy một nét giống như vị đế vương oai hùng nhưng xa vời trong mộng kia? Cũng may là môi Hàm Nhi rất mỏng, hoàn toàn giống như y. Cô cúi người xuống đưa tay lướt theo vành môi con gái kia, bỗng chợt trông thấy khuôn mặt nhìn nghiêng của mình trong gương, khuôn mặt thật quen thuộc, thật giống như người con gái kia, người mà cô từng ngưỡng mộ kính nể nhưng giờ đã thành oán hận. Nói cho cùng, nguyên nhân gây ra tất cả những cơ duyên và nỗi tịch mịch của cuộc đời cô chính là vì người đó.Quyển 3 - Chương 49: Qua rồi một giấc mộng trường sinhLưu Triệt lạnh lùng nhìn xuống người con gái đang quỳ dưới điện, nhìn cách cô xõa tóc, cách quỳ gối, trong lòng tràn ngập thất vọng. Y đã từng sớm gặp chiều mong, nhưng chỉ chưa đầy một năm đã quên biệt hình dáng. Những ngày qua, có lẽ vì không được vua ân sủng nên mái tóc cô xơ xác, nét mặt rầu rĩ đáng thương. Nhưng một người rầu rĩ đáng thương như vậy mà lại có tâm cơ thì càng thể hiện càng làm cho người ta chán ghét. Y đau đớn trong lòng, quay đầu lại, lạnh lùng hỏi, “Nàng tới đây làm gì?”
Giai La liền cúi đầu, từ từ nhích tới gần, “Nô tỳ nghe nói…, lo lắng Hoàng thượng buồn khổ nên muốn đến thăm.”
Lưu Triệt ngửi thấy trên người cô tỏa ra một mùi hương nhàn nhạt. Người con gái này cũng đã mất nhiều công phu, không chỉ có áo quần giọng nói mà ngay cả mùi hương trên người cũng bắt chước giống hệt. Y cho rằng mình sẽ say mê nhưng những đau thương lại dội về khiến bản thân không sao nhịn nổi, lạnh lùng quát, “Đi xuống!”
Giai La cứng người, Lưu Triệt khoát tay đẩy cô xuống, cao giọng ra lệnh, “Kéo nàng ta ra ngoài cho ta, giải đến Dịch đình.” Dịch đình là nơi xử trí những cung nhân phạm sai lầm, một khi cung phi vào đó sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời. Giai La trong khoảnh khắc như chìm trong băng tuyết, ngã sụp xuống đất để mặc cho thị vệ bên ngoài điện tiến vào lôi đi.
Từ điện Linh Tâm đến Dịch đình phải đi qua chỗ nghỉ chân trên núi, Vệ Tử Phu từ trên đó hỏi vọng xuống, “Chuyện này là thế nào vậy?”
Thị vệ dừng lại, thi lễ rồi bẩm báo, “Phụng lệnh Hoàng thượng áp giải tội nhân Doãn thị tới Dịch đình.”
Doãn Giai La thấy mái đình phía sau Vệ Tử Phu liền hiểu ra, “Hoàng hậu nương nương vừa nãy ở trên đó đã nhìn thấy Giai La vào điện Linh Tâm phải không?”
Vệ Tử Phu mỉm cười gật đầu, nói, “Giai La đã không còn là một nô tỳ của cung Trường Môn nữa, đáng tiếc là còn chưa biết đủ.”
Sắc mặt Giai La lập tức bừng lên vẻ xấu hổ pha lẫn giận dữ, rủa ngược lại, “Rồi cũng có một ngày Vệ hoàng hậu cũng sẽ đến nước này, cần gì phải làm bộ cáo khóc thỏ chết đây?”
Vệ Tử Phu thôi cười, lạnh lùng nói, “Ngươi có biết, ngươi đã mắc phải hai sai lầm rồi cứ thế từng bước dấn tới?”
“Thứ nhất, Hoàng thượng dù sao cũng là Hoàng thượng, cho dù Thái hậu mới mất, có đau khổ cũng không mất lý trí để cho ngươi mê hoặc.”
“Thứ hai, nếu như Hoàng thượng có thể dễ dàng hồi phục thì cũng đâu thèm liếc mắt nhìn thân hình tiều tụy của ngươi cơ chứ?”
Nàng ta thản nhiên nhìn Doãn Giai La đang tái nhợt, nói tiếp, “Cho nên ngươi có kết quả này thật ra cũng không oan. Đáng tiếc cho Công chúa Di An chưa tròn tuổi đã mất mẹ rồi.”
Doãn Giai La chợt nhớ đến Lưu Hàm còn trong tã lót, đau xót cầu xin, “Hàm Nhi! Hàm Nhi! Vệ hoàng hậu, ta van xin người hãy thay ta đối xử tử tế với Hàm Nhi.” Lời còn còn chưa dứt, người đã khuất xa.
Vệ Tử Phu liền quay đầu lại, thấy cửa điện vẫn đóng kín mít như cũ, lòng tràn đầy bi thương. Vào lúc này, e rằng chỉ có hai người có thể không ngại tiến vào ngôi điện này, chính là Nam Cung công chúa trưởng Lưu Đàm và Trần A Kiều. Nói cho cùng, giữa nàng ta và Doãn Giai La, ai đáng thương hơn ai?
Dương Đắc Ý đứng ở ngoài cửa điện Linh Tâm nhìn Doãn Giai La bị lôi đi thì thầm lo lắng, kéo một nội thị lại bảo, “Đi tìm Trần nương nương đến đây!”
Mọi người tìm khắp cung Trường Nhạc lẫn cung Trường Môn cũng không ra tung tích của Trần A Kiều, mãi hơn một canh giờ sau, các thị vệ mới thấy nàng đang ở trong điện Vân La ngay sát nách cung Trường Môn.
“Chuyện là như thế, mãi đến bây giờ Hoàng thượng vẫn không ra ngoài cho nên Dương công công muốn mời Trần nương nương tới điện Linh Tâm.”
Trần A Kiều ngồi bó gối ở trên điện, hỏi giọng hờ hững, “Ta đến đó thì có lợi ích gì chứ?”
Vương thái hậu mất đi khiến một ký ức đã chôn sâu tận đáy lòng của nàng trỗi dậy. Năm xưa, nàng cũng nắm tay mẫu thân mình như vậy, ứa nước mắt nhìn nét mặt vẫn còn phảng phất nụ cười khi bà ra đi, nỗi đau đớn mẹ mất đâu có phân biệt thời không. Một người đã nuôi dưỡng mình lớn lên rồi mong đợi mình trưởng thành bỗng đột ngột không còn nữa thì cho dù có kiên cường đến đâu cũng có khoảnh khắc lòng dạ rối bời.
“À…” Viên nội thị không ngờ nàng lại hỏi như vậy nên hơi lúng túng, “Nhưng Hoàng thượng đã ở điện Linh Tâm suốt cả buổi chiều rồi.”
A Kiều hơi cúi xuống, “Vệ hoàng hậu đâu?”
“Vệ hoàng hậu chờ đợi bên ngoài điện Linh Tâm, chưa từng đi vào.” Hai người cùng đau khổ thì gặp nhau phỏng có ích gì?
Nàng nhớ tới ánh mắt lưu luyến cuối cùng của Vương Thái hậu, trong khoảnh khắc đó, người đàn bà đầy mưu kế cuối cùng cũng bỏ hết những tính toán, chỉ còn là một người không nỡ rời xa con cái của mình.
Viên nội thị dò xét sắc mặt của nàng, run rẩy nói, “Trần nương nương… Nếu người nhất định không đi thì nô tài có thể bị…”
Nàng than nhẹ một tiếng rồi bảo, “Dẫn đường đi.”
Khi nàng đến điện Linh Tâm thì trời đã gần tối. Dương Đắc Ý nhìn thấy nàng từ xa liền thở phào nhẹ nhõm, khẽ nói, “Cuối cùng thì nương nương cũng đã tới.”
Nàng bước vào mới phát hiện cả ngôi điện tối om, y vẫn ngồi yên trong đó không hề nhúc nhích. A Kiều thắp đèn, ánh sáng ngời lên khiến Lưu Triệt thoáng giật mình, từ từ quay đầu lại, nhìn thấy nàng.
“Kiều Kiều”, y khẽ thốt.
“Là thϊếp đây.” A Kiều gật đầu, đáp, “Mẫu hậu rất yêu người.”
“Ừ.” Giọng Lưu Triệt rất thấp, “Khi còn bé ta không hiểu, cho rằng bà rất lạnh lùng nhưng sau này mới biết rằng trong bất cứ trường hợp nào thì bà cũng luôn vì ta.”
“Đúng vậy.” A Kiều thở dài nhè nhẹ, “Bà yêu người cho nên lợi ích của bà vĩnh viễn trùng với ích lợi của người. Hoàng thượng phải biết rằng ở cung Vị Ương này thì tình cảm và quyền lực không thể song hành nên đó là một chuyện khó mà có được.” Lữ hậu chưa chắc đã không thương Lưu Doanh nhưng chính bà đã làm thương tổn con trai của mình. Thích phu nhân cũng yêu Như Ý nhưng lại không đủ thông minh nên không bảo vệ được lợi ích cho con mà cuối cùng phải bỏ mạng.
Bên cạnh có A Kiều nhưng chắc nàng cũng chỉ yên lặng đứng đó. Lưu Triệt bỗng cảm thấy nỗi đau đớn trong lòng dịu xuống, điện Linh Tâm trở lại yên bình.
A Kiều nằm lên giường, chìm vào giấc ngủ, khi tỉnh lại thì trời đã sáng, nhìn quanh không thấy bóng dáng Lưu Triệt.
“Nương nương”, Tiểu Dung đẩy cửa bước vào, thấy nàng liền mỉm cười chào.
Nàng hất tung chiếc chăn gấm đắp trên người, “Hoàng thượng đâu rồi?”
Tiểu Dung khom người bẩm báo, “Hoàng thượng đã đi từ lâu, dặn cứ để nương nương ngủ cho trọn giấc.”
A Kiều gật đầu, đứng lên mở toang cửa sổ. Ánh nắng ban mai đầu hè chiếu vào ấm áp, nỗi đau khổ vẫn lẩn khuất trong lòng nàng cũng dần phai nhạt.
Lưu Triệt chôn cất mẫu hậu ở Dương Lăng, hợp táng cùng phụ hoàng Hán Cảnh Đế Lưu Khải.
Lễ pháp của Tây Hán kế thừa những ước định của nhà Chu. Trước đây Hán Văn đế có viết trong di chiếu: “Đời người có sinh có tử, mai táng long trọng thì hỏng sự nghiệp, lễ bái nặng nề thì hại đời, trẫm không theo. Lệnh xuống trong vòng ba ngày cấm mọi người lấy vợ gả con, chơi bời ca hát, uống rượu ăn thịt. Người trong cung phải cúng tế đủ mười lăm lần mỗi ngày, đủ mới được nghỉ. Sau đó (khi đã mai táng), mặc trang phục Đại hồng mười lăm ngày, Tiểu hồng mười bốn ngày, Tiêm bảy ngày mới thôi.” Đời sau theo lệ nên đại tang Hoàng thái hậu không sai không thiếu một điểm nào trong những lễ nghi phức tạp đó, đến khi mọi việc xong xuôi, người trong cung cởi bỏ ba mươi sáu ngày tang phục thì đã là cuối tháng Sáu.
Nam Cung trưởng công chúa Lưu Đàm sau mấy ngày ngủ mê man cũng dần bình phục. Niệm tình Nam Cung trưởng công chúa nhiều năm không về nhà, Lưu Triệt lệnh xuống để nàng tạm thời ở trong cung Trường Nhạc, coi như làm nguôi đi một chút nỗi nhớ mẫu thân.
Vệ Tử Phu sau khi bận bịu lo xong tang lễ cho Hoàng thái hậu liền tới cung Trường Nhạc gặp mặt Nam Cung trưởng công chúa. Lưu Đàm nhìn Vệ Tử Phu với vẻ mặt lạ lẫm xa cách, “Hoàng hậu Đại Hán… không phải là A Kiều sao?” Nàng vẫn nhớ rằng Lưu Triệt và A Kiều thời niên thiếu có tình cảm rất sâu đậm, Lưu Triệt từng hứa hẹn nếu lấy A Kiều làm vợ sẽ xây lầu vàng cho A Kiều.
Vệ Tử Phu lúng túng, nội thị đứng bên bước lên nhẹ giọng bẩm báo, “Trưởng công chúa ở đại mạc xa xôi nhiều năm nên mới không biết chuyện Trần hoàng hậu đã bị phế truất từ hồi năm Nguyên Quang thứ năm và bãi lui về cung Trường Môn rồi.”
Lưu Đàm khẽ ồ lên một tiếng, “Thế nhưng hôm trước ở bên giường mẫu hậu, ta còn tận mắt nhìn thấy A Kiều cơ mà.”
“Đó là vì Thái hậu trước khi ra đi đã cho gọi Trần hoàng hậu tới.”
Vệ Tử Phu và Lưu Đàm nói toàn những lời khách sáo, Lưu Đàm từ đầu đến cuối vẫn luôn tỏ thái độ lạnh nhạt khiến Vệ Tử Phu thầm bực bội. Nàng ta bèn tìm cớ quay về điện Tiêu Phòng.
“Đó là Nam Cung trưởng công chúa mà.” Thị nữ Thải Thanh lo lắng.
Nam Cung trưởng công chúa là người mà Hoàng thượng và Thái hậu nhớ thương nhiều năm, cam nguyện rời xa cố hương kết hôn cầu hòa với thiền vu Hung Nô vì địa vị của mẫu thân và đệ đệ ở hoàng gia, nên có lẽ Công chúa ở trong lòng Hoàng thượng còn có trọng lượng hơn cả Bình Dương, Long Lự. Huống chi nàng vừa trưởng thành đã rời khỏi đất nước, không quan hệ tới cuộc chiến tranh đoạt quyền thế khốc liệt trong thành Trường An.
Vệ Tử Phu thở dài, “Chính vì vậy mà nàng ta không cần suy nghĩ quá nhiều giống như những người khác.” Nam Cung trưởng công chúa lớn lên cùng với Trần hoàng hậu, lại do nghĩa huynh của Trần hoàng hậu là Trường Tín hầu Liễu Duệ đích thân đánh tới tận vương đình cứu về, ai có thể so được với mối giao tình như vậy?
Chuyện phong thưởng cuộc chiến Hà Tây Mạc Bắc trì hoãn mãi bởi đại tang của Thái hậu và chuyện Nam Cung trưởng công chúa trở về cuối cùng cũng đã đến. Trong điện Tuyên Thất, Lưu Triệt tuyên chiếu thiên hạ, Trường Tín hầu Liễu Duệ thống soái tam quân, bất ngờ tập kích vương đình Mạc Bắc cứu Nam Cung trưởng công chúa trở về nên lập công đầu, ban thêm bốn ngàn hộ làm thực ấp, là vạn hộ hầu trẻ tuổi nhất dưới triều Hán Vũ. Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh, thanh niên dũng cảm, diệt gần vạn địch, bắt sống vô số, ban thêm hai ngàn năm trăm hộ làm thực ấp. Trấn Viễn hầu Lý Quảng đánh bại Tả Hiền vương Hung Nô bên bờ sông Nhược Thủy sau đó hội quân với Liễu Duệ hợp kích Long Thành, lập chiến công lớn nhưng đi lạc đường suýt làm hỏng việc quân cơ, xét công lớn hơn nên thêm năm trăm hộ làm thực ấp, nộp năm trăm lượng vàng bù tội.
Hoắc Khứ Bệnh quỳ xuống tạ ơn nhưng thoáng tỏ vẻ do dự, Lưu Triệt trông thấy bèn hỏi: “Khứ Bệnh có chuyện gì vậy?”
Hoắc Khứ Bệnh liền chắp tay bẩm, “Khứ bệnh nguyện đổi phong thưởng lấy lòng khoan thứ của Hoàng thượng đối với cữu cữu, hy vọng Hoàng thượng có thể cho cữu cữu tiếp tục ra chiến trường.”
Lưu Triệt sa sầm mặt, nếu người quỳ dưới điện không phải là Khứ Bệnh mà y ưu ái nhất thì chắc đã nổi giận, nhưng vẫn lạnh lùng hỏi, “Khứ Bệnh cho là trẫm đã xử tệ với Trọng Khanh sao?”
Hoắc Khứ Bệnh tái mặt, “Khứ Bệnh không dám.”
“Công là công, thưởng là thưởng”, Lưu triệt phất tay, “Lui ra đi!”
Lý Quảng lo lắng nhìn Hoắc Khứ Bệnh. Dù thế nào thì Hoắc Khứ Bệnh vẫn là một tướng tài, nếu vì đắc tội Hoàng thượng mà mất đi ân sủng thì Đại Hán sẽ tổn thất lớn. Nhưng ông không liếc thấy nét cười thấp thoáng trên khóe miệng Liễu Duệ. E rằng Lưu Triệt đánh giá cao nhất là tính cương quyết cao ngạo, ngay thẳng hào sảng của Hoắc Khứ Bệnh, nhìn hắn mà phảng phất thấy bóng dáng của mình, chỉ cần Hoắc Khứ Bệnh không thay đổi tình tình thì Lưu Triệt vẫn sẽ luôn ưu ái.
“Đáng tiếc!” Liễu Duệ khẽ nhíu mày, “Một Hoắc Khứ Bệnh như vậy còn sống được bao lâu nữa đây?” Hắn trông theo Hoắc Khứ Bệnh đang rời khỏi điện Tuyên Thất đi về phía xa.
Thị nữ đứng chầu ngoài hành lang điện Tiêu Phòng quỳ gối nói, “Quan Quân hầu, Hoàng hậu nương nương cho mời.”
Hoắc Khứ Bệnh không trả lời, chỉ gật đầu rồi đi theo cô ta về hướng điện Tiêu Phòng.
“Khứ Bệnh”, Vệ Tử Phu vịn tay Thải Vi thong thả từ trên điện Tiêu Phòng bước xuống, nhìn hắn vẻ hài lòng, “Cháu lớn thật rồi, đã dần trở thành một nam tử hán thực sự.”
Hoắc Khứ Bệnh cúi người nói, “Thần, Hoắc Khứ Bệnh tham kiến Hoàng hậu nương nương.”
“Đứng dậy đi!” Vệ Tử Phu gật đầu, “Khứ Bệnh, năm nay hình như cháu cũng đã hai mươi tuổi rồi nhỉ.”
“Dạ, cả tuổi mụ hai mươi.”
“Thế thì cũng đã đến tuổi thành hôn rồi. Khứ Bệnh đã có ý trung nhân chưa?”
Hoắc Khứ Bệnh lắc đầu, “Khứ Bệnh một lòng ở trên chiến trường nên không có thời gian để ý đến việc này.”
Vệ Tử Phu bất giác nhớ tới người con gái cả của mình là Vệ Trường công chúa Lưu Phỉ đã xuất giá được mấy tháng. Nó có thân phận cao quý, nhà chồng không dám bạc đãi, vợ chồng cũng có thể coi là hòa thuận, nhưng nàng ta vẫn nhận ra vẻ u oán nhàn nhạt trong nụ cười dịu dàng của nó mỗi lần hồi cung.
“Bản cung và mẫu thân của cháu sẽ chọn cho cháu một vài tiểu thư thế gia quyền quý môn đăng hộ đối của thành Trường An”, nàng ta mỉm cười để khỏa lấp tâm trạng, “Nếu Khứ Bệnh thấy thích thì chọn lấy một người mà thành hôn trong năm nay đi để cho mẫu thân được yên lòng.”
Hoắc Khứ Bệnh trong bụng bất mãn nhưng vẫn từ tốn hỏi lại, “Nếu nói về tuổi tác thì chẳng phải cữu cữu cũng vẫn chưa lập chính thê ư? Sao Hoàng hậu nương nương lại không dành tâm tư lo lắng cho cữu cữu chứ?”
Vệ Tử Phu sững sờ, đau khổ cúi đầu xuống, “Cữu cữu của cháu… đã có tỳ thϊếp chứ không giống như cháu.” Từ trước đến giờ, Trường Bình hầu Vệ Thanh vẫn lưu giữ lại vị trí chính thê với hy vọng có thể giúp Vệ gia lên cao thêm một tầng vào thời điểm thích hợp. Nhưng mà ngay cả nàng ta gần đây cũng không hiểu rõ ý tứ của đệ đệ.
Hoắc Khứ Bệnh bỗng nhiên đứng lên nói, “Ý tốt của nương nương, Khứ Bệnh tâm lĩnh. Nhưng nghe ý tứ Hoàng thượng thì chắc sắp tới lại định phái quân xuất chinh, Khứ Bệnh sợ rằng không có thời gian suy nghĩ những việc vặt vãnh này. Khứ Bệnh cáo từ.”
Vệ Tử Phu nhìn theo bóng Hoắc Khứ Bệnh rời xa, khẽ nhíu mày. Người của Vệ gia vốn có tính cách bình lặng, hiếu thuận, sao lại nảy ra loại người cao ngạo chỉ làm theo ý mình như Khứ Bệnh? Nếu là Trọng Khanh… nàng ta thở dài, xét cho cùng chính mình đã làm liên lụy Trọng Khanh thì còn có thể nói được gì đây?
Lưu Triệt đang xử lý chính sự trong điện Tuyên Thất thì chợt nghĩ ra là đã tới giữa mùa hè, theo thông lệ thì sẽ tới cung Cam Tuyền tránh nóng. “Dương Đắc Ý”, y truyền gọi.
“Hoàng thượng”, Dương Đắc Ý khom người đáp.
“Chuẩn bị xe ngựa, trẫm muốn tới cung Trường Môn.”
Long xa vừa tới ngoài cung Trường Môn thì Lưu Triệt đã nghe thấy một điệu đàn rất êm tai. Y biết sở trường của A Kiều là khúc điệu mới lạ chứ không phải là kỹ thuật chơi đàn. Tiếng đàn này chân phương điêu luyện, tuy chỉ là một khúc điệu thông thường nhưng biểu lộ tài nghệ cực cao của người đánh đàn, y không khỏi kinh ngạc hỏi, “Ai đang chơi đàn ở trong cung Trường Môn vậy?”
“Nghe nói rằng hôm nay Trần nương nương mời Tư Mã phu nhân tới cung Trường môn. Tư Mã phu nhân là tài nữ nổi danh đất Thục, chắc người chơi đàn vừa rồi là nàng ta”, Dương Đắc Ý ở ngoài xe bẩm báo. Hắn biết Hoàng thượng nhung nhớ Trần nương nương nên luôn để ý hơn mọi động tĩnh trong cung Trường Môn. Lưu Triệt gật đầu, nhớ lại A Kiều từng đề cập với y chuyện này, đồng thời còn muốn mời cả Đan Dương hầu phu nhân Kim Nga và Lưu Tế Quân.
Nói đến chuyện này quả thực khó tin. Kim Nga thu nhận nuôi dưỡng Lưu Tế Quân chưa tới một năm thì quả nhiên có mang. Tế Quân lại ngoan ngoãn nên ở phủ Mạt Lăng hầu rất được sủng ái. Kim Nga nghĩ tới lời nói của Lưu Lăng lúc trước, hơn nữa nàng ta xem cô bé là người mang lại tất cả mọi may mắn nên yêu quý như châu báu. Con người ai cũng có duyên số của mình, vào thời điểm Tế Quân là tội thần thì chẳng ai lường trước được sẽ có ngày hôm nay.
Lưu Triệt bước vào cung Trường Môn liền nghe một giọng nói uyển chuyển, “Văn Quân nghe nói nương nương mới là tài nữ tuyệt thế, thơ văn lỗi lạc, từng gảy những khúc đàn mới lạ mà tinh xảo.”
Nội Thị ngoài điện trông thấy Lưu Triệt liền vội vàng bái chào, “Bái kiến Hoàng thượng.” Trác Văn Quân ở trong điện không kịp tránh, đành phải theo mọi người làm lễ ra mắt.
“Trẫm nghe những lời vừa rồi của Tư Mã phu nhân”, Lưu Triệt cười hỏi, “phải chăng là bạn cố tri của Kiều Kiều?”
Trác Văn Quân cúi đầu đáp, “Ngày trước khi Trần nương nương ở bên ngoài đã từng có duyên gặp mặt với vợ chồng thảo dân một lần ở lầu Thanh Hoan.” Lưu Triệt chỉ khẽ gật đầu, không tỏ thái độ gì.
“Mẫu thân”, Lưu Sơ nhăn mũi nhìn A Kiều, phân vân hỏi, “Sao con nghe thấy Tư Mã phu nhân đàn hay hơn mẫu thân?”
A Kiều bật cười, véo mũi cô bé, cho dù tất cả mọi người đều nghe thấy như vậy thì cũng chỉ có một mình cô bé nói thẳng ra. “Vì thế nên mẫu thân tính cho con theo học đàn với Tư Mã phu nhân đấy.”
Trác Văn Quân vội vàng xua tay, nói: “Bề tôi không dám nhận. Thật ra thì nương nương học thức uyên bác, thừa đủ để dạy Công chúa Duyệt Trữ rồi.”
A Kiều lắc đầu bảo, “Người ta vẫn nói con hư tại mẹ đấy thôi.”
Trác Văn Quân khẽ liếc nhìn Lưu Triệt, thấy y nhướng mày như có điều suy nghĩ nhưng không phản đối liền đáp, “Nếu như vậy thì Văn Quân sẽ thử xem.”
“Tư Mã phu nhân” Lưu Tế Quân bước lên một bước ngỏ lời, “Tế Quân có một yêu cầu nho nhỏ là xin phu nhân nhận thêm Tế Quân làm học trò.”
Kim Nga nhìn Lưu Tế Quân hơi bất ngờ, nhưng nếu Tế Quân đã có thể qua lại với Công chúa Duyệt Trữ được yêu chiều nhất trong cung nhà Hán thì cũng có lợi đối với phủ Mạt Lăng hầu và đối với cả nàng ta nên không phản đối. Trác Văn Quân chẳng thể chối từ, nếu đã thu nhận một công chúa cành vàng lá ngọc thì cần gì phải kiêng kỵ việc thu nhận thêm một quận chúa. Huống chi Giang Đô quận chúa quả thật có thiên phú về âm nhạc cao hơn Lưu Sơ.
“Như vậy cũng được”, Trần A Kiều lên tiếng, “Tư Mã phu nhân nên nhớ rằng ta cũng không phải chỉ hy vọng phu nhân dạy âm nhạc. Con gái của ta thì ta biết, e rằng nó không có nhiều hứng thú với âm nhạc. Tư Mã phu nhân là tài nữ đương thời nên có thể dạy cả về thơ văn hay đạo làm người nữa.”
Trác Văn Quân khẽ cúi đầu che giấu kinh ngạc trong lòng, đáp “Dạ.”
“Được rồi”, Lưu Triệt liền phất tay, “Chuyện bái sư đã xong, Tư Mã phu nhân lui xuống trước đi.”
Y đợi Trác Văn Quân và Đan Dương hầu phu nhân thi lễ rời đi xong liền nhìn A Kiều cười hỏi, “Nếu Kiều Kiều thích âm nhạc thì trẫm sẽ sai người thành lập một Nhạc phủ chuyên sưu tầm nhạc dân gian có được không?”
A Kiều chế giễu, “Nếu bản thân Hoàng thượng thích thì dĩ nhiên là được, cần gì phải mượn danh tiếng A Kiều?”
Lưu Triệt cười xòa, “Chẳng mấy chốc sẽ đến đợt nóng, trẫm muốn tới cung Cam Tuyền tránh nóng, nàng và Mạch Nhi, Sơ Nhi hãy chuẩn bị đi.”
Cung Cam Tuyền là chỗ trước kia A Kiều làm hoàng hậu thường lui tới, có những hồi ức đẹp đẽ. A Kiều thoáng chần chừ, “Thật ra thì ngay cung Trường Môn của A Kiều cũng mát mẻ, cần gì đi Cam Tuyền xa như vậy?”
Lưu Triệt không vui, hỏi xẵng, “Kiều Kiều phải biết rằng cung Vị Ương bây giờ không có mẫu hậu áp chế, nên trẫm rời đi thì nàng và Tử Phu có thể sống hòa bình vô sự được chăng?” Bọn họ cùng nhớ tới sóng gió hoang đường trong đêm Thượng Nguyên năm Nguyên Thú đầu tiên.
“Trẫm mang nàng theo bên cạnh để tránh khi trở lại thì các nàng đã phá tan tành cung Vị Ương của trẫm.”Quyển 3 - Chương 50: Cỏ cây Cam Tuyền cũng nặng tìnhVào tháng Sáu năm Nguyên Thú thứ hai, Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh đích thân xin một lần nữa được xuất kích đánh Hung Nô, cùng Công Tôn Ngao dẫn mấy vạn kỵ binh ra Bắc Thượng ở phương bắc[1], chia binh làm hai đường tiến công.
[1] Nay là Cam Túc, Khánh Dương ở Tây Bắc.
Cuối tháng Sáu, Lưu Triệt dẫn Công chúa trưởng Nam Cung, Trần hoàng hậu, Hoàng tử trưởng, Công chúa Duyệt Trữ và Đông Phương Sóc, Tư Mã Tương Như đến cung Cam Tuyền nghỉ hè, Hoàng hậu độc tôn ở cung Vị Ương.
Lưu Đàm hạ rèm xe xuống, nhìn về hướng thành Trường An càng lúc càng xa, quay đầu lại hỏi, “Vị Tư Mã phu nhân này là nhân vật thế nào?”
Vì Công chúa Duyệt Trữ đã bái sư nên Tư Mã Tương Như dẫn Trác Văn Quân cùng lên đường đến cung Cam Tuyền nghỉ hè để không làm lỡ chuyện học hành của Lưu Sơ. A Kiều chỉ cười không đáp, bỗng nhiên nhủ thầm trong lòng, liệu Tư Mã Tương Như có thể từ thân phận sư phụ con gái Hoàng đế của Trác Văn Quân ngầm nuôi hy vọng được thân cận với hoàng gia, từ đó tiến một bước trên con đường quan lộ? Chẳng phải Tư Mã Tương Như từ trước tới giờ vẫn là người say mê quyền chức sao?
“Trác Văn Quân vốn là tài tử nổi tiếng đất Thục, hôn phu mất sớm nên một lòng thủ tiết. Tư Mã Tương Như ái mộ, khi tới làm khách Trác gia đã chơi đàn cổ, hát khúc Phượng cầu hoàng, lời ca có đoạn:
“Phượng này, phượng này,
Trở về cố hương,
Ngao du bốn biển,
Cầu được chim hoàng.”
Văn Quân ở sau rèm nghe được, trong lòng thích thú, cảm giác tri kỷ. Hai người ước hẹn với nhau rồi bỏ trốn đến Lâm Tri mở quán rượu sinh nhai. Chuyện Văn Quân bán rượu đã thành giai thoại một thời.”
Lưu Đàm mê mẩn lắng nghe rồi thốt lên, “Đúng thật là một đôi tuyệt diệu.”
“A Kiều”, nàng khẽ ngoái nhìn sang, ánh mắt hàm chứa thâm ý, “Muội… có oán Triệt Nhi không?”
Trong lòng Trần A Kiều dâng lên nỗi chua chát, xoay người đi không trả lời, kể tiếp, “Năm Nguyên Sóc thứ ba, Hoàng thượng hạ chỉ phong Tư Mã Tương Như làm quan đi giao thiệp với các nước ở Tây Nam. Tư Mã tâm hồn lãng mạn, dần dần thay lòng, gửi vô số thư cho Văn Quân, nhiều đến mức không nhớ nữa, ngỏ ý muốn lập thêm thϊếp. Văn Quân đau lòng muốn chia tay nhưng lòng dạ kiên cường, làm thơ đáp rằng:
“Trắng như tuyết trên núi,
Sáng tựa nguyệt trong mây.
Nghe chàng sinh lòng khác,
Muốn cự tuyệt tình này.”
“Nghe chàng sinh lòng khác, muốn cự tuyệt tình này”, Lưu Đàm động lòng ngâm nga, “Nghe như thế thì Tư Mã phu nhân cũng thật là một cô gái thông minh cứng rắn… Như vậy là muội vẫn còn oán rồi.”
Một tấm chân tình lại gặp phải phụ bạc, ai có thể mỉm cười bỏ qua cho được? Trác Văn Quân viết Bạch đầu ngâm gửi mấy dòng thơ, Tư Mã Tương Như rốt cuộc vẫn là văn nhân còn có chút lương tâm nên gắng gượng từ bỏ ý muốn lập thϊếp. Lưu Triệt lại là quân vương, lòng dạ tàn nhẫn hơn Tư Mã Tương Như rất nhiều. Năm đó, A Kiều bỏ ngàn vàng xin Tư Mã Tương Như được bài Trường Môn phú thê lương buồn bã, trải lòng mình một lần nhưng vẫn không thể khiến cho Lưu Triệt quay đầu. Người đàn ông vui mới nới cũ ấy đã viết ra bài Trường Môn phú đẹp đẽ mà thê lương như vậy nhưng cho tới bây giờ A Kiều vẫn không muốn gặp, bởi vì gặp lại như đối diện với sự giễu cợt của vận mệnh nửa đời về trước. Kim ốc tàng kiều và Phượng cầu hoàng vốn là hai câu chuyện cười lớn nhất trên cõi đời này.
Lưu Đàm nhìn gương mặt A Kiều đượm vẻ ai oán, hồi tưởng lại chuyện bản thân mình vừa trưởng thành đã đi xa tận đại mạc ở lều ăn thịt, đầu đao mũi kiếm thì không khỏi xúc động thương tâm, suýt nữa rơi lệ. Nàng vội vàng quay đi, nhìn đồng ruộng nương dâu bên ngoài khung cửa, cười lớn, “Không nói chuyện này nữa, ta ở đại mạc nhiều năm, hôm nay nhìn lại nhà cửa ruộng vườn Đại Hán cũng thấy hơi xa lạ.”
Đến nửa đêm, long xa cuối cùng cũng dừng lại trước cung Cam Tuyền, xuống xe liền trông thấy cảnh cung hùng vĩ trang trọng. Cung Cam Tuyền ở trong quận Cam Tuyền dưới chân núi Nam Sơn ngoại ô thành Trường An, có chu vi mười chín dặm, cung điện đài các sánh ngang với cung Kiến Chương, có đủ tất cả mọi thứ. Chỗ này là nơi hoạt động trọng yếu ở gần cung Vị Ương của các quân vương thời sơ Hán, Lưu Đàm và A Kiều khi còn nhỏ thường theo Đậu thái hậu tới đây. A Kiều ở giai đoạn chiến tranh lạnh với Lưu Triệt sau khi được phong hậu còn sống một mình ở nơi này trong thời gian dài, quen thuộc đến từng gốc cây ngọn cỏ ở đây còn hơn cả ở cung Vị Ương. Trên núi còn có suối nước nóng được dẫn vào cung đổ vào hồ tắm.
Một ngày đi đường ngựa xe mệt nhọc, A Kiều tắm gội xong liền trở về điện Tuyền Ngâm. Điện Tuyền Ngâm là chính điện của cung Cam Tuyền nơi Hoàng đế và Hoàng hậu ở, trong đó có hai tiểu điện, bên trái hơi lớn hơn là đế điện, bên phải là hậu điện. A Kiều thấy trong điện Tuyền Ngâm vẫn bày biện trang trí quen thuộc giống như trước, như chưa từng có ai vào ở sau khi nàng rời đi. Trên bàn trang điểm có một chiếc gương đồng chạm hoa, mặt gương vẫn còn một vết xước. Gương mặt nàng soi vào nhìn thoáng mờ đi.
Với thân phận hiện giờ thì A Kiều không thể ở đây, nhưng nàng không đề cập tới, Lưu Triệt cũng không nói gì, đám cung nhân cũng giả câm giả điếc nên tất cả đều như cũ. Thật ra tất cả đã từ lâu không thể nào quay lại như ban đầu. Cung nhân bên ngoài rèm quỳ gối bái chào, “Tham kiến bệ hạ.” Lưu Triệt chắp tay tiến vào, thấy ngay A Kiều đang cầm chiếc lược gỗ, vẻ mặt kinh ngạc nhìn vào chiếc gương đồng.
“Kiều Kiều!” Lưu Triệt vui vẻ gọi.
“Trẫm còn nhớ hồi năm Kiến Nguyên thứ ba, trẫm đã cùng nàng đến chỗ này nghỉ hè.”
Hồi đó, Lưu Triệt cho Vệ Tử Phu đến chỗ thay y phục rồi cùng A Kiều đến cung Cam Tuyền, nhưng đã có rạn nứt nên hai người đối xử với nhau lại càng dè dặt, còn ngọt ngào hơn đêm tân hôn. Ở cung Vị Ương, A Kiều chẳng thể cản được chuyện oanh yến của Lưu Triệt, nhưng ở cung Cam Tuyền, chỉ cần A Kiều có mặt sẽ không còn bóng dáng người con gái nào khác, vì thế nàng vẫn thích cung Cam Tuyền hơn cung Vị Ương. Thời gian đó, Lưu Triệt rất không vừa ý bởi quyền lực nằm trong tay Thái hoàng thái hậu, khi phụng bồi A Kiều cũng không toàn tâm toàn ý. Ở trong điện Tuyền Ngâm, y thậm chí còn giúp A Kiều búi tóc. Vua của một nước tất nhiên không thạo việc này, y đưa lược chải rứt tóc khiến A Kiều đau đớn, tuy nhiên nàng vẫn cố chịu. Nàng nhìn vào gương thấy tóc đã được búi lại, dĩ nhiên là không đẹp nhưng trong lòng vẫn vui mừng. Cuối cùng nàng vẫn không dám để đầu tóc như vậy đi ra ngoài mà phải bảo tỳ nữ gỡ ra búi lại. Bao nhiêu năm sau nghĩ lại, nếu biết có ngày hôm nay thì chi bằng ngày ấy cứ chải tóc như vậy ban ngày để đến ban đêm cho chính tay y dỡ xuống. Thế sự đổi thay, gió thổi mây trôi, cho dù có tình ý thì cũng đã không tiện đích thân làm.
Gió núi về đêm vô cùng mát mẻ thổi vào trong điện, tóc còn chưa khô nên cảm thấy hơi lành lạnh, tấm gương đồng từng soi dung nhan của nàng cũng từng chiếu rọi nỗi đau khổ của nàng.
“Hoàng thượng tới chỗ của A Kiều có việc gì thế?” Trần A Kiều cúi đầu, hỏi giọng hờ hững.
Lưu Triệt cau mày, nhưng rồi lại nhẫn nại, “A Kiều ở cung Cam Tuyền không nói những chuyện đau lòng có được không?”
A Kiều cười cay đắng. Y chỉ nhớ tới thời gian đã từng thân mật mà quên mất rằng nàng đã từng ở đây cô đơn một mình nhìn ánh trăng hết đêm này tới đêm khác. Song nàng chỉ đáp. “Được.”
Con người không phải lúc nào cũng cương lên đối đáp. Nếu có thể giữ bề ngoài hòa hoãn thì cứ lui một bước, giữ sự bình thản để quan sát. Tìm trăm phương ngàn kế để rời xa cũng đã thật vất vả, huống chi ở cung Cam Tuyền này đúng là tâm hồn nàng mềm đi một chút. Nàng nghĩ Lưu Triệt cũng là người biết cam chịu. Những năm qua thấy y dung túng mình nàng không phải là không có một chút cảm xúc nào, nhưng điều đó chưa đủ để làm tan chảy băng tuyết trong đáy lòng nàng.
Lưu Triệt vén mái tóc nàng, hôn lên đôi môi. Trong lòng nàng chợt thấy bất an, nhìn vào đại điện hương sắc cổ xưa, gió đêm thổi vào khiến mép rèm bay bay. Thời gian thật đáng sợ, từng bước từng bước thỏa hiệp sẽ khiến nàng dần trở thành A Kiều cổ đại thực sự, một A Kiều toàn tâm toàn ý chờ được yêu thương.
“Kiều Kiều!” Lưu Triệt gọi thầm bên tai nàng có vẻ không hài lòng, “Tập trung nào.”
Nàng khẽ cười, nhớ lại Lưu Triệt khi còn bé thường chơi đùa với nàng ở trên núi Cam Tuyền. Lúc đó nàng vẫn còn hơi cao hơn y một chút, thường cười trêu. “Triệt Nhi, nếu ngươi không lớn thêm một chút thì làm sao bảo vệ được ta đây.” Khi đó nàng thật sự tin tưởng rằng người này có thể bảo vệ nàng cả đời, là chỗ dựa của nàng. Về sau y lớn hơn, càng ngày càng cao lớn, nhưng cũng càng ngày càng âm trầm lạnh lùng quả quyết hơn nhưng nàng lại không nhận thấy.
“Trước hướng về ta, liễu hoa lả lướt.
Nay được ta rồi, gió mưa sướt mướt.”[2]
[2] Đây là hai câu thơ trong bài Thái Vi thuộc phần “Tiểu nhã” của tác phẩm kinh điển Kinh Thi.
Bên ngoài điện Tuyền Ngâm, mưa bắt đầu rơi tí tách. Thật ra nàng chưa từng trải qua cuộc sống mòn mỏi ở trong cung Trường Môn như vậy. Nếu có thể dùng cách thỏa hiệp này để đổi lấy tự do nhiều hơn thì có đáng giá hay không? Nàng tự vấn lòng, có đôi khi không cần phải yêu hết lòng vẫn có thể kết thành một đóa hoa mỹ lệ. Đêm về khuya, trời lạnh hơn. Nàng khẽ co người lại, hơi động một chút đã làm cho người bên cạnh thức tỉnh. Y nhíu mày rồi lại ôm nàng vào lòng.
Mãi đến khi ánh sáng hé lên ở phía chân trời thì nàng mới mơ màng tỉnh dậy, thấy Lưu Triệt đã ăn mặc gọn gàng, trang phục gấm đen áo dài tay rộng tôn quý của đế vương, ánh mắt lạnh lùng sắc sảo nhưng khi nhìn nàng thì lại chan chứa dịu dàng ấm áp, nói, “Trẫm đi xử lý chính sự đã.”
Nàng gật đầu xoay người ngủ tiếp, đợi y đi xa rồi mới trở dậy, vừa mới thu dọn xong thì đã nghe tiếng Lưu Sơ hưng phấn gọi ở bên ngoài điện, “Mẫu thân, mẫu thân!”, rồi chạy tới nhào vào lòng nàng.
Nàng mỉm cười nói, “Khoan đã, không ai chiếm mất mẫu thân của con đâu. Có chuyện gì thế?”
“Vậy cũng chưa chắc, ca ca sẽ chiếm mất”, Lưu Sơ trong lòng nàng ngửa đầu đáp.
A Kiều phì cười, ngẩng đầu lên thì thấy Lưu Mạch đang vén rèm bước vào. Nàng hơi kinh ngạc hỏi, “Mạch Nhi, Đông Phương tiên sinh cho con nghỉ sao?”
Lưu Mạch hơi mất hứng, ấm ức nói, “Mẫu thân, vừa mới đến cung Cam Tuyền thì hãy để cho con được nghỉ ngơi mấy ngày.”
A Kiều nhớ lại mình lúc nhỏ cũng nghịch ngợm nên mỉm cười gật đầu. Lưu Mạch vui mừng, khe khẽ kể oán, “Huống chi hôm nay Đông Phương tiên sinh cứ quấn lấy dì Lăng, chắc cũng không rảnh để quản con.”
A Kiều ngạc nhiên, Lưu Sơ kéo vạt áo nàng, hưng phấn nói, “Mẫu thân, cây nho con trồng năm ngoái đã ra quả rồi.”
Năm Nguyên Sóc thứ sáu, Trương Khiên mới được phong làm Bắc Vọng hầu có tặng Công chúa Duyệt Trữ cành nho dài một tấc, Lưu Sơ đem trồng ở sau điện Dương A. Theo chỉ dẫn của Trương Khiên, các cung nhân cung Cam Tuyền chăm sóc, bón phân cẩn thận nên bây giờ đã mọc um tùm tươi tốt. Công chúa Duyệt Trữ đã quên mất từ lâu, giờ thấy được nên tất nhiên vô cùng vui mừng.
“Mẫu thân, người đi xem đi”, Lưu Sơ nũng nịu vòi vĩnh. A Kiều chịu không nổi nên đành phải theo cô bé. Quả nhiên cây nho đã kết thành những chùm nho màu xanh tím, mặc dù không phải là thượng phẩm nhưng cũng rất đáng kể.
“Hai năm qua chăm sóc cây nho cho Công chúa cũng coi như có công, truyền xuống thưởng cho mỗi người mười xâu tiền.”
Các nô tỳ của điện Dương A liền quỳ xuống, đồng thanh cảm ơn, “Đa tạ Trần nương nương ban thưởng.”
“Hái những chùm nho này xuống, rửa sạch, dâng lên Hoàng thượng, Công chúa trưởng Nam Cung, Phi Nguyệt và tất cả các vị đại nhân mỗi người một chùm. Phải nói rõ ràng rằng…”, A Kiều mỉm cười nói tiếp, “Công chúa Duyệt Trữ đích thân trồng đấy.”
Dương Đắc Ý đang đứng hầu dưới điện chờ Hoàng đế xử lý chính sự từ Trường An chuyển tới, trông thấy nội thị áo xanh từ hành lang phía xa đi tới liền hỏi, “Ngươi thuộc điện nào? Đến đây làm gì?”
Viên nội thị đang bê một chiếc khay trên tay, thi lễ nói, “Nô tài hầu hạ Tứ công chúa ở điện Dương A. Trần nương nương sai nô tài đem dâng lên bệ hạ một chùm nho, bảo đây là do Công chúa Duyệt Trữ đích thân trồng vào năm Nguyên Sóc thứ sáu.”
Dương Đắc Ý nhìn chùm nho trên khay thấy xanh lè mới điểm chút sắc tím, vừa trông đã biết rằng chua nhưng vì là nho do Công chúa Duyệt Trữ và Trần nương nương đưa tới nên hắn không dám trễ nải nhận lấy hất hàm, “Biết rồi, ngươi về trước đi!” Sau đó tự tay bê vào trong điện.
Hắn hầu hạ đã nhiều năm nên dù thấy sắc mặt Lưu Triệt khó đăm đăm nhưng vẫn cảm giác được tâm trạng của Hoàng thượng không tệ, khom người bẩm, “Hoàng thượng, đây là nho do Trần nương nương sai người đưa tới.”
Lưu Triệt nghi hoặc, nhíu mày hỏi lại, “Trần nương nương đưa tới à?”
“Đúng vậy!” Dương Đắc Ý vẫn cúi người, “Nghe nói còn là do Công chúa Duyệt Trữ đích thân trồng ở cung Cam Tuyền năm kia.”
Lưu Triệt nhớ tới Lưu Sơ liền mỉm cười, tâm trạng vui vẻ. Y hái một quả bỏ vào miệng nhưng nhăn mặt vì chua, y miễn cưỡng nuốt vào rồi lắc đầu, “Không phải mùi vị mà năm đó Trương Khiên dâng lên.”
Dương Đắc Ý cúi đầu, hơi buồn cười, “Chắc là do cung nhân chăm sóc không có kinh nghiệm như Bác Vọng hầu.”
Lưu Triệt lúng túng, lại không tiện vứt đi đành bảo, “Ngươi ra ngoài trước đi.”
Nho dâng lên Hoàng đế dĩ nhiên phải chọn loại tốt nhất, vì vậy những ngày này, tất cả nữ quyến đại thần theo hầu thánh giá đều được Công chúa Duyệt Trữ gửi nho chua đến nhưng lại không dám trách cứ Công chúa Duyệt Trữ và Trần nương nương, đành một mực oán trách Bắc Vọng hầu Trương Khiên đang đi Tây Vực xa xôi hết lời.
Đến tháng Bảy thì có tin chiến trận từ Tây Bắc báo về. Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh mất liên lạc với Công Tôn Ngao. Một mình xâm nhập, vòng qua hành lang phía bắc Hà Tây tiến vào sâu hơn ngàn dặm đến tận hậu phương quân địch, rồi từ Tây Bắc xuất kích theo hướng đông nam, thế như gió thu quét lá, đại phá các bộ lạc Hung Nô, khai chiến với chủ lực Hung Nô ở Kỳ Liên sơn thuộc lưu vực Hắc Hà, diệt hơn ba vạn địch, bắt sống năm vương gia và vương tử Hung Nô, hơn trăm tướng quốc, thu bốn vạn thuộc hạ của Hồn Tà vương, chiếm lĩnh toàn bộ hành lang Hà Tây. Lưu Triệt xem xong tin báo mừng rỡ, cảm khái nói, “Khứ Bệnh lúc thiếu niên cực kỳ bướng bỉnh, dạy mãi cũng không nghe khiến mọi người luôn phải lo lắng. Trẫm vẫn nói ngày sau hắn nhất định sẽ là một mãnh tướng trên chiến trường nhưng chưa từng nghĩ rằng hắn sẽ xuất sắc như vậy.”
Trần A Kiều nghe vậy mỉm cười cúi đầu, nói, “Đây chẳng phải là chuyện tốt ư? Nói cho cùng thì hắn chính là môn sinh của thiên tử.”
“Hoắc Khứ Bệnh?” Lưu Đàm liền nhớ tới viên tướng quân trẻ tuổi kiêu ngạo đã vài lần thoáng trông thấy ở trong cung Vị Ương, chiến trường đã tôi luyện khiến hắn giảm bớt tính bạt mạng thời niên thiếu mà ngày càng trầm ổn hơn. Trong trí nhớ của nàng, Y Trĩ Tà từng nghiến răng nhắc đến tên người thanh niên này, trong cuộc chiến Hán Hung vào năm Nguyên Sóc thứ sáu, hắn đã dẫn tám trăm quân Hán bắt giữ thúc phụ của Y Trĩ Tà.
“Đúng vậy, Đàm tỷ”, Lưu Triệt hào hứng, “Hắn là cháu ngoại của Vệ hoàng hậu.” Nói đến đây y liếc nhìn A Kiều, thấy nàng vẫn giữ nụ cười hàm tiếu tựa như không nghe thấy gì. Chẳng biết tại sao, y lại thấy mất hứng.
“Tỷ nhớ”, Lưu Đàm lại không chú ý mà dường như đang nghĩ tới điều gì, “Hình như sắp đến đêm Thất tịch[3] rồi”
[3] Thất tịch: Mùng bảy tháng Bảy Âm lịch, ngày lễ tình yêu của Trung Quốc dựa theo câu chuyện về Ngưu Lang – Chức Nữ.
Đêm Thất tịch là sinh nhật của Lưu Triệt, vừa nghe đến đây, cặp mắt của y tối đi, “Khó cho Đàm tỷ còn nhớ được”
Dù cho đang ở ngoài cung Vị Ương nhưng ngày sinh của Hoàng đế vẫn phải tổ chức. A Kiều bất đắc dĩ tiếp nhận nhiệm vụ này, ngoài việc sai bảo cung nhân thu xếp cẩn thận còn phải chuẩn bị lễ thọ cho Hoàng đế. Nàng không muốn quá hao tâm khiến người khác để ý nhưng cũng không thể quá tùy tiện để phạm tội danh đại bất kính với thiên tử. Có những lúc nghĩ vẩn vơ, nàng nhếch miệng, một người tàn nhẫn lạnh lùng như vậy mà lại có một sinh nhật lãng mạn đến thế này thì đúng thật là nực cười.
Để chuẩn bị lễ thọ, nàng bảo cung nhân lấy một ít băng được cất giữ từ mùa đông năm ngoái về, thái nhỏ trái cây đủ màu sắc rồi cho thêm một ít nước ô mai làm thành món sinh tố hoa quả mà nàng yêu thích nhất từ thời thiếu nữ. Lưu Sơ nhìn món sinh tố có những viên nước đá trong veo lóng lánh thì lộ vẻ thèm thuồng, vỗ tay nói, “Mẫu thân, cho con nếm một chút trước đi.”
Trần A Kiều bật cười cốc vào trán cô bé, “Đây là lễ thọ, sao có thể nếm trước được?”
“Phụ hoàng sẽ không để ý đâu, người chiều con nhất mà”, Lưu Sơ hồn nhiên đáp.
A Kiều thất thần, thì ra Lưu Sơ đã vô tình thực sự đón nhận thân phận đứa con gái được phụ hoàng thương yêu nhất. Sơ Nhi đã như vậy thì Mạch Nhi có thể kiên trì bao lâu? Nàng có thể kiên trì bao lâu? Nàng giao đồ ăn cho thị tòng, bảo đưa đến điện Tất Đường rồi quay sang dỗ dành, “Ngày mai sẽ làm nữa cho con ăn.”
Lưu Sơ mất hứng, kéo tay Lưu Mạch, “Cũng không phải là khó lắm, tự muội làm không được sao?”
Đến chiều tối, có lẽ vì ăn quá nhiều nước đá nên Lưu Sơ bị tiêu chảy. A Kiều vừa bực mình vừa buồn cười, xách tai mắng cho cô bé một trận, sau đó bắt mạch kê đơn, sắc thuốc, theo sát cho đến lúc con gái uống xong mới yên tâm.
“Mạch Nhi, sao con không chịu để mắt trông coi muội muội của mình”, nàng quay đầu lại, nhẹ giọng nói với Lưu Mạch.
“Ca ca cũng ăn không ít đâu”, Lưu Sơ nằm bẹp trên giường, bĩu môi nhăn nhó, “nhưng chỉ có con gặp chuyện không may.”
Vất vả một phen rồi cũng tới lúc trời tối, thọ yến sắp bắt đầu, lúc A Kiều về đến điện Tuyền Ngâm thì Lưu Triệt đã có mặt, đương nhiên y đã nghe nói về chuyện của Lưu Sơ nên vừa nhìn thấy nàng đã mím môi hỏi, “Sơ Nhi khỏe chưa?”
“Chắc nghỉ ngơi một chút sẽ không sao”, nàng trả lời. Lưu Triệt gật đầu, hai người thay xiêm áo rồi y khoác tay A Kiều vào yến tiệc.
“Đúng rồi”, Lưu Triệt như vừa chợt nhớ ra, nghiêng người khẽ nói bên tai nàng, “Trẫm rất vui vì lễ thọ của Kiều Kiều.”Quyển 3 - Chương 51: Bạc đầu quay lại nhìn nhau muộn màngTriều thần dưới điện nhìn cử chỉ cực kỳ thân mật của Hoàng thượng cùng Trần nương nương, ai nấy đều ngầm phỏng đoán, Lưu Triệt cất tiếng ra lệnh, “Bắt đầu đi!”
Các món ngon liên tiếp được đưa lên, có cả ca múa. A Kiều vẫn lo cho Lưu Sơ nên không còn lòng dạ nào để xem, đợi thêm một lát rồi xin phép cáo lui trước. Nàng về đến điện Dương A thì Lưu Sơ đã gần như khỏi hẳn, nhìn mẫu thân bằng ánh mắt lấp lánh đầy sức sống, “Mẫu thân”, cô bé hỏi vẻ mơ màng, “Đêm thất tịch là lúc chim ô thước bắc cầu ở trên sông Ngân cho Ngưu Lang và Chức Nữ gặp mặt nhau có phải không ạ?”
A Kiều gật đầu, ngẩng nhìn lên bầu trời, giọng thoảng chút hoài niệm, “Mẫu thân hồi nhỏ đã từng nghe nói rằng đứng bên giếng nước có cây nho vào đêm Thất tịch thì có thể nhìn thấy Ngưu Lang, Chức Nữ gặp nhau.”
Lưu Sơ sáng mắt, “Mẫu thân, con nhớ sau điện Dương A có một cái giếng.”
Mấy mẹ con dẫn cung nhân ra bên ngoài điện, ngồi dưới giàn nho mát mẻ nhìn lên trời cao. Trời miền núi sáng trong, một dải sáng màu trắng nhạt vắt qua phía chân trời, chính là dòng Ngân Hà. Lưu Sơ mở to mắt nhìn một lát rồi thất vọng, “Sao con không thấy Ngưu Lang Chức Nữ?”
“Đó chỉ là truyền thuyết mà thôi”, Lưu Mạch thản nhiên nói.
Lưu Sơ chun mũi, “Ca ca xấu, làm muội mất hết cả hứng thú.”
“Đêm xuống khung trời như nước biếc
Ngắm sao Chức Nữ gặp Ngưu Lang.”[1]
[1] Trích bài Thu tịch của Đỗ Mục.
“Mẫu thân!” Lưu Sơ dần díp mắt, gà gật nói, “Người nhìn kìa, Ngưu Lang Chức Nữ cũng giống như chúng ta. Phụ hoàng là Ngưu Lang, mẫu thân là Chức Nữ, ca ca và con chính là hai đứa bé tý hon, không gặp được cha mẹ sẽ khóc.” A Kiều nghe vậy thấy lòng trĩu nặng, quay sang nhìn Lưu Mạch lại thấy con trai cúi đầu, lần đầu tiên tránh ánh mắt của nàng. Mỗi người đều cảm giác y như gần như xa ở ngay bên cạnh mình. Ngưu Lang Chức Nữ có thể giữ gìn được tình cảm ngàn năm vì họ yêu nhau, còn nàng và Lưu Triệt thì có gì? Nếu cứ ràng buộc với nhau để rồi chán ghét và lãng quên thì chi bằng lúc đầu đừng chờ đợi, lưu lại trong lòng đối phương quãng thời gian tươi đẹp nhất.
Từ trên hành lang rất xa có mấy ngọn đèn l*иg lấp loáng chiếu sáng hình bóng một người đứng giữa đang nhìn sang.
“Mọi người ở đây làm gì thế?”, Lưu Triệt vui vẻ hỏi.
A Kiều đưa tay làm hiệu đừng lên tiếng, khe khẽ đáp, “Tảo Tảo ngủ rồi.”
Lưu Triệt khom người xuống, thấy Lưu Sơ đang nằm dựa trên ghế, nhịp thở đều đều, quả nhiên đã ngủ say, nụ cười còn vương trên gương mặt hồng hào. Y vỗ tay, nhẹ giọng ra lệnh, “Đưa Công chúa Duyệt Trữ trở về điện Dương A.”
“Dạ.” Cung nhân phía sau lên tiếng đáp rồi một nội thị bước lên cõng Lưu Sơ rón rén bước đi.
“Phụ hoàng, mẫu thân”, Lưu Mạch tinh ý hành lễ, nói, “Mạch Nhi cũng về ngủ đây.”
Lưu Triệt gật đầu, mỉm cười nhìn con trai đi xa rồi mới quay sang hỏi A Kiều, “Giống nho mới truyền từ Tây Vực được mấy năm nay, tại sao Kiều Kiều lại nghe nói về truyền thuyết ở dưới giàn nho sẽ nhìn thấy Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau?”
A Kiều cúi đầu, cười tủm tỉm, “Chẳng qua nói cho vui để trêu Tảo Tảo thôi.”
Trăng thượng huyền cong cong quyến rũ treo cao giữa bầu trời, càng về khuya càng sáng. Lưu Triệt ôm eo A Kiều trở về điện, nhẹ giọng, “Hôm nay Đàm tỷ nói với trẫm rằng khi nào về Trường An thì sẽ xin được tới Dương Lăng coi sóc phần mộ cho phụ hoàng và mẫu hậu.”
A Kiều cảm khái, “Cuộc đời Đàm tỷ long đong, chịu nhiều đau khổ nên lòng dần nguội lạnh, rất khó nghe theo những lời khuyên giải bình thường.”
“Trẫm cũng cảm thấy như vậy”, Lưu Triệt nói vẻ nặng nề, “Trẫm và mẫu hậu mắc nợ Đàm tỷ rất nhiều, hôm nay hoàng tỷ đã trở về thì trẫm nhất định phải bù đắp cho tỷ ấy. Trẫm đã nghĩ rồi, Đàm tỷ không có tình cảm thật sự với đám người Hung Nô kia nên chi bằng chọn cho tỷ ấy một mối lương duyên. Đó chính là một cách tốt để trấn an tỷ tỷ.”
“Ồ? Cũng tốt”, A Kiều tự dưng không yên lòng hỏi, “Bệ hạ thấy có người vừa ý rồi à?”
Lưu Triệt nhìn nàng bằng ánh mắt thăm dò rồi đáp rành rọt từng tiếng một, “Trường Tín hầu.”
“Sư huynh?”, A Kiều thốt lên, hơi kinh ngạc.
“Không sai”, Lưu Triệt khép mắt, giấu đi suy nghĩ, “Đàm tỷ là do Trường Tín hầu cứu, không ai so sánh được.”
“Nhưng”, A Kiều nhướng mày nhìn y, nghi ngờ hỏi, “không phải là Bình Dương trưởng công chúa đã có ý…”
Lưu Triệt than khẽ, “Vốn trẫm cũng có lòng cho Tịnh tỷ nhưng… cũng chỉ có thể để tỷ ấy nhường bước thôi.” Dĩ nhiên là A Kiều có cảm tình hơn với Lưu Đàm so với Bình Dương trưởng công chúa đầy tính toán. Chỉ là, một đoạn nhân duyên kết hợp tùy tiện như thế thì sẽ mang tới hạnh phúc được chăng? Liễu Duệ, nàng nhíu mày, bản thân Liễu Duệ có đồng ý hay không chứ?
Chiến dịch Hà Tây lần thứ hai lại đại thắng, Lưu Triệt cao hứng, truyền lệnh xuống dưới mang rượu và thức ăn ngon đến tiền tuyến khao thưởng Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh.
Một hôm Lưu Triệt vừa từ điện Tất Đường trở về đến cửa điện thì nghe thấy giọng nói trong trẻo quen thuộc của Trần A Kiều, “Bệ hạ sủng ái Hoắc Khứ Bệnh, ban thưởng cho cả rượu Đào Hoa Trang ngon nổi tiếng Hoài Nam. Hoắc ca ca của con dẫn quân trở về đến gần Trương Dịch thì gặp đội quân hộ tống phần thưởng của ngự giá. Hoắc Khứ Bệnh đúng là vô cùng hào sảng, bảo rằng, ‘Rượu ngon tuy nhiều nhưng vẫn không đủ cho ba quân tướng sĩ cùng được hưởng một chén hoàng ân của bệ hạ’. Nói rồi truyền lệnh trút cả ba xe lớn rượu ngon xuống sông rồi cùng ba quân tướng sĩ uống chung nước sông. Các tướng sĩ bội phục cảm kích, về sau nơi đó liền được gọi là sông rượu.”
Lưu Sơ tưởng tượng ra quang cảnh lúc ấy thì rất ngưỡng mộ, “Hoắc ca ca đúng là vô cùng lợi hại phải không?”
Trần A Kiều gật đầu, “Tất nhiên rồi.”
“Kiều Kiều có vẻ cũng rất thích Khứ Bệnh nhỉ”, Lưu Triệt chắp tay bước vào điện, điềm đạm nhận xét.
“Phụ hoàng”, Lưu Sơ ngẩng đầu lên, nhìn thấy y liền nhanh nhảu hành lễ.
Lưu Triệt mỉm cười xoa xoa đầu con gái, “Mạch Nhi chắc còn đang học, Sơ Nhi tìm ca ca đi.”
A Kiều đợi Lưu Sơ đi xa rồi mới mỉm cười nói, “Tất nhiên, Hoắc Khứ Bệnh chiến đấu mấy trận đều đại thắng, thật đáng gọi là anh hùng.”
Ánh mắt Lưu Triệt tức thì trở nên sâu thẳm, bảo nàng, “Trẫm cho là… lòng dạ Kiều Kiều càng ngày càng rộng rãi, vậy nàng thấy Vệ Thanh thế nào?”
A Kiều nhướng mày nhìn y, nghiêm mặt đáp, “Lòng dạ A Kiều chẳng phải rộng rãi gì, A Kiều thấy Hoắc Khứ Bệnh là được bởi vì Hoắc Khứ Bệnh tính tình quyết đoán, một lòng chiến đấu không bè phái. Đại tướng quân tất nhiên cũng được coi là anh hùng nhưng A Kiều lại thấy trước hết đó là đệ đệ của Vệ Tử Phu, vì vậy không thể nào tôn kính hắn như một người anh hùng được.”
“Kiều Kiều cũng thẳng thắn lắm”, Lưu Triệt ngạc nhiên.
“Bởi vì có đôi khi sự thẳng thắn còn tốt hơn là dùng tâm cơ rất nhiều”, A Kiều chớp mắt, giọng điềm tĩnh.
Đến tháng Tám thì hết nóng bức, tiết trời đầu thu trở nên trong lành mát dịu, Lưu Triệt quyết định quay về Trường An. Trần A Kiều ngồi trong long xa thở dài, so với cung Vị Ương dối gian lừa gạt thì cung Cam Tuyền thanh tịnh hơn nhiều. Nhưng trong thiên hạ có buổi tiệc nào là không tàn, cho dù trong lòng có suy nghĩ như thế nào thì long xa vẫn một mạch chạy về hướng Trường An.
Ngày thứ ba kể từ khi trở về cung Trường Môn, Trần hoàng hậu hạ lệnh tuyên Trường Tín hầu Liễu Duệ tiến cung Trường Môn gặp mặt.
“A Kiều quen biết thế nào với Trường Tín hầu Liễu Duệ?” Khi còn ở cung Cam Tuyền, Công chúa trưởng Nam Cung đã từng hỏi A Kiều như vậy.
A Kiều tất nhiên là không thể nói sự thật, tùy tiện nghĩ ra một câu chuyện, “Năm xưa A Kiều lưu lạc ở bên ngoài, nhờ cơ duyên được Trường Tín hầu cứu nên cảm ân đức mà kết làm huynh muội.”
Lưu Đàm thở dài đánh sượt một tiếng, “Dù sao A Kiều cũng có duyên phúc.”
“Ta biết ý của bệ hạ”, Lưu Đàm hơi nghiêng người ngắm nghía dãy núi Cam Tuyền trùng trùng điệp điệp bên ngoài cửa sổ, tiếp tục tâm sự, “Ta cũng cảm động trước tình cảm của bệ hạ đối với ta. Nhưng Lưu Đàm này hoa tàn liễu úa nên thật sự không muốn nói tới chuyện thành thân nữa và cũng không muốn gây trở ngại cho Liễu hầu gia.”
Lục Y đứng hầu phía sau trông thấy bóng Trường Tín hầu theo nội thị đằng xa đi tới bèn khom người nhắc khẽ, “Nương nương, Trường Tín hầu đến.” A Kiều bừng tỉnh, ngẩng đầu lên nhìn thấy khuôn mặt ngày càng trầm tĩnh của Liễu Duệ.
“Thần Liễu Duệ”, hắn cúi người ở dưới đình bái chào, “tham kiến Trần nương nương.”
Trần A Kiều cười nhẹ, “Sư huynh, miễn lễ!”
Liễu Duệ liền đứng dậy, ngồi xuống phía đối diện rồi mỉm cười hỏi, “Hôm nay nương nương gọi vi thần tới không biết có chuyện gì dặn bảo?”
A Kiều để mọi người lui ra, chỉ giữ lại một mình Lục Y hầu hạ ở bên cạnh rồi hỏi: “Trường Tín hầu năm nay cũng không còn ít tuổi nữa nhỉ?”
“Đúng thế”, Liễu Duệ gật đầu, nét mặt phiêu lãng, “Ngu huynh lớn hơn nương nương ba tuổi.”
“Chắc là đã có ý trung nhân rồi chứ?”
Liễu Duệ muốn trả lời chưa nhưng chẳng biết tại sao trong lòng bỗng nhiên hiện lên cảnh Công chúa trưởng Nam Cung cố túm chặt lấy Mô Hiết không chịu buông tay, thân hình cô đơn phiêu bạt trong gió trên đại mạc thì không khỏi lưỡng lự. Trần A Kiều thấy vậy, than thầm một tiếng rồi đứng dậy nói, “A Kiều không muốn nói vòng vèo với sư huynh. Công chúa trưởng Bình Dương từng gợi ý nói với A Kiều là mong muốn được kết duyên tơ hồng với sư huynh, bệ hạ vốn cũng đã định chấp thuận nhưng sau khi Công chúa trưởng Nam Cung trở về thì bệ hạ thương tỷ ấy đã gặp quá nhiều trắc trở, lại vì Vương thái hậu đau ốm mãi mà qua đời nên hơi xa cách với mọi người. Nhưng đoán chừng là vì sư huynh đã cứu tỷ ấy nên kính trọng sư huynh hơn một chút. Y có ý muốn gửi gắm Công chúa trưởng Nam Cung cho sư huynh săn sóc.”
“Sư huynh được phép có ý kiến riêng của mình chứ?”
A Kiều cúi đầu, “Sư huynh, nếu hai người cùng không muốn thì A Kiều sẽ thay sư huynh từ chối. Sư huynh không nên miễn cưỡng.”
Liễu Duệ ngẩng đầu, “Ta lại không phải là loại người khiến cho người thân của mình phải miễn cưỡng.”
A Kiều ngạc nhiên, “Như vậy ý sư huynh là?”
“A Kiều”, Liễu Duệ lần đầu tiên gọi thẳng tên A Kiều nhưng lại không nhìn nàng, thấp giọng nói, “Những năm qua, nếu dựa vào địa vị và của cải của mình, chỉ cần nguyện ý thì ta đã sớm có tam thê tứ thϊếp rồi. Muội khoan hẵng nóng giận”, hắn cười hiền lành, “Ta và Hoằng Dương không làm như vậy chỉ vì trong lòng chúng ta vẫn hy vọng có thể tìm được một người yêu thương thật sự, nắm tay nhau đi suốt cuộc đời này.”
“A Kiều”, Liễu Duệ chợt hỏi, “Muội hãy nói cho ta biết, yêu là cái gì?”
A Kiều cứng miệng. Yêu là cái gì, ai có thể trả lời chính xác? Mà có yêu thì nhất định có hạnh phúc?
“Bây giờ ta nghĩ lại thì mới thấy.” Liễu Duệ nói, “Vào thời điểm cứu Công chúa trưởng Nam Cung khỏi lưng ngựa của Mô Hiết, ta không biết là ta sẽ thích nàng hay không nhưng ta thương xót nàng phải chịu đau khổ cả đời, nếu có cơ hội được che gió che mưa cho nàng thì ta nghĩ ta sẽ tình nguyện.”
“Ta không biết mình làm như vậy thì có chắc sẽ được hạnh phúc hay không nhưng nếu ta không làm như vậy thì e rằng cả cuộc đời về sau này sẽ phải hối tiếc.”
A Kiều khẽ thở dài, “Hy vọng ngày sau huynh không hối hận về quyết định hôm nay.” Nàng nhíu mày, “Thế nhưng dường như chính bản thân Đàm tỷ lại không tích cực lắm đối với cuộc hôn nhân này.”
“Đây là vấn đề của ta”, Liễu Duệ nhướng mày, dáng vẻ oai hùng đột nhiên bột phát.
A Kiều không rõ Liễu Duệ đã làm như thế nào để Lưu Đàm hồi tâm chuyển ý. Khi Lưu Triệt tuyên chỉ ban hôn thì đã là cuối năm Nguyên Thú thứ hai. Lần này không thể so với lần Hoàng đế gả con gái hồi đầu năm vì Công chúa trưởng Nam Cung là công chúa ngày xưa cống Hung Nô để cầu hòa, Lưu Đàm lại kiên quyết nên không tổ chức hôn lễ phô trương, cũng không nhiều người tham dự nhưng dĩ nhiên Lưu Triệt dẫn A Kiều cùng đến. A Kiều ngồi bên cạnh Lưu Triệt, thấy tân nương đẹp rực rỡ trong bộ lễ phục, trong lòng chẳng biết tại sao nhói lên cảm giác thương cảm nhưng vẫn thật lòng chúc phúc cho họ. Chúc phúc cho đôi tan lang tân nương trăm năm hòa hợp, chúc phúc cho Công chúa trưởng đã chịu nhiều đau khổ kia có thể có được một nửa đời sau hạnh phúc.
Khi đôi tân lang và tân nương giao bái, A Kiều để ý quan sát Công chúa trưởng Bình Dương, thấy rõ vẻ mặt âm trầm của Lưu Tịnh. Liễu Duệ mà nàng ta để ý đã thành thân với người khác, vậy thì nàng ta sẽ như thế nào? Khi Công chúa trưởng Nam Cung được gả vào phủ Trường Tín hầu thì mọi chuyện đã được quyết định, cung Trường Môn lại có thêm một lá bài quan trọng và vững chắc, thậm chí còn hơn cả chính bản thân Công chúa trưởng Bình Dương. Dưới tình huống như thế thì dường như Lưu Tịnh càng không thể gia nhập trở lại vào phe Vệ gia, nhưng làm sao một Công chúa trưởng Bình Dương tính khí cao ngạo lại chịu được mối nhục nhã này?
“Nhìn bọn họ mà đệ cũng muốn được thành thân quá”, Tang Hoằng Dương uống cạn chén rượu, mỉm cười nói đùa.
“Vậy thì đệ hãy mau rước Di Khương về nhà đi. Nàng ấy chờ đệ cũng lâu rồi.” A Kiều mỉm cười, ngồi trên lan can của dãy hành lang dài ngẩng đầu nhìn lên những ngôi sao trên cao. Chúng lấp lánh như vậy, đẹp đẽ như vậy, dường như chỉ cần đưa tay ra là có thể hái được nhưng nếu thật sự đưa tay ra lại xa xôi tận phía chân trời.
“Những năm qua đệ vẫn lục đυ.c mãi với nàng”, Tang Hoằng Dương cười buồn, không che giấu, “Không phải là đệ không có ý định nhưng vẫn không dám chắc có phải chính là nàng không? Nói cho cùng thì đệ không được quả quyết như Liễu huynh.”
Mọi người thương cảm vị tân nương này đã trải qua bao đau khổ hoạn nạn, rất đáng tôn kính nên không làm náo loạn lễ động phòng, để cho đôi tân lang tân nương được yên tĩnh. “Kiều Kiều!” trên long xa hồi cung, Lưu Triệt nhận thấy rõ ràng rằng A Kiều mang tâm sự nặng nề liền hỏi, “Có chuyện gì vậy?”
A Kiều ngẩng đầu lên, đáp cho có lệ, “Thϊếp đang suy nghĩ rằng nếu Thái hậu trên trời có linh thiêng, nhìn thấy ngày hôm nay sẽ rất vui vẻ.”
Lưu Triệt nghe nhắc tới mẫu thân thì trầm lại, khẽ nói, “Chắc là vậy!”
Thật ra thì A Kiều đang nghĩ về những lời vừa rồi Lưu Đàm nói với nàng ở tân phòng, “A Kiều, cho dù quá khứ có như thế nào thì con người luôn luôn hướng về phía trước.” Lúc đó, Lưu Đàm còn đang mang chiếc khăn chùm đầu màu đỏ, nhẹ nhàng nói, “Hay nói cách khác là con người chưa từng phải chịu khổ đau thì sẽ không cảm nhận được hạnh phúc mới. Liễu Duệ nói với ta như vậy, ta cũng muốn nói cho muội biết.” Sau đó Liễu Duệ bước vào tân phòng, vén chiếc khăn trùm đầu để lộ nụ cười như hoa nở của tân nương.
A Kiều thở dài, nép vào trong lòng Lưu Triệt. Đàm tỷ, có lẽ nói đúng. Thế nhưng người hôm nay gối ấp vai kề với tỷ lại không phải là người ngày xưa làm thương tổn tỷ. Đến hôm nay thì nàng có thể tin rằng giữa nàng và Lưu Triệt đã có lúc yêu nhau nhưng mà phần tình yêu này pha tạp quá nhiều nên đã mất đi ý nghĩa vốn có của chữ yêu, không thấy được hạnh phúc ở chỗ nào. Thật ra, nếu nàng chịu giả vờ ngốc nghếch thì bây giờ vẫn có thể miễn cưỡng giành được hết ân sủng, làm ra vẻ như mình rất hạnh phúc. Nhưng nàng không làm được. Nàng luôn tỉnh táo đứng một bên quan sát xem con người ở bên cạnh mình kia sẽ trở mặt lúc nào. Nàng cũng không hiểu vì sao dường như cứ có một nhận định từ trong tiềm thức rằng cuối cùng sẽ có một ngày như vậy. Vào đêm trước ngày đó, nàng sẽ mỉm cười nói rằng mình đã sớm biết.
Người ta nói con chim đã một lần bị tên bắn thì mãi sợ cành cong. Thật sự nếu đã không yêu thì có cố hết sức cũng không thể khiến bản thân tin tưởng vào tình yêu. Thời gian như nước nhẹ trôi, có thể hòa tan mọi đớn đau, nhưng làm sao có thể khiến cho một tâm hồn từng bị tổn thương lại không một chút nào đề phòng con người trước đây đã làm mình đau đớn?
Rất nhiều năm sau, Công chúa trưởng Nam Cung khi nằm liệt trên giường bệnh vẫn còn nắm tay nàng luyến tiếc. “Tỷ đã nghĩ rồi, nếu gặp chàng sớm mấy năm thì không biết liệu có thể khiến cho chàng được hạnh phúc hơn?”
A Kiều lại nghĩ, chắc Liễu Duệ đã có được hạnh phúc, dù hơi muộn màng, còn nếu đã vô duyên thì dù gặp đúng người nhưng lại sai lầm về thời gian thì cũng để lỡ nhau. Sớm hơn mấy năm, Lưu Đàm còn là công chúa Đại Hán được tôn sùng, nuông chiều từ bé, còn Liễu Duệ chỉ là một kẻ bình dân, gặp gỡ cũng chỉ là thoáng qua, có lẽ khi người thiếu nữ ngồi trong xe dạo phố vén rèm sẽ liếc nhìn hững hờ rồi bỏ lại sau lưng.
Bình phong nến tỏa sắc thu vàng
Phất phới quạt mềm đóm lượn sang
Đêm xuống khung trời như nước biếc
Ngắm sao Chức Nữ gặp Ngưu Lang.Quyển 3 - Chương 52: Lâu thuyền[1] giăng kín mặt hồ Côn Minh[1] Lâu thuyền: Thuyền chiến có nhiều tầng, dùng làm thuyền chỉ huy, chở quân, chuyển lương. Các lầu cho phép quan sát được xa, có thể phát huy tầm bắn của cung, nỏ và thường được làm ở phía lái.
Mùa thu năm Nguyên Thú thứ hai, thiền vu Hung Nô tức giận vì thất bại ở phía tây nên muốn gϊếŧ Hồn Tà vương và Hưu Đồ vương. Hai vương sợ hãi, thương lượng hàng Hán. Hưu Đồ vương nửa đường hối hận, Hồn Tà vương liền gϊếŧ chết, hợp hai bộ lạc lên tới hơn bốn vạn người quy hàng. Năm nước chư hầu tiếp nạp số người này, từ đó nhà Hán đoạt được đất Hà Gian, chia cắt con đường phía tây của Hung Nô. Cùng quy thuận nhà Hán, còn có con trai của Hưu Đồ vương là Kim Nhật Đan và mẫu thân gã là Át thị, đệ đệ là Luân thì không làm quan mà được thu nhận vào chăn ngựa cho hoàng cung, tuổi vừa mười bốn. Không có ai lường trước được người thiếu niên Hung Nô lúc này còn tầm thường nhưng về sau lại trở thành đại thần một phương của triều đình Đại Hán.
Hoắc Khứ Bệnh xử lý chuyện Hồn Tà vương hàng Hán xong thì vinh quy Trường An. Hoàng đế khen ngợi công lớn, phong thưởng rất nhiều. Hoắc Khứ Bệnh đã hai mươi tuổi, mẫu thân Vệ Thiếu Nhi muốn lo chuyện hôn nhân cho hắn nên cùng Vệ hoàng hậu lựa chọn ra ba thiếu nữ của ba gia đình quyền quý hiển hách nhất Trường An, đắn đo cân nhắc nhiều lần. Điện Tuyên Thất đánh tiếng rằng Hoàng đế định xây một tòa phủ đệ ở thành Trường An cho Hoắc Khứ Bệnh, Hoắc Khứ Bệnh không nhận, nói, “Chưa diệt xong Hung Nô thì chưa nhận nhà.”
Hoàng thượng nghe vậy cười một tiếng, khen có khí phách rồi thôi không nhắc đến việc đó nữa, còn Vệ Thiếu Nhi thì ngạc nhiên mãi, khổ sở mà chẳng thể làm gì.
Đầu năm Nguyên Thú thứ ba, điện Thanh Lương báo tin Tiệp dư Vương Thấm Hinh ốm chết. Trong điện Tiêu Phòng, Vệ Tử Phu sững sờ một hồi lâu mới nói, “Biết rồi.” Trong cung Vị Ương, một phi tần thất sủng chết đi thì cũng chỉ như một giọt mưa rơi vào sông Vị Thủy, chẳng để lại dấu vết gì. Vệ Tử Phu có cảm giác mèo khóc chuột, bảo, “Dù thế nào thì vẫn phải báo cho bệ hạ một tiếng.”
Ý chỉ của Lưu Triệt truyền về khá lạnh lùng, “Giao Tam hoàng tử Lưu Hoành cho Hình khinh nga nuôi dưỡng.”
Tam hoàng tử Lưu Hoành năm đó chưa đầy bốn tuổi, đang bi bô học nói. Phi tần có cấp bậc hơi cao một chút trong cung Vị Ương chỉ có Hình Nhược chưa sinh con, giao cho nàng ta nuôi dưỡng là vẹn cả đôi đường, nhưng vẫn có cảm giác xót xa vì Vương Thấm Hinh đã từng được sủng ái như vậy nhưng chết trong cô độc mà bệ hạ lại không hỏi thăm lấy một lời. Tháng Hai năm Nguyên Thú thứ ba, Vương Thấm Hinh được mai táng với cấp bậc tiệp dư.
Tháng Ba năm Nguyên Thú thứ ba, sứ thần được phái đi theo đề nghị năm xưa của Bác Vọng hầu Trương Khiên để tìm đường từ đất Thục tới Thân Độc[2] trở về Trường An, bẩm báo lên Hoàng đế tuy Điền vương có ý tốt phái người giúp bọn họ tìm đường đi Thân Độc nhưng mất hơn một năm mới tới gần vùng biển Nhị Hải của Đại Lý lại bị tộc Côn Minh ngăn trở nên cuối cùng sắp thành công lại thất bại.
[2] Nay là Ấn Độ.
Lưu Triệt thấy tôn nghiêm của Đại Hán bị mạo phạm nghiêm trọng thì vô cùng giận giữ, muốn phát binh chinh phạt. Cuối cùng bị thừa tướng Lý Thái can ngăn, nói tộc Côn Minh sinh sống ở vùng sông nước, giỏi thủy chiến còn quân Hán lại chỉ quen đánh trên bộ, cho dù có thể chinh phạt được thì cũng sẽ chịu tổn thất nghiêm trọng. Lúc đó văn võ bá quan đều cảm thấy triều đình đã hao tốn quá nhiều nhân lực vật lực chỉ vì một kiến nghị mang hy vọng xa vời của Trương Khiên, tính ra được không bằng mất, nhưng vì bệ hạ cương quyết độc đoán nên chẳng ai dám nói ra.
Buổi tối, Lưu Triệt về đến cung Trường Môn vẫn còn chưa hết tức giận, oán hận nói, “Trẫm chấp chính suốt bao năm, ngay cả Hung Nô hung hãn thiện chiến cũng còn phá được, chẳng lẽ lại không đối phó được một tộc Côn Minh nho nhỏ đó sao?”
A Kiều vừa nghe đã biết thứ mà Lưu Triệt đang khổ sở tìm kiếm về sau này chính là con đường tơ lụa phương nam, thông từ đất Thục tới Thân Độc. Nếu việc này thành công sớm, khai thông ngoại thương thì sẽ có lợi rất lớn cho Đại Hán, khó trách tại sao Tang Hoằng Dương lại nhiệt tình với chuyện này như thế.
Mặc dù triều Hán không có lệ quy định hậu cung không được tham gia chính sự nhưng A Kiều biết chư vị hoàng đế Tây Hán kiêng kỵ với chuyện họ Lữ loạn quyền trước kia nên nàng không tiện đề cập tới mà chỉ nói chung chung, “Bệ hạ nhất định sẽ có biện pháp.”
Ngày hôm sau, Lưu Triệt triệu kiến Trường Bình hầu Vệ Thanh, Trường Tín hầu Liễu Duệ và cả Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh tới điện Tuyên Thất để thảo luận về chuyện huấn luyện thủy quân.
“Cũng không phải không thể”, Vệ Thanh lộ vẻ băn khoăn, “Chỉ là huấn luyện thủy quân phải có sông hồ chứa được ngàn vạn người, nhưng hình như gần Trường An không có chỗ nào thích hợp.”
Lưu Triệt khẽ cau mày, đưa mắt liếc thấy Trường Tín hầu Liễu Duệ đang có vẻ suy tư, liền hỏi, “Liễu khanh có ý kiến gì không?”
Liễu Duệ chắp tay đáp, “Thần tin tưởng rằng bệ hạ đã có chủ kiến, cần gì vi thần phải nhiều lời.”
Lưu Triệt nghiến răng, “Đám tiểu bối man di tộc Côn Minh dám cả gan kɧıêυ ҡɧí©ɧ thiên uy của Đại Hán ta, chinh phạt là tất yếu. Trẫm muốn dùng nhân công tạo ra một cái hồ ở Thượng Lâm Uyển có hình dáng như biển Nhị Hải thao luyện thủy quân để sau ba năm đến năm năm nữa sẽ bình định man di.”
Ý nghĩ này quả thật là điên cuồng xa xỉ, ngoại trừ Liễu Duệ thì cả Vệ Thanh và Hoắc Khứ Bệnh đều giật mình biến sắc. Hoắc Khứ Bệnh không nhịn được lên tiếng, “Không cần như vậy, cùng lắm thì cho thủy quân thao luyện ở xa một chút có hơn không?”
Vệ Thanh căng thẳng, đứa cháu trai này của mình thiếu niên đắc chí, lại thêm từ trước đến giờ luôn được quân vương cực kỳ sủng ái nên cứ nghĩ sao nói vậy, áng chừng không hiểu rằng nếu quân vương đã quyết định chuyện gì thì dù hao tốn bao nhiêu nhân lực vật lực cũng phải làm bằng được nên chắp tay đỡ lời, “Khứ Bệnh còn nhỏ, bệ hạ không cần chú ý lời hắn.”
Hoắc Khứ Bệnh bất mãn liếc nhìn Vệ Thanh song không phản đối nữa, chỉ cúi đầu xuống. Lưu Triệt trông thấy thế cười khẽ, “Ý trẫm đã quyết, các khanh ai nấy tiến hành tuyển chọn những binh sĩ thích hợp thủy chiến. Đến lúc hồ Côn Minh hoàn thành, trẫm muốn có ba nghìn thủy quân.”
Ba người cùng đồng thanh, “Tuân lệnh!”
Xây dựng hồ Côn Minh cần kinh phí rất lớn. Sau khi cho ba người lui ra, Lưu Triệt trầm mặt ra lệnh, “Triệu Đại tư nông trang Tang Hoằng Dương vào đây.”
Tang Hoằng Dương đang đứng đợi sẵn ngoài điện Tuyên Thất, nghe vậy bước vào điện, bái chào: “Thần Tang Hoằng Dương tham kiến bệ hạ.”
“Đứng lên đi”, Lưu Triệt không chú ý lễ tiết: “Tang khanh, trẫm hỏi khanh, nếu như trẫm muốn đào ở trong Thượng Lâm Uyển một cái hồ với chu vi bốn mươi dặm theo hình dạng biển Nhị Hải thì phí tổn ước khoảng bao nhiêu?”
Tang Hoằng Dương nhẩm tính rồi bẩm: “Cần khoảng mười vạn xâu tiền Tam Thù.”
Dù đây không phải là con số nhỏ nhưng vẫn ít hơn khá nhiều so với dự tính của Lưu Triệt khiến y kinh ngạc, “Hoằng Dương có tính chuẩn không?”
Tang Hoằng Dương giải thích, “Thật ra thì đã tính dư thêm một ít. Chắc bệ hạ đã biết thành Trường An tuy nằm sát gần sông Vị Thủy nhưng kinh thành vốn phồn hoa nên vẫn thiếu nước uống. Nếu đắp đập ngăn nước trên thượng du xuống xây thành hồ nhân tạo, địa thế Thượng Lâm Uyển lại cao nên nước sẽ tự động chảy về phía Trường An, bảo đảm được nước dùng trong thành. Chỉ với điểm này thì dù kinh phí nhiều hơn cũng đáng.”
Lưu Triệt nhướng mày chăm chú nhìn hắn rồi khen ngợi, “Tang khanh nghĩ thật chu đáo.”
Tang Hoằng Dương chắp tay khiêm tốn, “Lo cho thánh thượng là bổn phận của thần tử.”
Chuyện xây hồ Côn Minh được tiến hành một cách bài bản dưới sự trù tính và chỉ huy của Tang Hoằng Dương. Trần A Kiều ngầm đoán được Tang Hoằng Dương đã sử dụng không ít kiến thức tiên tiến của thời hiện đại khiến cho chuyện xây hồ Côn Minh lần này không bị dân chúng ta thán tiêu tốn quá nhiều.
Trong năm Nguyên Thú thứ ba, Lưu Triệt hạ lệnh lập Nhạc phủ do Tư Mã Tương Như phụ trách để sưu tập dân ca trong thiên hạ.
Đảo mắt đã đến năm Nguyên Thú thứ tư. Hồ Côn Minh hoàn thành, Lưu Triệt đi cùng Trần A Kiều tới Thượng Lâm Uyển để xem xét. A Kiều phải thừa nhận rằng hồ Côn Minh tuyệt đẹp. Sóng nước lăn tăn, mây trời soi bóng, đình đài lầu các tinh xảo hoa mỹ trải dọc theo bờ hồ, ngồi trên thuyền ngắm nhìn cảm thấy tâm hồn sảng khoái. Chỉ riêng với điều này, cho dù Lưu Triệt nghĩ đến bất cứ lý do gì thì trong suy nghĩ của y vẫn cho rằng quan trọng nhất là để cho bản thân mình sau này du ngoạn.
Lưu Triệt hạ lệnh chế tạo mấy chiếc lâu thuyền cực lớn, giao cho thủy quân ngày đêm thao luyện. Trần A Kiều lo lắng, hỏi Liễu Duệ, “Ngày xưa Tào Tháo đã từng xây hồ Huyền Vũ thao luyện thủy quân nhưng vẫn đại bại ở trận Giang Đông, hồ nước nhân tạo mặc dù tốt nhưng nói cho cùng thì vẫn không có sóng gió, thật sự có thể luyện ra thủy quân thiện chiến sao?”
Liễu Duệ nheo mắt, “Chẳng qua là một tộc Côn Minh nho nhỏ, thế này cũng đủ rồi.”
Cuối năm Nguyên Thú thứ tư, Đại tướng quân Vệ Thanh và Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh mỗi người dẫn năm vạn kỵ binh chia hai đường bắc tiến đánh Hung Nô.
Đây cũng là một chương hoành tráng khốc liệt nhất trong lịch sử chiến tranh Hán Hung, được gọi là “Cuộc chiến Mạc Bắc.” Đại quân của Hoắc Khứ Bệnh vượt qua phía bắc đại mạc thì chạm trán với Tả Hiền vương Hung Nô. Hai bên kịch chiến, quân Hung Nô chạy chốn về phía bắc. Hoắc Khứ Bệnh dẫn quân đuổi sát tới Lang Cư Thanh Sơn và Bắc Hải, bắt ba vương gia và hơn bảy vạn người từ tướng quốc, tướng quân trở xuống làm tù binh. Trong chiến dịch này, Hoắc Khứ Bệnh đã xâm nhập vào sâu hơn hai ngàn dặm, Hung Nô chạy dài, Mạc Nam và Mạc Bắc đều được bình định. Vệ Thanh xuất quân từ Định Tương tiến đánh Hung Nô. Hắn tiến sâu vào vùng Mạc Bắc, càn quét sào huyệt, tìm diệt chủ lực, chạm trán với thiền vu Hung Nô. Sau trận ác chiến, Thiền vu vung đao tự vẫn. Đến lúc này, Hung Nô cũng không còn lực để đánh với nhà Hán.
Mùa thu năm Nguyên Thú thứ tư, Đại tư nông Tang Hoằng Dương nhận lệnh bỏ tiền Tam Thù, đúc tiền Ngũ Thù[3]. Từ đó về sau, cả Đại Hán dùng loại tiền mới này.
[3] Theo lịch sử thì tới năm Nguyên Thù Thứ năm, Hán Vũ Đế mới bắt đầu cho đúc tiền Ngũ Thù nhưng trong truyện tác giả đã viết sớm hơn một năm.
Một hôm, có một chiếc xe mui sơn thông thường chạy về hướng cổng Tuyên Bình ở phía đông thành Trường An rồi dừng lại trước cửa đại viện của căn nhà sang trọng. Một cô bé vén rèm xe rồi gọi toáng lên, “Bà bà!” Cô bé mặc y phục bình thường nhưng may bằng chất vải gấm Tứ Xuyên cực quý, một xấp đã tương đương với thu nhập cả tháng của một gia đình bình thường. Cô bé khoảng chừng mười tuổi, khuôn mặt xinh xắn lộ ra khí chất tôn quý, láng giềng xung quanh dõi mắt nhìn theo, xôn xao bàn luận phỏng đoán thân phận hai vị khách này nhưng đều không đúng.
Bao năm qua, Thân đại nương đã có một cuộc sống đầy đủ nên thời gian dù vô tình cũng không để lại quá nhiều dấu vết. Bà trông thấy mẹ con A Kiều thì rất vui mừng nhưng vẫn không khỏi có chút lo lắng, ngắm nghía từ đầu đến chân một lúc thật lâu rồi mới nắm tay A Kiều, cau mày trách, “A Kiều, nghĩa mẫu đã được mấy người Tang đại nhân chăm sóc rồi, con thân phận cao quý, không cần tự mình đến thăm.”
Từ sau khi trở về từ cung Cam Tuyền vào năm Nguyên Thú thứ hai thì Trần A Kiều ít nhiều đã có thể tự do xuất cung, thỉnh thoảng cũng tới thăm Thân đại nương để cuộc sống nghĩa mẫu bớt cô đơn.
“Làm sao thế được chứ?” Lưu Sơ bên cạnh cười khanh khách, “Bà là bà mà.”
Vừa lúc đó có người hầu dâng trà lên, A Kiều mỉm cười nhận lấy rồi nói, “Phụng Gia không có nhà, A Kiều đến thăm nghĩa mẫu thường xuyên thì có gì không tốt đâu.”
Phụng Gia là tên tự Tiêu Phương đặt cho sau khi Thân Hổ tròn hai mươi. Mỗi người đều có chí riêng, không thể cưỡng ép. Mạc dù nàng từng hy vọng Thân Hổ nhập ngũ theo giúp Liễu Duệ một tay nhưng Thân Hổ một lòng theo nghiệp võ, không có lòng ra chiến trường nên nàng cũng không nói gì. Năm xưa học võ ở Đường Cổ Lạp Sơn thì Thân Hổ đã chuyên cần hơn A Kiều rất nhiều, những năm qua lại theo Quách Giải ngao du bên ngoài nên chắc lại càng thêm tiến bộ. Chỉ là A Kiều thỉnh thoảng vẫn nghĩ rằng Thân Hổ có thể lựa chọn cuộc sống theo ý của mình, nhưng Mạch Nhi của nàng lại chỉ có thể từng bước từng bước hướng đến khuôn mẫu một hoàng tử ôn hòa khôn khéo. Nếu như không phải sinh trong nhà đế vương thì liệu Mạch Nhi có nguyện ý làm một kiếm khách phiêu lãng chân trời? Nó cứ từng ngày từng ngày phải chôn vùi khát vọng ban đầu được đi khắp thiên hạ ở trong chốn thâm cung hoa lệ.
“A Kiều”, Thân đại nương tựa như nhìn thấu suy nghĩ của nàng, an ủi, “Con có thân phận tôn quý khác hẳn với bọn họ. Hơn nữa một phụ nữ cũng không thể giống như bọn họ làm hiệp khách lãng du ở bên ngoài.”
Nàng gạt đi những chuyện phiền muộn trong đầu, mỉm cười nói, “Không đề cập tới những chuyện này nữa, hôm nay con sẽ làm con ngoan xuống bếp nấu cho nghĩa mẫu ăn.”
“Không được…” Thân đại nương vừa định khuyên can thì Lưu Sơ đã nhảy cẫng lên, “Thật tốt quá, bà bà không biết mẫu thân rất ít khi chịu xuống bếp, cháu và ca ca chờ đợi lâu lắm rồi đó.”
A Kiều vừa bực mình vừa buồn cười, nắm lấy tay Lưu Sơ, “Con xuống phụ cho mẫu thân đi, tranh thủ học nấu ăn luôn thể.”
Lưu Sơ giãy nảy lên ngạc nhiên, “Con là công chúa Đại Hán thì tại sao phải học? Mà học để nấu cho ai ăn chứ?”
Tỳ nữ đứng hầu là người mới vào, nghe thấy thân phận kinh người như vậy thì sợ hãi không biết thật hay giả nên cứ đứng lặng thinh ở bên cạnh mãi tới lúc hai người đi xa rồi mới sán lại khẽ hỏi, “Lão phu nhân…?”
Thân đại nương xoay người lại nhìn cô, trầm giọng “Thanh Dung nếu ngươi nói lộ thân phận hai mẹ con Trần nương nương ra ngoài…”
Thanh Dung nhìn thấy chủ nhân vẫn luôn hòa ái nhưng lúc này lại tỏ sắc mặt nghiêm trọng thì không thể nén nổi rùng mình, vội vàng quỳ gối nói, “Thanh Dung biết rồi.”
Trong phòng bếp thỉnh thoảng truyền đến giọng trong trẻo của Lưu Sơ, “Rót dầu trước sao?”
“Ái chà chà, đổ thêm bao nhiêu nước đây?”
“Thái thức ăn như thế nào?”
…
Sau một hồi lại đến giọng Trần A Kiều gắt gỏng, “Yên nào… trẻ con không dạy bảo là không được.”
“Lão phu nhân”, quản gia tất bật chạy suốt dãy hành lang dài tới tận đại đường, bẩm với Thân đại nương, “Có một chiếc xe tới bên ngoài cửa tìm tiểu thư, người trên xe tự xưng là công tử họ Vương.”
Thân đại nương suy nghĩ một chút rồi nói, “Mời họ vào đi. Ông đi báo cho tiểu thư một tiếng.”
Quản gia thấp giọng đáp, “Dạ.”
Người gác cổng được lệnh liền bước ra ngoài, mỉm cười nói, “Mời công tử vào.”
Có tiếng đáp khẽ từ trong xe vọng ra rồi một người đàn ông mặc đồ đen bước xuống, lướt nhìn người gác cổng khiến gã lập tức lạnh toát cả người không dám ngẩng đầu nhìn lên.
Dương Đắc Ý bên cạnh lên tiếng, “Chính là chỗ này.”
“Thân phu nhân.” Trên đại đường, Lưu Triệt khẽ gật đầu, “Làm phiền rồi.”
Thân đại nương theo lễ đáp lại, “Không có gì. Không biết công tử cùng với nghĩa nữ của dân phụ là…?”
Lưu Sơ đang đi trên hành lang dài ở phía sau nhà lên, từ xa trông thấy bèn vui mừng kêu lên. “Phụ… Phụ thân.”
Thân đại nương chỉ cảm thấy cả người run lên, trong nháy mắt biết được thân phận người đứng trước mặt, sắc mặt dần thay đổi. Lưu Triệt mỉm cười quay đầu lại, bế bổng Lưu Sơ lên rồi hỏi, “Con và mẫu thân đang làm gì vậy?”
“Hôm nay mẫu thân nấu ăn”, Lưu Sơ hớn hở, “Con giúp mẫu thân”, nói đến đây thì ỉu xìu, đưa tay ra chỉ vào, “Bị dầu bắn vào, mẫu thân còn nói: Trẻ con không được dạy bảo là không được.”
Lưu Triệt bật cười, nhìn về phía A Kiều đang đứng ở ngoài cửa. A Kiều hiển nhiên không ngờ rằng y lại xuất hiện ở đây nên trên mặt có mấy phần kinh ngạc.
“Trẫm… Hôm nay ta định ra ngoài, nghe nói nàng và Sơ Nhi ở chỗ này nên sang xem.”
A Kiều gật đầu, trong lòng áng chừng Kỳ Môn quân đã âm thầm bảo vệ quanh Thân phủ rồi, quay sang bảo đám người hầu, “Các ngươi lui xuống.”
Trước khi rời đi, Thanh Dung không nhịn được khẽ quay đầu liếc nhìn. Người đàn ông anh tuấn tôn quý kia chính là bậc đế vương của Đại Hán đó ư?
“Tới sớm không bằng tới đúng lúc”, Dương Đắc Ý bên cạnh giả lả nói, “Vừa vặn gặp dịp phu nhân tự mình xuống bếp.”
Lưu Triệt mỉm cười nhìn A Kiều, nói, “Ta cũng chưa từng thấy nàng nấu ăn ở Trường Môn.”
A Kiều cười khúc khích, “Thϊếp lười mà, có y phục đưa tới tay, cơm bưng tới miệng sao còn tự mình nấu nướng để làm gì chứ?”
Không biết tại sao Lưu Triệt lại mơ hồ cảm thấy có nỗi thất vọng thoáng qua trong lòng. Rõ ràng A Kiều đã bên cạnh mà y vẫn có ảo giác rằng tâm sự của nàng còn mịt mờ ở nơi xa vắng. Nghĩ đến đây, sắc mặt y bất giác trầm lại, khẽ gật đầu, “Tạ ơn đại nương xưa kia đã cứu mạng nội tử[4].”
[4] Nội tử: Vợ.
Thân đại nương cả kinh xua tay, “Không dám nhận… Thật ra thì nương nương đẹp người đẹp nết, chắc ai thấy cũng đều vui vẻ đối xử tử tế.”
Lưu Triệt thản nhiên nói, “Trẫm biết.”
Món ăn được dọn lên, sắc hương đều đủ, lầu Thanh Hoan cũng khó sánh kịp. Lưu Triệt bồi hồi nghĩ đến cảnh họ gặp lại nhau lần đầu tiên ở lầu Văn Nhạc sau khi A Kiều lưu lạc khỏi cung. Lầu Văn Nhạc bây giờ đã suy sụp nhưng năm xưa vô cùng nổi danh ở thành Trường An. Lần ở lầu Văn Nhạc cũng do A Kiều đích thân xuống bếp nhưng y lại không biết người ngồi đối diện là nàng. Nếu quả thật A Kiều trong ký ức của y đã phải chịu uất ức lớn như thế, còn mang trong người giọt máu của đế vương thì khi thấy y chẳng phải nên khóc lóc tố khổ hay sao, đằng này lại vẫn tỉnh táo phân tích lợi ích được mất? Rốt cuộc A Kiều là người từ trước đến giờ vẫn để vui buồn lộ ra nét mặt, nội tâm đơn giản, hay là người có nét ưu tư không thể diễn tả, đủ thông minh để đứng ngoài mọi chuyện, yên lặng nhìn xem những gì được mất?Quyển 3 - Chương 53: Con gái Lý gia sắp trưởng thànhNgoài Thân phủ truyền tới những tiếng huyên náo, Lưu Triệt cau mày, “Xảy ra chuyện gì vậy?”
Quản gia đi vào bẩm, “Có một phương sĩ[1] tới ngoài cửa, ăn nói lung tung, ý là trên nhà sắc tím vờn quanh, tất có quý nhân.” Khuôn mặt ông ta tỏ vẻ chê cười, biểu thị ý không tin.
[1] Phương sĩ: Người cầu tiên học đạo.
Lưu Triệt nghe vậy rất ngạc nhiên, thực sự hôm nay y tới Thân phủ là do ý thích nhất thời chứ trước đó chính bản thân cũng chưa từng nghĩ đến. Như vậy chẳng lẽ người này đúng là có thể thông với thần linh hay sao?
“Cho người đó vào đi!”, Lưu Triệt bình thản ra lệnh. Y làm đế vương nhiều năm nên đã quen ra lệnh, quên mất cả thân phận làm khách của mình. Quản gia ngạc nhiên nhưng khiếp sợ khí thế toát ra từ người của Lưu Triệt nên cũng chỉ biết vâng dạ.
“Bần đạo họ Lý, người bên cạnh gọi ta Thiếu Ông.” Phương sĩ đứng dưới đại đường chắp tay ngẩng đầu nhìn lên, dù y phục lam lũ nhưng dáng vẻ khá khí phách, “Bệ hạ ở đây, Thiếu Ông có lễ.”
Trần A Kiều nhíu mày, nhớ tới chuyện Lưu Triệt nửa đời sau hết lòng tin theo phương sĩ, hao phí vô số tài lực để cầu đạo trường sinh, chắc có lẽ bắt đầu từ vị Lý Thiếu Ông này.
“Lý tiên sinh có bản lĩnh gì?”, Lưu Triệt hỏi.
“Bần đạo có thể nói chuyện với linh hồn.”
“Trẫm cũng đang không muốn gặp người”, Lưu Triệt phất tay. Lý Thiếu Ông không khỏi ngạc nhiên.
A Kiều nháy nháy mắt gọi Lưu Sơ lại dặn dò mấy câu. Lưu Sơ gật đầu, nhảy xuống, đi tới trước mặt Lý Thiếu Ông, đưa hai tay ra hỏi, “Nếu Lý tiên sinh có thể thông thần, tiên sinh có thể đoán ra được tay nào của ta cầm hạt bí đỏ hay không?”
“Vị này cũng là quý nhân, chắc là con gái của Hoàng đế.” Lý Thiếu Ông mỉm cười nói, “Đáng tiếc xem tướng mạo thì mạng khổ, cũng may cuối cùng gặp thiện.”
Dù trong lòng nhận định người này chẳng qua chỉ là một kẻ cơ hội nhưng Trần A Kiều vẫn không khỏi sa sầm, lạnh lùng cười bảo, “Đa tạ tiên sinh đã quan tâm tới tiểu nữ, tiên sinh cứ đoán đi đã.”
Lý Thiếu Ông thấy thần sắc Lưu Triệt bình tĩnh nhìn không ra vui buồn thì cắn răng đoán, “Trái.”
Lưu Sơ mỉm cười, “Tiên sinh chắc chắn như thế chứ?”
“Dĩ nhiên là chắc chắn… ở bên phải. Bên phải nặng hơn. Công chúa, Thiếu Ông nói có đúng không?”
Lưu Sơ bật cười, ánh mắt lóe lên một tia sáng khó hiểu. Lý Thiếu Ông nhìn thấy thì kinh hãi, vừa rồi lão đoán bừa nhưng cô bé này thông minh từ nhỏ nên thực sự khó nắm bắt.
“Lý tiên sinh”, Lưu Triệt khép mắt lại hỏi, “Tiên sinh bây giờ đã thấy rõ?”
“Bẩm bệ hạ,” Lý Thiếu Ông quay sang Lưu Triệt quỳ xuống nói, “Hai tay công chúa đều không nắm vật gì, nói có hạt dưa thì chẳng qua là nương nương muốn thử Thiếu Ông. Nương nương”, lão nhìn Trần A Kiều, “Thiếu Ông nói đúng không?”
Trần A Kiều cười khẽ, bảo: “Tảo Tảo, xòe tay ra cho Lý tiên sinh xem đi.”
“Dạ.” Lưu Sơ đáp gọn rồi xòe cả hai bàn tay ra, trong tay trái rõ ràng có một hạt dưa.
Lưu Triệt giận tím mặt, lạnh giọng hỏi, “Ngươi làm sao lại biết trẫm tới đây?’ Lý Thiếu Ông tái mặt, ngã ngồi dưới đất.
“Bệ hạ!” A Kiều nhẹ giọng nhắc nhở, “Nơi này là Thân phủ.” Lưu Triệt lúc này mới nhớ ra, hạ lệnh, “Áp giải đến phủ Đình úy giao cho Trương Thang tra xét.”
Hai thị vệ đáp một tiếng rồi tiến đến túm lấy Lý Thiếu Ông.
“Kiều Kiều!” Lưu Triệt nhìn A Kiều, đột nhiên hỏi, “Kiều Kiều tin cõi đời này thật sự có người có thể thông thần?”
A Kiều im lặng, nếu là trước đây thì dĩ nhiên nàng sẽ nói rằng không tin. Thế nhưng sau khi bản thân gặp những chuyện kỳ quái cho tới giấc mộng như thật như ảo trước lúc sinh con vào năm Nguyên Quang thứ sáu thì nàng đã không dám nói chắc chắn.
“Có lẽ”, A Kiều ngần ngừ, “trên đời này thật sự có người như thế. Nhưng A Kiều càng tin là trên đời có nhiều người lừa gạt lấy tiền hơn”, tựa như Lý Thiếu Ông vậy.
Vào cuối năm Nguyên Thú thứ tư, quan Nội đình Trương Thang hồi báo, Lý Thiếu Ông đã tự vẫn ở phủ Đình úy, trước khi chết khai rằng từng gặp bệ hạ một lần ở lầu Chung Cổ vào năm Nguyên Sóc thứ năm, ngày đó ngẫu nhiên trông thấy trên đường định đánh cuộc cầu công danh phú quý một lần, ai ngờ thất bại mạng vong.
Năm Nguyên Thú thứ năm, Lưu Triệt xây dựng đài Bách Lương ở Thượng Lâm Uyển, cao chừng mười trượng, vì dùng gỗ bách hương làm rường cột nên có tên như vậy. Từ trên đài Bách Lương có thể quan sát hết quang cảnh Thượng Lâm Uyển trong tầm mắt. Ngày khánh thành đài Bách Lương, Lưu Triệt thiết yến chiêu đãi các triều thần, A Kiều cùng đi dự.
“Trong bữa tiệc hôm nay chỉ luận tài văn thơ, bất kể là vua tôi hay triều thần.”, Lưu Triệt hưng phấn nói, “Mỗi người làm một câu thơ thất ngôn, dùng thơ diễn tả công việc. Ai làm được thơ mới được ngồi chiếu trên.”
Hoàng đế đã nói như vậy, hơn nữa đây cũng không phải là chuyện quá khó khăn nên mọi người đều phụ họa. A Kiều chỉ cười nhẹ, “Mọi người làm thơ đi còn thần thiếp không tham gia đâu.”
Lưu Triệt liền ứng khẩu, “Trời trăng sao sáng bốn mùa trôi.”
Mọi người theo thứ tự chỗ ngồi lần lượt đọc:
Thăm vua bốn ngựa nước Lương phi. (Lương vương)
Quân binh đất nước lắm nhân tài. (Đại tướng quân)
Cai quản nước nhà thật khó thay. (Thừa tướng)
Bình định bốn phương chẳng dễ gì. (Đại tướng quân)
Làm quan chấp bút sử thần ghi. (Ngự sử đại phu)
Rung chuông gõ trống cũng thành thi. (Thái thường)
Ngày ngày tôn thất càng sinh sôi. (Tông chính)
Vệ binh giơ kích cấm người đi. (Vệ úy)
Dẫn quan khách đến Bách Lương đài. (Quang lộc huân)
Bình công xét tội hết hiềm nghi. (Đình úy)
Sửa sang xe ngựa đợi vua vời. (Thái phó)
Quan chức nước nhà chẳng kém ai. (Đại hồng lư)
Ngự dụng một tay cứ chủ trì. (Thiếu phủ)
Lúa ngô vạn thạch sẵn sàng ngay. (Đại tư nông)
Đường xá biên cương mặc sức đi. (Chấp kim ngô)
Đạo tặc ba nơi thiên hạ nguy. (Tả phùng dực)
Nam Sơn bắt trộm diệt dân tai. (Hữu phù phong)
Ngoại thích kiêu căng khó trị thay. (Kinh triệu doãn)
Đoán số Tiêu Phòng phải có tài. (Chiêm sự)
Man tộc vào chầu thấy lạ kỳ. (Điển thuộc quốc)
Lò đồng lô bạc vẫn duy trì. (Đại tượng)
Sơn trà quất dẻ mận đào mai. (Thái quan lệnh)
Thỏ lấy chó săn chim bẫy mồi. (Thượng Lâm lệnh)
Ngày ngày trang điểm đẹp cung phi. (Quách xá nhân)
Đông Phương Sóc đọc câu cuối cùng: “Người nghèo chịu khổ đáng thương thay.” Hắn đứng dậy chắp tay nói với A Kiều, “Thần nghe nói Trần nương nương cũng là tài nữ đương thời, sao nương nương lại không làm thơ nhân dịp hội thi thơ lần này?”
Các triều thần đều biết những năm gần đây bệ hạ rất sủng ái Trần nương nương nên cùng gật đầu phụ họa. Lưu Triệt cũng mỉm cười nhìn A Kiều, mắt lấp lánh. A Kiều bất đắc dĩ nói, “Nếu thiếp làm thật thì người không được tức giận đấy.”
Lưu Triệt bật cười, “Trẫm là người dễ giận như vậy sao?”
Thị nữ đứng đằng sau tiến lên châm đầy chung rượu, A Kiều nhấp một ngụm rồi đọc, “Trường Môn vắng tiếng ngựa xe đi.” Lưu Triệt lặng người, nụ cười trên mặt nhạt dần.
“Bệ hạ”, Dương Đắc Ý bước tới, khẽ bẩm, “Tư Mã Tương Như cầu kiến.”
Lưu Triệt vuốt ve chiếc chén dạ quang trên tay, thờ ơ nói, “Tuyên hắn lên đây.”
Tư Mã Tương Như lập tức bước lên bái chào rồi bẩm, “Thần phụng mệnh phụ trách Nhạc phủ, sưu tập ca dao của các địa phương về chỉnh sửa lại, định ra nhạc phổ, làm suốt hai năm cuối cùng đã có chút thành tựu.”
“Vậy à?” Lưu Triệt lấy lại hứng thú, liếc mắt nhìn A Kiều hăm hở nói, “Nhân tiện hôm nay thiết yến, cho người hát bài trợ hứng đi.”
Tư Mã Tương Như mỉm cười đáp, “Tuân mệnh!” Hắn xoay người lại phân bảo mấy câu, lát sau đã thấy một nhạc sư cung đình mặc áo lam cầm đàn bước vào, bái chào, “Tham kiến bệ hạ, Trần nương nương, các vị đại nhân.”
Lưu Triệt gật đầu, nói, “Chọn ra mấy bản vừa đàn vừa hát là được.”
Nhạc sư áo lam cúi đầu vâng dạ rồi ngồi lên chiếc ghế đã được cung nhân bày sẵn ở một bên, bắt đầu chơi đàn. Tiếng đàn vang lên réo rắt, A Kiều nghe ra kỹ năng chơi đàn của người này còn cao hơn cả Trác Văn Quân, cao vυ't sục sôi giống như thiên quân vạn mã xung trận, chỉ là mặc dù tiếng đàn rất trung chính nhưng lại không có nét tình tứ dịu dàng mà sâu lắng như của Trác Văn Quân nên vẫn coi như thua một bậc.
Tiếng đàn bỗng nhiên trầm xuống một tia ai oán, nhạc sư cất giọng ca một khúc nổi tiếng trong Nhạc phủ[2] thời Hán tên là Chiến thành nam.
[2] Nhạc phủ: Bộ phận các quan đời Hán chuyên sưu tập thơ ca và âm nhạc dân gian. Đời sau cũng gọi những thể thơ và tác phẩm làm theo loại này là Nhạc phủ.
“Chiến đầu thành nam,
Chết nơi đất bắc,
không mồ chôn quạ đen rỉa thịt
Ta táng thân mỏ quạ, thương thay khách anh hào!
Chết có chỗ chôn đâu,
Cho xác thân yên nghỉ,
Chết tránh được hay sao?
Nước biếc lao xao,
Cỏ lau xào xạc;
Phiêu kỵ trên chiến trường ngã gục,
Ngựa lưng không hí tiếng bồi hồi.
Phòng trúc lạnh bi ai,
Hỏi gì nam?
Tính chi đất bắc?
Lúa không gặt Vua ăn gì được?
Nguyện trấn an trung thần chăng?
Nghĩ đến triều thần,
Triều thần đền đáp lại:
Vì triều đình lập công,
Quyết chí chẳng trở về!”
Tiếng ca trong vắt, khẳng khái bật âm, có sự hào hùng khi vó ngựa giày xéo Hung Nô, có cái bi lụy của người biệt ly trên sông Dịch Thủy. Lưu Triệt bất giác cất lời khen hay, hỏi, “Trẫm cũng không biết trong số các nhạc sư Nhạc phủ lại có nhân tài như vậy, ngươi tên là gì?”
Người kia liền quỳ xuống đáp, “Tiểu nhân là nhạc sư bậc ba ở Nhạc phủ tên gọi Lý Diên Niên, khấu tạ bệ hạ tán thưởng.”
“Lý Diên Niên?” Trần A Kiều hơi giật mình, bấy giờ mới quan sát cẩn thận người đang quỳ trên đài kia.
“Dạ, Trần nương nương”, Lý Diên Niên hành lễ chào A Kiều rồi ngẩng đầu nhìn lên, thái độ không tự ti cũng không kiêu ngạo. Mặc dù thần sắc phong thái của hắn không bằng Tiêu Phương nhưng cũng rất nhã nhặn ôn hòa, có duyên ngầm, dùng một sợi dây cột tóc màu làm vẻ thanh tao. Người này chính là anh trai của Lý phu nhân đẹp nghiêng nước nghiêng thành. A Kiều thầm nghĩ, đã đến lúc người phi tần được sủng ái nhất triều Hán Vũ Đế này bước ra vũ đài rồi.
“Kiều Kiều”, Lưu Triệt không khỏi nghiêng người sang hỏi, “Có chuyện gì vậy?”
“Không có gì đâu”, A Kiều khẽ mỉm cười, hỏi, “Lý nhạc sư có một muội muội phải không?”
Lý Diên Niên sửng sốt, cung kính bẩm, “Đúng vậy.”
“Được bao nhiêu tuổi rồi?”
“Năm nay vừa mới tròn mười tám.”
“Ồ”, A Kiều trầm ngâm, trông thấy vẻ mặt tò mò của Lưu Triệt bèn mỉm cười nói, “Ta chỉ nghĩ là một nhân tài giống như Lý nhạc sư thế này thì muội muội chắc chắn phải là trang tuyệt sắc rồi.”
Lý Diên Niên đắn đo mãi, cuối cùng nói, “Sao bằng được phong thái của nương nương.”
“Lý cô nương như đóa hoa đang độ xuân sắc”, A Kiều tán dương, “Thế đã nhận lời với ai chưa vậy?”
“Vẫn chưa”, Lý Diên Niên cụp mắt xuống, nói, “Mấy năm trước đây, thần làm ca ca nên vốn cũng đã có tính toán cho nó nhưng Công chúa trưởng Bình Dương thấy nó hợp ý nên muốn nó đi theo người cho đỡ buồn. Đây là phúc của muội muội nhưng chuyện hôn nhân cũng vì vậy mà bị chậm trễ.”
Chuyện mới kể đến đây thì Lưu Triệt dựa vào những hiểu biết với tỷ tỷ của mình đã rõ hết ngọn ngành. Y hừ một tiếng, lạnh nhạt bảo, “Lui xuống đi!” Lý Diên Niên dập đầu tạ ơn, khom người lui ra.
Lưu Triệt nhìn Trần A Kiều làm vẻ mặt thản nhiên thì chẳng biết tại sao lại thấy lửa giận trào dâng trong lòng, bèn hỏi, “Kiều Kiều luôn không nghi ngờ gì đối với trẫm sao?”
Nàng ngơ ngác một chút rồi đáp, “A Kiều không dám.”
Lưu Triệt đột nhiên đứng dậy, phất tay bỏ đi, tấm áo bào đế vương màu đen tôn quý khuất dần trong tầm mắt mọi người kéo theo một viễn cảnh không hay. Từ khi Trần hoàng hậu quay về Trường Môn năm Nguyên Sóc thứ sáu, đây là lần đầu tiên bệ hạ tỏ vẻ tức giận đối với nàng. Trước sự nghi hoặc của các triều thần, Trần A Kiều vẫn ngồi ở trên đài mỉm cười nhàn nhạt như trước, dường như những tức giận của bậc cửu ngũ chí tôn với nàng vừa rồi chỉ là một thoáng bụi trần. “Các vị cũng giải tán đi thôi”, nàng đứng lên nói rồi xoay người bước xuống đài.
Từ đài Bách Lương có thể nhìn thấy hồ Côn Minh mênh mông mờ mịt, hơi nước như sương khói, vẳng nghe tiếng thủy quân thao luyện, sát phạt.
“Trần nương nương!” Một viên nội thị áo xanh lặng lẽ đi tới, hạ giọng bẩm, “Bệ hạ đã về điện Tín Hợp.”
Trần A Kiều gật đầu đáp, “Ta đã biết!”
Điện Tín Hợp là điện chính của Thượng Lâm Uyển, trước nay vẫn là chỗ ở của bệ hạ khi tới Thượng Lâm Uyển, lần này tới đây hai người ở chung. Nàng trở về điện Tín Hợp thì trời đã tối, đám cung nhân thắp hai hàng nến dài ở bên trong soi tỏ cả tòa cung điện tráng lệ sáng như ban ngày.
“Kiều Kiều!” Lưu Triệt nhắm mắt, “Nàng cảm thấy trẫm sẽ mang về thêm một Vệ Tử Phu nữa sao?”
A Kiều đang dang tay cho thị nữ thay y phục, nghe vậy im lặng một lúc lâu mới nói, “Bệ hạ có tính được trăng quên đèn, A Kiều cũng biết rồi mà.”
Hồi năm Kiến Nguyên thứ hai, chính vì Vệ Tử Phu xuất hiện đã gây ra một vết rạn nứt trong mối tơ duyên hòa hợp giữa Hoàng đế và Hoàng hậu. Lưu Triệt nhẹ nhàng kéo A Kiều lại, dịu dàng nói, “Đôi khi trẫm lại muốn nàng cứ khóc toáng lên như năm đó. Ít nhất cũng chứng minh được rằng trẫm đang thật sự có nàng.”
A Kiều phì cười, “Bệ hạ đúng thật là mâu thuẫn. Năm đó thϊếp khóc toáng lên thế nhưng lại khiến cho bệ hạ chán ghét mà ruồng bỏ.”
Lưu Triệt im lặng, hôn lên cổ A Kiều. Nàng rùng mình theo bản năng, liền phát hiện dường như y đang tức giận.
“Mưa nào ngược lên trời, nước đổ rồi khó hốt.”
Có nhiều thứ một khi đánh mất thì sẽ vĩnh viễn chẳng còn quay lại.
Không bao lâu sau, Công chúa trưởng Bình Dương cũng biết được chuyện ở Thượng Lâm Uyển. Nàng ta ngồi ở trong phủ Bình Dương hầu, cặp mày nhíu chặt.
“Mẫu thân!” Bình Dương hầu Tào Tương bước vào nói, “Mẫu thân, Mạt Nhi có thai rồi, hài nhi cho nàng tĩnh dưỡng, chuyện trong phủ phải phiền đến mẫu thân.”
Lưu Mạt là con gái của Lương vương, mấy năm trước Công chúa trưởng Bình Dương và Lương vương đã làm chủ gả cô cho Tào Tương, coi như kết tình thông gia giữa hai nhà. Lưu Tịnh cũng khá hài lòng đối với nàng dâu khôn khéo có khả năng và biết khoan dung với những thê thϊếp trước của Tào Tương, có điều là vẫn chưa có con trai. Bây giờ cô mang thai thì cũng coi như là giải được một mối tâm sự.
“Mẫu thân biết rồi!” Lưu Tịnh cau mày nói, “Con đi gọi Nghiên Nhi đến đây.”
Không nhiều người biết chuyện năm Nguyên Thú thứ hai nhưng Lưu Tịnh lại coi đó là một mối sỉ nhục. Mặc dù Lưu Triệt sau đó ban thưởng rất nhiều để thể hiện rằng tình cảm của y đối với tỷ tỷ không hề thay đổi, nhưng một người tâm khí cao ngạo như nàng ta thì làm sao nuốt trôi được mối hận này. Nàng ta trăm phương ngàn kế tìm kiếm một người con gái có thể át đi vẻ đẹp của Trần A Kiều, cuối cùng trời cũng không phụ lòng người, tìm được Lý Nghiên là em gái của Lý Diên Niên mang về dạy dỗ, chỉ chờ đến sang năm là hiến tặng cho đệ đệ. Nàng ta hiểu rất rõ đệ đệ của mình, Lưu Triệt tính tình phụ bạc, mặc dù hôm nay si mê A Kiều nhưng A Kiều dù sao cũng không còn trẻ tuổi, sẽ có một ngày bị y chán ghét vứt bỏ. Lý Nghiên trẻ trung xinh đẹp chính là vũ khí tốt nhất để giành lấy ân sủng của Lưu Triệt.
Lưu Tịnh siết chặt nắm tay, nếu cả hai con đường đều không thông thì Bình Dương này sẽ dựa vào lực lượng của mình mà tạo ra con đường thứ ba. Quả thật, Lý Nghiên không thể nào đạt được đến mức độ như của Trần A Kiều và Vệ Tử Phu nhưng thế của Vệ Tử Phu hôm nay đã suy còn A Kiều thì… Lưu Tịnh tin tưởng rằng chỉ cần Lưu Triệt không sủng ái A Kiều thêm nữa thì Trần A Kiều sẽ thất bại còn thảm hại hơn cả hồi năm Nguyên Quang thứ năm.
Lưu Tịnh cười nhạt, “Trần A Kiều, ta đã có thể đưa được Vệ Tử Phu lên để hủy hoại ngươi lần đầu tiên thì cũng có thể đưa Lý Nghiên lên để hủy hoại ngươi lần thứ hai.”
“Công chúa trưởng!” Ngoài rèm vang lên tiếng con gái thánh thót như chim oanh rồi một đôi tay mềm mại trắng như tuyết vén rèm lên. Một thiếu nữ mặc y phục màu đỏ nhạt uyển chuyển bước vào. Cô ngẩng mặt lên, dung nhan tỏa sáng rạng rỡ khiến châu báu khắp cả gian phòng đều ảm đạm đi mấy phần, ngay cả Lưu Tịnh là phụ nữ cũng không khỏi động lòng. Người con gái như vậy mới đáng được gọi là nghiêng nước nghiêng thành. Lưu Tịnh chợt nhớ lại câu hỏi của Trần A Kiều ở Thượng Lâm Uyển, tại sao A Kiều lại biết đến sự tồn tại của Lý Nghiên? Chẳng lẽ nước cờ mà nàng ta hao phí hết tâm trí bày ra này lại không đáng một xu trong mắt người khác.
Lưu Tịnh bất giác quan sát cô gái kia kỹ lưỡng hơn, tuổi xuân rực rỡ, gương mặt hồng tươi dịu dàng có thể hớp hồn phách bất cứ người đàn ông nào. Nhưng so với Trần A Kiều thì thế nào? Nàng ta mường tượng lại hình ảnh người con gái xinh đẹp, lả lướt yêu kiều trong ký ức, cảm thấy do dự.Quyển 3 - Chương 54: Con cháu Trường An như vàng ngọc“Nghiên Nhi!” Công chúa trưởng Bình Dương đưa tay mơn trớn khuôn mặt mềm mại của Lý Nghiên. Nàng ta nhìn cô gái trẻ trung mỹ lệ như vậy thì càng thấy mình ảm đạm, thoáng cái đã gần năm mươi rồi. Lưu Tịnh đứng thẳng lưng để không cho người khác nhận thấy điều đó. Nàng ta là công chúa trưởng tôn quý của Đại Hán, dù tuổi trẻ đã dần rời đi thì vẫn cực kỳ cao quý khiến người khác không dám nhìn thẳng. Không hiểu sao, Lưu Tịnh lại chợt nhớ tới cô cô của mình, Công chúa trưởng Quán Đào. Lúc còn là thiếu nữ, nàng ta đã đứng bên cạnh mẫu thân tận mắt chứng kiến cô cô thông minh khéo léo, lo liệu chu toàn khiến cả tổ mẫu và phụ hoàng lấy làm kính nể. Nhưng vị cô cô giỏi giang đó đưa được con gái của mình ngồi lên ngôi vị hoàng hậu lại dần trở nên cố chấp đến nỗi tầm nhìn trở nên thiển cận, cuối cùng dẫn đến kết quả A Kiều bị phế.
Sau này Triệt Nhi lên làm hoàng đế, nàng ta cũng học theo cách của cô cô tiến cử mỹ nữ cho đệ đệ, cuối cùng nâng đỡ cho Vệ thị hưng thịnh, đáng để kiêu ngạo. Nhưng đến ngày hôm nay thì có phải nàng ta đang tự sa vào cố chấp giống như cô cô của mình năm xưa, không cách nào tự kiềm chế? Trong lòng Lưu Tịnh mơ hồ hiện lên những ý nghĩ u ám này nhưng ngoài mặt vẫn rất bình thản, hỏi, “Nghiên Nhi, ngươi có biết dụng ý của ta năm đó khi đưa ngươi về phủ Bình Dương hầu không?”
Lý Nghiên không nói gì nhưng ánh mắt sáng hẳn lên, ngay cả khuôn mặt cũng ửng hồng, trông cực kỳ quyến rũ. Cô tự thấy mình là một người con gái thông minh, mặc dù Công chúa trưởng Bình Dương chưa từng nói ra nhưng Lý Nghiên lại biết rất rõ về dung mạo của mình. Thiếu nữ trong thiên hạ có ai không biết xuất thân của vị hoàng hậu nương nương mẫu nghi thiên hạ ngồi đoan trang trong cung vị Vương hôm nay chính là từ phủ Bình Dương hầu, thân phận ban đầu của nàng ta chẳng qua cũng chỉ là ca cơ của phủ Bình Dương hầu. Có câu “Sinh nam không mừng, sinh nữ không giận, một thân một mình, Vệ Tử Phu hơn cả thiên hạ”[1]. Mặc dù những năm này Vệ Tử Phu rơi vào tình cảnh thất sủng nhưng kỳ tích từ một ca cơ trở thành hoàng hậu đã là truyền kỳ trong suy nghĩ của vô số thiếu nữ.
[1] Trích trong Vệ Tử Phu ca.
“Nghiên Nhi”, Lưu Tịnh nói tiếp, “Ta biết ngươi rất thông minh lanh lợi, nói một hiểu mười. Hôm nay bản công chúa không ngại nói cho ngươi rằng ta muốn dâng ngươi lên cho bệ hạ. Với tư chất và sắc đẹp của mình, ngươi có thể giành được sự sủng ái của bệ hạ.”
Lý Nghiên nín thở, khẽ cúi đầu, “Đa tạ Công chúa trưởng nâng đỡ.”
“Nếu như muốn tồn tại thì ngươi phải biết rằng đối thủ của ngươi trong tương lai không phải là Vệ hoàng hậu trong điện Tiêu Phòng, cũng không phải là mỹ nhân mới tiến cung Vị Ương mà là”, Lưu Tịnh trầm mặt, dằn từng tiếng, “phế hậu Trần A Kiều.”
“Trần hoàng hậu?” Lý Nghiên ngẩng đầu, đầy kinh ngạc. Dù giới quyền quý ở Trường An chẳng lạ lẫm gì ân sủng đặc biệt của thiên tử với Trần hoàng hậu nhưng bình dân bách tính thì lại không biết được bao nhiêu. Trong suy nghĩ của bọn họ, phế hậu chẳng qua chỉ là hoa tàn liễu héo của ngày hôm qua mà thôi.
“Không sai, Trần hoàng hậu có thể ở tuổi ngoài bốn mươi mà vẫn giữ vững được sự sủng ái của bệ hạ thì thật sự không thể khinh thường. Nghiên Nhi, nếu ngươi muốn chiếm được vị trí trong lòng bệ hạ thì nhất định phải đánh bại nàng ta.”
“Vậy ư?” Lý Nghiên khẽ chớp mắt, thần thái quyến rũ đến nao lòng. Cô hỏi, “Trưởng công chúa quen biết Trần hoàng hậu từ nhỏ thì thấy Trần hoàng hậu là người như thế nào?”
Lưu Tịnh không nén nổi vẻ tán thưởng, “Nghiên Nhi đúng là thông minh.” Nàng ta suy nghĩ một chút rồi nói, “Quả thật A Kiều trước lúc hồi cung chẳng qua chỉ là một cô gái xinh đẹo, kiêu ngạo ngất trời, thêm vào tính tình bốc đồng.” Lưu Tịnh khẽ nhíu mày, “Nhưng sau khi hồi cung thì ta dần nhìn không thấu A Kiều nữa. Nàng ta vẫn xinh đẹp như thể không hề già đi. Không, nàng ta dường như còn hấp dẫn hơn cả trước kia nữa, lại thêm khí chất điềm đạm, dường như chẳng còn gì có thể khiến nàng ta động tâm được, bao gồm…” Bao gồm cả vị hoàng đế đệ đệ chí tôn kia.
Lý Nghiên từ từ nhướng mày, chỉ dựa vào mấy lời mô tả ngắn gọn như vậy của Bình Dương trưởng công chúa thì cô không sao hình dung ra được Trần hoàng hậu như thế nào. Nếu không biết người biết ta thì trận chiến này của cô coi như đã thua trước một nửa.
“Được rồi”, Lưu Tịnh phất tay, “Nghiên Nhi lui xuống trước đi. Phải nhớ kỹ rằng không thể để mất dáng vẻ tư thái đã được huấn luyện, còn những thứ khác thì bản công chúa sẽ chuẩn bị tốt cho ngươi.”
“Dạ.” Lý Nghiên ngoan ngoãn cúi đầu, “Nghiên Nhi lui xuống trước. “À”, cô tựa như nhớ ra điều gì, bỗng nhiên ngẩng đầu lên, thản nhiên nói, “ba ngày nữa sẽ là sinh nhật của ca ca nên Nghiên Nhi muốn về nhà một chuyến, kính xin Công chúa ân chuẩn.”
“Không được!” Lưu Tịnh nhớ tới những lời Trần A Kiều đã nói với vẻ dường như hiểu rất rõ về Lý Nghiên ở trong Thượng Lâm Uyển, lo rằng một khi cô vừa ra khỏi phủ sẽ lập tức bị người của Trần gia bắt đi nên liền gạt bỏ không chấp nhận. Lát sau nàng ta thấy vẻ mặt kinh ngạc của Lý Nghiên thì dịu giọng, “Nghiên Nhi dung nhan tuyệt sắc, không được khinh suất ra khỏi cửa. Đến hôm đó ta sẽ cho ca ca và đệ dệ của ngươi vào phủ thăm ngươi.”
Lý Nghiên nghĩ thầm ngày sinh nhật của Lý Diên Niên mà ca ca lại phải tới Hầu phủ chúc mừng thì đúng thực là khó nói nhưng nếu cả nhà được đoàn tụ thì ở đâu cũng như nhau liền mỉm cười, “Đa tạ Công chúa trưởng.”
Ba ngày sau, một chiếc xe ngựa đón huynh đệ Lý thị vào phủ Bình Dương hầu. Lý Nghiên đứng trong hành lang nhìn thấy huynh trưởng và ấu đệ thì mừng rỡ gọi, “Ca ca!” Sau đó cô đưa hai người vào khuê phòng của mình.
Lý Diên Niên cũng vui vẻ, “Mấy tháng không gặp, Nghiên Nhi đã cao hơn một chút, xinh đẹp hơn trước nhiều rồi.”
Lý Nghiên cảm giác trên mặt nóng bừng, xẵng giọng, “Huynh muội một nhà, cần gì nói những lời này.”
“Thật đấy…”, Lý Quảng Lợi kéo tay cô, hồn nhiên nói, “Nhị tỷ của đệ là người con gái xinh đẹp nhất thiên hạ.”
Lý Nghiên rạng rỡ, lại liếc thấy trên mặt ca ca thoáng vẻ khác lạ liền hỏi, “Ca ca có chuyện gì vậy?”
“Không có gì”, Lý Diên Niên hơi cụp mắt xuống nói, “Mấy hôm trước ta từng gặp một người con gái có khả năng so được với muội muội.”
“Ồ?” Nụ cười Lý Nghiên hơi sượng lại, hỏi luôn, “Là ai vậy?”
“Là Trần hoàng hậu trước kia.”
Lý Nghiên cảm giác trong lòng dần lặng đi, nặng nề hỏi, “Ca ca tận mắt nhìn thấy nàng ta?”
“Ừ.” Lý Diên Niên không phải là người ngu dốt nên cũng lờ mờ đoán ra dụng ý của Bình Dương trưởng công chúa thu nhận muội muội. Ban nãy hắn cảm thấy không nỡ nhưng rồi nghĩ lại rằng bây giờ cần phải nói ra sự thực cho muội muội kẻo ngày sau lại trở tay không kịp. “Mấy ngày trước bệ hạ thiết yến ở đài Bách Lương trong Thượng Lâm Uyển, ca ca phụng chiếu đến đó đánh đàn hầu hạ. Người ở bên cạnh bệ hạ chính là Trần hoàng hậu.”
“Ồ… Ca ca cảm thấy Trần hoàng hậu xinh đẹp hơn hay muội muội xinh đẹp hơn?”
Lý Diên Niên suy nghĩ một chút mới trả lời, “Mỗi người một vẻ, muội muội trẻ trung tươi tắn còn Trần nương nương tĩnh mịch xa xăm.”
Lý Nghiên làm như lơ đãng hỏi, “Bệ hạ… sủng ái Trần hoàng hậu lắm sao?”
“Đúng vậy, từ năm Nguyên Thú thứ hai đến nay, Trần hoàng hậu đã độc chiếm ân sủng gần ba năm rồi. À, Trần hoàng hậu còn hỏi muội muội đấy.”
Lý Nghiên sững lại, “Sao nàng ta biết được muội?”
“Ca ca cũng không biết”, chuyện đã xảy ra cách đây nhiều ngày nhưng Lý Diên Niên vẫn cảm thấy khó hiểu, “Trần hoàng hậu vừa nghe tên của ta thì hỏi có phải ta có một muội muội hay không.”
“Ca ca trả lời thật sao?”
“Tất nhiên”, Lý Diên Niên nói, “Hiện giờ bệ hạ và Trần nương nương đã biết ta có một muội muội sống nhờ ở phủ Bình Dương trưởng công chúa.”
Đây là ý gì chứ? Lý Nghiên thầm tính toán rất nhanh. Cô vốn định ẩn mình trong bóng tối, sau đó khi đến thời cơ thích hợp nhất thì sẽ xuất hiện trước mặt bệ hạ với một dáng vẻ thật xinh đẹp khiến người cả đời khó quên. Nhưng người tính không bằng trời định, người đàn ông mà cô sắp sửa hiến thân cũng như người phụ nữ mà cô sắp sửa đối địch đều đã biết trước về sự tồn tại của bản thân, đó là chuyện cực kỳ bất lợi vì không chỉ Trần hoàng hậu sẽ đề phòng mà còn là bệ hạ… Nhiều năm qua, cô đã nghiên cứu nên hiểu rất rõ rằng nam nhân, nhất là một người nam nhân có quyền lực, sẽ rất dễ dàng rung động trước một cô gái xinh đẹp đột nhiên xuất hiện trước mặt mình. Nhưng nếu để cho họ biết rằng có người trăm phương ngàn kế để dẫn dụ họ đi vào con đường đó thì trong lòng chắc chắn sẽ không vui.
“Được rồi, được rồi!” Quảng Lợi còn nhỏ nên không hề có hứng thú đối với câu chuyện của hai người, chu miệng càu nhàu, “Hôm nay là sinh nhật của đại ca mà nhị tỷ cứ bắt đại ca nói mãi về chuyện người khác, thật mất hứng.”
Lý Nghiên cười xòa, “Là lỗi của Nghiên Nhi. Ca ca, Nghiên Nhi mời huynh một chén!”
Song cho dù là Bình Dương trưởng công chúa hay là Lý Nghiên suy đoán đến thế nào thì vẫn không thấy Trần A Kiều có hành động gì, thậm chí ngay cả phủ Đường Ấp hầu cho tới Đại tư nông, Trường Tín hầu có vinh nhục quan hệ trực tiếp với nàng cũng không thấy động tĩnh. Thời gian dần trôi, cuối cùng cũng đến mùa xuân năm Nguyên Thú thứ năm. Hôm đó chính là ngày lễ Thượng tự mỗi năm một lần, nhà nhà trong thành Trường An đều phải tới bờ sông Vị Thủy làm lễ giải hạn. Tuy Lý Nghiên có địa vị đặc biệt trong phủ Bình Dương hầu nhưng về thân phận thì vẫn là một nữ tỳ nên không thể đi ngang hàng với chủ nhân. Bình Dương trưởng công chúa chỉ định một má má lớn tuổi có thể tin cậy theo hầu rồi dẫn gia nhân tới bờ sông Vị Thủy.
Lý Nghiên ngồi trong xe ngựa, hơi vén rèm lên nhìn vô số cánh diều bay lượn bên bờ sông. Kể từ sau khi Công chúa Duyệt Trữ thả diều ở lễ trừ tà hồi năm Nguyên Thú nguyên niên, việc này đã trở thành tập tục vào tháng Ba. Từ xa nhìn lại, vô số cánh diều tinh xảo khả ái bay lượn trên nền trời xanh mây trắng trông rất vui mắt.
Trên đường, một thiếu niên mặc y phục màu xám dắt ngựa đi ở phía trước, mải nhìn phong cảnh bên bờ sông Vị Thủy nên không để ý đυ.ng phải một ông lão, vội vàng nói, “Xin lỗi.” Ông lão không dám nhận lễ, nghiêng người tránh sang một bên, vẻ mặt sợ hãi, “Trần nhị thiếu gia, nào dám làm phiền đại giá của ngài? Là do tiểu dân không cẩn thận.”
Lý Nghiên khẽ liếc nhìn, má má bên cạnh hiểu ý liền nói, “Đó chính là Nhị thiếu gia Trần Hi con một người thϊếp của Đường Ấp hầu. Mặc dù là con của thϊếp nhưng tài năng xuất chúng nên được xem trọng, tuy nhiên hắn hơi ngốc ngếch, thích ở chung với đám người hạ đẳng.” Bà nói xong liền nhíu mày, hiển nhiên có vẻ xem thường.
Lý Nghiên gật đầu, lấy từ trong ngực ra một chiếc khăn lụa rồi nhẹ nhàng tung ra ngoài cửa xe. Chiếc khăn phất phơ trong gió, cuối cùng rơi xuống trước mặt Trần Hi.
“Lý Nghiên.”, má má trầm giọng, “Con làm vậy là có ý gì?”
“Biết người biết ta, trăm trận không nguy”, Lý Nghiên thản nhiên đáp, “Nếu muốn biết thói quen của Trần nương nương thì có cách nào tốt hơn là hỏi con cháu nàng ta? Nên nhớ là sau năm Nguyên Thú nguyên niên, Trần nương nương đã ở phủ Đường Ấp hầu suốt hơn một năm.”
Má má im bặt, nhìn Lý Nghiên vẻ sâu xa. “Má má vẫn luôn xem nhẹ con”, bà khẽ gật đầu, “Biết đâu con thật sự có thể tạo ra một chỗ đứng bên cạnh bệ hạ.”
Trần Hi nhặt chiếc khăn lụa lên, cảm giác mềm mại trơn nhẵn, còn mang theo mùi hương thoang thoảng của giai nhân, ở góc có thêu một khóm trúc thẳng tắp kiêu hãnh.
“Cô nương”, Hắn ngẩng đầu lên gọi, “Khăn lụa của cô bị rơi này.”
Xe ngựa chậm rãi dừng lại, má má vén rèm lên bước ra, liếc nhìn rồi nói, “Xin đa tạ công tử.”
“Vị công tử này”, một giọng thiếu nữ thanh nhã từ trong xe truyền đến một cánh tay mềm mại chìa ra nhận lấy chiếc khăn lụa từ tay má má, thánh thót nói, “Đa tạ.”
Trần Hi thần mặt, qua khe rèm buông xuống, hắn trông thấy một cặp mắt mỹ lệ, người ngồi trong xe đeo mạng che mặt biểu lộ thân phận giai nhân cao quý. Nhưng hắn chỉ nhớ nhất là đôi mắt phảng phất như ánh trăng, trong trẻo mà xa cách.
Một gia nhân áo xanh tất tả đi xuyên qua phủ Bình Dương hầu tới bên cửa sổ gian phòng ở chái đông của Lý Nghiên, khẽ đυ.ng vào tấm màn cửa bằng lụa mỏng, bẩm báo: “Lý tiểu thư, vị Trần nhị thiếu gia kia lại tới tìm người đấy.”
“Biết rồi!” Lý Nghiên khẽ đáp, tháo tất cả đồ trang sức xuống, búi lại theo kiểu của các thiếu nữ khuê các, nhận lấy chiếc mạng che mặt bằng lụa mỏng từ thị nữ, đeo lên rồi bước ra ngoài phòng, len lén đi về hướng cửa ngách ở chái tây Hầu phủ. Cô vừa định bước xuống hành lang thì chợt nghe thấy một tiếng gọi quen thuộc, “Nghiên Nhi.”
Lý Nghiên ngẩng đầu lên, quả nhiên thấy Công chúa trưởng Bình Dương đang ngồi trên lối mòn bên sườn hòn giả sơn trong đình, quay lưng về phía mình nên không thấy rõ mặt.
“Công chúa trưởng”, cô bước nhẹ đến, bái chào.
“Nghiên Nhi!” Lưu Tịnh liếc mắt nhìn qua những cành hoa đào nở rộ khắp trong vườn Hầu phủ: “Ta biết ý đồ của ngươi, nhưng con gái chốn khuê phòng thì sao có thể hẹn hò với nam nhân bên ngoài? Ngươi đang đùa với lửa đấy.”
“Nghiên Nhi biết”, Lý Nghiên hơi cúi đầu xuống nhưng giọng nói lại lộ ra vẻ kiêu ngạo, “Nhưng nếu ngay cả chút lửa đó cũng làm bị thương tay thì Công chúa trưởng còn có thể có lòng tin đối với tiền đồ của Nghiên Nhi sao?”
Lưu Tịnh quay lại, cười nhạt, “Đã như vậy thì Nghiên Nhi tự giải quyết cho tốt.”
Lý Nghiên quỳ gối hành lễ, “Nghiên Nhi xin cáo lui”, sau đó rời đi.
“Công chúa trưởng”, thị nữ dìu nàng ta đứng lên, hỏi giọng lưỡng lự, “Vị Lý cô nương này còn chưa được thánh sủng mà đã liều lĩnh như thế, có hay không…?”
“A Lan không biết”, Lưu Tịnh thản nhiên nói, “Con gái có liều lĩnh cũng không quan trọng miễn là có vốn để liều lĩnh. Lý Nghiên có hai thứ, thứ nhất là xinh đẹp, thứ hai là thông minh. Người đẹp thông minh có liều lĩnh một chút thì đàn ông mới thương hương tiếc ngọc.”
Từ cửa tây phủ Bình Dương hầu đi qua một dãy hành lang ra ngoài là có thể thông đến một nhà dân ở gần đó. Lý Nghiên từ nhà dân kia đi ra ngoài, vừa nhìn đã thấy Trần Hi đang chờ ở dưới gốc liễu trước cửa.
“Nghiên Nhi!”, Trần Hi mỉm cười, “chờ muội lâu quá.”
“Muội cũng không có cách nào cả”, Lý Nghiên khẽ cúi đầu, “dù muội đã nhờ Vương bá thông báo tin tức nhưng vẫn phải tránh né tai mắt của ca ca thì mới có thể ra được. Ca ca mà biết thì sẽ đánh chết muội mất.”
Ban đêm, ánh trăng trong trẻo trải trên mặt đất, thân hình giai nhân monh manh như liễu đùa trước gió, mặc dù cúi đầu không thấy được dung nhan nhưng Trần Hi đã mê mẩn, vội vàng bảo, “Là ta không tốt, Nghiên Nhi đừng giận.”
Lý Nghiên dịu dàng, “Nghiên Nhi không giận Trần công tử đâu. Công tử, dù sao đây cũng gần nhà, chúng ta đi xa chút nhé.”
Trần Hi gật đầu, dắt tay cô đi theo lối tắt ra thật xa, “Thật ra thì nhà nàng ở ngay cạnh phủ Bình Dương hầu. Nghiên Nhi, chẳng lẽ nàng là người của Hầu phủ?”
Hắn thuận miệng hỏi nhưng không nghe thấy hồi âm bèn xoay người lại thì thấy Lý Nghiên khẽ nhăn mày, ánh mắt ẩn chứa nỗi u buồn giọng xa xôi, “Trần công tử, chúng ta đừng nói về những điều này được chứ. Huynh chỉ cần biết muội là Nghiên Nhi, cần gì phải biết quá nhiều?”
Trần Hi cảm thấy thương tâm, gật đầu, “Ừ, thôi vậy.”
“Nghiên Nhi sợ rằng Trần công tử là con nhà gia thế còn Nghiên Nhi chẳng qua chỉ là con gái dân thường thì làm sao xứng đôi vừa lứa được chứ?”
“Nàng không cần phải lo lắng về chuyện này”, Trần Hi gạt đi, “Nếu là nhà khác thì đúng thật là khó nói nhưng Trần gia chúng ta thì khác. Mấy năm trước khi còn ở nhà, cô cô đã nói rằng chỉ cần chúng ta yêu thì cho dù người con gái đó có thân phận gì cũng có thể rước về nhà, nếu phụ thân và tổ mẫu không đồng ý thì cô cô sẽ nói giúp chúng ta.”
“Cô cô của huynh?” Lý Nghiên bất giác cảm thấy khó thở.
“Đúng vậy” Trần Hi tựa như không nhận ra, vẫn cười nói tự nhiên, “Cô cô của ta chính là Trần nương nương ở cung Trường Môn hôm nay.” Sắc mặt hắn bỗng hơi ảm đạm nhưng chỉ thoáng qua, “Mặc dù đã không còn là hoàng hậu nữa nhưng thánh sủng vẫn không giảm, tổ mẫu và phụ thân đều nghe lời cô cô.”
“Nghe huynh nói như vậy, Trần nương nương cũng thật là một nữ tử hiếm thấy rồi”, trong mắt Lý Nghiên hiện ra vẻ mong đợi, “muội thật muốn gặp.”
“Chờ khi Nghiên Nhi được gả vào Trần gia chúng ta thì sẽ biết ngay.” Trần Hi mỉm cười, “Cô cô là một người rất tốt, xinh đẹp, hiểu lý lẽ, giỏi cả đàn, thơ, biết lòng người.”
Lý Nghiên nghe đến thất thần, khẽ ồ lên một tiếng, “Huynh kể thêm một chút về Trần nương nương cho muội nghe đi.”
“Ừ.” Trần Hi chỉ cho là con gái thì hay hiếu kỳ nên không nghi ngờ gì, “Khi rảnh rỗi thì cô cô thường hay đánh đàn tỳ bà để giải khuây. Cô cô đánh đàn tỳ bà chưa chắc đã hay nhưng khúc điệu mới lạ nghe mãi không chán. Nghiên Nhi đã từng nghe bài Giai nhân khúc chưa?”
Một lúc sau, Lý Nghiên mới đáp, “Là bài có câu ‘Có tuyệt thế giai nhân. Cả đời duy mỗi một’, phải không?”
“Đúng rồi”, Trần Hi gật đầu, ánh mắt lộ đầy vẻ ngưỡng mộ: “Một lần liếc nghiêng thành, Ngoảnh lại nhìn nghiêng nước.”
“Trong lòng ta, cô cô chính là bậc nghiêng nước nghiêng thành như thế, trên đời này không ai có thể sánh bằng. Có lẽ vì vậy nên bệ hạ mới ngưỡng mộ cô cô như thế.”
Tâm trạng Lý Nghiên trở nên nặng nề. “Đương nhiên, Nghiên Nhi cũng rất tốt”, Trần Hi cho là Lý Nghiên tự ti nên đỡ lời.
“Nghiên Nhi chỉ là một dân nữ thì làm sao dám sánh với Trần nương nương chứ?” Lý Nghiên thản nhiên, nhìn vầng trăng lưỡi liềm đang dần lên cao, “Đêm đã khuya rồi, Trần công tử đưa Nghiên Nhi trở về thôi.”
“À”, Trần Hi bỗng giật mình, nắm lấy tay cô, “Được rồi, ta sẽ đưa muội về ngay.” Trong giọng nói còn toát lên vẻ nuối tiếc không thôi.Quyển 3 - Chương 55: Giương cờ khó lấp vòm trời khácHiểu biết về người con gái kia càng nhiều, Lý Nghiên cảm thấy hy vọng càng xa vời. Có một người đẹp như tiên trên trời như vậy bầu bạn thì bệ hạ còn có thể để mắt đến người con gái khác được sao? Nhưng đàn ông đều có mới nới cũ, hơn nữa bệ hạ còn là một người rất bạc tình, Lý Nghiên ngắm nhìn dung nhan tươi đẹp hơn cả mẫu đơn ở trong gương rồi tự khích lệ bản thân mình.
“Nghiên Nhi!” Vân Nghê, người được Công chúa trưởng Bình Dương lựa chọn giống như cô đẩy cửa bước vào, nói với giọng hân hoan như không dám tin, “Bệ hạ đến phủ Bình Dương hầu rồi.”
Bàn tay đang trang điểm của Lý Nghiên bỗng nhiên chững lại, “Nghiên Nhi thật đẹp!” Vân Nghê kinh ngạc ngắm nhìn nét mặt hơn sương thắng tuyết của Lý Nghiên ở trong gương, lộ vẻ vừa yêu thích, vừa ngưỡng mộ lại vừa ghen tỵ. “Lần này nhất định có thể làm cho bệ hạ vừa ý rước về cung Vị Ương, rồi sẽ một bước lên mây như Vệ hoàng hậu.”
“Vân Nghê tỷ tỷ nói gì vậy? Tỷ tỷ cũng rất đẹp mà”, Lý Nghiên quay đầu lại hỏi, “Bệ hạ có dẫn ai tới không?”
Vân Nghê chớp mắt đã biết ý của Lý Nghiên, “Bệ hạ không dẫn theo một cung phi nào, chỉ có duy nhất một người em gái họ là Công chúa trưởng Phi Nguyệt.”
“Lưu Lăng!” Lý Nghiên thầm cân nhắc trong lòng, mọi người trong thành Trường An đều biết Công chúa trưởng Phi Nguyệt tình như tỷ muội với Trần nương nương. Hôm nay, bệ hạ đi tới phủ Bình Dương hầu một mình, không dẫn theo Trần nương nương được ân sủng đặc biệt suốt mấy năm qua mà là Công chúa trưởng Phi Nguyệt mới có những quan hệ không tốt với phủ Bình Dương hầu, điều này thể hiện ý gì đây?
Cô hắng giọng, “Bệ hạ đến thì lát nữa tất sẽ truyền ca múa, Vân Nghê tỷ tỷ còn không mau trở về trang điểm?”
“Báo cho muội một tiếng thôi, tỷ phải về đây.” Vân Nghê như tỉnh cơn mê lập tức xoay người rời đi.
Lý Nghiên đỡ mái tóc đã búi được một nửa theo kiểu Vọng Tiên Hoàn xuống, hừ lạnh một tiếng rồi chậm rãi đưa lược lướt theo suối tóc đen trang điểm lại một lần nữa.
“Hoàng đệ, Phi Nguyệt muội muội”, Công chúa trưởng Bình Dương mỉm cười bước ra đón chào, nụ cười hơi có chút cảm khái, “Những năm qua hoàng đệ ít đến phủ Bình Dương hầu của ta đấy.”
Lưu Triệt nhớ đến hồi y mới lên ngôi, gặp thất bại thì thường xuyên đến nhà tỷ phu để giải tỏa những uất ức ở trên triều đình. Bây giờ hồi tưởng lại như đã qua một kiếp.
“Hoàng tỷ luôn là hoàng tỷ của trẫm”, Lưu Triệt mỉm cười nói. Những năm đó, Lưu Tịnh luôn theo sát, nhẹ nhàng khuyên giải, mặc dù là người lạnh lùng nhưng y vẫn luôn ghi nhớ những tình cảm này nên ôn tồn, “Ít nữa trời nóng lên thì hoàng tỷ theo trẫm cùng đến Cam Tuyền nhé.”
“Tất nhiên là được rồi.” Ánh mắt Lưu Tịnh sáng lên, cung Cam Tuyền là một nơi không tồi, vừa uống rượu vừa tấu nhạc rồi dâng Lý Nghiên lên thì chắc chắn thành công.
“Được rồi”, Lưu Lăng lên tiếng, “Đi Cam Tuyền còn phải chờ thêm một thời gian nữa. Lưu Lăng nghe nói ca cơ ở chỗ Bình Dương tỷ tỷ là danh tiếng nhất, có thể mời tới biểu diễn được hay không?”
Lưu Tịnh hơi đỏ mặt, vỗ tay, “Còn không đi gọi các nàng ra đây mua vui cho bệ hạ.”
A Lan quỳ gối lĩnh mệnh đi ra. Các ca cơ đã sớm chuẩn bị sẵn sàng đang tập trung ở chái đông nhìn cô, ánh mắt đều lộ vẻ nóng lòng muốn thử. A Lan nhìn quanh, hỏi, “Lý Nghiên đâu?”
“A Lan tỷ tỷ, Lý Nghiên nói cô ấy đêm qua bị cảm lạnh, hôm nay nét mặt không được đẹp nên không ra được”, Vân Nghê trả lời, cố gắng khống chế không để những hân hoan thể hiện qua lời nói.
A Lan sầm mặt, “Khó lắm mới được dịp bệ hạ tới Hầu phủ, sớm không bệnh muộn không bệnh mà lại bệnh vào đúng lúc này. Đúng là không có phúc duyên.”
“A Lan tỷ tỷ”, Vân Nghê cẩn thận hỏi, “Tỷ ghé qua thăm cô ấy chứ?”
“Thôi đi”, A Lan chỉ vào Vân Nghê, “Lần này ca múa bài Hái sen, do muội làm chủ. Phải nhớ rằng đây là cơ duyên hiếm có, thành hay bại chỉ trong lần này thôi.”
“Muội biết rồi”, Vân Nghê cúi đầu.
Sau khi các cô gái trang điểm kiều diễm rời đi, Lý Nghiên đẩy cửa ra nhìn theo bóng dánh mảnh khảnh xinh đẹp của Vân Nghê, khẽ mỉm cười.
“Lý Nhi đúng là vô cùng thông minh”, ngoài hành lang, má má thản nhiên nói.
“Má má khen nhầm.” Cô quay đầu lại, “Nếu má má cảm thấy Nghiên Nhi có thể thành công thì có thể giúp Nghiên Nhi một chuyện được hay không?”
Trên đại đường phủ Bình Dương hầu, những cô gái trẻ trung xinh đẹp nối nhau bước vào khoe ra vòng eo mềm mại đến mê hồn, quần màu lục váy màu trắng, cảm giác như hơi thở vùng sông nước Giang Nam chập chờn hư ảo. Vân Nghê ở giữa vòng người nhẹ nhàng nhảy múa như một đóa hoa sen diễm lệ đang hé nở trên mặt nước, ngân nga hát:
“Đến Giang Nam hái sen, lá sen ai vạnh tròn.”
A Lan rón rén trở về bên cạnh Công chúa trưởng Bình Dương, khẽ cau mày nói thầm vào tai Lưu Tịnh, “Lý Nghiên bị bệnh không thể đến được.” Cô cho rằng Công chúa trưởng sẽ tức giận nhưng lại thấy Lưu Tịnh khẽ mỉm cười, ánh mắt lộ ra vẻ tán thưởng.
Màn ca múa ở phủ Bình Dương hầu dĩ nhiên là tuyệt vời, còn đẹp và khéo hơn cả những buổi biệt diễn ở cung Vị Ương. Người hát cũng là mỹ nhân tuyệt sắc, sắc mặt không trang điểm mà đỏ hồng, cặp mày giương nhẹ đưa tình, liếc nhìn bậc đế vương áo đen ngồi trên cao, trông vẻ anh tuấn bất phàm thì mặt chợt ửng đỏ thêm, suýt nữa đi sai bước. Đó chính là vị phu quân tôn quý nhất trên đời mà tất cả các cô gái trong thiên hạ đều ao ước. Lưu Triệt ngồi xem những vũ điệu quyến rũ mê người này lại khẽ cúi đầu, nâng chung rượu lên uống một hơi cạn sạch. Ở trong đại đường này năm xưa y đã gặp Vệ Tử Phu, tiếng hát thánh thót, giọng ca tròn vành, vòng eo mềm mại, xoay người nhẹ nhàng thể hiện ra nhu tình hết mực khiến y tim đập thình thịch, quên mất nụ cười rực rỡ của A Kiều trong điện Tiêu Phòng.
Có lẽ thật đúng là vật đổi sao dời, lâu rồi thì cũng không còn tâm tình như buổi ban đầu nữa. Y ngược lại nhớ đến nét miệng A Kiều mỉm cười như gió thoảng mây tan, nên người hát ca có phong tình hơn cả Vệ Tử Phu năm đó cũng không thể làm cho con tim y gợn sóng thêm một lần nữa. Người hầu mặc áo xanh bưng hũ rượu lên, Dương Đắc Ý đón lấy, châm đầy chén cho Lưu Triệt. Lưu Lăng ngồi bên chú ý quan sát sắc mặt Lưu Triệt và Lưu Tịnh rồi cười nhạt, cũng uống một chén, mọi thứ đều nhàm rồi.
“Thôi đi!” Lưu Triệt phất tay áo buông một câu, “Ca múa nhạt nhẽo, hoàng tỷ theo trẫm đến hậu viên phủ Bình Dương hầu xem sao.”
Các cô gái đang nhảy múa ca hát tức khắc dừng lại. Vân Nghê chợt cảm thấy nhục nhã, đôi mắt đẹp đã ngân ngấn nước. Công chúa trưởng Bình Dương vẫn bình thản đứng lên, không hề có vẻ mặt thất vọng, phất tay cho các cô lui ra rồi cười nói, “Hoàng đệ đã có ý như thế thì tỷ tỷ nào dám không tuân lệnh?”
Lưu Triệt đứng dậy, chắp tay bỏ ra ngoài. Lưu Lăng đợi đến khi y phục bằng gấm đen tôn quý khuất hẳn thì mới mỉm cười bước theo. Thị tòng áo xanh hầu rượu cúi thấp đầu đang định lui ra thì lại nghe thấy giọng lạnh lùng của Bình Dương trưởng công chúa vang lên phía sau, “Nghiên Nhi.”
Lý Nghiên bỏ chiếc mũ quả dưa xuống để lộ mái tóc đen dày óng ả, đưa tay xóa đi lớp phấn hóa trang làm hiện ra dung nhan xinh đẹp tuyệt trần hơn hẳn Vân Nghê vừa rồi, xoay người lại quỳ gối, “Trưởng công chúa quả nhiên tinh mắt.”
“Ngươi thật to gan”, Lưu Tịnh trách mắng.
“Nghiên Nhi chỉ cảm thấy” Lý Nghiên cúi đầu nhỏ nhẹ đáp, “Có thể chính mắt nhìn thấy bệ hạ thì sẽ có ích hơn cho Nghiên Nhi sau này. Hơn nữa, Nghiên Nhi tự tin sẽ không để bệ hạ phát hiện.”
Lưu Tịnh dịu lại, “Ngươi hãy lui về trước, đợi bệ hạ đi khỏi rồi tới gặp ta.” Nàng ta hừ lạnh, phất tay dẫn A Lan vẫn còn kinh ngạc rời đi.
Lý Nghiên thở dài thườn thượt, để chiếc khay đang cầm trên tay lên án. Bệ hạ đến phủ Bình Dương hầu, tuy không có khả năng là để kiếm tìm một bậc hồng nhan tuyệt sắc vừa gặp mặt đã xiêu lòng như trong truyền thuyết kia, nhưng ít nhiều cũng có ý muốn ngắm nhìn những người đẹp. Thuở nhỏ, mẫu thân trước khi lâm bệnh qua đời đã gọi cô đến bên giường dặn dò: Phàm là con gái thì phải biết tự trân trọng trước mới có thể khiến người khác trân trọng.
Tuyệt sắc như mẫu thân mà chỉ vì thời thiếu nữ không chịu trân trọng bản thân nên cuối cùng phải chôn vùi dung nhan như hoa của mình vào chuyện cơm áo.
Ở đời nhiều lúc chẳng phải cứ tận dụng triệt để mọi cơ hội thì sẽ có được điều mình muốn. Nếu cô tới yến tiệc lần này, dù bệ hạ có si mê dung nhan thì trong lòng cũng khó tránh khỏi bị coi thường. Chỉ có sự gặp gỡ bất ngờ mới khiến cho đàn ông hứng thú. Có đôi khi không gặp lại càng khiến lòng người mong đợi, nên cô phải biết cách đề cao bản thân, chỉ là…
Trong ca cơ viện…
“Nếu má má cảm thấy Nghiên Nhi có thể thành công thì giúp Nghiên Nhi một việc được hay không?”, Lý Nghiên hỏi.
“Giúp cái gì?”
“Giúp Nghiên Nhi kiếm một bộ y phục của người hầu trong phủ vừa với người.”
“Con muốn làm gì?” Má má nghi hoặc, sau hiểu ra thì hít sâu một hơi. “Con muốn cải trang thành thị nữ hầu hạ trong yến tiệc?”
“Muốn được bệ hạ chú ý thì không thể không hiểu suy nghĩ của người.” Lý Nghiên cười khẽ, “Điều quan trọng nhất vẫn chính là bản thân bệ hạ, có phải vậy không? Mặc dù đã nghe rất nhiều chuyện về bệ hạ nhưng khó có được cơ hội như thế này, con muốn chính mắt nhìn xem bệ hạ là người như thế nào?”
Cô bê bình rượu, cúi đầu tiến vào đại đường rồi đứng ở một chỗ rất xa về bên phải phía sau bệ hạ, dùng ánh mắt không làm người khác chú ý đánh giá người đàn ông mặc y phục màu đen đang ngồi ngay ngắn ở vị trí cao quý.
Đánh giá một cách công bằng thì dù không phải ngồi ở ngôi cửu ngũ, Lưu Triệt vẫn là người đàn ông khá hấp hẫn phụ nữ với khuôn mặt không giận mà uy, vầng trán cao, cặp mày lưỡi mác đen nhánh cho tới đôi môi cực mỏng. Tất cả toát lên vẻ uy nghiêm khiến người khác không dám gần gũi.
Lý Nghiên thầm thở dài, ở quê hương của cô vẫn có một câu nói rằng những người môi mỏng thì rất bạc tình. Những chiến công hiển hách trong đời bệ hạ chẳng phải đã nói rõ y là người vô cùng bạc tình, cho dù là với hạ thần hay đối với phi tần. Cô thật sự có thể mê hoặc một người như vậy được sao, cô hỏi mà đã biết trước câu trả lời.
Phi Nguyệt trưởng công chúa Lưu Lăng quả nhiên là mỹ nhân nổi tiếng Trường An, phiêu lãng trong giới quyền quý giống như một cánh hoa đào nở trên vách đá hiểm trở không ai có thể hái, mỏng manh nhưng cực kỳ xinh đẹp, có lẽ mấy chữ “hoa đào mơn mởn” là thích hợp nhất để hình dung về người con gái này. Lưu Lăng đã như vậy thì Trần A Kiều sẽ thế nào? Cô khép mắt, vừa rảo bước đi trên con đường nhỏ trở về viện ca cơ vừa thầm mường tượng ra phong thái vị đệ nhất sủng phi của Đại Hán chưa từng gặp mặt.
“Lý tiểu thư!” Một giọng nữ yêu kiều gọi cô.
Lý Nghiên kinh ngạc ngẩng đầu nhìn lên, thấy Lưu Lăng tay cầm quạt lụa đang đứng ở cuối hành lang phía trước mỉm cười nhìn mình, ánh mắt ngạo mạn như mèo vờn chuột.
“Lý tiểu thư quả nhiên xinh đẹp”, Lưu Lăng thản nhiên nói, “Nhưng rõ ràng là Phi Nguyệt đã nghe nói Lý tiểu thư bị bệnh thế mà Lý tiểu thư lại làm thị nữ áo xanh phục vụ yến tiệc để xuất hiện ở đại đường. Đó là tội khi quân, thật to gan.” Nói đến câu cuối cùng, giọng của Lưu Lăng trở nên lạnh lẽo, ánh mắt lộ ra sát khí.
Lý Nghiên khẽ cúi đầu xuống nhìn bộ y phục nô bộc trên người chưa kịp thay, không cách nào chối cãi. Phi Nguyệt trưởng công chúa không phải là công chúa lớn lên trong khuê phòng, có tiếng là giỏi biện bác, năm xưa đã từng cùng Trần nương nương bình định biến loạn Giao Đông nổi tiếng trong thiên hạ. Dưới cái nhìn nghiêm nghị của Trưởng công chúa, cô vẫn bình tĩnh mỉm cười, “Trưởng công chúa nói đùa rồi, bệ hạ cũng không phải chỉ đích danh Nghiên Nhi ra hát, Nghiên Nhi cùng lắm chỉ có thể coi là dối gạt Bình Dương trưởng công chúa. Trưởng công chúa đã tha thứ cho Nghiên Nhi, Phi Nguyệt trưởng công chúa còn muốn truy cứu sao? Về phần mặc giả thị nữ hầu tiệc, Nghiên Nhi xưa nay ngưỡng mộ bệ hạ nên muốn mượn việc rót rượu để nhìn trộm mặt rồng, mặc dù là không đúng nhưng sao có thể coi là khi quân?”
“Hay”, Lưu Lăng vỗ tay khen ngợi, “Lý tiểu thư quả nhiên thông tuệ. Chỉ là Phi Nguyệt không rõ”, nàng uyển chuyển quay người bước về phía trước, “Nếu như Lý tiểu thư thật sự thông tuệ thì tại sao lại có hy vọng tiến cung chứ?”
Lý Nghiên bước theo sau Lưu Lăng, hỏi lại, “Thế thì làm sao? Chẳng lẽ do Trần hoàng hậu không muốn Nghiên Nhi tiến cung nên nhờ Phi Nguyệt trưởng công chúa ra mặt lần này?”
“Ngươi đúng là tự đánh giá mình quá cao.” Lưu Lăng cười nhạt, “A Kiều tỷ chẳng thèm so đo với ngươi nhưng bản công chúa thấy tư chất ngươi không tệ nên không đành lòng để ngươi tự gây nghiệp chướng mới cố ý tới đây nói mấy câu thức tỉnh ngươi thôi.”
“Nghiên Nhi thụ giáo”, cô ngoan ngoãn cúi đầu xuống, hỏi, “Nhưng mà… Phi Nguyệt trưởng công chúa làm sao lại có thể nhận ra được Nghiên Nhi?”
“Ngươi giả dạng cũng không có gì sơ sót”, Lưu Lăng vẫn rảo bước, “Chẳng qua ánh mắt của ngươi dừng lại trên người ta quá lâu. Trừ những người con gái cực kỳ mỹ lệ thì không ai nhìn người cùng giới như vậy cả. Lý tiểu thư, ngươi nói… có đúng không?”
“Ngươi có lẽ đúng là thông minh”, ánh mắt Lưu Lăng lộ vẻ thương hại, “Nhưng cũng không nên coi những người khác đều ngu xuẩn. Ta đoán ngươi hy vọng sẽ là một Vệ Tử Phu khác nhưng không biết ngươi đã từng nghĩ xem liệu tâm tình của bệ hạ năm đó và hiện giờ có giống nhau không? Hơn nữa, cho dù ngươi trẻ tuổi, dung nhan đẹp đẽ thì Lý gia các ngươi có thể có nhân tài như Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh không? Với tư chất của ngươi, hoàn toàn có thể tìm một người yêu thương ngươi thật lòng để cùng đi trên một con đường dài hơn. Bước lên con đường này, nếu thắng thì tất nhiên sẽ một bước vinh hoa, nhưng ngươi đã tự hỏi bản thân mình có thể chịu đựng được hậu quả nếu thua chưa?”
Lý Nghiên há hốc miệng, muốn phản bác nhưng không nói nên lời. Những lời vừa rồi của Lưu Lăng quá sắc bén, đánh trúng vào điểm mù cô không thấy, hoặc có lẽ là do cô biết nhưng cố ý tránh né. Trong một khoảnh khắc, cảm giác mờ mịt xâm chiếm tâm hồn khiến cô không biết làm gì.
“Ta chỉ nói đến thế”, Lưu Lăng kết thúc, “Nếu là Lý tiểu thư nghe không lọt tai thì Lưu Lăng xin đợi xem.” Nàng không quay đầu lại, vòng qua ngọn giả sơn rồi đi thẳng. Lý Nghiên đứng im một chỗ nhìn hút theo. Cơn gió cuối mùa xuân man mác thổi qua mang theo mùi cỏ thơm nồng, rõ ràng khiến người ấm áp nhưng vẫn thổi y phục dán chặt vào da thịt.
Tối đến, khi bệ hạ cùng Phi Nguyệt trưởng công chúa đều đã rời phủ thì Lưu Tịnh cho triệu Lý Nghiên tới hỏi, “Hôm nay Phi Nguyệt trưởng công chúa nói với ngươi những gì?”
Tuy Bình Dương trưởng công chúa chỉ ngồi một chỗ trong phủ Bình Dương hầu nhưng không có chuyện gì có thể giấu giếm được nàng ta. Lý Nghiên đã biết trước nên không hoảng loạn, bình thản đáp, “Chẳng qua chỉ là khuyên nhủ Nghiên Nhi rút lui mà thôi.”
“Buồn cười”, Lưu Tịnh hừ lạnh, “Cô ta nghĩ chỉ với mấy câu nói là có thể xoay chuyển tình thế hay sao? Nghiên Nhi, ngươi không bị cô ta thuyết phục chứ?”
“Làm sao có chuyện đó được” Lý Nghiên dịu dàng ngẩng đầu lên, “Cô ấy là tỷ muội với Trần hoàng hậu nên nói vậy cũng không lạ.”
“Lý lẽ là ở đây”, Lưu Tịnh đứng dậy, cầm lấy tay cô, ngắm nhìn dung nhan rồi thở dài, “Ngươi đẹp như hoa, ngay cả bản cung cũng thấy yêu thương thì bệ hạ là đàn ông sao lại không sủng ái được chứ?”
“Trưởng công chúa quá khen rồi”, Lý Nghiên đưa đẩy.
Hỏi qua không thấy vấn đề gì, Bình Dương trưởng công chúa hài lòng gật đầu, “Ngươi trở về nghỉ ngơi đi.”
“Dạ.” Lý Nghiên quỳ gối làm lễ, vén rèm lui ra.
“Đúng rồi”, Lưu Tịnh nói vọng theo, “Những gì muốn biết thì chắc ngươi cũng đã biết, không cần gặp lại tên tiểu tử của Trần gia kia nữa.”
Bàn tay vén rèm của cô bất giác dừng lại nhưng giọng nói vẫn trầm tĩnh, “Nghiên Nhi biết rồi.”
Lý Nghiên trở về phòng thì trời đã chuyển tối, ánh nến trong phòng chập chờn giống như tâm tư cô đang dao động.
“Lý tiểu thư”, Vương bá khẽ gõ ngoài cửa sổ, “Trần nhị công tử lại tới nữa.”
Cô đáp, “Biết rồi!”
Ngoài hành lang vẳng đến tiếng bước chân sột soạt của Vương bá đi xa dần. Có đi hay không? Cô nhớ tới lời dặn của Bình Dương trưởng công chúa lúc vừa rời đi.
“Với tư chất của ngươi, hoàn toàn có thể tìm một người yêu thương mình thật lòng để cùng đi một con đường dài hơn”, trong lòng cô không biết tại sao lại vang lên lời của Công chúa trưởng Phi Nguyệt.
Lý Nghiên cắn răng, cầm dây đèn l*иg đẩy cửa bước ra. Đến cửa ngách phía tây, vừa định kéo cửa thì sau lưng cô hiện ra bóng dáng một cô gái.
“Lý Nghiên, Trưởng công chúa bảo tôi chờ ở đây xem cô có ra ngoài hay không. Rốt cuộc cô vẫn phụ bạc kỳ vọng của Trưởng công chúa.” Ánh nến soi tỏ khuôn mặt lạnh lẽo của A Lan.
“A Lan tỷ tỷ!” Lý Nghiên quay đầu, không hề bối rối, “Nghiên Nhi sao dám làm trái với lời dặn của Trưởng công chúa. Chỉ là Nghiên Nhi mới vừa suy nghĩ một chút, nếu như Nghiên Nhi không đến chỗ hẹn thì Trần Hi tất nhiên sẽ phát hiện không ổn, từ đó sẽ biết Nghiên Nhi chính là người mà Trưởng công chúa dốc lòng huấn luyện, như thế chẳng phải là cực kỳ bất lợi đối với Trưởng công chúa sao? Cho nên Nghiên Nhi mới cả gan đến chỗ hẹn.”
“Vậy…” A Lan là người bộc tuệch, nghe Lý Nghiên nói vậy thì bất giác chần chừ.
“A Lan tỷ tỷ, tỷ cứ về nói với Công chúa trưởng như vậy”, Lý Nghiên đế thêm, “Nghiên Nhi bảo đảm, Công chúa trưởng sẽ không trách cứ.”
Cô đi thẳng ra ngoài, nhìn thấy Trần Hi dưới gốc liễu. Hắn cười điềm đạm, phong thái nhã nhặn, “Nghiên Nhi, cuối cùng muội cũng ra”, nhìn thấy vẻ buồn rầu trong mắt cô liền ân cần hỏi han, “muội làm sao vậy?”
“Không có chuyện gì”, Lý Nghiên khẽ cúi đầu, “Chắc gần đây ca ca của muội đã phát hiện ra nên quản chế rất nghiêm ngặt, lần sau muội chưa chắc đã dễ dàng ra được.”
“Ta cứ tưởng có chuyện gì?” Trần Hi cười vẻ thoải mái, “Chỉ cần Nghiên Nhi gật đầu thì sáng mai ta sẽ xin phụ thân đến nhà muội cầu hôn. Khi đó Nghiên Nhi sẽ không cần phải lo lắng đến ca ca của mình nữa.”
“Đừng…”, Lý Nghiên vội vàng ngăn lại, ngập ngừng nói, “Dù sao chúng ta cũng mới quen biết chưa được bao lâu. Trần công tử còn chưa từng nhìn thấy mặt Nghiên Nhi mà đã khẳng định Nghiên Nhi là người huynh muốn thành thân sao?”
“Nghiên Nhi tâm tư thuần khiết đẹp đẽ, dung nhan chắc chắn cũng vô cùng xinh đẹp”, Trần Hi hào sảng, “Cho dù không phải như vậy thì lấy vợ cũng không dựa vào dung mạo.”
Lý Nghiên trầm tư, mấy từ thuần khiết đẹp đẽ có thể dùng để hình dung về mình được sao? Bỗng nhiên cô thấy hơi mặc cảm đối với Trần Hi, bèn khẽ quay mặt đi, “Trần công tử kể cho Nghiên Nhi nghe vài chuyện cũ của công tử được không?”
“Dĩ nhiên là được”, Trần Hi hào hứng, “Thật ra thì Nghiên Nhi cũng không nên xem ta quá tốt. Khi ta còn bé, phụ thân mời người đến dạy võ công cho ta và ca ca. Ta chăm chỉ hơn ca ca, tính cách cũng lanh lợi hơn nên công phu đứng số một, số hai trong giới quyền quý ở kinh thành nhưng dĩ nhiên là không thể so với con diều hâu nhỏ kia của Hoắc gia”, hắn nói vẻ bực bội, Lý Nghiên buột miệng cười.
“Sau khi cô cô trở về, ở bên ngoài có thu nhận một người đệ đệ tên là Thân Hổ. Hắn cũng không lớn hơn ta bao tuổi nhưng huynh đệ chúng ta đều phải gọi hắn là thúc thúc. Ta tâm cao khí ngạo nên dĩ nhiên là không phục liền tìm tới định đánh cho hắn một trận.”
“Tất nhiên là huynh thua rồi”, Lý Nghiên nói chắc chắn.
Trần Hi dừng lại, “Sao Nghiên Nhi đoán được?”
“Nếu không thì Trần công tử đâu đem chuyện trẻ con nghịch ngợm ra kể cho muội?”, cô tinh nghịch nhìn hắn.
Trần Hi tán thành, “Ta thua vô cùng thảm. Công phu luyện từ nhỏ không qua được ba chiêu trong tay hắn. Sau đó mới biết rằng tiểu tử kia là đồng môn với du hiệp Quách Giải nên cũng không hậm hực. Nói thế nào thì ta cũng là con nhà quyền quý thì làm sao so công phu được với người chân chính trong giang hồ? Cô cô cười an ủi ta, ‘Chuyện này gọi là ngoài vòm trời này là có vòm trời khác nữa, người cao còn có người cao hơn, sau này cần nhớ kỹ, không được hống hách kiêu ngạo nữa’…”
Lý Nghiên chấn động, lẩm bẩm lại, “Ngoài vòm trời này lại có vòm trời khác nữa, người cao còn có người cao hơn?”
“Nghiên Nhi, có chuyện gì vậy?” Trần Hi xoay người nhìn cô.
“Không có chuyện gì”, Lý Nghiên miễn cưỡng đáp chiếu lệ, “Muội chỉ đang nghĩ cô cô của huynh nói những lời này thật hay.”
“Đương nhiên”, Trần Hi cười kiêu hãnh, “Người ta là cô cô mà.”
Lý Nghiên tự hỏi lòng, có phải bản thân mình quá tự phụ, không nhìn thấy vòm trời khác, không thấy người cao hơn mình hay không? Cô hết sức tự tin giả trang làm thị nữ áo xanh nhưng liên tiếp bị Công chúa trưởng Bình Dương và Công chúa trưởng Phi Nguyệt phát hiện, vậy còn bệ hạ thì sao? Đột nhiên cô cảm thấy trước mắt tối sầm, suýt nữa ngã nhào. Trần Hi nhanh tay lẹ mắt đỡ lấy, lo lắng hỏi, “Nghiên Nhi, rốt cuộc hôm nay muội có chuyện gì?”
“Muội hơi choáng thôi”, cô yếu ớt nói, “Trần công tử, huynh đưa muội về đi.”Quyển 3 - Chương 56: Tùy theo tình thế mà lườngTừ phủ Bình Dương hầu trở về thì trời đã sâm sẩm tối. Lưu Triệt ngồi trong xe nhắm mắt lắng nghe tiếng ồn ào náo nhiệt trên đường phố thành Trường An, trong lòng mơ màng: A Kiều, lúc này nàng đang làm gì ở Trường Môn? Tất nhiên là chơi đùa vui vẻ, y có đi đâu về đâu cũng chẳng liêng quan đến nàng? Y bật cười cay đắng, chẳng phải hồi trước mình sủng ái Doãn thị thì đã thấy được phản ứng của nàng rồi sao?
Lúc long xa chạy chầm chậm gần sát cung Trường Môn, y nghe thấy tiếng đàn thánh thót văng vẳng, cảm giác khá bất ngờ. Từ khi trở về Trường Môn năm Nguyên Sóc thứ sáu tới nay, A Kiều rất ít chủ động tấu nhạc, ngay cả khi có nhã hứng thì cũng chủ yếu là gảy đàn tỷ bà, còn gần như không đυ.ng tới những loại đàn cổ, giai điệu trúc trắc mới lạ láy đi láy lại vài lần mới dần thuần thục, nhưng nếu nghe thật kỹ vẫn chỉ thấy nhạt nhẽo không có chút tình cảm.
Cung nhân ở bên ngoài điện thấy y liền lên tiếng hành lễ nhưng bị y xua tay ý bảo cho lui. Y đứng bên ngoài rèm nhìn một lúc, thấy mặc dù đầu xuân nhưng A Kiều đã ăn mặc khá phong phanh, mái tóc đen đổ xuôi xuống như suối nước. Nàng xưa nay vẫn vậy, ở chỗ nào không có người thì luôn làm theo ý thích, không thèm để ý tới thân phận là hoàng hậu một nước của mình. Không, nàng đã từ lâu không phải là hoàng hậu của y rồi, một thoáng thẫn thờ bất giác lướt qua lòng y.
Dù y không lên tiếng như Trần A Kiều vẫn nghe thấy tiếng bước chân, nàng ngừng đánh đàn, thản nhiên quay đầu lại chào, “Bệ hạ!”
Y khẽ ồ lên một tiếng, vén rèm bước vào, nhẹ nhàng ôm nàng vào lòng, đưa tay vuốt ve mái tóc, thuận miệng hỏi, “Kiều Kiều vừa đàn khúc gì vậy?”
“Tiện tay gảy chơi thôi”, nàng cười khẽ, đáp, “Không có tên gì cả.”
Y nhìn nàng chằm chằm một lúc rồi hỏi lại, “Có thật không?” Bàn tay đặt ngang hông lại siết chặt thêm một chút.
Những năm gần đây, Hung Nô chiến bại rút lui, núi yên biển lặng, non nước thái bình khiến y càng mãn nguyện, tự cho mình là bậc đế vương uy trấn bốn biển không ai bằng, nhưng ở trước mặt A Kiều vẫn luôn luôn cảm thấy thất bại. Rõ ràng là nàng đã học được cách cung kính dịu dàng giống như các phi tần trong cung Vị Ương vốn luôn e dè. Y không thấy chỗ nào sai nhưng cứ cảm thấy không đúng. Dường như tâm trí của nàng không biết bay đến ở tận chân trời nào. Càng thân mật càng có cảm giác rằng giữa hai người có một bức tường vô hình cực kỳ yếu ớt, chỉ đẩy một cái là đổ nhưng lại không thể nào phá nổi. Y mãi đứng ở bên bức tường đó, chẳng thể làm gì.
Thoáng chốc đã đến cuối tháng Năm, cung Vị Ương truyền ý chỉ đến cung Cam Tuyền nghỉ hè. Nữ tỳ trong phủ Bình Dương hầu thu thập hành trang, Lý Nghiên ngồi ở trước gương, ngắm nhìn dung nhan của mình lần cuối cùng, tự thấy thật kiều diễm, ngay cả bản thân cũng yêu thích.
“Ngoài vòm trời này còn có vòm trời khác, người này cao còn có người khác cao hơn”, cô nhớ tới câu Trần Hi đã nói. Cho dù có nhiều băn khoăn hơn nữa nhưng nếu không phóng tay đánh cược một lần thì chẳng phải là sẽ phụ bạc dung nhan hơn sương thắng tuyết trong gương?
Lý Nghiên tự hỏi, nếu có một ngày dung nhan như hoa đó dần dần phai tàn, những sợi tóc trắng đầu tiên dần dần lấp ló trong mái tóc đen thì liệu mình có tiếc nuối? Tiếc nuối rằng ở thời kỳ thanh xuân tươi trẻ nhất đã không chịu nỗ lực vì chính bản thân mình. Có lẽ là nếu nỗ lực thì cuộc đời sẽ đổi sang một số phận khác. Liệu có hối hận khi mình chỉ còn cách vinh hoa một bước ngắn nhưng lại lo sợ dừng bước?
Sinh con trai không mừng, sinh con gái không giận, một thân một mình, Vệ Tử Phu đứng đầu thiên hạ. Đó vốn là mơ ước lớn nhất của tất cả những người con gái trong thiên hạ. Vệ Tử Phu thì hơn mình điểm nào? Ngay cả Công chúa trưởng Bình Dương cũng nói rằng dung nhan của mình còn yêu kiều quyến rũ hơn cả Vệ Tử Phu trong thời xuân sắc ngày xưa. Mình cũng có thể dịu dàng kính cẩn không thua kém Vệ Tử Phu. Nghĩ vậy cô thật không cam lòng.
“Lần này, ngươi đi theo với thân phận người nhà phủ Bình Dương hầu của ta, đến thời điểm thích hợp nhất thì ta sẽ cho ngươi ra mắt bệ hạ. Nếu bệ hạ nhìn thấy thích ngươi, một khi được vinh hoa thì đừng có quên đấy nhé”, hôm qua Công chúa trưởng Bình Dương đã nắm tay cô ân cần dặn dò.
“Đi đường này mà thắng thì tất nhiên có thể một bước đến vinh hoa, nhưng nếu thua thì phải hỏi bản thân mình có thể chấp nhận được hậu quả hay không?”, ngày đó, Công chúa trưởng Phi Nguyệt đã nói như thế ở hành lang Hầu phủ. Cô không phải là Trần A Kiều, cũng không phải là Vệ Tử Phu. Cô không có thế lực hùng hậu bên ngoại chống đỡ, cũng không có người thân tài hoa xuất chúng phù trợ. Nếu muốn đứng vững tại cung Vị Ương thâm sâu kia thì chỗ dựa duy nhất có thể chính là sự sủng ái của bệ hạ.
Trên đại đường hôm đó, bệ hạ đứng dậy, chắp tay đi ra ngoài, trang phục rộng rãi bằng gấm đen tạo nên dáng hình tôn quý. Thật ra thì nếu chỉ bàn về dung mạo, bệ hạ anh tuấn trầm tĩnh nhưng lại có một chút vô tình còn Trần Hi thì tuấn tú hồ hởi, chưa chắc đã phân cao thấp. Nhưng đa số phụ nữ sẽ lựa chọn bệ hạ giống như đã biết rõ một chung rượu tuy ngon mà có hại nhưng vẫn không cưỡng nổi hương thơm hấp dẫn của nó, dù phải chết cũng cười một tiếng rồi uống vào. Có lẽ về bản chất, mỗi người đàn bà đều là một con thiêu thân lao đầu vào lửa, sẵn sàng chết vì một thoáng huy hoàng.
Cô cúi đầu, siết chặt nắm tay hạ quyết tâm cho dù có uống thuốc độc hay lao đầu vào lửa thì cũng vì tuổi thanh xuân đẹp như hoa này mà không do dự thử một lần. Nếu thắng thì mình sẽ theo ý mình mà hành động không do dự nữa; nếu thua thì mình lại quay đầu là bờ, không hề tiếc nuối. Nếu trong lúc thắng thua mà phải bỏ mạng thì âu cũng là gieo gió gặt bão, không oán người khác.
Ngày hai mươi tám tháng Năm năm Nguyên Thú thứ năm, thánh giá đến cung Cam Tuyền, Lý Nghiên làm thị nữ đi theo Công chúa trưởng Bình Dương. Công chúa trưởng Bình Dương căn dặn Lý Nghiên đi xe mệt nhọc nên cần nghỉ ngơi mấy ngày. Lý Nghiên biết rằng nếu nghe theo sự sắp đặt của Lưu Tịnh thì nếu thành công cuộc đời cô vinh hoa phú quí còn bệ hạ không chiếu cố thì xem như bỏ đi. Cô không nén nổi tiếng thở dài. Trần hoàng hậu là người con gái tuyệt sắc đến mức nào mà còn có thể khiến bệ hạ vốn vô tình ngưỡng mộ đến như vậy? Dù thế nào cuối cùng họ cũng sẽ gặp nhau. Bản thân cô cần phải nắm chắc thời điểm, giành cho mình cục diện tiến có thể tấn công, lui có thể phòng thủ.
Có lẽ trời cao cũng chiếu cố, ca ca nghe ngóng được tin tức là ngày mồng hai tháng Sáu, bệ hạ xử lý xong chính sự ở điện Tất Đường sẽ đi thẳng đến cửa nam cung Cam Tuyền rồi dẫn Trần nương nương cùng lên dạo chơi núi Cam Tuyền.
“Bệ hạ và Trần nương nương thuở nhỏ rất thân nhau, chắc cũng đã từng cùng nhau dạo chơi núi Cam Tuyền rồi”, Lý Diên Niên nói như vậy, hàm nghĩa sâu xa.
Cô không phải không hiểu ý ca ca, chỉ là không muốn suy nghĩ đến. Ít nhất, Trần nương nương sẽ không có ở bên cạnh bệ hạ trên đường từ điện Tất Đường tới cửa nam cung Cam Tuyền!
Suối nước từ núi Cam Tuyền chảy qua cung Cam Tuyền đổ vào hồ có tên là Ánh Nguyệt, gia nhân của phủ Bình Dương hầu lại được bố trí ở bờ hồ.
Mới vào đầu hè, hoa sen nở khắp hồ. Cô chọn chiếc váy dài màu xanh như nước, búi mái tóc đen của mình thành một búi xinh xắn rồi ngồi bên bờ hồ, ngửa đầu nhìn mặt trời sáng chói trên cao. Nước suối lạnh băng chảy qua khiến đôi chân ngọc khẽ run lên. Đằng xa, loan giá đế vương đang theo đường núi ngoằn nghèo đi đến, khí thế uy nghiêm. Hồ không sâu lắm, cô lội nước lách đi giữa những đóa hoa sen làm phấn hoa bám khắp y phục, tỏa mùi thơm ngát. Khi loan giá ngang qua cây cầu dài chín nhịp, cô ở dưới hồ nghiêng người hành lễ với dáng điệu hơi bối rối, “Tham kiến bệ hạ!”
Nước suối tràn qua đầu gối, thấm ướt tay áo váy. Một cơn gió nhẹ thổi qua mặt hồ. Đã đầu hè nhưng cô cũng không khỏi lạnh run lên, tay áo váy bồng bềnh trong nước gần như cùng hoa tan thành một thể, nhưng lại là điểm nhấn trong đó. Cô nghĩ rằng lúc này chắn chắn là mình vô cùng xinh đẹp đáng yêu.
Lưu Triệt ngồi trên loan giá quay đầu lại nhìn thiếu nữ đứng trong hồ nước. Gió đầu hè thổi làm lay động những đóa hoa sen trên mặt hồ xanh biếc, một người con gái đứng giữa, tay áo bay phất phới, đuôi váy chìm xuống bồng bềnh trên mặt nước.
Giang Nam… có thể hái sen sao? Y cười nhạt, mắt nhìn đi chỗ khác. Mặc dù cô chọn đúng lúc đúng chỗ giúp cho mình thể hiện được dung nhan xinh đẹp hơn cả hoa sen nhưng ngược lại cũng để lộ ra là có tâm cơ.
“Dân nữ không biết thánh giá qua đây nên không kịp tránh đường, kính xin bệ hạ tha lỗi”, Lý Nghiên dịu dàng nói, cảm thấy ngay cả những ngón chân đang ngâm trong nước cũng nóng bừng lên. Ánh mắt của vị đế vương trên loan giá sắc bén quá mức khiến cô không dám nhìn thẳng.
“Người không biết thì không có tội”, Lưu Triệt nói, “Thôi miễn đi!” Y nhếch khóe môi, thầm nghĩ hoàng tỷ đúng là có con mắt. Nước suối trong suốt, mơ hồ có thể thấy được làn da như ngọc dưới đầu gối, những đường cong tuyệt mỹ, càng nhìn càng thấy yêu kiều quyến rũ, trông đã thấy yêu. Quả nhiên là một cô gái đẹp làm rung động lòng người.
“Phụ hoàng!” Lưu Sơ chạy dọc theo hành lang ở đằng xa, nũng nịu oán trách, “Tại sao người vẫn còn ở nơi này? Con và mẫu thân chờ đến sốt ruột.”
Lưu Triệt bật cười. Lý Nghiên đứng trong nước, tâm tư trầm xuống. Cô có tâm hồn nhạy cảm, tất nhiên nhận thấy Lưu Triệt ngắm nhìn Công chúa Duyệt Trữ cười mới thật lòng đến nhường nào.
“Có một mình con sốt ruột thì có”, Lưu Triệt nói, tỏ ý bảo Lưu Sơ trèo lên ngự liễn.
A Kiều tính tình lạnh nhạt như vậy, chỉ sợ có thêm một canh giờ nữa cũng chẳng hề suốt ruột.
Lưu Sơ bị bóc trần tâm tư, thẹn quá thành giận, đấm khẽ một cái vào ngực Lưu Triệt, “Phụ hoàng cứ trêu Tảo Tảo.” Loan giá chậm rãi đi tiếp, người ở trên loan giá kia từ đầu đến cuối không hề quay đầu nhìn lại.
Lý Nghiên bật cười một tiếng, kéo một đóa hoa sen lại gần rồi áp vào mặt, cảm giác mềm mại mà lạnh như băng. Trong lòng bệ hạ nặng nhẹ thế nào thì chỉ cần liếc qua là biết. Nếu ngay trong thời điểm ban đầu mà cô đã không hấp dẫn được bệ hạ thì còn nói gì chuyện sống yên phận ở Vị Ương? Cô buông đóa hoa sen ra, không quay đầu lại, rời đi.
Có thể là do tâm trí hoàn toàn nguội lạnh, hoặc là bị ngấm nước, sau hôm đó cô bị một trận cảm lạnh liệt giường. Công chúa trưởng Bình Dương vô cùng tức giận nhưng không làm được gì, chỉ biết đay nghiến, “Nghiên Nhi, tại sao ngươi không chịu bảo trọng như thế? Hay chưa, tới hồ Ánh Nguyệt làm cái gì?”
Lý Nghiên nằm trên giường bệnh, sắc mặt tái nhợt trông cực kỳ đáng thương, “Nghiên Nhi nghe nói là bệ hạ sẽ qua đó.”
“Ngươi quá nóng lòng. Không được việc gì”, Lưu Tịnh phất áo bỏ đi mà không nhìn thấy Lý Nghiên ở phía sau khẽ mỉm cười, ánh mắt trầm tĩnh.
Có lẽ nhận định là bất cứ người con gái nào trên thế gian đều có tâm ý thấy người sang bắt quàng làm họ, cũng có thể là từ sự hiểu biết đối với Lý Nghiên trong quá khứ nên Công chúa trưởng Bình Dương không hoài nghi điều gì, nhưng dù sao Lý Nghiên cũng đã để bệ hạ cũng trông thấy mặt, hết giá trị đầu cơ kiếm lợi nên dần dần bị phủ Bình Dương hầu coi thường, chỉ riêng Công chúa trưởng Bình Dương là vẫn còn do dự. Một giai nhân tuyệt sắc thông tuệ như vậy có tìm trong vạn người cũng khó gặp, nếu bỏ đi e là có phải quá đáng tiếc?
Khi Lý Nghiên khỏe lại thì cũng đã vào thu, đến thời điểm thánh giá trở về Trường An. Một ngày kia, Lý Nghiên hẹn Trần Hi ra ngoài lúc ban ngày, ánh mặt trời ấm áp càng lộ ra thân thể gầy gò. Trần Hi rất xót xa, hỏi, “Nghiên Nhi, sao dần đây không thấy muội?”
“Muội gần đây bị bệnh nặng vừa mới khỏi”, Lý Nghiên nói, giọng thều thào.
“Trần công tử”, cô nắm lấy tay hắn, “Chàng… thật lòng muốn thành thân với Nghiên Nhi không?”
“Tất nhiên!” Trần Hi đáp, bỗng nhiên như ngộ ra điều gì, mừng rỡ nói, “Nghiên Nhi đã đồng ý.”
Lý Nghiên buông tay ra, một lát sau mới thỏ thẻ nói, “Chàng đến gặp ca ca của thϊếp cầu hôn nhé.”
“Được rồi. Ta sẽ nói với phụ thân”, Trần Hi đáp, “Ca ca của muội là ai?”
Cô nhắm mắt lại rồi đáp, “Nhạc sư Lý Diên Niên của Nhạc phủ.”
“Lý Diên Niên?” Trần Hi ngẩn ra, nụ cười dần đông cứng, “Muội… là Lý Nghiên”, sắc mặt hắn bỗng nhiên trầm xuống, “Muội chính là mỹ nhân của Lý gia mà Công chúa trưởng Bình Dương muốn hiến dâng cho bệ hạ để đối phó với với cô cô của ta?” Trong khoảnh khắc, tất cả những ký ức về bao nhiêu lần dắt tay cô đi dưới ánh trăng, rồi cô thường tha thiết nói “Kể cho muội nghe về cô cô của huynh một chút đi” bỗng ập tới trong đầu. Những kỷ niệm đẹp bỗng nhiên được giải thích theo chiều hướng khác khiến trái tim hắn băng giá.
Lý Nghiên khẽ dỡ tấm mạng bằng lụa mỏng trên mặt xuống, dung nhan mỹ lệ làm cặp mắt Trần Hi sáng ngời.
“Thật ra ngày mới lần đầu gặp Trần công tử là do Nghiên Nhi cố ý. Thế nhưng chẳng lẽ bao nhiêu ngày gặp nhau đều là giả dối sao?” Một giọt nước mắt trào ra trên khóe mắt Lý Nghiên. “Nghiên Nhi cam tâm tình nguyện phản bội Công chúa trưởng vì công tử. Kính xin công tử chớ phụ lòng.”
Những lời nói tha thiết làm Trần Hi mềm lòng. Một người con gái xinh đẹp vì hắn mà từ bỏ vinh hoa dễ như trở bàn tay. Tình cảm sâu sắc nặng nhường ấy mà còn có thể hoài nghi được hay sao? Trần Hi liền nắm lấy tay cô, vẻ hổ thẹn, “Nghiên Nhi, là ta không tốt.”
Lý Nghiên khẽ mỉm cười vẻ đau khổ, “Trần công tử, phiền chàng phải gấp lên. Nếu để cho Công chúa trưởng biết được thì Nghiên Nhi sẽ có kết cục rất buồn.”
Ngày thứ ba sau khi bàn bạc xong với Trần Hi, Lý Nghiên từ phủ Bình Dương hầu trở về nhà thì thấy ca ca Lý Diên Niên với vẻ mặt âu lo.
“Nghiên Nhi, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy?” Lý Diên Niên cau mày hỏi, “Chẳng phải muội đang ở trong phủ Bình Dương hầu nhưng sao nhị thiếu gia của phủ Đường Ấp hầu lại tới gặp ta để cầu hôn?”
Lý Nghiên nhíu mày, Trần Hi đã không lừa dối. “Ca ca”, cô thở dài, “Là muội bảo chàng ấy tới đấy, huynh không ngại đồng ý chứ?”
Lý Diên Niên há hốc mồm miệng. Muội muội của hắn không chỉ có dung nhan tuyệt sắc mà từ nhỏ đã rất có chủ kiến, một khi đã hạ quyết tâm thì sẽ không nghe ai khuyên bảo. Lúc muội muội vào phủ Bình Dương hầu, hắn đã cho rằng nếu cô không mở ra được một con đường thì tuyệt đối sẽ không quay đầu lại. Sao có thể ngờ…
“Ca ca, Trần Hi rất tốt, muội tin chàng yêu muội thật lòng”, Lý Nghiên mỉm cười nói, “Huynh không cần phải lo lắng.”
“Ta tin điều đó. Mọi người trong thành Trường An cũng đều biết nhân phẩm của Trần nhị công tử”, Lý Diên Niên ưu tư, “Chỉ là, muội…?”
“Ca ca cảm thấy kỳ lạ lắm phải không?” Lý Nghiên thẹn thùng cười đáp, “Muội đã nghĩ thông suốt rồi. Bệ hạ đã có Trần nương nương ở bên cạnh, muội…”, cô bối rối thừa nhận thất bại của mình, “Muội không thể tranh giành nổi.” Không phải là dung nhan không đủ, không phải là tài nghệ không tốt mà là do thời cơ cô xuất hiện không đúng.
Hồi năm Kiến Nguyên, bệ hạ buồn bực vì bất đắc chí, vừa chán ghét Trần hoàng hậu kiêu căng, lại đúng lúc gặp được Vệ Tử Phu. Vệ Tử Phu nhu tình như nước khiến y dừng chân thưởng ngoạn. Lúc này đã là năm Nguyên Thú, bệ hạ đã khống chế thiên hạ, lại có giai nhân bên cạnh nên không thể cho phép xuất hiện vị trí của cô.
Cô đã thấy tận mắt sự sủng ái của bệ hạ đối với Công chúa Duyệt Trữ. Nếu như không phải trong lòng y coi trọng mẫu thân của Công chúa thì người bạc tình như bệ hạ chắc chắn sẽ không quan tâm quá nhiều, cho dù đó là con gái của mình. Công chúa trưởng Bình Dương từng kể rằng vào năm Nguyên Sóc thứ hai, bệ hạ còn chưa biết đến sự tồn tại của Hoàng tử cùng Công chúa Duyệt Trữ, hai mươi chín tuổi mới có một con trai độc nhất nhưng cũng chưa từng sủng ái như Công chúa Duyệt Trữ hiện giờ.
“Rốt cuộc đó là người phụ nữ thế nào vậy?”, cô nghĩ, “Có thể khiến bệ hạ đã vứt bỏ không thương xót lại phải quay lại nâng niu.”
“Như vậy cũng tốt”, Lý Diên Niên không biết suy nghĩ trong lòng cô, lên tiếng an ủi, “Muội có cá tính quá bướng bỉnh khiến ta rất lo lắng, giờ có thể gả cho Trần Hi sống bình an quãng đời còn lại thì ta tạm yên tâm, cũng coi như là rạng rỡ gia môn rồi. Nhưng Công chúa trưởng Bình Dương có thể bỏ qua cho muội thật sao?”
“Không ngại, Trần nương nương sẽ giúp muội đối phó với bà ấy”, Lý Nghiên khẳng định.
Dù cho Trần nương nương không sợ thì cô rốt cuộc cũng không hy vọng cô tiến cung. Cô quả quyết chấp nhận lùi bước thì chắc chắn Trần nương nương sẽ vui lòng giúp lại một chuyện nhỏ như vậy. Huống chi cô lại được gả cho cháu của nàng.
“Muội chỉ không cam lòng”, Lý Nghiên cúi đầu. Lý Diên Niên nghe giọng xa xăm của muội muội thì hơi kinh hãi. “Muội thua chẳng qua vì thời gian, thêm cả dòng dõi. Được rồi, muội nhận thua, thế nhưng muội vẫn không tin nếu vào ngày trước muội cũng thua.”
“Nghiên Nhi, muội…?”
“Ca ca, muội được gả vào Trần gia thì sẽ là người của phủ Đường Ấp hầu. Gia thế của Trần gia đã được tích lũy qua trăm năm, lại là nhà mẹ để của Trần nương nương nên hiển hách vô song. Nếu ngày sau muội và Trần Hi sinh con gái”, cô ngẩng đầu vẻ tự tin, “Ca ca nói có tư cách đứng đầu trong cung hay không?”
Vào mùa đông tháng Mười, một chiếc kiệu nhỏ đón Lý Nghiên vào phủ Đường Ấp hầu. Trần Hi đứng trước cổng chờ, mỉm cười nói, “Cô cô muốn gặp muội.”
Trong lòng cô run lên, rốt cục đã có thể gặp mặt người phụ nữ được hoàng đế Đại Hán sủng ái nhất, Trần Hi cầm tay cô đi xuyên qua hành lang của phủ Đường Ấp hầu, thỉnh thoảng có tỳ nữ ngang qua đều quỳ gối hành lễ, nói, “Chào Nhị thiếu gia.”
Hai người xuyên qua ngoại viện, qua tiếp một cửa ngách thì có một căn lầu nhỏ thấp thoáng trong hoa cỏ, yên tĩnh trang nhã. Lý Nghiên nhướng mày, nhìn hai chữ Triện thanh tú viết trên tấm biển cổ kính Mạt Vân.
Một cô bé mặc y phục bằng gấm lộng lẫy tựa trên lan can, quay đầu lại cười tươi tắn, “Hi biểu ca.”
Trần Hi lui về phía sau một bước, bái chào, “Công chúa Duyệt Trữ.”
“Được rồi.” Lưu Sơ vui vẻ khoác tay, “Người trong nhà không được dùng bộ dạng này.” Cô bé nghiêng người nhìn thấy Lý Nghiên, nháy mắt, “Vị này chính là biểu tẩu tương lai sao? Quả nhiên là xinh đẹp!”
Lý Nghiên hôm đó ở dưới cầu, tâm tư mê loạn nên cũng không nhìn kỹ đệ nhất công chúa của triều Hán, lúc này chủ ý mới thấy cô bé thanh khiết khả ái, khuôn mặt cực kỳ sinh động, sau này lớn lên chắc chắn sẽ không kém mình hiện giờ.
“Công chúa Duyệt Trữ quá khen rồi!” Cô cười nhẹ nhàng, nhìn con gái thì biết mẹ, trong lòng càng thêm hiếu kỳ với A Kiều chuẩn bị được gặp.
“Nghiên Nhi, muội vào đi thôi!” Trần Hi buông tay cô ra rồi âu yếm dặn, “Ta ở bên ngoài chờ muội.”
Cô lẳng lặng gật đầu, ưỡn thẳng lưng rảo bước đi vào, vừa đến cửa đã ngửi thấy một mùi hương dìu dịu. Thị nữ Lục Y đưa bàn tay mịn màng tròn trịa vén rèm, tươi cười chào hỏi, “Là Lý tiểu thư sao? Nương nương bảo cô vào trong.”
Ở sâu phía sau bức rèm là một bóng người thanh tú yểu điệu đang ngồi bên cửa sổ cầm sách đọc, Lý Nghiên nhẹ nhàng quỳ gối, “Dân nữ Lý Nghiên tham kiến Trần nương nương.”
“À”, Trần A Kiều vẫn cúi đầu đáp một tiếng.
Cô thường nghĩ rằng Trần hoàng hậu phải có dung nhan như thế nào mới khiến vị quân vương có trăng quên đèn kia ngắm mãi không chán, đến lúc gặp mới thấy đó chỉ là dung nhan mộc mạc nhưng mọi chi tiết trên khuôn mặt lại hài hòa tới tuyệt hảo chỉ ngồi lặng lẽ cũng đã toát lên vẻ sang trọng và bình yên.
“Phấn son e chỉ mờ nhan sắc,
Điểm nét ngài xuân gặp mặt rồng.”[1]
[1] Trích trong Tập Linh đài – Kỳ 2 (Đài Tập Linh – Kỳ 2) của Trương Hựu.
Cô cố gắng trang điểm thật đẹp, đến lúc này mới cảm thấy mình quá nực cười, giống như một người cứ cố sức khiêu chiến nhưng người kia lại chẳng thèm ngó ngàng tới mình.
“Lý Nghiên!” Trần A Kiều buông quyển sách trong tay xuống ngắm cô từ trên xuống dưới, “Quả nhiên là một trang tuyệt sắc.”
Lý Nghiên chịu phục, kính cẩn đáp, “Nghiên Nhi không dám nhận, tuyệt sắc phải là nương nương mới đúng.”
A Kiều cười nhạt, đứng dậy nhìn thẳng vào mắt cô, “Những thứ khác ta không muốn so sánh, chỉ cần cô đáp một câu, cô có thật lòng muốn thành thân với Hi Nhi không?”
Lý Nghiên chấn động, kinh ngạc ngẩng đầu lên, “Nương nương hỏi vậy là có ý gì?”
“Trần gia chúng ta trăm năm lừng lẫy.” Nàng chắp tay bước về phía trước cửa sổ, nhìn vẻ mặt tha thiết đợi chờ của Trần Hi ở bên ngoài, “Lấy vợ có thể không nói dòng dõi, không nhìn xuất thân, nhưng ít nhất phải đối xử với nhau thật lòng.”
Lý Nghiên im lặng hồi lâu, cuối cùng lên tiếng: “Từ này về sau, Nghiên Nhi sẽ thật lòng đón nhận Trần thiếu gia.”
Bản tính cô vốn quyết đoán, đã lựa chọn con đường này sẽ không bao giờ liếc qua một con đường khác. Hai người ăn ở với nhau cả đời, yêu thương thật lòng mới có hạnh phúc, dù đôi khi lừa dối giấu giếm nhau nhưng cuối cùng có thể bình an, hạnh phúc. Trần A Kiều cười nhẹ. Chỉ phụ nữ mới hiểu được phụ nữ. Nàng dĩ nhiên nhìn ra câu nói vừa rồi của Lý Nghiên là thật lòng nên gật đầu, “Đã như vậy, chắc Hi Nhi cũng không đợi được nữa. Cô mau ra ngoài gặp nó đi. Những chuyện khác, ta sẽ xử lý.”
Ra khỏi lầu Mạt Vân, tắm trong ánh mặt trời ấm áp, Lý Nghiên khẽ đưa tay vuốt trán, cảm thấy toàn thân đẫm mồ hôi.
“Nghiên Nhi!” Trần Hi quay đầu lại, nhìn thấy cô liền nở nụ cười rạng rỡ như ánh mặt trời trong ngày đông. Cô cũng mỉm cười, từ giờ khắc này, cuộc đời của cô đã gắn bó với nam nhân đang đứng đó. Lúc tung chiếc khăn lụa ở trên bờ sông Vị Thủy, cô không nghĩ đến sẽ có kết cục sẽ như thế.
Lý Nghiên cúi đầu nhìn xuống đôi bàn tay mình đang nắm chặt, dù không phải là người từng mong đợi nhưng có một người thật lòng yêu thương, dù hoàn toàn không như mình nghĩ, vẫn mãi là hạnh phúc.Quyển 3 - Chương 57: Chuyện phong Đông Cung tối do dựChiếc xe ngựa màu xanh thong thả chạy qua phố xá Trường An, tấm màn che dày ngăn cách những cặp mắt tò mò nhìn vào.
“Nói như vậy, chuyện của Lý Nghiên đã hoàn toàn kết thúc rồi sao?”, giọng nam trầm thấp hỏi.
“Đúng thế, cô cô đã đáp ứng, bệ hạ cũng không có ý kiến. Bình Dương trưởng công chúa rất tức giận nhưng cũng hết cách”, giọng nam trong trẻo trả lời.
“Vậy thì tốt”, giọng nam trầm thấp lại thở ra một hơi, “Đúng rồi, chuyện của chúng ta đừng để cho cô cô ngươi biết.”
“Cháu biết!” Trần Hi buồn cười, “Cháu cũng đâu dám. Nếu cô cô biết cháu cũng giả ngốc gạt người thì chắc chắn sẽ giáo huấn cháu đến chết mới thôi. Người nói đúng không, Tang thúc thúc. Chỉ là, cô cô thông minh như vậy, chắc cũng mơ hồ đoán được đôi chút.”
“Chỉ cần không nắm được chứng cứ thì nàng đâu thể làm gì được chúng ta”, Tang Hoàng Dương thản nhiên nói, “Nói ra thì công phu diễn trò của tiểu tử nhà ngươi cũng khá tốt, người không ngoan như Lý Nghiên cũng không nhìn ra sơ hở.”
“Nếu muốn cô cô biết, trừ phi đừng đề cập tới”, Trần Hi đỏ mặt lên, khẩn khoản: “Tang thúc thúc đừng để lộ ra. Cháu chỉ là một Trần Hi si tình có được hay không?”
“Được rồi!” Tang Hoằng Dương cười dài, trầm ngâm nói, “Chỉ là, nếu như ngươi không thích Lý Nghiên thì cũng không cần thiết phải thành thân với cô ta. Dù cô ta sẽ buồn bã một chút nhưng ai bảo ngươi là cháu của A Kiều chứ? Chúng ta đương nhiên phải chiếu cố cho ngươi trước hết.”
Trần Hi im lặng, gương mặt trở nên nghiêm túc, “Thúc thúc không thấy rằng Lý Nghiên thực sự là cô gái rất xinh đẹp thông minh sao? Tính cách cô ấy vốn quyết đoán nên cháu thấy một khi đã quyết định sẽ không thay đổi. Đã như vậy, bọn cháu thành thân cũng không có gì là không tốt.”
Tang Hoằng Dương nhìn hắn đầy vẻ suy tư một hồi rồi lắc đầu, “Vậy cũng được, hai người các ngươi đúng là một cặp mạt cưa gặp mướp đắng hiếm có. Hơn nữa, Lý Nghiên cũng thông minh, sẽ rất có ích cho ngươi sau này giành chỗ đứng ở phủ Đường Ấp hầu.”
Hôn lễ con thứ của Đường Ấp hầu được tổ chức long trọng, dĩ nhiên có mời Công chúa trưởng Bình Dương nhưng cuối cùng Lưu Tịnh không đến, cô dâu cũng không buồn phiền, cứ thế tiến hành bái đường. Trần nương nương đã có một chuyến thăm đặc biệt tới phủ Đường Ấp hầu vì chuyện của Trần Hi nhưng đến hôn lễ chính thức thì không có mặt.
Lúc Lưu Triệt trở về Trường Môn thì Trần A Kiều đang nằm ngái ngủ trên giường.
“Kiều Kiều”, y lay nàng dậy, nhẹ giọng gọi. Nàng mở mắt ra, thấy là y thì lại yên tâm nhắm mắt ngủ tiếp.
Cặp môi mỏng của Lưu Triệt khẽ nhếch lên, phất tay cho đám cung nhân lui ra rồi thuần thục luồn tay xuống dưới cởi xiêm y của nàng. A Kiều mơ mơ màng màng, tựa vào l*иg ngực y, thân thể dần nóng rực lên rồi áp sát vào.
“Kiều Kiều!” Y thì thầm bên tai, “Gọi ta một tiếng Triệt Nhi nhé!”
Nàng giật bắn mình, lập tức tỉnh hẳn. Lưu Triệt cũng không thèm để ý, tiếp tục hôn lên kɧıêυ ҡɧí©ɧ, nhìn nàng quật cường cắn chặt răng, mắt nhìn thẳng vào y không còn tĩnh lặng nữa mà tràn ngập lửa giận.
“Nàng thử nói xem, Kiều Kiều”, y cũng dần thở hổn hển nhưng vẫn cố kìm nén, “Nàng có thể kiên trì bao lâu chứ?”
“Chắc chắn là lâu hơn người”, nàng lạnh lùng đáp, giơ chân lên đạp, giãy giụa kịch liệt khiến Lưu Triệt vất vả lắm mới ngăn lại được.
“Nương nương! Bệ hạ!” Bên ngoài, Lục Y nghe thấy động tĩnh bất thường thì cất giọng kêu to, vẻ lo lắng.
Nàng đỏ mặt, miễn cưỡng đáp, “Không có chuyện gì.” Đang nói chuyện nàng cảm thấy ngang hông bị tay phải của Lưu Triệt khẽ vuốt ve, cả người nàng run rẩy, cố kìm tiếng thở gấp. Người đàn ông này thật sự quá rõ mỗi chỗ trên thân thể nàng.
Sự tiếp xúc da thịt có sức quyến rũ đến mê hoặc. Một cơn rùng mình mãnh liệt khiến nàng không còn nghiến chặt được răng, suýt nữa kêu lên.
“Triệt Nhi…!” Cuối cùng nàng đành đầu hàng. Cái tên quên lãng từ lâu bật ra khỏi miệng cùng với dòng lệ ướt đẫm. Nàng mơ hồ nghe Lưu Triệt than nhẹ rồi hôn ngấu nghiến đôi môi của nàng.
Tới lúc mệt rũ người ra rồi dần chìm vào giấc ngủ say, nàng nghĩ mình đã từng bao nhiêu lần hoặc hờn dỗi, hoặc tức giận gọi y là Triệt Nhi, sao đến bây giờ gọi nước mắt lại tuôn rơi.
Sao lại như thế được chứ? Chỉ gọi một tiếng gọi lại khiến cho ký ức cuồn cuộn ập về không thể tiếp tục chia cắt. Nàng bỗng nhiên thấy mình thật khác.
Cuối năm Nguyên Thú thứ năm, Mạt Lăng hầu Lưu An thu nhận Di Khương về danh nghĩa là thị nữ của thứ nữ Lưu Thiến làm nghĩa nữ, gả cho trọng thần triều đình Đại tư nông Tang Hoằng Dương. Trong cung Trường Môn, Trần A Kiều vui mừng khoác tay Lưu Lăng, “Thiến Nhi đã được gả cho Ngũ Bị, hôm nay cả Tang Hoằng Dương cũng đã thành hôn rồi, Lăng Nhi, muội còn định kéo dài bao lâu nữa?”
“Từ sau biến cố Giao Đông, Ngũ Bị vào triều làm quan rồi được bệ hạ trọng dụng, dần dần được thăng lên đến chức quan điển khách, cai quản các man tộc đã quy thuận. Lưu Lăng thở dài, bất đắc dĩ nói, “Có phải phàm là con gái thì cuối cùng cũng phải đi đến bước này?”
Trần A Kiều khẽ mỉm cười, “Muội một thân một mình lâu như vậy mà không thấy cô đơn sao? Tìm lấy một người cùng chung chí hướng để bầu bạn cũng tốt. Tỷ thấy Đông Phương Sóc được đấy.” Nàng vốn cho rằng nhóm bọn họ nhất định sẽ sống cô đơn suốt quãng đời còn lại nhưng hôm nay nhìn lại thì Liễu Duệ với Lưu Đàm hay Tang Hoằng Dương với Di Khương đã hòa hợp, cũng có thể coi là ngọt ngào ấm áp. “Như vậy thì”, nàng lắc đầu thầm nghĩ, “hạnh phúc của mình và Lưu Lăng nằm ở nơi nào?”
“Tỷ không được lựa chọn đã phải bước vào cuộc sống vợ chồng”, Lưu Lăng không để ý, chỉ cười nói, “Nếu tỷ được tự do như muội thì e rằng cũng mất nhiều thời gian. Phụ nữ vốn thận trọng hơn đàn ông nhiều.”
“Đông Phương Sóc thông minh đa tài, cũng tốt rồi.” Nàng khẽ thở dài, “Nhưng nếu muội vì đó mà lấy hắn để rồi sau này không chung suy nghĩ lại trở thành thù hận, vậy chẳng bằng cứ ung dung nhàn nhã như bây giờ còn hơn?”
Trần A Kiều trầm tư, Lưu Lăng nhìn như không cố chấp nhưng vẫn giữ thái độ vô cùng đa nghi về thời đại mà hai người sống trước đây thì nói gì đến một người thời cổ cách nàng đến hai nghìn năm.
“Thật ra thì những năm qua muội cũng xem xét một cách khách quan”, Lưu Lăng mỉm cười nói, “Bệ hạ đối xử với tỷ cũng coi là không tệ. Thế nào? A Kiều tỷ động lòng chưa?”
Nàng thở dài, “Một người đã tàn nhẫn đâm một nhát dao vào tim mình rồi lại quay sang yêu chiều nâng niu mình trong lòng bàn tay thì muội cảm thấy như thế nào?
“Ừ… thì thế”, Lưu Lăng cười mỉa, “Nhưng A Kiều tỷ có nghĩ tới hay không, tỷ hôm nay dù sao cũng là người khác với tỷ trước kia. Bệ hạ có thể không thương A Kiều ngày trước nhưng lại bị vẻ lạnh lùng của A Kiều chuyển thế ngày hôm nay hấp dẫn. Dù sao thì mấy hôm trước y cũng bỏ qua một Lý Nghiên đẹp nghiêng thành, không thể không thừa nhận nguyên nhân chính là do có tỷ ở bên cạnh.”
“Yêu?” A Kiều bật cười nhìn những cây cột trụ màu đỏ như máu trong cung Trường Môn, “yêu là thứ xa xỉ nhất trong hoàng cung tráng lệ này.” Còn Lưu Triệt là tình nhân không đáng tin nhất trong khắp thiên hạ.
“Không nói chuyện này nữa”, A Kiều chớp mắt rồi nói sang chuyện khác, “Gần đây tỷ luôn lo lắng, cảm thấy thế lực Trần gia mở rộng quá nhanh. Muội nhắc nhở bọn họ thu lại một chút đừng để cho bệ hạ nghi ngờ.”
Từ những năm Nguyên Thú trở đi, Lưu Triệt giữ vững thế giằng co của hai nhà Trần, Vệ ở trong triều đình, tinh tế khống chế, giữ cho thế lực của hai nhà ở thế cân bằng. Trong trò chơi quyền lực, tiến chưa chắc là tiến, lui cũng chưa chắc đã là lui, nhìn về lâu dài thì chiếm ưu thế tạm thời cũng là nguồn gốc của tai họa. Lưu Lăng cũng hiểu rõ đạo lý này, gật đầu đáp, “Muội biết rồi!”
Đầu năm Nguyên Thú thứ sáu, Dương Thạch công chúa Lưu Vân xuất giá, Hoàng hậu Vệ Tử Phu chủ trì hôn lễ. Trần A Kiều bình tĩnh ngồi trong cung Trường Môn nghe tiếng nhạc hôn lễ long trọng hoành tráng từ điện Tuyên Đức đằng xa vọng lại. Trong cuộc đời nàng đã từng có một hôn lễ long trọng như thế này, tình nguyện đeo chiếc khăn hoa lệ lên chờ người trong mộng gỡ xuống.
“Nương nương!” Thành Liệt vén rèm bước vào, nét mặt có vẻ kỳ lạ, quỳ lạy bẩm báo, “Bên điện Tuyên Đức có tin tức rằng các đại thần đang cố cầu xin bệ hạ lập thái tử.”
A Kiều hơi run tay khiến chiếc chén sóng ra một chút để lại mấy lá trà nho nhỏ trên y phục. Lưu Triệt ở tuổi trung niên, đang lúc đỉnh cao phong độ, theo nàng thấy thì chưa cần thiết phải lập thái tử. Nhưng theo quy chế tổ truyền của triều Hán, phải lập thái tử sớm thì triều thần mới có thể an lòng. Các triều thần cân nhắc mãi giữa hai vị hoàng tử khác mẹ, đoán không được tâm ý của bệ hạ nên mới dây dưa tới tận hôm nay.
Hiện giờ Lưu Triệt đã có bốn con trai. Con trai trưởng Lưu Mạch do mình sinh ra, mười một tuổi. Con trai Lưu Cứ của Vệ Tử Phu chín tuổi. Con trai thứ ba Lưu Hoành, thứ tư Lưu Đán còn quá nhỏ, thân phận mẫu thân lại hơi thấp một chút, hơn nữa theo quy chế nhà Hán về lập người kế thừa chỉ tôn sùng lập dòng chính, lập con trưởng, lập con hiền nên không có hy vọng. Nói cho cùng thì chỉ còn Trần, Vệ tranh giành mà thôi. Chuyện này chắc hẳn không phải do Vệ gia đưa ra nên xét về tuổi, xét về năng lực, về việc được bệ hạ ân sủng thì Lưu Mạch đều hơn Lưu Cứ, chỉ có điều là nàng lại không muốn cho Mạch Nhi làm cái thứ thái tử quỷ quái gì kia.
“Kiều Kiều thấy thế nào?” Đêm đến ở trong điện Bát Nhã, Lưu Triệt mỉm cười dò hỏi.
“Thực ra mà nói thì thϊếp tất nhiên không muốn cho Lưu Cứ lên ngôi vị thái tử.” Nàng bình thản, cảm thấy nếp nhăn nơi khóe môi khi y cười như đập vào mắt.
“Sao?”
“Cho dù là triều thân ở trong cung hay ở bên ngoài thì đều là những người trọng cao khinh thấp. Bất kể Hoàng đế hiện đang ân sủng ai như thế nào, bọn họ chỉ coi trọng người ngày sau sẽ là hoàng đế, đúng không? Nếu Lưu Cứ lên ngôi thì thϊếp và Mạch Nhi, Tảo Tảo làm gì còn đường sống nữa.”
“Nếu vậy thì”, Lưu Triệt chau mày hỏi, “Kiều Kiều hy vọng trẫm chọn Mạch Nhi sao?”
A Kiều xua tay, “Thϊếp cũng không hy vọng Mạch Nhi làm thái tử.”
Lưu Triệt cố nén kinh ngạc ở trong lòng, thản nhiên hỏi, “Vì sao vậy?”
“Thái tử có trách nhiệm quá nặng nề, thϊếp sợ Mạch Nhi đảm nhận thì sẽ mệt chết mất. Hơn nữa, nếu bị đẩy ngã từ ngôi vị thái tử thì sẽ càng đau hơn. Không phải Lưu Vinh chính là tấm gương trước mắt sao?”
Nàng càng sợ rằng đến cuối cùng người uy hϊếp ngôi vị thái tử của Mạch Nhi lại không phải là huynh đệ của nó mà lại chính là bản thân Lưu Triệt. Cho tới bây giờ, quân quyền và trữ quyền phân lập là chuyện nguy hiểm nhất. Lưu Triệt là vị quân chủ quyền thế, sẽ không chịu đựng được việc có người chia sẻ quyền lực trong tay, ngay cả khi người đó là con mình. Kết cục của Lưu Vinh thuở trước khiến nàng lui bước. Lưu Triệt tuổi thọ còn dài, nàng không nỡ để Mạch Nhi bị diệt vong dưới tay của chính phụ thân mình, càng không nỡ để nó theo lý mà tranh giành, cuối cùng cha con trở mặt với nhau.
“Kiều Kiều giải thích cũng thật kỳ lạ”, ánh mắt Lưu Triệt lóe lên, “Chẳng lẽ nàng muốn trẫm lập Hoành Nhi hay Đán Nhi ư?”
A Kiều bật cười, “Thϊếp mong bệ hạ sẽ sống lâu thêm một chút, đừng có suy nghĩ về chuyện lập thái tử gì đó nữa.”
“Kiều Kiều!” Ánh mắt y trở nên sâu thẳm, y ôm lấy nàng, “Trẫm rất vui vì nàng có thể nói như vậy.”
“Thật ra thì”, nàng thản nhiên nói, “A Kiều nói gì chẳng qua cũng là ý kiến riêng của A Kiều. Bệ hạ muốn quyết định ra sao, A Kiều cũng không muốn xen vào.”
Năm Nguyên Thú thứ sáu, triều thần xin lập thái tử lần đầu tiên nhưng Lưu Triệt im lặng không nói gì, cuối cùng không lập thái tử. Người của Vệ gia thở phào nhẹ nhõm, cho dù thế nào nhưng cuối cùng bệ hạ không lựa chọn Hoàng tử trưởng Lưu Mạch thì bọn họ vẫn còn hy vọng. Thì ra ân sủng của bệ hạ đối với Trần hoàng hậu cũng không đến mức liên quan đến quốc sự.
Năm Nguyên Thú thứ sáu, thủy quân tập luyện trên hồ Côn Minh đã có chút thành tựu. Trong điện Tuyên Thất bắt đầu nghe phong thanh rằng bệ hạ có ý cho thủy quân đánh chiếm nước Điền, dùng võ lực mở đường thông đến Thân Độc. Từ khi Đại tư nông Tang Hoằng Dương nắm tài chính quốc gia tới nay đã áp dụng phương pháp đồng đều và bình đẳng, quan quản lý buôn bán cũng bình ổn giá hàng, dần dần thu được thành công. Quốc khố dư dả, thừa đủ cho trận đánh tộc Côn Minh. Việc huấn luyện thủy quân ở hồ Côn Minh từ trước tới nay luôn do Trường Tín hầu Liễu Duệ phụ trách nên mọi người đều ngầm hiểu rằng chắc chắn là Liễu Duệ sẽ làm chủ tướng cuộc xuất chinh Côn Minh lần này. Nhưng có một chuyện đột nhiên xảy ra tại trường bắn ở trong cung Vị Ương đã ngăn cản thủy quân lên đường viễn chinh Tây Nam.
Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh đua ngựa với một gã mã nô ở trong trường bắn đã bị ngã ngựa khi đang phi nhanh, mặc dù nguy hiểm nhưng may là Hoắc Khứ Bệnh thân thủ nhanh nhẹn nên không bị thương nặng. Khi tin tức truyền lên thì Lưu Triệt khá kinh ngạc, “Khứ Bệnh vẫn luôn là tay thuần phục ngựa lão luyện, tại sao lại không khống chế nổi ngự mã đã được thuần phục do trường bắn nuôi dưỡng chứ?”
Cung nhân đang quỳ gối dưới điện có chút ngập ngừng, Lưu Triệt phát hiện thấy bèn quát lên, “Nói!”
“Vâng, thưa bệ hạ.” Cung nhân dập đầu xong rồi mới bẩm, “Tên mã nô đua ngựa với Quan Quân hầu tên là Kim Nhật Đan, là vương tử của Hưu Đồ vương ngày trước.”
Sau cuộc chiến Hà Tây thì hai bộ lạc Hưu Đồ, Hồn Tà hàng phục nhà Hán. Hưu Đồ vương lâm trận nuốt lời bị Hồn Tà vương gϊếŧ chết. Viên tướng nhà hán hàng phục hai bộ lạc này chính là Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh. Lưu Triệt giận tái mặt, giọng đầy sát khí, “Tạm giam Kim Nhật Đan lại, đợi Quan Quân hầu khỏe lên thì tiến hành xử trí.”
Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh là một thần thoại dũng mãnh thiện chiến, anh hùng nhất ba quân mà quân Hán không người nào vượt được. Lúc đó, chẳng những là Lưu Triệt hay các quan văn võ trong triều mà ngay cả chính bản thân Hoắc Khứ Bệnh cũng không coi việc ngã ngựa lần này là quá quan trọng.
Trần A Kiều ở trong cung Trường Môn từ từ nhắm mắt lại khi nghe nói Quan Quân hầu ngã ngựa. Từ năm Nguyên Sóc thứ sáu, nàng đã không còn phân biệt rõ sự khác biệt giữa lịch sử và thực tế nữa, chỉ cảm thấy mình là người thuộc về thời đại này, dựa theo số mệnh của mình mà biết được hướng đi của Đại Hán cũng tương tự phát triển nhanh về phía trước, giữa hai thứ đó lúc cố tình khi vô ý ảnh hưởng lẫn nhau, thỉnh thoảng sinh ra một chút bất đồng. Cho dù không có quan hệ tốt thì Tảo Tảo vẫn vô cùng ngưỡng mộ người thiếu niên tư thế oai hùng sáng chói, ngựa xéo Hung Nô ấy, nhưng cũng không cách nào ngăn cản, chỉ biết nhìn hắn từng bước từng bước tiến đến cái chết.
“Đám ngự y kia quả thật là lũ toi cơm”, Mạc Ưu Sầu tức giận nói, “Khám bao lâu mà vẫn không nói được tại sao Quan Quân hầu ngã ngựa, so ra thì không bằng ngay cả nửa ngón tay của Tiêu tiên sinh.”
Trần A Kiều suy nghĩ một chút rồi quay lại ra lệnh, “Thành Liệt, ngươi đi một chuyến đến điện Tuyên Thất, bẩm báo với bệ hạ rằng hãy để ngự y hội chẩn cho Quan Quân hầu. Nếu vẫn không tìm ra cách chữa trị thì lập tức đến Tử Dạ y quán mời Tiêu đại phu.”
Thành Liệt khá bất ngờ nhưng vẫn cung kính đáp, “Dạ.”
Ngự y hội chẩn nhưng vẫn không có kết quả. Quan Quân hầu cười nói oang oang, bảo, “Xin bẩm lên bệ hạ, chuyện của ta không liên quan gì đến Kim Nhật Đan cả.”
“Gã tuy là người Hung Nô nhưng vẫn không mất chí khí của một nam tử. Hoắc Khứ Bệnh dù không ra gì nhưng há có thể để cho người sát hại ư?”
Đình úy Trương Thang cũng không điều tra cái gì, hơn nữa Quan Quân hầu đã giải thích nên Lưu Triệt liền hạ lệnh thả Kim Nhật Đan. Tiêu Phương phụng mệnh đến phủ Chiêm sự chẩn bệnh cho Quan Quân hầu. Mặc dù biết hắn có thiên hình vạn trạng những mối quan hệ với Trần hoàng hậu nhưng Vệ Thiếu Nhi cũng hiểu hắn y thuật cao minh, lại sốt ruột vì ái tử nên vẫn đích thân nghênh đón vào phủ.
“Khứ Bệnh rốt cuộc thế nào?” Sau khi chẩn mạch xong, Vệ Thiếu Nhi tiễn Tiêu Phương ra ngoài, khẽ hỏi.
“Thứ cho Tiêu Phương nói thẳng”, Tiêu Phương quay đầu lại, vẻ nghiêm trọng, nói, “Sức khỏe của Quan Quân hầu cũng không mấy lạc quan.”
Vệ Thiếu Nhi liền thấy sắc mặt tối sầm, suýt nữa ngã sụp xuống.
“Nói như vậy thì sức khỏe của Quan Quân hầu không còn khả quan nữa sao?”
Trần A Kiều ngồi đối diện với Tiêu Phương trong cung Trường Môn, nghe sư phụ báo liền ngừng cánh tay đang phe phẩy quạt, nhẹ nhàng hỏi. Dù trời đã dần vào thu nhưng mấy ngày nay thành Trường An vẫn còn rất nóng. Đám cung nhân trong điện Bát Nhã đều mặc y phục mùa hè mỏng tang.
“Ừm.” Tiêu Phương thoáng chần chừ, cuối cùng nói, “Ta chẩn đoán rằng có vật thể lạ sinh ra rồi lớn lên từng ngày chèn ép não của Quan Quân hầu. Tuy ta có chút tinh thông y thuật nhưng vẫn chưa hoàn toàn hiểu hết được kết cấu tinh vi của não bộ nên không có cách nào cứu chữa.”
Trần A Kiều bất giác tỏ vẻ kinh hãi, dù ở hai ngàn năm sau cũng khó chữa trị được bệnh này huống chi là ở thời Tây Hán chỉ có thiết bị y tế lạc hậu. Nàng do dự nói, “Những năm qua con thường quan sát thấy khí sắc của Hoắc Khứ Bệnh không có chỗ nào không ổn, tại sao vừa phát bệnh đã hung hiểm như vậy chứ?”
“Chắc là do thể lực hắn quá tốt”, Tiêu Phương thở dài, giải thích, “Đại thụ cành lá rậm rạp che trời, chỉ đến khi ruỗng ruột rồi thì mới thể hiện ra bên ngoài.”
“Sư phụ!” Nàng trầm ngâm hỏi, “Người hãy nói thực cho con biết, Hoắc Khứ Bệnh ước chừng còn duy trì được bao lâu?”
“Hiện giờ thì tinh thần vẫn còn không tệ nhưng… chắc cũng chỉ được khoảng nửa tháng nữa thôi.”
Trần A Kiều im lặng hồi lâu mới chép miệng, “Đáng tiếc!”
“Quan Quân hầu thiếu niên đắc chí, dũng mãnh thiện chiến, quang minh lỗi lạc, nếu chết trẻ thì quả thực là đáng tiếc”, Tiêu Phương nói, “Nhưng dù hắn không can dự vào cuộc tranh giành gia tộc thì vẫn là người của Vệ gia.”
Nói cho cùng thì chuyện xảy ra như vậy vẫn là có lợi cho Trần A Kiều. Nếu quả thực bệnh của Hoắc Khứ Bệnh còn có một tia hy vọng mong manh thì liệu nàng có nguyện ý dang tay cứu giúp hay không? Trần A Kiều tiễn sư phụ rời đi, tự hỏi lòng như vậy, phát hiện rằng chính mình cũng không trả lời được. Đứng ngoài cuộc thì đương nhiên có thể rơi lệ tiếc thương, nhưng khi đã dấn thân vào sâu bên trong thì làm sao có thể quyết định tùy tiện?
Một ngày Hoắc Khứ Bệnh vẫn còn tồn tại, Lưu Triệt sẽ còn lòng nuối tiếc đối với Vệ gia. Đến khi Vệ gia có thể trở mình đắc thế thì bọn họ làm gì nhân hậu như nàng mà chắc chắn sẽ từng bước ép tới. Không mưu tính cho mình nhưng tại sao không nghĩ cho người nhà, bằng hữu và hai con?
“Mẫu thân!” Lưu Sơ học xong từ chỗ Trác Văn Quân trở về, nhào vào lòng nàng líu ríu, “Nghe nói Hoắc ca ca không khỏe, cho con tới nhà thăm huynh ấy được không?”
Trần A Kiều giật mình, những năm qua nàng không muốn làm trái ý con gái, hơn nữa cũng yên tâm với nhân phẩm của Hoắc Khứ Bệnh nên để mặc hai đứa qua lại. Lưu Sơ không thể ngờ tới, tính mạng Hoắc ca ca anh dũng của cô bé lại sắp tới điểm kết thúc. Nhưng đôi khi không biết cũng là một loại hạnh phúc.
Trần A Kiều mềm lòng, dù không có quy tắc gì về việc một công chúa tuổi vị thành niên tới nhà triều thần thăm bệnh, huống hồ hai người thuộc về hai nhà Trần, Vệ có quan hệ rất nhạy cảm tuyệt đối không thích hợp, nhưng chắc đây cũng là lần gặp mặt cuối cùng.
“Được rồi!” Nàng dịu dàng, “Để tối nay mẫu thân nói với phụ hoàng của con.”
Lưu Sơ gật đầu, ánh mắt lộ vẻ hân hoan, “Con biết mẫu thân là tốt nhất trên đời.”Quyển 3 - Chương 58: Vừa thể uyên ương đã tử sinhBa ngày sau, bệ hạ đích thân ngự giá tới phủ Chiêm sự thăm hỏi Quan Quân hầu. Trần Chưởng cùng Vệ Thiếu Nhi được yêu quá mà sợ, trải thảm đỏ nghênh giá, đứng đợi trước cửa phủ.
“Miễn đi!” Lưu Triệt phất ống tay áo, nói, “Trẫm chỉ đến thăm Khứ Bệnh, miễn hết những lễ nghi phiền phức khác.”
Trần Chưởng là người thông minh, bèn dẫn Lưu Triệt vào biệt viện của Hoắc Khứ Bệnh rồi cười nói, “Tinh thần Khứ Bệnh những ngày qua rất tốt, thần thấy đã không còn gì đáng ngại nữa nhưng mẫu thân của nó quá lo lắng nên không cho rời khỏi giường. Chắc Khứ Bệnh buồn bực lắm, được bệ hạ tới thăm sẽ rất vui.”
Vốn có người báo trước cho Hoắc Khứ Bệnh nên khi Lưu Triệt tiến vào thì hắn đã sửa soạn xong xuôi, chắp tay chào, “Thần Hoắc Khứ Bệnh tham kiến bệ hạ, Công chúa Duyệt Trữ.”
“Hoắc ca ca”, Lưu Sơ tiến lên tranh công: “Muội làm loạn lên đòi tới thăm huynh, phụ hoàng không đồng ý nhưng cuối cùng cũng đành phải đích thân dẫn muội tới đây. Muội có lợi hại không?”
Trần Chưởng đứng bên khẽ biến sắc. Cô Công chúa Duyệt Trữ này đúng là được Thánh thượng sủng ái quá mức bình thường. Theo ông ta biết thì biểu muội ruột của Khứ Bệnh, người con gái duy nhất chưa gả chồng của Hoàng hậu Vệ Tử Phu là Chư Ấp công chúa Lưu Thanh cũng muốn đến thăm nhưng nào dám mở miệng đề nghị.
“Khí sắc Khứ Bệnh quả nhiên không tệ”, Lưu Triệt nhìn qua một lượt mới lên tiếng.
“Đa tạ bệ hạ và Công chúa Duyệt Trữ lo lắng”, Hoắc Khứ Bệnh cười sang sảng, “Nếu bệ hạ thật sự cảm thấy như vậy thì nói với mẫu thân của thần một tiếng. Bị giam mãi trong phòng khiến thần buồn bực muốn đổ bệnh rồi.”
“Phì”, một thị tỳ có khuôn mặt tròn trĩnh hầu hạ phía sau hắn không nhịn được phì cười, vội vàng sợ hãi quỳ xuống, “Nô tỳ biết tội.”
Hoắc Khứ Bệnh khẽ nhíu mày, “Hoán Liên, còn chưa đi pha trà mời bệ hạ và Công chúa.”
“Dạ.” Hoán Liên khom người lui ra.
“Không cần đâu”, Lưu Triệt gạt đi rồi dặn dò, “Khứ Bệnh cứ nghỉ ngơi cho khỏe. Ngày khác, việc quân binh, trẫm còn trông cậy vào khanh đó.”
“Bệ hạ”, Trần Chưởng thấy tâm trạng của Lưu Triệt khá vui vẻ nên bẩm, “Việc này vốn định ngày mai mới bẩm lên, Vệ Trường công chúa đã có thai và nhớ Hoàng hậu nương nương nên xin được hồi cung ở tạm.”
“Thế à?” Dù sao đó cũng là trưởng nữ mà bản thân mình từng đặt nhiều kỳ vọng nên ánh mắt Lưu Triệt bất giác dịu xuống, “Phỉ Nhi đã lớn như vậy rồi!”
Hoán Liên đem trà tới thì Hoàng thượng đã đi ra ngoài, chỉ còn Công chúa Duyệt Trữ ngồi trước giường của Hoắc Khứ Bệnh. Cô bé nhấp một miếng, chép miệng, “Không dễ uống như trà mẫu thân pha.”
Hoán Liên vội nói, “Thiên hạ có ai không biết rằng Trần nương nương tinh thông trà đạo, Hoán Liên sao dám so sánh với Trần nương nương chứ.”
Lưu Sơ đặt chén trà xuống, sóng mắt long lanh, tươi cười hỏi Hoắc Khứ Bệnh, “Mấy ngày nữa là hôn lễ của Dương Thạch công chúa rồi. Tỷ ấy là biểu muội của huynh, huynh có tham gia không?”
“Tất nhiên”, Hoắc Khứ Bệnh không mấy để ý, “Chẳng phải Dương Thạch công chúa cũng là tỷ tỷ của muội sao? Cần gì phải nói giọng xa lạ như vậy.”
Lưu Sơ cười lạnh, “Huynh cảm thấy tỷ ấy sẽ coi muội là muội muội sao?”
Hoắc Khứ Bệnh nín lặng. Không phải là hắn không biết sự đối nghịch giữa điện Tiêu Phòng cùng cung Trường Môn suốt mấy năm nay, chính vì thế mà mọi người càng để ý tới quan hệ giữa hắn và Công chúa Duyệt Trữ. Nhưng hắn dần dần bộc lộ tài năng, chẳng coi ai vào đâu, còn Duyệt Trữ lại được Thánh thượng cực kỳ sủng ái nên không ai dám nói gì. Nếu Lưu Sơ dần trưởng thành và hiểu rõ thế cục hơn thì liệu có vượt qua tất cả mọi người trở thành một công chúa được sủng ái nhất nhưng cũng dễ gần nhất khác hắn các biểu muội trong cung Vị Ương hay không?
“Hoắc ca ca”, Lưu Sơ ngọt ngào, “Muội nhớ rằng huynh cũng đã quá tuổi lập gia thất lâu rồi. Năm xưa huynh nói rằng chưa diệt Hung Nô thì chưa lập gia đình, hôm nay Hung Nô đã coi là bị diệt chưa?”
Hắn lấy lại tinh thần, ngạo nghễ nói, “Sau trận chiến Mạc Bắc, Hung Nô tổn thất nguyên khí nặng nề bỏ chạy không còn dấu vết ở cả Mạc Nam và Mạc Bắc, dĩ nhiên có thể coi là đã bị tiêu diệt.”
“Như vậy chẳng phải Hoắc ca ca có thể thành gia thất rồi sao?”
Hắn im bặt, nghe cô bé nói tiếp, “Năm ngoái muội đã thấy Hi biểu ca thành thân với biểu tẩu, Tang thúc thúc cũng đã thành thân với dì Di Khương. Năm nay thì đến cả Lưu Vân cũng xuất giá rồi. Hoắc ca ca, hay là huynh lấy muội đi.”
Một tiếng “choang” bỗng vang lên phía sau rồi Hoán Liên hốt hoảng quỳ xuống xin lỗi, “Nô ty không cẩn thận đánh rơi chén trà.” Cô nói rồi cúi đầu xuống che giấu dòng lệ trên mặt.
Lưu Sơ từ trước đến giờ không có tính bắt nạt kẻ dưới, chỉ hơi nhíu mày nói, “Ngươi thu dọn lại rồi lui xuống đi.”
Hoán Liên cúi đầu vâng dạ và nhặt sạch những mảnh vỡ, lúc ra tới cửa còn quay đầu liếc nhìn Hoắc Khứ Bệnh một cái rồi mới rời đi. Hoắc Khứ Bệnh không để ý, chỉ nhìn chằm chặp vào Lưu Sơ, thấy cô vẫn cười nói vui vẻ, giống như chưa hề nói ra những lời chấn động vừa rồi thì không biết là trong lòng thoải mái hay buồn bực, nhướng mày nói, “Được. Chờ thêm hai năm nữa mà muội vẫn muốn như vậy thì ta sẽ xin bệ hạ được thành thân với muội.”
Đến lúc đó, chỉ sợ cho dù là Vệ hoàng hậu hay Trần nương nương cũng sẽ phải ngạc nhiên. Hắn nghĩ như vậy nhưng không hề sợ hãi, cười vang, “Đáng tiếc không có rượu, nếu không phải uống ba hũ mới đủ sảng khoái.”
Một giọng trong trẻo vang lên ngoài cửa, “Ca ca!”
Lưu Sơ quay đầu lại, thấy một thiếu niên đứng đó, trông chỉ lớn hơn cô một vài tuổi, tuấn tú hơn Hoắc Khứ Bệnh một chút nhưng kém hơn nét hào sảng.
“Quang đệ”, Hoắc Khứ Bệnh mỉm cười nói, “Sao đệ lại đến đây? Tới bái chào Công chúa Duyệt Trữ đi.”
Hoắc Quang mỉm cười, mặt thoáng đỏ, cung kính quỳ xuống bái chào, “Hoắc Quang ra mặt Công chúa Duyệt Trữ.”
“Đây là đệ đệ khác mẹ của huynh, tên là Hoắc Quang”, Hoắc Khứ Bệnh giới thiệu.
Lưu Sơ tò mò ngắm nghía Hoắc Quang rồi bình thản nói, “Đứng lên đi!”
“Hoắc ca ca, từ trước đến giờ muội chưa từng nghe huynh nhắc tới đệ đệ này.”
“Quang đệ là do huynh dẫn từ chỗ phụ thân ở Bình Dương về mấy năm trước.” Hoắc Khứ Bệnh nhìn đệ đệ vẻ hiền hòa, toát lên tình huynh đệ chân thành.
“Công chúa Duyệt Trữ!” Dương Đắc Ý gõ mấy tiếng ở ngoài cửa, “Bệ hạ chuẩn bị hồi cung rồi, Công chúa mau về đi.”
“Ừm.” Lưu Sơ gật đầu, đứng dậy định đi nhưng suy nghĩ một chút rồi quay lại nói, “Để mấy ngày nữa Trần phu nhân cho phép Hoắc ca ca xuống giường thì Hoắc ca ca dẫn đệ đệ đến cung Trường Môn tìm muội nhé.”
“Cứ vậy đi”, Hoắc Khứ Bệnh cũng gật đầu.
Một ngày trôi qua vui vẻ như vậy nên bảy ngày sau có tin dữ về Quan Quân hầu báo vào trong cung thì Lưu Sơ không thể nào tin nổi.
“Rõ ràng mấy ngày trước Hoắc ca ca vẫn còn khỏe mà, làm sao… đã…?”
Ngày mười tám tháng Chín năm Nguyên Thú thứ sáu, hai tướng tài trong Phiêu kỵ quân là Triệu Phá Lỗ cùng Tiết Thực tới thăm Quan Quân hầu. Hoắc Khứ Bệnh vô cùng vui vẻ, không để ý đến nghiêm lệnh của mẫu thân, báo người hầu đưa lên mấy hũ rượu ngon cùng bằng hữu uống đến say sưa. Lúc đó, Triệu Phá Lỗ còn cười trêu chọc, “Một đại danh tướng lại phải nằm trên giường gần nửa tháng, thật sự là chuyện lạ.”
Hoắc Khứ Bệnh uống rượu ngà ngà còn sai người mang sa bàn tới để cùng nhau diễn luyện, chỉ vào biên giới núi sông rồi đột ngột qua đời, giọng nói còn vang mà vị tướng quân đã ra đi.
Thiếu chưởng sứ phu nhân khóc đến chết đi sống lại. Hoắc Khứ Bệnh là con trai độc nhất của Vệ Thiếu Nhi, là đứa con khiến bà kiêu hãnh nhất, một đời oai danh nào ngờ lại chết trẻ ở tuổi vừa trong hai bốn.
Bệ hạ vô cùng đau đớn, hạ lệnh cử hành tang lễ trọng thể nhất dành cho Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh, chôn ở Mậu Lăng, sau này sẽ được chôn cùng Vũ hoàng đế, là vinh quang lớn lao của một thần tử. Mộ được xây theo hình dáng Kỳ Liên sơn là nơi hắn lập nên chiến công hiển hách nhất của đời trận mạc.
Một vạn Phiêu kỵ quân đều khóc lóc để tang, thương xót vị danh tướng khiến người đời kính nể, cả đời chưa một lần thất bại. Nhưng vinh quang sau khi qua đời có long trọng đến bao nhiêu cũng không thể lấy lại sinh mạng của người tướng quân tuổi trẻ tài cao.
Với sự ra đi của người nổi bật nhất, được sủng ái nhất trong thế hệ thứ hai của Vệ gia, mơ hồ có thể thấy Vệ gia quyền lực nghiêng thiên hạ dần đi về phía suy sụp.
Vào năm Nguyên Thú thứ sáu, sau khi Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh qua đời, con của thị thϊếp Hoán Liên là Hoắc Thiện được lập tước khi vẫn còn nằm trong tã lót. Bệ hạ chỉ phong đệ đệ cùng cha khác mẹ của Hoắc Khứ Bệnh là Hoắc Quang làm Phụng Xa đô úy, Quang Lộc đại phu.
Duyệt Trữ công chúa Lưu Sơ nghe tin Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh qua đời liền giam mình trong cung Trường Môn không ra ngoài nửa bước.
“Tảo Tảo!” Lưu Mạch vén rèm bước vào, thấy muội muội giấu mình ở chỗ sâu nhất trong đệm, mắt sưng mọng lên thì lấy làm thương xót, nhỏ nhẹ, “Nếu muội còn khóc nữa thì Quan Quân hầu ở trên trời sẽ rất đau khổ đấy.”
“Ừm.” Lưu Sơ khẽ lên tiếng đáp rồi hỏi, “Ca ca, muội rất ngốc phải không?”
“Cái gì?” Lưu Mạch ngạc nhiên, “Sao Tảo Tảo luôn tự nhận là thông minh đột nhiên lại cảm thấy mình ngốc vậy?”
“Muội biết Hoắc ca ca là cháu trai bên ngoại của Vệ hoàng hậu”, Lưu Sơ không chút e ngại, “cũng biết Vệ hoàng hậu và mẫu thân như nước với lửa mà vẫn bất chấp tất cả, cố tình qua lại với Hoắc ca ca.”
“Thì ra vậy”, Lưu Mạch trầm mặc một lát rồi nói, “Muội biết rõ những chuyện này mà. Nhưng mẫu thân không ngại, nói rằng không liên quan gì hết.”
“Ca ca nói xem, tại sao rõ ràng mới vài ngày trước còn hoàn toàn khỏe mạnh mà chỉ chớp mắt thì đã mất rồi? Sinh mạng thật vô thường.”
“Đúng vậy, cho nên chúng ta càng nên quý trọng những gì đang có, chớ để bản thân ngày sau phải hối hận.”
“Thật ra thì”, Lưu Mạch cúi đầu, “Hoắc tướng quân ra đi lúc này cũng không phải là không tốt. Mọi người đều coi hắn là bậc anh hùng ngựa xéo Hung Nô, đều khắc ghi trong ký ức rằng Quan Quân hầu là người thiếu niên đắc chí, bách chiến bách thắng. Sau này cho dù Vệ gia có thế nào thì hắn cũng không liên quan.”
“Có lẽ ca ca nói đúng”, Lưu Sơ chậm rãi quay lại, nói tiếp, “Thế nhưng muội thà rằng huynh ấy bị thua, bất đắc chí, hoặc là vì Vệ gia mà hoàn toàn đối lập với chúng ta, chỉ cần huynh ấy còn sống. Sống luôn quan trọng hơn tất cả.” Cô bé nói chuyện bằng chất giọng cực kỳ trầm tĩnh, ánh mắt xa vắng khiến Lưu Mạch lạnh toát, vội khỏa lấp, “Trời đẹp lắm, muội theo ca ca ra ngoài nhé.”
Lưu Sơ gật đầu, đứng dậy đi ra khỏi điện, vừa ra ngoài liền bị ánh nắng chói gắt chiếu vào đến nỗi phải cúi xuống. Cung Vị Ương vẫn huy hoàng tráng lệ, không chút ảnh hưởng vì trên đời này thiếu đi một người. Lưu Sơ hít một hơi thật sâu, đứng giữa vùng cỏ hoa tươi thắm càng cảm giác đơn độc. Bỗng nhiên cô bé nghe thấy ở đám hoa cúc sau điện Thanh Lương bên cạnh truyền đến tiếng khóc rấm rứt lẫn giọng khuyên nhủ của một cung nữ, “Vệ Trường công chúa, nếu người cứ khóc mãi thì sẽ tổn thương đến em bé trong bụng đấy.”
Lưu Sơ đau nhói, cảm thấy hơi choáng váng. Cho dù mọi người trước nay không hòa thuận đến thế nào nhưng ít nhất vào giờ khắc này đều đau khổ vì cùng một người. Lưu Phỉ ở phía sau khóm hoa cúc khe khẽ ừ một tiếng, nắm lấy tay thị nữ rồi đi ra ngoài. Cô trông thấy Lưu Mạch, Lưu Sơ thì giật mình. Lưu Sơ không muốn quấy rầy, khẽ gật đầu chào rồi kéo tay ca ca, nói, “Chúng ta đi sang phía bên kia.”
Từ điện Thanh Lương về phía điện Tuyên Đức ở ngoài xa, theo thứ tự sẽ đi qua các điện Ngọc Đường, Chiêu Dương và nơi Hoàng đế thường ở hàng ngày là điện Tuyên Thất. Lưu Sơ đi không chủ định, lọt vào mắt Chư Ấp công chúa Lưu Thanh đang vâng lệnh mẫu thân đi tìm trưởng tỷ lại thành ra kɧıêυ ҡɧí©ɧ.
“Đứng lại!” Lưu Thanh sải bước tới, cười hàm ý mỉa mai, “Sơ muội muốn đến chỗ phụ hoàng à?”
Lưu Mạch khẽ cau mày, đứng chắn trước mặt muội muội rồi nói đúng lễ nghi, “Không phiền Công chúa Chư Ấp phải hao tâm tổn sức.”
Trong cung Vị Ương, mặc dù Công chúa Duyệt Trữ là người được sủng ái nhất trong các hoàng tử công chúa nhưng người mà cung nhân kính sợ nhất lại là Hoàng tử trưởng Lưu Mạch. Hoàng tử là người có phong độ ngày càng trầm ổn cộng thêm mẫu thân, muội muội được Hoàng thượng sủng ái khiến mọi người cho rằng tương lai cực kỳ hứa hẹn. Lưu Mạch nhìn chằm chằm nhưng Lưu Thanh vẫn không lùi nửa bước, quật cường ngẩng đầu ngạo mạn, “Nghe nói Duyệt Trữ muội muội đã từng cầu hôn biểu ca của ta trước khi biểu ca qua đời. Biểu ca của ta đã sớm có gia quyến như hoa, bạn đẹp như ngọc. Thân là công chúa mà không biết tự trọng như thế thì cũng khó.”
Lưu Mạch không hề biết chuyện này, nghe vậy lập tức quay lại thấy muội muội mặt tái nhợt nhưng vẫn gắng cười tươi tắn phản kích, “Ít nhất Hoắc ca ca đã trả lời sẽ lấy ta chứ không thèm thành thân với một biểu muội như ngươi.”
“Ngươi…” Lưu Thanh tức run cả người, đi lướt qua bọn họ về hướng Lưu Phỉ hậm hực, “Đại tỷ, chúng ta không cần quan tâm tới bọn họ, trở về điện Tiêu Phòng thôi”, rồi chợt im bặt, thấy mắt tỷ tỷ nhạt nhòa.
Thì ra Hoắc Khứ Bệnh không phải là không chịu kết hôn mà là vẫn chưa có ai có thể làm cho hắn gật đầu.
Không lâu sau, Trần A Kiều nghe được chuyện mấy vị hoàng tử công chúa trong cung Vị Ương xung đột, ngạc nhiên một lúc thật lâu rồi thở dài. Nàng vẫn cho là Lưu Sơ còn quá nhỏ nên không ngờ cô bé đã bước vào tuổi dậy thì, lần đầu tiên ấp ủ mối tình đầu. Nàng mỉm cười nhìn Lưu Mạch đang bồn chồn lo lắng, “Không phải lo cho Tảo Tảo đâu, mẫu thân sẽ an ủi nó.”
Lưu Mạch đương nhiên rất tin tưởng mẫu thân, sắc mặt nhẹ nhõm gật đầu, bỗng nhiên thấp giọng nói, “Thật ra thì Quan Quân hầu qua đời khiến con cũng khó chấp nhận.”
Một thiếu niên tướng quân cao ngạo hào hùng, khí thế nuốt cả sơn hà như vậy khiến một người ôn hòa chững chạc như Lưu Mạch cũng sinh lòng ngưỡng mộ. Trần A Kiều vỗ nhẹ vào trán Lưu Mạch và bảo, “Mẫu thân biết, vì ngay cả mẫu thân cũng rất đau xót.”
Nàng đặt cây đàn tỳ bà xuống, đi vào điện, trông thấy Lưu Sơ ngồi ngơ ngác bần thần ở trên giường, không nhìn thấy cả nàng bước vào. “Tảo Tảo!” Nàng gọi, nhìn con gái giật mình ngơ ngác nhìn lên.
“Mẫu thân!” Cô bé lặng lẽ chào.
“Không ngờ Tảo Tảo cũng đã mười hai tuổi, chẳng mấy chốc cũng sắp xuất giá rồi.”
Lưu Sơ vùi mặt xuống gối, một lúc sau mới nói khẽ, “Trừ phi có người tốt hơn Hoắc ca ca, nếu không con sẽ không lấy chồng.”
Trần A Kiều bật cười, nhẹ nhàng vuốt mái tóc đen nhánh của con gái, “Nói cho mẫu thân biết, con… thật sự rất thích Hoắc ca ca sao?”
“Con không biết”, Lưu Sơ lắc đầu, “Ngày đó con nói muốn huynh ấy lấy con chỉ là tình cảm bộc phát. Nhưng nghĩ tới chuyện sau này phải lập gia đình, thay vì gả cho một người không thích giống như Lưu Phỉ, Lưu Vân thì chẳng thà gả cho Hoắc ca ca.”
“Nhưng huynh ấy đã chết rồi.” Nước mắt ngập tràn trên khóe mắt Lưu Sơ, “Sau khi huynh ấy chết, con nhớ lại gương mặt huynh ấy lúc nói cười, bỗng nhiên cảm thấy những lời nói khi đó rất chân thành.”
“Mẫu thân, mọi người chưa từng nói cho con biết là Hoắc ca ca đã có thê thϊếp rồi”, cô bé quay mặt đi.
“Bởi vì chúng ta cũng không cho đây là chuyện quan trọng”, Trần A Kiều nói. Đây chẳng qua là chuyện rất bình thường, Hoắc Khứ Bệnh say rượu, Vệ Thiếu Nhi sai tỳ nữ tới hầu hạ, sau đó thì Hoắc Thiện ra đời. Cũng không phải nói là Hoắc Khứ Bệnh từng có chút tình ý nào đối với Hoán Liên, thời đại này, đàn ông ai mà chẳng như thế.
“Tảo Tảo, con chán ghét Hoắc ca ca sao?”
“Nếu Hoắc ca ca còn sống thì tất nhiên là con sẽ ghét, không chừng còn làm loạn lên với huynh ấy”, Lưu Sơ nói, “Thế nhưng Hoắc ca ca đã mất, nói ra cũng không còn ý nghĩa.” Cô bé nhớ lại ngày đó khi mình nói đến chuyện kết hôn thì liền nghe thấy phía sau có tiếng chén vỡ giòn tan. Hoán Liên chắc hẳn cũng rất yêu Hoắc ca ca, ít nhất Hoắc ca ca còn có một giọt máu ở trên đời này, cũng là chuyện may mắn. Một lúc lâu sau, cô bé bỗng nghe thấy giọng mẫu thân đổi khác, “Cái chết cũng là một thứ gì đó thật đẹp.”
“Con không hiểu”, Lưu Sơ kinh ngạc, “Tại sao cái chết lại đẹp được chứ?”
“Bởi vì cái chết xóa nhòa những nhược điểm của một người, những điều con nhớ về người ấy đều là những kỷ niệm đẹp. Một người sống thì mỗi bước đi đều có thể sai lầm, nhưng khi đã chết thì trở thành vĩnh hằng ở trong lòng người khác.”
“Không một ai có thể cưỡng lại với vĩnh hằng”, nàng như đang nói với bản thân.
“Như vậy”, Lưu Sơ suy nghĩ một chút rồi hỏi, “Ý của mẫu thân là con vốn không thích Hoắc ca ca đến vậy, nhưng vì huynh ấy đã chết cho nên con mới cảm thấy con rất thích huynh ấy phải không?”
“Mẫu thân cũng không rõ lắm.” Trần A Kiều mỉm cười, “Có lẽ ngày sau con sẽ gặp một thiếu niên khác rồi yêu thương hắn, khi đó sẽ coi Hoắc ca ca như một giấc mộng thời niên thiếu mà thôi.” Là một người mẹ, nàng cũng hy vọng như vậy.
“Mẫu thân!” Lưu Sơ mơ màng, “Yêu là cái gì vậy?”
“Yêu… là mỗi người phải tự mình trải nghiệm lấy.”
“Như vậy thì mẫu thân yêu phụ hoàng không?”
A Kiều im lặng một lúc lâu rồi trả lời, “Mẫu thân cũng không biết. Bình tâm mà xét thì những năm qua phụ hoàng của con đối xử với mẫu thân cũng có thể coi là tốt. Thế nhưng cứ mỗi lần nghĩ đến yêu thì mẫu thân lại nhớ chuyện nghe chỉ phế truất năm xưa ở điện Tiêu Phòng, đau đớn đến xé lòng nát dạ mà chùn bước.”
Nàng đứng giữa đại điện hoa lệ trống trải, cảm giác thật quạnh quẽ, dường như gió thổi trên xà nhà cũng đang cười nhạo, nhát dao chí mạng lại đến từ người mình yêu dấu nhất.
“Có tốt nhiều hơn nữa cũng không thể nào bù đắp được vết thương năm xưa sao? Nàng cười lặng lẽ, không phải bản thân cố ý muốn nhớ lại những đau đớn của quá khứ mà bản năng sinh tồn đối với nguy hiểm đã báo trước cho nàng lùi bước. Nam nhân một khắc trước còn ôn nhu đa tình với mình, một khắc sau đã lạnh lùng tàn khốc đến mức như tất cả tình cảm đều chỉ là một trang giấy lộn không đáng nhắc. Nàng cũng không có ý định nói cho con gái nghe nỗi bất an sâu thẳm đó nên dịu dàng, “Mẫu thân hát một bài cho con nghe nhé.”
Lưu Sơ ngoan ngoãn gật đầu. Bàn tay A Kiều lướt trên cây đàn tỳ bà. Vì trong lòng đau thương nên giai điệu có chút nhu hòa nhưng vẫn không che hết được hào khí bên trong của khúc hát.
“Khói bốc lên cao nơi phương bắc xa xăm, cả thiên hạ khắp nơi đều loạn lạc, chiến trận bùng lên như trời nổi cuồng phong, vó ngựa tung bụi mịt mù, kiếm đao tuốt vỏ sáng lòa, tấm lòng như sông Hoàng Hà cuồn cuộn chảy, hai mươi năm trời dọc ngang tung hoành, chẳng biết kẻ thù đang đối đầu thực sự là ai đây?
Hận thù càng sâu thì chinh chiến càng dài, biết bao người đã phải vùi thân nơi đất lạ quê người, nuốt hận vào lòng chẳng than tiếc nửa lời, máu đào thay nước mắt tỏ ý quyết chí hy sinh chẳng ngại thân mình, chẳng tiếc gì máu xương để gìn giữ lấy quốc gia.
Ngựa hí vang vó tận trời nam nhưng lòng vẫn quay nhìn về cố hương, càng nhìn cố hương càng thấy xa vời, cảnh thanh bình xưa nay chiến tranh tang tóc ngút trời, bụi mịt mờ tung bay, lòng dặn lòng nguyện cố thủ để giữ gìn bờ cõi biên cương này, giữ gìn từng tấc đất quê hương, để lân bang phải nể oai khϊếp sợ.”[1]
[1] Bài hát Tận trung báo quốc trong phim Nhạc Phi do Đỗ Hồng Cương trình bày, đặt lời Việt là Buồn như đá thời gian (Đan Trường).
Nàng gật đầu, “Ngoài Quan Quân hầu thì còn ai xứng đáng với những ca từ này chứ?”
Lơ đãng, nàng nhìn thấy ánh trăng sáng rõ chiếu rọi một chiếc bóng đổ dài trên mặt đất. Nàng ngoảnh đầu lại, quả nhiên nhìn thấy người kia. A Kiều thầm suy tính trong lòng, không biết rốt cuộc y đã nghe được bao nhiêu. Hoắc Khứ Bệnh mất đi khiến Lưu Triệt cũng vô cùng thương tiếc, dưới khóe mắt còn in hằn một vệt thâm đen. Y chậm rãi bước vào, ngắm nhìn Lưu Sơ đã ngủ say, rồi giúp cô bé đắp chăn bằng gấm.
“Bệ hạ tới làm gì thế?” A Kiều nhẹ giọng hỏi.Quyển 3 - Chương 59: Đau đến chỗ sâu chẳng tỉnh biếtY chỉ mỉm cười đáp, “Trở về rồi hãy nói.”
Trở lại điện Bát Nhã mới thấy đã muộn, thị nữ thắp nến lên chiếu sáng cả cung điện.
“Đây là cái gì?” Lưu Triệt cầm lấy một cuốn sách trên bàn giở ra xem.
Trần A Kiều mỉm cười đáp, “Vài ngày trước rảnh rỗi buồn chán quá, thϊếp có bảo người của Tư Mã Tương Như đưa tới một ít thơ ca Nhạc phủ.” Sau đó Quan Quân hầu gặp chuyện không may nên không có cơ hội xem.
Lưu Triệt tiện tay lật đến một trang, bên trên viết lại một khúc hát có tên Cam Tuyền dao bằng kiểu chữ Triện rất nắn nót:
“Lấy đá chặn Cam Tuyền,
Nước suối nào dám chảy.
Ngàn người hát,
Vạn người sầu,
Kim Lăng còn đá lớn hơn đầu.”
Xuống chút nữa còn có một bài ca của người Hung Nô:
“Ta mất núi Yên Chi,
Khiến phụ nữ không còn nhan sắc.
Ta mất núi Kỳ Liên,
Khiến lục súc không còn đông đúc.”
Y không khỏi mỉm cười, lật đến mấy trang cuối cùng thì bỗng nhiên sầm mặt.
“Hoàng thượng có chuyện gì vậy?”, A Kiều hỏi.
“Không có gì?” Y thản nhiên buông cuốn Nhạc phủ trong tay xuống rồi bảo, “Khi nãy nghe Kiều Kiều hát khúc ca kia, hình như từ trước tới giờ nàng chưa từng hát?”
“Đúng vậy!” Nàng tự giễu cười một tiếng, “Chính bản thân thϊếp cũng không nhớ được, vì Quan Quân hầu qua đời, cảm xúc bột phát nên mới hát thôi.”
Y ôm lấy nàng, ánh mắt lấp lánh, “Kiều Kiều rốt cuộc còn bao nhiêu điều mà trẫm không biết chứ?”
Nụ cười của nàng vẫn như gần như xa, “A Kiều vẫn luôn như vậy, người không chịu nhìn lại nên mới cảm thấy nhiều.”
Một người, dù nhìn cả một đời cũng không cách nào hiểu thấu một người khác.
Trời còn chưa sáng hẳn, cung nhân đã mặc y phục cho Lưu Triệt rời khỏi cung Trường Môn. Trần A Kiều cầm lấy cuốn thơ ca của Nhạc phủ do Lý Diên Niên sao chép, lần giở đến mấy trang cuối cùng, lòng ưu tư, không biết điều gì đã khiến Lưu Triệt bỗng nhiên giận đến tái mặt đi như vậy.
“Sinh nam không mừng, sinh nữ chớ giận, một thân một mình, Vệ Tử Phu hơn cả thiên hạ.” Đến khi nàng trông thấy ba tờ cuối chép bài Vệ Tử Phu ca mới chợt hiểu. Sau khi nàng trở về Trường Môn từ năm Nguyên Sóc thứ sáu, Vệ Tử Phu đã không còn đắc thế như lúc đầu, chẳng lẽ trong dân gian còn truyền xướng ca dao? Nàng thở dài, chẳng biết Lưu Triệt đọc thấy bài ca dao tại nơi ở của mình thì trong lòng liệu có sinh nghi ngờ? Nhưng có thì đã sao, không có thì thế nào, trong tâm mình đã lạnh nhạt thì cũng chẳng quan tâm.
Mùa đông năm Nguyên Sóc thứ sáu, con vợ kế của Đường Ấp hầu là Trần Hi vào triều, được phong làm gián đại phu. Cùng năm đó, Lý Nghiên sinh hạ một bé gái, đặt tên là Mạn, trông đáng yêu vô cùng.
Chẳng mấy chốc đã đến tháng Giêng năm mới, mưa to mấy ngày liên tiếp khiến nước sông Phần chảy xiết, kéo lên một chiếc đỉnh cổ bằng đồng xanh chôn sâu dưới lòng sông, trôi nổi giữa dòng cuối cùng chìm ở gần bờ trái chỗ thượng du. Thứ sử vùng đó vớt được đem dâng lên Hoàng đế. Trong nhân gian vẫn có câu “Vấn đỉnh thiên hạ”, ý nghĩa của chữ đỉnh trong sách nho cùng nghĩa với thiên hạ, với lại chiếc đỉnh cổ sau khi trôi nổi đã sứt mẻ không còn nguyên vẹn, tạo hình cổ xưa, bên trên khắc một bài minh, có thể nhận ra là chế tạo từ thời Vũ Vương nhà Chu. Hai cha con Văn Vương và Vũ Vương thời nhà Chu đều là bậc thánh quân, nức tiếng thiên hạ. Cả triều đình đều chúc mừng, nói bệ hạ văn công võ trị đều đủ nên trời cao mới ban thưởng đỉnh này. Lưu Triệt cũng cao hứng, đổi sang niên hiệu là Đỉnh, bắt đầu năm Nguyên Đỉnh.
Trong năm Nguyên Đỉnh đầu tiên, con gái thứ ba của Vệ hoàng hậu, Chư Ấp công chúa Lưu Thanh cũng đã tới tuổi xuất giá.
Tháng Hai cùng năm, Trường Tín hầu Liễu Duệ dẫn sáu ngàn thủy quân, một vạn bộ binh, xuất chinh đánh tộc Côn Minh.
Tháng Ba cùng năm, Lưu Triệt mang theo Trần nương nương cùng triều thần bắt đầu chuyến đi săn mùa xuân ở Thượng Lâm Uyển.
Trải qua nhiều năm xây dựng, phong cảnh Thượng Lâm Uyển vô cùng huy hoàng tráng lệ, còn hơn cả cung Vị Ương. Lưu Triệt mang theo A Kiều lên chiếc du thuyền rộng lớn xa hoa trên hồ Côn Minh. Du thuyền chầm chậm tiến về phía giữa hồ, người ngồi trên thuyền ngắm sóng nước mênh mông, hơi nước phả thấm vào mặt. Hai bên bờ, đình đài lầu các, mái hiên san sát. Lưu Triệt thấy tinh thần sảng khoái, mỉm cười nói với Tư Mã Tương Như đứng hầu phía sau, “Nghe nói khanh là đại gia về từ và phú nổi tiếng đương thời, ngôn từ hoa lệ không ai sánh bằng, sao không sáng tác một bài phú tả phong cảnh Thượng Lâm Uyền này để cùng nhau thưởng thức.
Tư Mã Tương Như khom người lĩnh mệnh, liền có cung nhân đưa giấy bút tới. Trần A Kiều từ trong thuyền bước ra, mỉm cười nhìn Tư Mã Tương Như ngồi ở một bên, bút trong tay vung lên như múa, trong chốc lát đã cung kính dâng lên, nói, “Bệ hạ, thần viết xong rồi.”
“Nhanh như vậy sao?”, Lưu Sơ kinh ngạc.
Trần A Kiều buồn cười, “Cho nên con còn phải học.”
Dương Đắc Ý tiếp lấy, mở ra đọc: “Dời núi lấp sông xây cung dựng quán, kiến tạo đài các có rường hoa khuyết ngọc trên hành lang cao bốn phía chung quanh, đường xá lộng lẫy, lối đi quanh co mỏi chân phải nghỉ. Sau núi làm nhà tầng tầng lớp lớp, có phòng ở tận dưới vách núi sâu cúi xuống mà nhìn cũng chẳng thấy đâu cho tới tận chốn cổng trời để sao vào chào tận cửa phòng hay cầu vồng bắc ngang nơi hiên trước. Thanh long uốn lượn ở trường đông, Bạch hổ nằm chầu ở cửa tây, thần linh vui đùa nơi quán nghỉ, ác tuyền nem nép náu mình ở phương nam. Suối nước ngọt dẫn về cho mát nhà, thông suốt đến tận đỉnh trung tâm. Núi đá bao quanh, vách đổ nghiêng nghiêng…”
Đây chính là bài Thượng Lâm phú vang danh thiên cổ. Tư Mã Tương Như luôn hướng tới việc dùng từ ngữ hoa mỹ, cách hành văn toát lên phong thái trau chuốt của một bậc đại văn nhân nhưng Trần A Kiều nghe xong lại thấy vô vị, cảm giác có dệt nên đầy trời hoa gấm thì cũng chỉ là mấy chữ ca ngợi công lao mà thôi.
“Hay!” Lưu Triệt lại vui vẻ, khen, “Không hổ là Tư Mã Tương Như”, sau đó hạ lệnh, “Truyền xuống, thưởng cho Tư Mã Tương Như trăm nén vàng.”
Tư Mã Tương Như tạ ơn lui ra.
“Kiều Kiều!” Lưu Triệt khoác eo A Kiều, lại cười nói, “Ngày mai cùng trẫm đi săn thú nhé.”
Sở thích truy đuổi thú săn thực sự khiến A Kiều động lòng, vừa định nhận lời thì Lưu Sơ đã nhào tới nũng nịu, “Con cũng muốn đi.”
“Con biết cưỡi ngựa sao?” A Kiều cúi xuống cốc đầu con gái.
“Hừ”, Lưu Sơ nhất thời không trả lời được, nghĩ một lúc lại nói, “Không sao, con sẽ bảo ca ca dạy con.”
“Cho dù con học bây giờ”, A Kiều bật cười, “thì cũng không kịp cho buổi săn thú ngày mai.”
“Nếu giờ con không học”, Lưu Sơ láu lỉnh, “sợ rằng cũng không kịp cho cả sang năm nữa.”
Lưu Triệt cười xòa, ra lệnh cho du thuyền lại gần bờ. Khí trời đẹp, Thượng Lâm Uyển có diện tích rất rộng lớn, chỗ thuần ngựa của kỵ xạ trường càng mênh mông không thấy điểm cuối. Vì Công chúa Duyệt Trữ xưa nay được thiên tử cưng chiều nhất đòi học cưỡi ngựa nên giám mã dẫn đến một con ngựa cái nhỏ rất thuần. Cung nhân giơ cao chiếc lọng màu vàng tươi che nắng.
“Kiều Kiều”, Lưu Triệt vui vẻ, “Nàng thích gì? Ngày mai trẫm sẽ săn cho nàng nhé?”
“Vậy sao?” A Kiều lơ đãng đáp, mỉm cười nhìn Lưu Mạch cách đó không xa đang cẩn thận dạy Lưu Sơ lên ngựa, nói, “Ở đây liệu có cáo tuyết lông trắng không?”
“Cáo tuyết” Lưu Triệt lẩm bẩm, khẽ nhăn mặt, “Trẫm săn thú nhiều lần ở Thượng Lâm Uyển nhưng cũng chưa từng gặp. Kiều Kiều thích cáo sao?”
“Nó xinh đẹp mà”, nàng nói, “Nếu không có thì một con thỏ nhỏ cũng được.”
Lưu Sơ bản tính hiền lành nhưng không hề nhút nhát, được Lưu Mạch đỡ, vất vả một hồi cũng trèo được lên ngựa, giẫm chắc trên bàn đạp.
“Tốt!” Lưu Mạch khen một tiếng, dặn dò, “Thúc nhẹ cho ngựa chạy chậm một vòng thôi.”
Con ngựa cái quả nhiên rất ngoan ngoãn, chạy quanh bãi một vòng, đuôi ngựa rũ xuống phe phẩy, cực kỳ vững vàng.
“Phụ hoàng, mẫu thân”, Lưu Sơ trên lưng ngựa vênh mặt nhìn sang, “Hai người xem con cưỡi ngựa nhé.”
A Kiều bật cười, không hiểu sao trong lòng lại dâng lên cảm giác bất an.
“Bệ hạ!” Ngự mã giám dẫn ra một con tuấn mã có bộ lông màu đỏ, bẩm: “Đây là ngựa tốt do vùng Ô Tôn dâng lên. Ngự mã giám đã thuần phục mấy tháng, mặc dù đã chịu phục nhưng vẫn còn sót lại chút dã tính.”
Con ngựa màu đỏ khẽ vùng vằng bước đi, quả nhiên là ngựa tốt vô cùng.
“Ồ!” Lưu Triệt cũng hứng thú, nói với A Kiều, “Bình sinh trẫm thích nhất ba chuyện, Kiều Kiều có biết là gì không?”
Nàng cúi đầu, “A Kiều không biết.”
“Trẫm bình sinh thích nhất là ngựa quý, sách vở”, y nhìn nàng, bỗng nhiên khẽ trầm giọng xuống, “và A Kiều.”
Nàng giật mình, trong ấn tượng chẳng phải là ngựa quý, sách vở và mỹ nhân sao?
“Ca ca!” Giọng Lưu Sơ lanh lảnh, “Con ngựa bọn họ dẫn lên cho phụ hoàng có khí thế hơn con của muội nhiều.”
Lưu Mạch bật cười, “Muội chỉ mới tập cưỡi làm sao so được với phụ hoàng chứ?”
Cô bé hừ một tiếng, “Ca ca xem thường muội quá!” Nói xong đột nhiên đưa tay vỗ vào yên ngựa, “Ngựa ơi, chạy nào!”
Con ngựa cái hí lên một tiếng thảm thiết, chồm hẳn nửa thân trước lên rồi phi như điên về phía trước.
“Tảo Tảo!” Lưu Mạch phản ứng cực nhanh, nhào tới định túm lấy dây cương nhưng vẫn chậm một bước, ngã chúi xuống đất, trơ mắt nhìn vẻ mặt kinh hoàng không biết làm sao của Lưu Sơ trên lưng ngựa.
“Mẫu thân!” Lưu Sơ kinh hoàng kêu, thân hình lắc lư trên lưng ngựa.
Biến cố xảy ra trong khoảnh khắc, mặt mọi người đều biến sắc. Lưu Triệt giận dữ gầm lên, “Còn không đi cứu Công chúa Duyệt Trữ.” Lại nghe cung nhân phía sau kinh hô, “Nương nương.” Trần A Kiều đã vươn tay rút thanh kiếm của thị vệ bên cạnh, tung mình nhảy lên ngựa đuổi theo.
“Kiều Kiều”, sắc mặt Lưu Triệt thảng thốt.
Trong trí nhớ của y, khả năng cưỡi ngựa của A Kiều cũng chỉ bình thường, ngồi trên ngựa còn chưa vững, lại còn dám liều mạng thúc ngựa chạy nhanh.
Con ngựa vùng Ô Tôn hí dài một tiếng rồi vọt đi như bay.
“Tảo Tảo!” Trần A Kiều cúi rạp trên lưng ngựa để nó có thể chạy nhanh hơn, hô lớn, “Ôm chặt lấy cổ ngựa.”
Ở đằng xa, Lưu Sơ vẫn trong cơn kinh hãi nhưng vừa nghe được tiếng mẫu thân thì vẫn cố gắng ngồi cho vững. Cước lực của con ngựa vùng Ô Tôn nhanh hơn con ngựa nhỏ Lưu Sơ đang cưỡi rất nhiều, dần dần đã sắp đuổi kịp. A Kiều nghiến răng, trong khoảnh khắc lướt qua Lưu Sơ liền dùng toàn lực vung kiếm chém một nhát vào đầu ngựa. Máu ngựa tuôn trào nhuộm đỏ người Lưu Sơ, đầu ngựa rơi xuống nhưng thân vẫn còn phi thêm mấy bước về phía trước rồi mới kiệt lực quỵ xuống. Lưu Sơ ngã từ trên lưng ngựa xuống đất, dù toàn thân nhuộm máu, tâm thần hoảng hốt nhưng coi như đã an toàn.
Máu tươi bắn vào con ngựa vùng Ô Tôn khiến nó kích phát dã tính, náo động bất an, nhảy lên chồm chồm muốn hất người trên lưng xuống. Trần A Kiều ôm chặt lấy cổ ngựa, dựa theo phương pháp thuần phục giáo quan năm xưa đã dạy, cố gắng khống chế ngựa, không hề nghe thấy tiếng gào thét của mọi người. Cũng không biết bao lâu, con ngựa cuối cùng cũng bình tĩnh lại. Nàng nghe thấy tiếng gọi vừa đau đớn vừa thận trọng của Lưu Triệt. Một nỗi đau đớn như những sợi tơ chầm chậm loang ra, thân dưới nóng rực, nàng cúi đầu nhìn xuống thấy một vùng bờm ngựa đỏ tươi khác hẳn màu lông hồng sậm của con ngựa.
Máu! Máu đã nhuộm đỏ nửa bên dưới váy nàng. Máu vẫn trào ra không sứt, và tựa như có một thứ gì đó cũng đang xuôi ra theo. Nàng mê man, mơ hồ còn thấy Lưu Triệt bế nàng từ trên lưng ngựa xuống và hét đến lạc giọng, “Gọi hết ngự y tới đây.”
“Tảo Tảo!” Lưu Mạch kéo tay Lưu Sơ, la hoảng, “Muội có sao không?”
“Muội không sao.” Lưu Sơ tuy sợ đến tái nhợt nhưng vẫn lắc đầu, chợt kéo tay áo ca ca, “Mẫu thân, mẫu thân chảy rất nhiều máu, mẫu thân có sao không?”
Lưu Mạch cắn môi, “Cùng đi qua đó xem sao.”
Trong điện Tín Hợp, lụa mỏng tung bay.
“Trần nương nương rốt cuộc là bị làm sao?”
“Khởi bẩm bệ hạ”, viên ngự y có mái tóc bạc trắng quỳ lạy dưới điện, thân hình run rẩy, “Nương nương là…”, lão nói đến đây thì chần chừ.
“Rốt cuộc là cái gì?” Lưu Triệt nổi cơn thịnh nộ, cầm một cây ngọc như ý trên bàn nện vào thái dương ngự y khiến nó gãy lìa, lưu lại trên trán ngự y một dấu máu.
Ngự y cắn răng, bẩm, “Nếu như vi thần không chẩn đoán sai thì nương nương đã sẩy thai.”
“Sẩy thai!” Lưu Triệt cảm thấy mắt tối sầm, chưa bao giờ y nghĩ đã sinh con nhiều năm như vậy mà A Kiều lại còn có thể mang thai.
“Làm sao có thế? A Kiều tinh thông y thuật thì sao lại không biết ngay cả việc bản thân mang thai được?”
“Có khả năng là do nương nương mới mang thai, cũng không có bất kỳ dấu hiệu thai nghén nào nên chưa phát hiện. Thân thể nương nương năm xưa đã bị tổn thương, nghe nói là rất khó khăn khi sinh Hoàng tử trưởng và Công chúa Duyệt Trữ. Tuổi nương nương giờ cũng không còn trẻ, có thai là vô cùng nguy hiểm, nhịp thai không ổn nên khi bị con ngựa nổi điên chồm lên quá mạnh thì đã sẩy thai.”
“Bệ hạ”, giọng Lục Y kinh hoảng vang lên trong điện, “Nương nương vẫn không ngừng chảy máu, người đã hoàn toàn hôn mê.”
Lưu Triệt nhắm mắt lại đau đớn. Y còn chưa kịp than khóc đứa con yểu mệnh của mình thì đã phải lo lắng cho A Kiều, phất tay, “Còn không đi vào chữa trị cho Trần nương nương.”
“Dạ.” Lão ngự y khấu đầu liên tục, đứng dậy.
“Ngươi hãy nghe cho kỹ”, Lưu Triệt lạnh lùng, “Nếu Trần nương nương có gì bất trắc, trẫm sẽ khiến cho tất cả người của Ngự y thự phải táng gia diệt tộc.”
Lão ngự y tái nhợt mặt, gắng gượng nói, “Vi thần sẽ cố hết sức.”
“Truyền lệnh xuống”, Lưu Triệt nói, “Đánh chết con ngựa vùng Ô Tôn. Bắt giam tất cả ngự mã giám để điều tra.”
Dương Đắc Ý sợ khϊếp vía, chỉ dám đáp khẽ, “Dạ!”
Từ Thượng Lâm Uyển đến thành Trường An phi ngựa nhanh nhất cũng phải nửa ngày. Vì vậy khi Tiêu Phương phụng chiếu chạy tới Thượng Lâm Uyển thì Trần A Kiều đã hôn mê mất một ngày. Trong điện Tín Hợp, Tiêu Phương nhìn Trần A Kiều nằm ở trên giường, đắp chiếc chăn gấm, tóc lòa xòa để lộ ra sắc mặt tái nhợt, cô độc đáng thương. Hắn bỗng thấy xót xa trong lòng, không nhịn được phải quay mặt nhìn sang hướng khác. Sau năm Nguyên Quang thứ năm bị thương và bị truy sát cho tới năm thứ sáu khó sinh thì suốt bao nhiêu năm qua A Kiều chưa bao giờ rơi vào tình trạng tiều tụy thế này.
“Nàng thế nào rồi?” Lưu Triệt từ trong điện bước ra, đứng trước giường, chắp tay hỏi. Có lẽ y suốt đêm không ngủ, tâm trạng sầu lo nên sắc mặt hơi sạm đi.
“Theo lý mà nói”, Tiêu Phương nhẹ nhàng đặt tay nàng xuống, khẽ chau mày vẻ khó nói. “Sẩy thai tuy ngoài ý muốn nhưng các ngự y đã xử trí thỏa đáng, dùng thuốc cũng chính xác. Mạch của Nhạn Nhi tuy hư nhưng còn ổn, chắc cũng sớm tỉnh lại.”
“Nhưng thực sự là nàng đến tận bây giờ vẫn chưa tỉnh”, Lưu Triệt nhắm mắt lại, hình ảnh kinh tâm động phách hôm ấy bỗng hiện lên trước mắt. A Kiều nhảy vụt lên phóng ngựa đuổi theo, vung kiếm chém bay đầu con ngựa kia. Đến chiều tối thì nàng đã cầm máu nhưng vẫn hôn mê bất tỉnh.
Tới bây giờ y vẫn không rõ rốt cuộc trong khoảnh khắc đó có cái gì thúc đẩy khiến cho A Kiều quả quyết như thế. A Kiều vốn không phải là người quả quyết mà rất nhu nhược… Nhưng lúc đó y ở bên cạnh nhưng nàng không chịu dựa vào y, cũng không kêu khóc, cứ thế không nói một lời nhảy lên ngựa phóng vụt đi. Trong khoảnh khắc ấy, nhiệt huyết mãnh liệt của nàng khiến đấng nam nhi phải hổ thẹn.
A Kiều xưa nay luôn là người con gái nhiệt huyết, dù gặp khó khăn đến đâu cũng không chịu quay đầu.
Trước đây y vô cùng căm ghét lòng nhiệt huyết đó của nàng. Nó luôn gợi cho y nhớ lại tình cảnh nhẫn nhịn của mình hồi mới đăng cơ. Sau này, thời gian từng ngày gọt giũa khiến cho bầu nhiệt huyết kia dần dần bị mài mòn rồi vô hình trung tắt lịm, ai ngờ khi nó bộc phát lại mãnh liệt hơn hẳn năm xưa. Năm xưa nàng khiến y nổi giận, hôm nay, nàng lại làm cho y khổ đau.
A Kiều từng nói rằng thứ Lưu Triệt thích nhất không phải là Trần A Kiều, cũng không phải là những người con gái khác, mà là thiên hạ. Y cũng biết mình có thể vì thiên hạ mà hy sinh tất cả không chút do dự. Nhưng nếu có một ngày phải hy sinh cả chính bản thân mình thì liệu y có do dự hay không? Bậc đế vương thường tự hỏi lòng, nếu bản thân không còn nữa thì làm sao để cầm quyền thiên hạ? Cho dù có yêu một người cũng sẽ không để bản thân chịu thiệt. Đây là nguyên tắc yêu của bậc đế vương như y. Y thích Lưu Sơ, yêu A Kiều còn nhiều hơn. Chỉ là ngay từ lúc ban đầu, chính y đã đặt ra giới hạn cho những tình cảm này. Dù có như thế nào cũng không thể vượt ra ngoài giới hạn đó, vậy mà y càng ngày càng thêm yêu thích nàng.
Lúc mới đăng cơ vào năm Kiến Nguyên đầu tiên, Vương thái hậu từng cảnh báo y rằng mình là đế vương thì không thể si mê quá mức bất kỳ một người hay một vật gì. Nếu si mê thì đế vương sẽ có nhược điểm. Y mỗi ngày một mạnh lên, cuối cùng nắm cả đất nước này trong tay. Cho tới bây giờ, y tự tin có thể che chở cho người mình yêu được chu toàn.
Đến giờ y tự hỏi, dù đế vương có uy quyền mạnh đến đâu thì liệu có thắng nổi ý trời? Năm trước Hoắc Khứ Bệnh ra đi ngay lúc còn thanh xuân khiến y đau đớn vì mất đi ái tướng. Còn hôm nay y lại chỉ có thể nhìn A Kiều hôn mê trên giường mà lòng đau thống thiết. Nếu như không có trận kinh biến ngày hôm trước thì bao nhiêu lâu nữa y mới biết được rằng A Kiều đang hoài thai cốt nhục của mình? Năm A Kiều mang thai, sinh con, lưu lạc bên ngoài y đã không ở bên cạnh nàng.
Lúc đó, y ở trong cung Vị Ương thưởng thức mái tóc của người mới, không hề để tâm đến cả Vệ Tử Phu thì làm gì nhớ đến một người ở lãnh cung? Y hoàn toàn không biết nàng đang mang cốt nhục của mình lưu lạc nơi chân trời góc bể. Chớp mắt một cái, gặp lại nhau thì đã bảy năm. Con trai con gái đều đã lớn, cực kỳ xa lạ đối với y.
Song thời gian dần dần trôi qua, không ngờ rằng một ngày kia nàng lại mang thai lần nữa. Cho đến khi ngự y bẩm báo lên thì dù y là người rất trầm ổn cũng không khỏi kinh ngạc. Đó cũng không phải là một đứa trẻ mà y mong đợi, chỉ vội vã đến rồi vội vã đi, để lại một vết thương trong lòng của phụ mẫu. Y tuy là đế vương nhưng đồng thời cũng là phụ thân. Còn A Kiều, nàng thương yêu Lưu Mạch, Lưu Sơ đến như vậy thì tất nhiên sẽ rất đau lòng.
Y nhớ tới ánh mắt thấu hiểu của A Kiều trước khi hôn mê. A Kiều mẫn cảm, thông minh lại giỏi y thuật nên chỉ liếc mắt là ý thức được chuyện gì xảy ra cho nên ngay cả khi đã hôn mê vẫn nhíu mày, sắc mặt tái nhợt.
Chuyện hôm đó không xảy ra thì chắc y sẽ có thêm những suy nghĩ phức tạp. Y sẽ mỉm cười nhìn A Kiều lại được làm mẹ lần nữa. Y sẽ luôn có mặt ở bên nàng, cùng nàng nuôi dưỡng đứa con trưởng thành. Còn như có để rồi mất đi thì chi bằng ngay từ đầu đừng có. Mà y, nếu như đã có lại A Kiều, sẽ không – chấp – nhận – để – mất – đi lần nữa.
Những năm qua, y đơn độc ở cung Vị Ương, tự thấy bản thân quả thật vô tình. Y nhớ rằng tất cả đều vì bản thân mình nên y mới không ngần ngại làm tổn thương nàng. Sau đó biết được tin tức của nàng, y lại hiếu kỳ muốn biết biểu tỷ A Kiều tính tình bốc đồng kia không được người thân bao bọc sẽ như thế nào. Qua nửa năm sau, y lại thấy nhớ thương nàng. Cho đến khi nàng trở về, y dần không thể rời mắt, dường như có nàng ở bên cạnh thì y mới thấy bình an.
Hôm đó, nàng phóng ngựa đuổi theo, rồi bị chảy máu không ngừng. Y nhìn mặt nàng tái nhợt, thấy lòng mình vô cùng đau đớn, mới chợt ngộ ra rằng nàng đã để lại một dấu vết không thể xóa nổi trong cuộc đời mình, mà mình cũng không muốn xóa. Là bậc đế vương, y luôn tuân theo cảm giác của trái tim, mà một khi đã yêu thì sẽ bất chấp thủ đoạn.Quyển 3 - Chương 60: Thịnh suy mong manh như chỉ mành treo chuông“Thật ra thì cơ thể Nhạn Nhi vốn hư nhược, cộng thêm lần trước khó sinh nên không thích hợp để mang thai nữa. Cho dù không có sự cố lần này thì cũng khó có thể sinh nở”, Tiêu Phương nói giọng đều đều, vẻ mặt u ám.
“Trẫm nuôi đám ngự y kia thật phí cơm!” Lưu Triệt giận dữ nhướng mày, cười lạnh nói, “Chẳng lẽ không được? Tiêu Phương là người nổi tiếng y thuật vô song mà ngay cả chuyện chiếu cố cho nữ đệ tử của mình bình an cũng không được sao?”
“Bây giờ mới nhắc đến chuyện này thì cũng quá muộn rồi”, Tiêu Phương khép mắt, bình an đáp, “Không thể trách được ý trời, nhưng nếu là tai họa do người gây ra thì tại sao bệ hạ là chồng là cha lại không đòi công bằng cho hoàng tử đã mất của Trần nương nương?”
“Tiêu Phương!” Lưu Triệt nghiến răng lộ ra sát ý, “Ngươi đừng tưởng trẫm không thể chém ngươi.”
“Bệ hạ tất nhiên có thể dễ dàng chém thảo dân”, Tiêu Phương cũng ngẩng đầu lên nhìn lại bậc đế vương, ánh mắt trong sáng, không chịu nhượng bộ, “nhưng thảo dân vẫn muốn hỏi cho minh bạch một vấn đề.”
“Ngươi muốn minh bạch cái gì?”
“Lúc đó, vì sao Công chúa Duyệt Trữ làm ngựa kinh sợ?”
“Trẫm đã phái người điều tra. Đây là chuyện riêng của trẫm, không cần Tiêu tiên sinh phải hỏi.”
“Nhạn Nhi là đồ đệ của thảo dân, đồ đệ xảy ra chuyện thì tại sao thảo dân không được hỏi? Nếu bệ hạ không thể bảo vệ được thì chi bằng để Nhạn Nhi tự do cho cả hai cùng vui vẻ.”
“Tiêu Phương!” Lưu Triệt giận dữ đến cực điểm, ánh mắt lạnh băng, gằn giọng từng chữ, “Ngươi phải biết rằng, Trần A Kiều là thê tử của trẫm.”
“Người đâu”, Lưu Triệt xoay người hạ lệnh, “Bắt giữ tên điêu dân này, không có lệnh của trẫm thì không được thả.”
“Tuân lệnh.” Hai tên thị vệ bước lên định ép giải đi. Tiêu Phương thản nhiên, “Không phiền bệ hạ hao tâm tổn sức, thảo dân sẽ tự đi.”
Trong khung cảnh hỗn độn này, hắn vẫn hờ hững quay người tựa như giữa trăng trong gió nhẹ. Lưu Triệt đi lại mấy bước trên điện, nhớ lại những lời Tiêu Phương nói lại giận bừng lên, hướng ra ngoài điện lớn tiếng gọi, “Tuyên Mạc Long tới đây.”
Vì Đình úy Trương Thang không ở Trường An nên người chịu trách nhiệm xử lý chuyện này chính là Tả giám đình úy Mạc Long.
Mạc Long run run đi tới ngoài điện Tín Hợp, quỳ lạy bái chào, “Thần Mạc Long tham kiến bệ hạ.”
Bệ hạ không bảo đứng dậy, hắn thấp thỏm quỳ rạp người trên mặt đất, suy đoán tâm ý, một lúc sau mới nghe thấy bệ hạ lạnh lùng truyền hỏi, “Chuyện hôm qua, ngươi điều tra thế nào rồi?”
Mạc Long trán đẫm mồ hôi nhưng lòng ngược lại rất bình tĩnh, bẩm báo, “Thần kiểm tra cẩn thận con ngựa mà Công chúa Duyệt Trữ cưỡi hôm đó, phát hiện thấy bên yên ngựa có gài những chiếc kim nhỏ. Cơ thể Công chúa Duyệt Trữ rất nhẹ nên lúc đầu kim không đâm vào, con ngựa cũng thuần tính. Sau bị vỗ mạnh vào yên thì nó bị đau mới chạy l*иg lên.”
“Ngươi tra xét suốt một ngày mà chỉ tra được có thế thôi sao?” Lưu Triệt nhìn xuống người đang quỳ dưới điện, “Nếu ngươi không muốn giữ cái đầu trên cổ, không chịu nói rõ thì trẫm sẽ không ngần ngại toại nguyện cho ngươi.”
“Thần không dám.” Mạc Long toát mồ hôi lạnh, không nhịn được thoáng liếc nhìn vào phía bên trong điện nhưng những tấm rèm châu trùng điệp đã chắn tầm mắt. Người con gái hôm nay nằm ở bên trong kia đúng là đệ nhất nữ nhân trong lòng bệ hạ rồi, hắn thầm nghĩ.
“Chân tướng là cái gì?”, Mạc Long nhớ lại nam nhân trẻ tuổi kia đã hỏi bằng giọng điệu thâm thúy.
“Sự tình vụ án Vu cổ của cô cô năm xưa trình lên trên có phải là sự thật không? Mạc tả giám, cấp trên trực tiếp của ngươi là Trương Thang đã dạy ngươi như vậy ư?”
“Quan trọng nhất là tâm ý của bệ hạ thôi. Năm xưa bệ hạ coi trọng Vệ gia cho nên Trần gia chúng ta thảm bại. Nhưng hôm nay thì ngươi tự mở to mắt ra mà nhìn cho rõ đi.”
“Nguy hiểm có khi cũng là cơ hội, còn xem ngươi có thể bắt được chúng hay không?”
Lần này ngự giá đến Thượng Lâm Uyển, Trường Tín hầu Liễu Duệ chinh phạt Côn Minh, Đại tư nông Tang Hoằng Dương còn đang ở Trường An, Phi Nguyệt công chúa trưởng Lưu Lăng là phụ nữ. Khi Trần nương nương hôn mê, người nắm trong tay thế cục Trần gia ở Thượng Lâm Uyển chắc hẳn là người con dòng kế này của Đường Ấp hầu, Gián đại phu Trần Hi vừa gia nhập triều chính.
Mạc Long liền xoay chuyển ý nghĩ, trước tiên cứ báo cáo cho bệ hạ nhưng giữ lại một chút cho mình. Hắn hạ quyết tâm, bẩm: “Người của Ngự mã giám thà chết cũng không chịu nhận đã gài kim. Nhưng yên ngựa này lại là yên mềm được lấy từ phòng kho ra giành riêng cho Công chúa. Thần nghi không phải là do động tay động chân vào ngựa mà chính là vào chiếc yên ngựa này.”
“Hay! Hay! Phí tâm cơ lớn như thế chỉ để mưu hại một công chúa nho nhỏ.” Khi Đế vương giận đến cực điểm thì sắc mặt lại trở nên bình tĩnh. “Mạc Long!”, Lưu Triệt ban lệnh, “Ngươi điều tra cẩn thận cho trẫm, dù là ai cũng nghiêm trị không tha.”
“Tuân lệnh”, Mạc Long cúi đầu đáp.
“Trước lúc chuyện xảy ra có ai ra vào kho không?”, Mạc Long gọi viên quan coi kho đến hỏi.
“Khởi bẩm Mạc đại nhân!” Viên quan coi kho nơm nớp lo sợ nói, “Không có một ai trong kho có ý làm hại Công chúa, xin đại nhân minh xét.”
“Được rồi”, Mạc Long sốt ruột, “Trước khi chuyện xảy ra chừng một canh giờ, trong kho có tình huống gì khác thường không?”
Công chúa Duyệt Trữ nói muốn cưỡi ngựa lúc ở trên du thuyền chẳng qua chỉ là nhất thời nổi hứng, nếu kẻ nào đó mưu đồ làm hại Công chúa thì chỉ có thể ra tay trong khoảng thời gian ngắn.
“Cũng không có gì khác thường”, viên quan coi kho suy nghĩ một lúc rồi nói, “Lúc ấy, Thái bộc còn sai người đến kiểm tra xe ngựa. Sau đó, Gián đại phu cho người tới lấy cho phu nhân cái gối, bởi vì Gián đại phu là cháu Trần nương nương nên ta để cho người kia tiến vào.”
“Công Tôn thái bộc?”, Mạc Long cau mày. Từ lúc nhà Chu suy sụp thì trăm chức quan tước rối loạn, mãi đến khi nhà Tần thống nhất thiên hạ mới khôi phục đế hiệu và xác lập lại chức quan, nhà Hán cũng tuân theo quy cách này. Thái bộc là chức quan có từ thời Tần, quản lý xe ngựa, hiện giờ đảm nhiệm chức vụ này chính là Công Tôn Hạ, chồng của chị cả Vệ hoàng hậu.
“Người đâu?”, Mạc Long ra lệnh, “Dẫn người hôm trước phụng mệnh Thái bộc đến kiểm tra kho tới đây.” Song đã không còn thấy bóng dáng người này ở Thượng Lâm Uyển nữa.
Mạc Long tiếp tục ra lệnh, “Mời Công Tôn thái bộc đến đây.”
“Lão phu đúng là đã sai người đến kiểm tra kho”, Công Tôn Hạ bình tĩnh, “nhưng dựa vào đó để nói lão phu có ý sát hại Công chúa Duyệt Trữ thì Mạc tả giám có thấy quá hoang đường hay không?”
“Dòng dõi bên Thái bộc quân công hiển hách, thân thế lại càng thêm vinh quang, Mạc Long vốn không dám hoài nghi”, Mạc Long ngoài cười nhưng trong không cười, nói một câu, “Nếu vậy hãy cho biết tung tích người nhà Hầu gia đã phái đến.”
“Ngươi…” Công Tôn Hạ nghe ra ý châm chọc trong lời của Mạc Long, giận tím mặt nhưng cũng biết không phải là lúc phát tiết đành cười gằn đáp, “Chân ở trên người nó, ta làm sao biết được?”
Mạc Long cau mày, đang nghĩ cách tiếp theo cho chu toàn thì nghe cấp dưới bẩm báo, “Đã tìm được người hôm đó Thái bộc sai khiến rồi.” Hắn liền nhướng mày, “Tìm được ở đâu?”
“Có người âm thầm tương trợ dẫn chúng thuộc hạ đến Lưu Ly các ở phía bắc Thượng Lâm Uyển, phát hiện người này đang bị đuổi gϊếŧ liền cứu về.”
Mạc Long đưa mắt dò xét Công Tôn Hạ thấy sắc mặt ông ta không hề thay đổi, trong lòng thầm nghĩ không biết là do Công Tôn Hạ che giấu quá tốt hay thật sự không có liên quan, bèn ra lệnh, “Dẫn gã tới đây.”
“Ngươi là người được Thái bộc đại nhân sai đi kiểm tra kho hôm trước phải không?”, Mạc Long hỏi.
“Bẩm, đúng vậy.” người quỳ bên dưới toàn thân đầy vết thương, ánh mắt nhìn Công Tôn Hạ tràn ngập oán độc.
“Như vậy”, Mạc Long chuyển giọng lạnh lẽo, “kim giấu trong yên ngựa của Công chúa Duyệt Trữ là do ngươi bố trí?”
“Bẩm, đúng vậy.”
Công Tôn Hạ đã biết chuyện này không lành nhưng nghe thấy vậy vẫn ớn lạnh, cả giận, “Trường Ngữ, ta tự hỏi mình đối đãi ngươi không tệ, ngươi cần gì mưu hại ta như thế?”
“Hầu gia”, Trường Ngữ xoay người, khấu đầu với Công Tôn Hạ, “Trường Ngữ ghi nhớ ân đức của Hầu gia nên sẽ không mưu hại. Chuyện này Hầu gia đúng là không biết, người bảo Trường Ngữ làm là thiếu gia.”
Sắc mặt Công Tôn Hạ dần trắng bệch. Ông ta loạng choạng lui về phía sau mấy bước, trong nháy mắt như già thêm mấy tuổi, buông thõng một câu, “Đứa con khốn kiếp này!”
“Hầu gia không sao chứ”, Mạc Long ra vẻ quan tâm, “Còn không đỡ lấy Hầu gia”, lại xoay đầu cao giọng, “Truyền Công Tôn Kính Thanh.”
Lát sau, binh sĩ áp giải Công Tôn Kính Thanh tới.
“To gan!” Mạc Long trách mắng, “Dù ta sai dẫn người tới nhưng dù sao đó cũng là cháu ngoại của Vệ hoàng hậu, sao dám đối xử như thế?”
“Khởi bẩm đại nhân!” Tên binh sĩ bẩm, “Ty chức cũng không định như thế nhưng Công Tôn Kính Thanh hoảng loạn không chịu đi nên ty chức bất đắc dĩ mới phải làm vậy.”
Mạc Long cười vẻ khinh miệt. Ngoại trừ Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh thì những người còn lại thuộc đời thứ hai của Vệ gia đều tài trí bình thường, nhất là Công Tôn Kính Thanh lại càng là một kẻ ăn chơi lêu lổng, chưa bị thẩm vấn đã hoảng loạn như thế, chẳng phải nói rõ rằng gã có liên quan đến vụ án.
“Ngươi dựa vào đâu mà thẩm vấn ta?” Công Tôn Kính Thanh gào lên, “Ngươi có biết ta là con của Nam Mão hầu Công Tôn Hạ, cháu ngoại của Vệ hoàng hậu hay không?” Gã muốn ra vẻ nhưng ngay cả mấy viên tiểu lại bên cạnh cũng đều nghe ra mùi vị ngoài cứng trong mềm, “Họ Mạc kia, ngươi dám đối xử với ta như thế, không sợ ngày sau sẽ bị dì ta trị tội sao?”
“Công Tôn thiếu gia”, Mạc Long trầm mặt, “Hoàng hậu có lớn đến bao nhiêu thì cũng có thể lớn hơn bệ hạ sao? Những thứ khác không nói, chỉ tính riêng tội mưu hại hoàng thất thì dù có là mười Công Tôn Kính Thanh cũng không thể chống đỡ nổi.”
Công Tôn Kính Thanh mặt tái mét. Là người trong Vệ thị, tất nhiên gã biết rằng từ sau năm Nguyên Thú, Vệ hoàng hậu chỉ còn là một chiếc bóng mờ ở cung Vị Ương.
Hoặc có thể nói tất cả mọi người đều chỉ là một chiếc bóng ở bên cạnh đế vương oai hùng kia, trừ người phụ nữ hiện giờ còn bất tỉnh trên giường, hay có thể là biểu đệ Hoắc Khứ Bệnh, vị tướng quân trẻ tuổi tài cao, từ nhỏ đã bộc lộ hào quang tột đỉnh, khiến cho dì và cữu cữu chỉ biết đến mỗi một người biểu đệ đó của mình.
Khi Hoắc Khứ Bệnh chết đi thì gã đột nhiên cũng thấy lòng hả hê nhưng lập tức bị lý trí đè xuống. Mẫu thân của hắn nói Hoắc Khứ Bệnh chết đi rồi thì ân sủng của bệ hạ đối với Vệ gia cũng có phần ít đi. Năm xưa Vệ gia thế mạnh nhưng giờ cũng dần phải cẩn thận như bước đi trên băng mỏng.
“Nếu như”, gã thầm nghĩ, “người phụ nữ kia cũng chết đi thì có phải tất cả uy hϊếp đối với Vệ gia cũng biến mất?”
“Phủ Đình úy chỉ biết đổ oan cho người khác như vậy hay sao?” Công Tôn Kính Thanh vẫn già mồm, “Dù thế nào thì dì của ta vẫn là hoàng hậu, danh chính ngôn thuận là mẫu nghi thiên hạ, không thể dung thứ tội bất kính của các ngươi.”
“Đình úy phủ có đổ oan cho người khác hay không thì ngươi sẽ biết rất nhanh thôi.” Mạc Long bình thản, “Có Trường Ngữ xác thực, ngươi còn không chịu nhân tội?” Hắn chợt chuyển giọng nghiêm khắc, “Muốn ta dụng hình sao?”
Công Tôn Kính Thanh tái mặt nhìn Trường Ngữ được giải ra từ hậu đường, lắp bắp, “Ngươi, ngươi”, rồi không thể nói thêm được nữa.
“Chắc thiếu gia không ngờ được rằng Trường Ngữ vẫn chưa chết”, Trường Ngữ mỉa mai, “Trường Ngữ vốn không muốn khai ra thiếu gia, hiềm nỗi thiếu gia thấy chuyện lớn cấp bách nên muốn gϊếŧ Trường Ngữ diệt khẩu, vậy thì cũng đừng trách Trường Ngữ bất nghĩa.”
“Phụ thân”, Công Tôn Kính Thanh cuống quýt, “Người phải cứu con.”
Công Tôn Hạ nhắm mắt, biết rõ hy vọng đã xa vời, vẫn cố vớt vát, “Kính Thanh, chuyện đó không phải con làm có đúng không?”
“Con cũng không ngờ ra cơ sự này”, Công Tôn Kính Thanh ấp úng, “Con chỉ chướng mắt vì Công chúa Duyệt Trữ được cưng chiều mà làm quá nên muốn giáo huấn. Con cũng không biết Trần nương nương sẽ tự mình đi cứu, càng không biết Trần nương nương mang thai. Thậm chí, kim đã được mài bằng đầu.”
“Đồ khốn kiếp!” Công Tôn Hạ giận đến cả người phát run, “Ngươi có biết cơ nghiệp trăm năm của Công Tôn gia chúng ta đã bị hủy hoại bởi tay ngươi hay không?”
Trên công đường, Mạc Long tạm thời thở phào một cái. Việc thẩm vấn vụ án đến đây là đã có thể trả lời với bệ hạ, nhưng thái độ hôm nay của hắn đã hoàn toàn đắc tội với Vệ gia. Cặp mắt hắn tối lại, kế sách duy nhất tốt cho hắn chỉ có thể là liên kết với Trần gia hoàn toàn đánh ngã Vệ thị. Nếu không sau này Vệ gia tính sổ thì sao có thể bỏ qua cho hắn. Huống chi thế cục trước mắt nghiêng về Trần gia, bệ hạ lại càng yêu dấu không rời Trần nương nương của điện Tín Hợp.
Hắn tự nhận mình không hiểu rõ thời thế như thượng cấp Trương Thang nhưng chỉ nhìn thái độ cực kỳ tôn kính của Trương Thang đối với Trần thị thường ngày thì cũng không cần phải suy nghĩ gì thêm. Lúc trong điện Tín Hợp, bệ hạ đã ra lệnh, “Ngươi tra rõ cẩn thận cho trẫm, dù là ai cũng đều nghiêm trị không tha.” Nói như vậy, chứng tỏ trong lòng bệ hạ đã sớm có định kiến. Hắn suy nghĩ xong liền ra lệnh, “Người đâu, bắt giữ Công Tôn Kính Thanh.”
“Kính Thanh!” Công Tôn Hạ cất giọng kêu, lại bị Mạc Long đưa tay ngăn cản, “Hầu gia, Công Tôn Kính Thanh chính là trọng phạm mà bệ hạ căn dặn, Hầu gia không cần phải phí tâm.”
Công Tôn Hạ trợn mắt nhìn hắn một hồi lâu, cuối cùng thở dài bi thương, tập tễnh rời đi.
“Mưu hại hoàng thất, tội không thể tha”, Công Tôn Kính Thanh nghĩ tới Mạc Long. Thời khắc này gã vô cùng hối hận, hối hận bản thân đã một phút bốc đồng mà phạm phải sai lầm cực lớn. Tại sao sự việc lại có thể phát triển đến bước đường này chứ?
“Công Tôn Kính Thanh, ai sai ngươi mưu hại Công chúa?”
Gã rùng mình, gắng gượng đáp, “Không có ai, là bản thân nhất thời hồ đồ.”
Giọng người kia chê cười, “Ngươi coi người khác đều là ngu ngốc chắc. Ngươi nói không ưa Công chúa Duyệt Trữ được cưng chiều mà làm quá, Công Tôn Kính Thanh nhà ngươi cũng chỉ là ngoại thần, không như Quan Quân hầu qua lại thân mật với Công chúa Duyệt Trữ, ít khi thấy Công chúa thì làm sao có thể không ưa?”
Gã lập tức cứng miệng, “Là phụ thân của ngươi, Thái bộc Công Tôn Hạ hay là Trường Bình hầu Vệ Thanh, hoặc là…”, thanh âm kia thoáng vẻ dụ dỗ, “Hoàng hậu Vệ Tử Phu?”
“Không có, không có!” Gã ôm đầu la lớn.
“Người mưu hại Công chúa, tội không thể tha. Chỉ có khai ra chủ mưu mới có thể giảm nhẹ tội.” Giọng nói kia thở dài, “Dù bệ hạ luôn vô tình nhưng lại rất yêu thương con gái. Trần nương nương mang thai lần này còn có thể là một hoàng tử. Hiện giờ bệ hạ chỉ có bốn người con trai, mất đi một hoàng tử thì làm sao chịu được?”
“Công Tôn Kính Thanh”, giọng nói kia hỏi tiếp, “Ai sai khiến ngươi?”
“Là…”, gã lưỡng lự đáp, “Là Nhị hoàng tử Lưu Cứ.”
Gã mê man thϊếp đi. Một người từ phía sau bước ra, hỏi, “Đại nhân, vậy đã được chưa?”
Mạc Long hài lòng, “Bản quan sẽ đem kết quả thẩm vấn này tấu lên bệ hạ.” Hắn đóng những bản ghi chép khẩu cung của Công Tôn Kính Thanh thành sách, đi xuyên qua Thượng Lâm Uyển rộng lớn rồi cúi đầu bước tới điện Tín Hợp.
“Cẩn trọng một chút, Mạc đại nhân”, nội thị áo xanh khẽ nhắc, “Trần nương nương đến bây giờ vẫn còn chưa tỉnh, bệ hạ rất dễ nổi nóng.”
Mạc Long mỉm cười đưa ra một xâu tiền Ngũ Thù, nói, “Đa tạ công công nhắc nhở.”
“Ấy, nào dám nhận.” Nội thị mỉm cười, thu xâu tiền rồi đi thẳng.
Ngoài điện Tín Hợp, những tia nắng xuyên qua tầng mây chiếu xuống ánh lên muôn sắc vàng, tạo nên cảm giác ấm áp, nhưng Mạc Long lại khẽ nhíu mày, trong lòng thoáng một tia lo lắng. Chỉ là sẩy thai thôi mà sao Trần nương nương tới giờ vẫn chưa tỉnh? Hắn đang nghĩ ngợi thì trong điện đã truyền đến tiếng triệu vào.
Mạc Long cung kính bước vào, bẩm, “Thần tra hỏi ngày đêm, cuối cùng đã có được khẩu cung của nghịch phạm Công Tôn Kính Thanh, xin trình lên Hoàng thượng xem xét.”
Ngự tiền tổng quản Dương Đắc Ý nhẹ bước xuống điện, nhận lấy bản khẩu cung trên tay hắn rồi mang tới dâng bệ hạ. Cả điện Tín Hợp lặng ngắt, chỉ có tiếng bệ hạ lật xem sách. Một lát sau Lưu Triệt ném bản khẩu cung lên án, cười lạnh. “Con trẫm giỏi thật, không suy nghĩ vươn lên lại nghĩ mưu hại tỷ tỷ của mình.”
“Dương Đắc Ý!” Y cất giọng ra lệnh.
“Có nô tài”, Dương Đắc Ý khom người đáp.
“Truyền lệnh cho Trương Thang, bắt Lưu Cứ, thẩm tra kỹ càng.”
“Bệ hạ?”
“Còn không đi ngay?”
Dương Đắc Ý kinh hãi, đành phải đáp, “Dạ!”
Dưới điện, Mạc Long vẫn không ngẩng đầu nhưng kín đáo nhếch miệng. Song ngay cả Mạc Long cũng không biết là trước khi hắn tới điện Tín Hợp thì đã có mấy khoái mã phóng khỏi Thượng Lâm Uyển nhằm về hướng Trường An.
Trần Hi đứng trên góc lầu của Thượng Lâm Uyển lạnh lùng nhìn theo thuộc hạ tâm phúc của Tam Mão hầu Công Tôn Hạ thúc ngựa phóng về hướng Trường An.
“Hi thiếu gia!” Thị tòng đứng bên khó hiểu, “Tại sao không ra mặt ngăn cản bọn họ?”
“Ta muốn cho Vệ gia biết.” Trần Hi dù bận vẫn ung dung đáp rồi hơi cúi xuống nhìn mũi giày dưới chân, ánh mắt lóe lên, “Không một ai có thể làm thương tổn cô cô của ta. Người Vệ gia dám làm thì sẽ phải trả giá thật đắt.”
“Mưu hại người thừa kế của hoàng gia thật sự không phải là tội danh nhỏ”, hắn thấy vẻ mặt mờ mịt của người hầu bèn khẽ mỉm cười, giảng giải, “Ngay cả Vệ Tử Phu là hoàng hậu cũng không đỡ nổi. Vệ gia nhận được tin tức thì tất nhiên sẽ có hành động. Mà hành động này”, hắn chầm chậm siết chặt bàn tay, “chính là điều ta muốn thấy, cũng là bằng chứng khiến Vệ gia trọn đời không trở mình được.”
“Thiếu gia cao minh.” Thị tòng xuôi tay, cung kính nói.
“Không nói chuyện này nữa.” Trần Hi khẽ mỉm cười, nói sang chuyện khác, “Phu nhân có khỏe không?”
“Phủ Đường Ấp hầu vừa mới báo tin rằng Nhị thiếu phu nhân vẫn mạnh khỏe, Mạn thiếu tiểu thư cũng mạnh khỏe. Nô tài đã làm theo lời dặn của Nhị thiếu gia sai người về kinh báo tình hình ở đây.”
“Vậy thì tốt.” Trần Hi mỉm cười nói, “Tang thúc thúc đang ở Trường An, ông ấy biết cần phải làm thế nào.”Quyển 3 - Chương 61: Tiêu Phòng rối loạn vì chuyện cưỡi ngựaBa kỵ sĩ bị truy đuổi gắt gao, cuối cùng chỉ còn hai người về được Trường An. Vì không dễ vào được cung Vị Ương nên bọn họ liền chia ra, một người đi vào phủ Trường Bình hầu, người còn lại đi vào phủ của con trưởng Vệ gia là Vệ Trường Quân.
Trường Bình hầu Vệ Thanh nghe bẩm báo, lòng trầm xuống, thấy người tới báo tin đã là đi liền hỏi, “Chỉ có một mình ngươi ra ngoài báo tin thôi sao?”
“Không, còn có một người nữa.” Người báo tin cố sức trả lời, “đến phủ huynh trưởng của Hầu gia.”
“Ta biết rồi”, Vệ Thanh nói, “Ngươi xuống nghỉ ngơi một chút đi.” Sau đó hắn không thay y phục mà đích thân lấy ngựa đi luôn về hướng cung Vị Ương.
Bệ hạ không có ở cung Vị Ương, Vương thái hậu mất đã lâu nên hiện giờ Hoàng hậu chính là người đứng đầu trong lục cung. Vệ Thanh vào đến điện Tiêu Phòng thì Vệ Trường Quân đã có mặt, chắc Vệ Tử Phu cũng đã biết tình hình.
“Cái tên Kính Thanh này”, Vệ Tử Phu oán hận đập tay xuống mặt án, “Gây ra tội trạng lớn như vậy còn muốn bản cung phải lo liệu làm sao đây?”
“Chỉ sợ đã không còn phải là chuyện riêng của Kính Thanh nữa”, Vệ Trường Quân thở dài nói, “Trần, Vệ đối lập đã lâu, giờ có cơ hội tốt thế này, người của Trần gia sẽ không bỏ qua cho chúng ta. Năm đó, chúng ta đã làm như thế nào khiến cho Trần A Kiều bị phế truất, hai nhà đều không quên.”
Vệ Thanh định nói điều gì đó nhưng cuối cùng lại nén xuống. Mặc dù Vệ gia đang ở tình thế như đi trên mặt băng mỏng có khả năng sụp xuống bất cứ lúc nào, nhưng nghe người khác khinh miệt gọi thẳng tên Trần A Kiều thì trong lòng vẫn như bị gai đâm cực kỳ khó chịu.
“Thanh đệ”, Vệ Trường Quân nhìn Vệ Thanh, nói, “Đệ có biện pháp gì không?” Ông ta tuy là con trai trưởng của Vệ gia nhưng về uy vọng và năng lực thì đều không bằng Vệ Thanh. Trên thực tế thì những năm qua người của Vệ gia đã thành thói quen coi ý kiến của Vệ Thanh là đúng, nên tất nhiên là vào thời điểm nguy cấp này chỉ trông đợi vào hắn.
“Lấy bất biến ứng vạn biến”, Vệ Thanh trầm ngâm nói, “Cho dù Trần gia ra chiêu như thế nào, chúng ta chỉ cần tiếp chiêu là được. Bệ hạ dù sao cũng là vị quân chủ anh minh, chỉ cần chúng ta không phạm tới giới hạn của y thì nhiều nhất cũng chỉ hy sinh mất một Kính Thanh.”
“Công chúa”, điện ngoài vang lên tiếng thị nữ hô hoán.
Vệ Tử Phu cất giọng trách mắng, “Có chuyện gì?”
“Khởi bẩm Hoàng hậu nương nương”, người thị nữ bên ngoài đáp giọng gấp gáp, “Vệ Trường công chúa sắp sinh con rồi.”
Vệ Tử Phu liền biến sắc mặt, vội vàng xuống điện, trông thấy Lưu Phỉ được Thải Vi đỡ lấy đang tựa vào cửa ngoài điện, tay ôm bụng, mồ hôi đầm đìa trên trán.
“Còn không mau đi gọi thái y và bà đỡ”, Vệ Tử Phu bình tĩnh phân việc, cho người dìu Lưu Phỉ vào trong rồi mới xoay người hỏi, “Xảy ra chuyện gì vậy?”
“Công chúa dậy sớm, nói là muốn tới thỉnh an Hoàng hậu nương nương”, Thải Vi tái nhợt, cố gắng kể lại, “Nhưng không ngờ cả hai cữu cữu của Công chúa đều có mặt ở đây. Công chúa định đi vào nhưng mới đến cửa ngoài nghe được một chút thì đột nhiên ôm bụng kêu đau đớn.”
“Hoàng hậu nương nương”, chốc lát sau, thái y chẩn mạch xong ra ngoài bẩm báo, “Đây là dấu hiệu Vệ Trường công chúa bị động thai khí, phải sinh non. Vệ Trường công chúa thân thể vốn yếu ớt, lúc mang thai thì tâm tình lại không tốt, xem ra sẽ khó khăn.”
“Được rồi”, Vệ Tử Phu tâm phiền ý loạn, nói, “Ngươi chăm sóc thật kỹ Công chúa, nếu Công chúa hoặc hài nhi trong bụng xảy ra chuyện gì bản cung sẽ hỏi ngươi.”
Thái y khom người đáp, “Thần sẽ cố gắng hết sức.”
Chờ đợi gần hai canh giờ thì Lưu Phỉ sinh đôi được một trai một gái. Bé gái ra trước bình an nhưng bé trai vừa ra đã tắt thở.
“Nương nương hãy nén bi thương”, cung nữ nội thị quỳ la liệt đầy điện Tiêu Phòng cầu xin.
Vệ Tử Phu nhắm mắt lại, phảng phất như trong nháy mắt đã già đi cả chục tuổi, “Để bản cung nhìn cháu ngoại của mình một chút.”
Bé trai mặt mũi thanh tú nhưng thân thể lạnh ngắt, tựa như chỉ ngủ thϊếp đi chứ không phải mới vừa ra đời đã không có cơ hội mở mắt nhìn qua những người thân chờ đợi mình suốt bao lâu.
“Đây chính là báo ứng sao?” Vệ Tử Phu lẩm bẩm nói, “Vệ gia hại Trần A Kiều mất đi một đứa con nhưng lại báo ứng vào người Phỉ Nhi ư?”
Vệ Thanh cũng rất thương tâm, tiến lên khuyên nhủ, “Nương nương, bây giờ không phải lúc để đau thương. Phỉ Nhi quan trọng hơn.”
Trên giường, Lưu Phỉ đã cạn hết sức lực, rơi vào hôn mê. “Các ngươi nghe đây”, Vệ Tử Phu nhìn khắp đám người trong điện Tiêu Phòng, uy nghi của một hoàng hậu hiện rõ, “Vệ Trường công chúa chỉ sinh được một con gái, chính là đứa bé bản cung đang bế trong tay, nếu có ai nói sai với Công chúa thì đừng trách bản cung không tha thứ.” Mọi người trong điện Tiêu Phòng đồng thanh vâng dạ.
“Nương nương”, Thải Thanh bối rối đi vào, “Đình úy tới điện Tiêu Phòng, không biết có dụng ý gì.”
Vệ Tử Phu im lặng, lạnh lùng nhìn Trương Thang dẫn người tiến vào, nổi giận nói, “To gan, ngoại thần không được tự ý vào điện, Trương đại nhân là quan trong triều lại không biết quy tắc này hay sao?”
“Tất nhiên là thần biết”, Trương Thang mỉm cười đáp, “Nhưng thần phụng thánh chỉ nên đành phải tiến vào.”
Vệ Tử Phu dần dần trở lại bình tĩnh, thản nhiên nói, “Đình úy phụng chỉ gì?”
“Cứ điện hạ ở đâu?”
Vệ Tử Phu biến hẳn sắc mặt, “Ngươi tìm điện hạ có chuyện gì?” Theo tin tức Công Tôn Hạ truyền về thì không có chuyện Công Tôn Kính Thanh khai nhận tội Lưu Cứ làm chủ mưu.
“Phụng lệnh Hoàng thượng, Nhị hoàng tử Lưu Cứ là hoàng tử nhưng không biết tu thân, mưu đồ hại Công chúa Duyệt Trữ dẫn đến việc Trần nương nương phải phóng ngựa làm mất đi dòng dõi hoàng gia, hiện phủ Đình úy bắt giữ Nhị hoàng tử Lưu Cứ để thẩm vấn.”
“Cứ Nhi sẽ không làm chuyện như vậy”, Vệ Tử Phu thất thanh.
“Có hay không thì không phải do thần định đoạt”, Trương Thang trả lời tuy luôn cung kính lễ phép nhưng vẫn không nhường nhịn chút nào, “Hoàng hậu nương nương, xin đừng ngăn cản thần làm việc công.”
“Mẫu hậu”, một giọng nói bình thản từ phía trong điện Tiêu Phòng truyền tới, “Mẫu hậu không cần làm khó ông ta, con đi cùng ông ta là được.” Lưu Cứ được tin liền từ trong điện Tiêu Phòng đi ra. Lúc này cậu chỉ mới mười một tuổi mụ, nhưng đã có phong thái ôn hòa điềm tĩnh chứ không hề giống như một đứa trẻ kiêu căng luôn ở bên cạnh mẫu thân.
“Cứ Nhi”, Vệ Tử Phu xoay lại gọi, vành mắt đỏ bừng suýt rơi lệ nhưng nhớ tới thân phận hoàng hậu của mình nên gắng gượng nén xuống.
“Mẫu hậu không cần lo lắng cho con”, Lưu Cứ tựa như hơi cứng người nhưng vẫn ngẩng đầu, “Cứ Nhi chưa từng làm chuyện này, hơn nữa Cứ Nhi tin tưởng rằng phụ hoàng dù sao cũng là phụ hoàng của Cứ Nhi nên sẽ không dễ dàng để nhi thần chịu oan.”
“Thế nhưng”, Vệ Tử Phu buồn bã nói, “Con từ nhỏ đã ăn sung mặc sướиɠ, được chiều chuộng, chưa từng bị oan ức thế này, liệu có chịu được khổ hay không?”
“Mẫu hậu”, Lưu Cứ cũng quỳ xuống, rơi lệ nói, “Cố nhân có nói, ‘Vua muốn thần chết, thần phải chết; cha muốn con mất, con phải mất’. Con thuộc cả hai loại đó nên cũng không oán trách gì cả. Chỉ xin mẫu hậu đừng thương tâm vì con, thay con nói một tiếng với hoàng tỷ. Hoàng tỷ vừa mới sinh con gái nhưng Cứ Nhi lại không kịp chúc mừng.”
“Điện hạ”, Vệ Thanh nhìn cậu bé, nói, “Trước đây ta vẫn cảm thấy cháu quá kiêu căng, hôm nay mới thấy điện hạ đã bắt đầu gánh vác trọng trách được rồi.”
Lưu Cứ miễn cưỡng cười một tiếng, “Đa tạ cữu cữu khen ngợi.” Cậu đứng dậy đến trước mặt Trương Thang, nói khẽ, “Đi thôi!”
Trương Thang quan sát cậu bé, cung kính nói, “Xin mời điện hạ.”
Vệ Tử Phu cắn răng nhìn theo bóng nhi tử đi xa dần, móng tay bấm chặt da thịt cơ hồ sắp tóe máu. Vệ Thanh trông thấy liền kinh hãi, vội vàng gọi, “Tam tỷ!”
Vệ Tử Phu lúc này mới giật mình tỉnh lại, kinh ngạc nhìn hắn.
“Chúng ta không được làm ầm ĩ ảnh hưởng đến Vệ Trường”, Vệ Thanh nói, “Vào trong điện nói chuyện đi.”
Vệ Tử Phu cho mọi người lui rồi u oán nói, “Tại sao y lại có thể như vậy?”
“Hoàng hậu nương nương”, ngay cả Vệ Trường Quân cũng cảm thấy có gì đó không đúng, gọi vẻ lưỡng lự. “Tại sao y lại có thể như vậy?”, Vệ Tử Phu dường như vẫn không nghe, không tin, rơi lệ nói, “Y có thể tước binh quyền của Thanh đệ, có thể không đặt chân tới điện Tiêu Phòng, có thể không gặp Phỉ Nhi, Vân Nhi, nhưng tại sao y lại có thể cướp đi cả hy vọng duy nhất của ta? Đó chính là con trai năm đợi mười mong mới có được.”
“Tam tỷ”, Vệ Thanh lớn tiếng gọi, “Nếu tỷ còn muốn Cứ Nhi được mạnh khỏe, còn muốn cả Vệ gia chúng ta toàn mạng thì cần phải quên hết chuyện này đi, từ nay không bao giờ được nhớ đến nữa, cho dù có khổ thế nào cũng phải cắn răng nhẫn nhịn.”
“Ta đã nhẫn nhịn bảy năm rồi”, Vệ Tử Phu cả giận nói, “Từ năm Nguyên Sóc thứ sáu, sau khi Trần A Kiều trở về thì ta luôn nhẫn nhịn. Ta nhìn y tới bên cạnh người đàn bà kia, từ đó không bao giờ liếc nhìn ta lấy một lần. Ta nhìn y dần dần chèn ép Vệ gia, thậm chí một lần giam lỏng cả hoàng hậu như ta. Ta nhẫn nhịn lâu như vậy thì đổi lại được cái gì? Cháu ngoại ta chết thảm, con trai ta bị chính phụ thân của mình tống vào phủ Đình úy.”
“Nương nương, người thậm chí còn không hiểu lý lẽ như Cứ Nhi.” Vệ Thanh cũng bị chọc giận, nhưng vẫn khuyên nhủ, “Mặc dù điện hạ bị giam giữ nhưng Trương Thang cũng không có gan dám xử trí hoàng tử. Chỉ cần Trần nương nương tỉnh, tâm tình bệ hạ khôi phục thì tự nhiên có thể điều tra rõ sự thật, trả lại sự trong sạch cho điện hạ.”
“Nếu như”, Vệ Tử Phu chột dạ, nhìn thẳng vào hắn, “Nếu như Trần A Kiều chết thì sao?”
“Thế thì”, Vệ Thanh nhắm mắt lại, chậm rãi nói, “Đó chính là lúc cả Vệ gia chúng ta phải chôn theo.”
“Nếu nói như thế”, Vệ Tử Phu cười lạnh nói, “Ta lại muốn chờ Trần A Kiều không còn tỉnh lại được nữa.”
“Thanh đệ”, nàng ta mỏi mệt cúi đầu, khẽ nói, “Đệ xem một hoàng hậu đang chính vị như ta đã phải nén giận tới mức nào.”
Nàng ta vẫn còn giữ ấn tượng về người con gái kia ngồi trên ngôi vị hoàng hậu kiêu ngạo sai khiến, ý trí dâng tràn, còn mình ở trước mặt người đó lại hèn mọn như con kiến hôi. Năm tháng trôi qua, tình hình biến chuyển, bản thân vẫn cứ ở thế yếu.
“Tại sao vậy chứ?”
Ở trong chốn cung Vị Ương thâm sâu này, vững chắc nhất nhưng dễ biến đổi nhất cũng lòng dạ của quân vương, một khi mất đi sủng ái thì nói gì cũng chỉ uổng công mà thôi.
Dù lao ngục của Thượng Lâm Uyển không thâm nghiêm lạnh lẽo như của phủ Đình úy nhưng phải ở trong đó suốt hai ngày Công Tôn Kính Thanh cũng thấy cực kỳ sợ hãi, cảm giác cuộc đời từ đây cũng đen tối như thứ ánh sáng âm u trong lao ngục này vậy.
Cửa lao mở ra loảng xoảng, tiếng chân người loẹt quẹt trong bóng tối nghe rất rõ.
“Công Tôn Kính Thanh!” Người vừa tới cất tiếng gọi.
Công Tôn Kính Thanh ngẩng đầu lên nhìn, “Là ngươi?” Gã kinh ngạc, chợt sầm mặt xuống đề phòng, “Ngươi tới nơi này làm gì?”
Trần Hi cười khẽ, “Ta là cháu nên muốn đến xem hung thủ làm cô cô của ta bị thương, Mạc đại nhân xem ở lòng hiếu thảo nên mới châm chước cho được ngoại lệ.”
“Ngươi đắc ý rồi chứ?” Công Tôn Kính Thanh oán độc hỏi. Gã vốn cũng là con cháu quý tộc ở Trường An như Trần Hi, chỉ vì phân ra hai nhà Trần, Vệ mà càng xem thường Trần Hi là con vợ kế nên từ trước đến nay không quen biết, không ngờ hoàn cảnh thay đổi lại gặp nhau trong ngục.
“Đương nhiên là đắc ý”, Trần Hi cười dài, “Ta còn phải cảm ơn ngươi nữa kìa.”
Công Tôn Kính Thanh nheo mắt, “Ngươi có ý gì?”
“Ta nghe mọi người nói Kính Thanh của Công Tôn gia chỉ là một kẻ ăn chơi lêu lổng, bất tài chẳng làm nên trò trống gì, hôm nay gặp mặt quả nhiên là thế.” Trân Hi từ trên cao nhìn xuống, giọng khinh miệt, “Ta đang lo không có cách nào đem việc này đổ lên Vệ gia thì ngươi lại tự mình khai ra Lưu Cứ giúp cho chúng ta. Cơ nghiệp huy hoàng của Vệ gia đều chỉ trông vào một hoàng tử. Chỉ cần Lưu Cứ đổ thì Vệ gia sẽ không còn tồn tại. Khi đó tổ chim bị phá, trứng còn có thể nguyên vẹn không? Công Tôn Kính Thanh nhà ngươi cũng sẽ ở vào chỗ nào?”
“Không thể như vậy được?” Công Tôn Kính Thanh kinh hoàng, lạc giọng nói, “Lưu Cứ là hoàng tử, bệ hạ dù tàn nhẫn thế nào cũng sẽ không động đến con của mình.” Hai ngày nay, gã vẫn luôn suy nghĩ đến chuyện này, không biết mình có làm sai hay không. Dù sao ngàn vạn lần cũng không thể khai ra chủ mưu thực sự. Lúc này ngay cả bản thân vẫn còn do dự, lại bị Trần Hi khinh miệt, nên gã tuyệt vọng chỉ biết lẩm bẩm tự trấn an, “Nếu chủ mưu không việc gì thì bệ hạ chắc sẽ không lấy mạng một kẻ tòng phạm như ta.”
“Ngươi thật ngây thơ.” Trần Hi nhìn gã qua song sắt, ánh mắt thương hại, “Bệ hạ có bốn con trai chứ không phải chỉ có một mình Lưu Cứ, hơn nữa bệ hạ cũng không sủng ái đặc biệt gì với hắn cả. Lưu Cứ là cây đinh đâm vào da thịt Trần gia, khó có cơ hội tốt như vậy, chúng ta làm sao có thể để cho hắn toàn thân thoát ra được. Nói trắng ra”, Trần Hi nói giọng đều đều, “Lưu Cứ thật ra có phải là chủ mưu hay không thì từ đáy lòng ngươi biết rõ. Lúc này e là không phải chỉ riêng Trần gia muốn ngươi chết để đòi công bằng cho cô cô và Duyệt Trữ, mà chính là Vệ gia, thậm chí cả người biểu đệ tính tình ôn hòa của ngươi cũng hận ngươi không biết phân biệt nặng nhẹ kéo hắn xuống nước, sẽ không bao giờ đưa tay cứu giúp ngươi.”
Công Tôn Kính Thanh chán nản ngã vật xuống đất, cúi đầu hỏi, “Đã như vậy thì ngươi tới đây để làm gì?”
“Ta muốn ngươi phải chết trong tuyệt vọng.” Trần Hi dằn giọng, “Ngươi làm thương tổn đến cô cô, Trần gia tuyệt đối sẽ không bỏ qua.” Nói xong, hắn không nhìn thêm Công Tôn Kính Thanh một lần nào nữa, chắp tay rời đi.
“Trần công tử”, Mạc Long đứng ở ngoài lao, thấy Trần Hi đi ra ngoài thì hỏi vẻ khó hiểu, “Công tử cần gì phải nói rõ lợi hại với gã chứ?”
“Bởi vì ta muốn hắn phản cung”, Trần Hi cúi đầu nhìn xuống đất, liền thấy vẻ mặt kinh ngạc của Mạc Long thì giải thích, “Mạc đại nhân ít khi gặp thánh giá nên không hiểu về cô phụ[1] của ta rồi. Bệ hạ chính là một quân chủ anh minh nhưng hiện giờ đang đau đớn vì chuyện của cô cô nên mới tin khẩu cung của Công Tôn Kính Thanh. Sau này nghĩ tới tính tình của Lưu Cứ thì chắc chắn sẽ nghi ngờ. Nếu Công Tôn Kính Thanh phản cung, bệ hạ ngược lại sẽ nghi ngờ Vệ gia làm, cũng sẽ chứng thực tội danh của Lưu Cứ.”
[1] Cô phụ: Chú, chồng của cô.
“Công tử quả nhiên là thông minh”, Mạc Long không khỏi thở dài.
Lát sau, từ dưới lao truyền đến tiếng gào thét của Công Tôn Kính Thanh, “Gọi Mạc Long, ta muốn phản cung, ta muốn phản cung.”
Trần Hi khẽ mỉm cười nhìn Mạc Long chắp tay thi lễ, “Trần công tử, ta phải đi rồi.”
“Nhị công tử!” Một thị tòng gọi khẽ.
“Có chuyện gì?”
“Nhị thiếu phu nhân bế Mạn thiếu tiểu thư đi theo Đại công chúa trưởng tới đây.”
“Bà ngoại”, Trần Hi cau mày, “Bà ngoại tuổi tác đã cao, làm sao chịu nổi dằn xóc trên đường?”
“Cũng hết cách.” Thị tòng bất đắc dĩ nói, “Ai chẳng biết Đại công chúa trưởng yêu thương Trần nương nương nhất. Nương nương gặp chuyện, Đại công chúa trưởng yêu con sốt ruột nên không ai ngăn được. Hơn nữa”, gã nhẹ giọng, “Là bệ hạ mời Đại công chúa trưởng tới.”
Trần Hi dừng bước, “Nếu vậy chúng ta trở về xem thế nào.”
Hắn trở lại dưới lầu, quả nhiên thấy Lý Nghiên đang bế Mạn Nhi, phong thái yểu điệu, tuổi tác càng lớn càng thêm xinh đẹp.
“Nghiên Nhi!”, Trần Hi âu yếm, ôm lấy Trần Mạn, nựng yêu, “ Mạn Nhi ngoan, cha nhớ con quá.” Mạn Nhi không sợ hãi mà cười như nắc nẻ.
“Hi ca!” Lý Nghiên dịu dàng, “Bà ngoại phụng mệnh tới đây nên thϊếp đi theo chăm sóc.”
“Ừ.” Trần Hi gật đầu, hỏi, “Bà ngoại đâu rồi?”
“Đã tới điện Tín Hợp thăm cô cô rồi.”
“Nói như vậy”, Trần Hi trầm ngâm, “Tình cảm của bệ hạ đối với cô cô cũng không nhỏ.” Lý Nghiên mỉm cười nhưng không lên tiếng, nhẹ nhàng nhìn qua đánh giá phu quân của mình.
“Có chuyện gì?”, Trần Hi hỏi.
“Không có gì”, Lý Nghiên khẽ cúi đầu.
Cô vẫn cho phu quân của mình là một vị công tử thành tâm thành ý, ôm mối tình si với mình nhưng từ khi xảy ra chuyện ở Thượng Lâm Uyển tới nay, Trần Hi bày mưu nghĩ kế, từng bước đi đều có lợi cho Trần gia, một Trần Hi như vậy thật sự vẫn là người mà cô cho rằng một mực thành tâm thành ý sao?
“Nghiên Nhi đi đường vất vả hẳn cũng mệt mỏi”, Trần Hi không nghi ngờ gì, âu yếm nói, “Nghỉ ngơi trước đi, để ta bế Mạn Nhi cho.”
“Được rồi.” Lý Nghiên khẽ lắc đầu gạt đi những nghi vấn trong lòng, có một số việc cứ để mặc, đừng tìm hiểu thì tốt hơn. Dù thế nào thì Trần Hi vẫn là một phu quân tốt không tì vết, cũng là một người cha tốt, cô không có điều gì phải oán giận.Quyển 3 - Chương 62: Mộng sao vẫn mãi kéo dàiQuán Đào công chúa trưởng Lưu Phiếu vừa đến Thượng Lâm Uyển thì lập tức tới ngay điện Tín Hợp, thấy A Kiều nằm trên giường sắc mặt tái nhợt yếu ớt thì xém chút rơi lệ.
“Cho tới hôm nay đã là ngày thứ ba mà A Kiều vẫn chưa tỉnh lại”, Lưu Triệt nói giọng khản đặc. Đế vương càng dễ nổi nóng, sắc mặt các ngự y cũng càng ngày càng tái nhợt.
A Kiều đang mê man trên giường đột nhiên ứa ra một giọt nước mắt trên mặt nàng, lẩm nhẩm gọi, “Mẫu thân.”
“Trẫm nghĩ”, Lưu Triệt đưa tay áo nhẹ nhàng lau đi giọt nước mắt trên mặt nàng, nói, “Có khả năng Kiều Kiều hy vọng được gặp cô cô một lần nên dù biết cô cô tuổi tác đã cao nhưng vẫn mời tới đây một chuyến.”
Lưu Phiếu thầm kinh ngạc, sau khi cháu của bà lên nắm quyền thì bà đã không còn thấy y như vậy. Những năm gần đây, bà dần hiểu tính cách thích mềm không thích cứng của Lưu Triệt nên lúc này rơi lệ, nói, “Đứa bé đáng thương còn chưa thấy mặt mẫu thân đã ra đi rồi. A Kiều nhất định rất đau đớn.”
Khóe môi Lưu Triệt khẽ cong lên, ánh mắt dần lạnh băng, “Cô cô yên tâm, chuyện này, trẫm sẽ xử lý.”
Y hứa hẹn với Trần gia như vậy lại khiến Lưu Phiếu giật mình, lúc này mới nghĩ đến đứa cháu đang ở ngôi chí tôn này cũng là cha đứa bé trong bụng A Kiều, bất giác cảm thấy áy náy, nói, “Hoàng thượng, người trở về nghỉ đi. A Kiều tỉnh lại mà thấy người như vậy cũng sẽ không an lòng.”
Lưu Triệt đã mấy ngày không ngủ ngon giấc nên biết dáng vẻ của mình tiều tụy, hơn nữa Công chúa trưởng Quán Đào chăm sóc A Kiều thì cũng yên tâm nên y không gắng thêm, bèn nói, “Trẫm nằm nghỉ ở điện Thiên, nếu Kiều Kiều tỉnh thì phiền cô cô gọi một tiếng.”
Lưu Phiếu đưa mắt nhìn Lưu Triệt đi khỏi rồi mới ngồi bên cạnh A Kiều, ra lệnh, “Đổi lại khăn ấm cho nương nương.” Lục Y đứng hầu một bên đáp lời rồi khẽ khàng đi xuống.
“A Kiều!” Lưu Phiếu nhẹ nhàng vuốt ve khuôn mặt của nàng, “Con cũng nên tỉnh lại rồi.”
Nếu không tỉnh lại thì không chỉ có Vệ gia mà ngay cả lòng người của Trần gia cũng sẽ rối loạn. Điều kiện tiên quyết của sự tranh đấu giữa hai nhà Trần, Vệ chính là Trần A Kiều cùng Vệ Tử Phu còn tồn tại, nếu người mất thì thắng cũng như thua. Lưu Phiếu không phải không thương tâm vì đứa cháu chưa từng gặp mặt, nhưng ánh mắt bà dần trầm xuống. Chuyện đã xảy ra rồi, nếu có thể dùng một hoàng tử đổi lấy việc tiêu diệt Vệ gia cũng có thể coi là một giao dịch đáng giá. Chỉ nghĩ đến A Kiều, vốn là người chí tình chí nghĩa nên chắc chắn sẽ vô cùng đau đớn. Còn Lưu Triệt, nếu Lưu Phiếu không phải là người hiểu rõ về đứa cháu này thì cũng cho rằng y thật sự rất yêu A Kiều. Vô tình nhất chính là đế vương, Lưu Phiếu thở dài. Lục Y đã mang khăn sạch từ ngoài điện đi vào, Lưu Phiếu nhận lấy, cẩn thận lau người cho A Kiều. Đυ.ng phải vết thương trên cơ thể năm xưa, không chỉ A Kiều dè chừng mà ngay cả Lưu Phiếu cũng cảnh giác.
Cũng không biết bao lâu, chẳng biết có phải do mẹ con có tâm ý liên thông nhưng Lưu Phiếu bỗng nhiên quay đầu lại, thấy một ngón tay của A Kiều khẽ động đậy.
“A Kiều!” Bà cố nén nỗi vui mừng, khẽ gọi.
A Kiều từ từ mở mắt, sau một lúc lâu mới nhìn rõ người trước mặt.
“Lục Y!” Lưu Phiếu cất giọng bảo, “Còn không đi gọi bệ hạ.”
“Dạ!” Lục Y vội vàng đáp rồi rời đi.
“Mẫu thân!” Trần A Kiều gọi một tiếng, cảm giác giọng nói của mình mỏng manh đến mức ngay cả bản thân cũng không nghe thấy, song Lưu Phiếu đã rơi lệ, liên tục nói, “Con tỉnh là tốt rồi.”
Lúc Lưu Triệt chạy tới thì thấy A Kiều đã rúc vào ngực cô cô, khóc nức nở đến khàn giọng. Mấy ngày liên tiếp mất sức hôn mê khiến nàng không còn cả sức lực để khóc, cuối cùng chỉ ứa nước mắt. Những giọt nước mắt như rơi vào lòng y, để lại chút dấu vết rồi bốc hơi bay lên. Y cảm nhận được nỗi đau khổ trong tiếng khóc của nàng, dù là khóc không thành tiếng. Một lúc lâu sau Lưu Phiếu mới nói, “A Kiều, con ngủ suốt mấy ngày qua rồi, gắng ăn chút cháo đi.”
Cháo đã chuẩn bị sẵn ngoài điện, luôn được hâm nóng. Lục Y mang vào, đặt ở trước giường. A Kiều định cầm lấy thìa nhưng cánh tay không còn sức để cầm, đánh rơi xuống nền điện tạo thành một tiếng vang trong trẻo. Lập tức có cung nhân tới nhặt rồi đổi thìa mới. Lần này Lưu Triệt tự mình cầm lấy, múc cháo đưa đến tận miệng A Kiều .
Lưu Phiếu khẽ mỉm cười, từ từ thối lui. Ánh mặt trời chiếu sáng rực bên ngoài điện Tín Hợp, mây đen bao phủ Trần gian cũng dần tản đi.
A Kiều liếc nhìn Lưu Triệt. Dù đã được nghỉ ngơi nửa ngày nhưng khuôn mặt y vẫn còn vẻ hốc hác. Có thể dễ dàng nhận thấy mấy ngày qua y lo lắng đến thế nào. Nàng ngoan ngoãn dựa vào y, húp được non nửa chén cháo thì lắc đầu bảo thôi. Cảm giác ấm áp lan dần vào dưới bụng. Nơi đó đã từng ẩn chứa một sinh mạng, chỉ vì nàng qua sơ suất mà để mất đi. Nghĩ đến đây, nàng lại muốn rơi nước mắt nhưng cố gắng ngăn lại, trước mặt vẫn mờ đi.
“Kiều Kiều!” Lưu Triệt thở dài, đưa chén cháo cho cung nhân rồi ôm lấy nàng không nói nổi những lời an ủi. Lúc đầu A Kiều còn tự làm thuốc ngừa thai rất công hiệu nhưng về sau có mấy lần không ngăn được Lưu Triệt mà vẫn chẳng xảy ra chuyện gì nên dần dần lơ là, nào ngờ…
“Kiều Kiều!” Lưu Triệt lại gọi khẽ, “Sao nàng ngủ lâu vậy?” Nàng không biết điều đó, chỉ biết y vẫn luôn túc trực bên cạnh nhưng muốn tỉnh dậy lại không được.
“Vừa rồi trẫm mặc nguyên y phục ngủ ở điện Thiên thì đã gặp một giấc mộng.”
“Vậy à?” Nàng lơ đãng hỏi, “Mộng thấy cái gì?”
Lưu Triệt không đáp, nhìn nàng một lúc lâu, ánh mắt kỳ lạ, cuối cùng hôn lên trán nàng, âu yếm, “Trẫm sẽ như nàng mong muốn.”
Trường An có chính sự báo đến nên Lưu Triệt không thể ở thêm tại điện Tín Hợp, chỉ giao việc đâu vào đấy rồi quay về. Trần A Kiều nhìn ánh mặt trời bên ngoài điện khẽ hỏi, “Công chúa Duyệt Trữ đâu?” Lục Y hầu hạ ở bên nghe vậy liền đáp, “Công chúa mấy ngày nay cứ ở một mình ở trong tẩm điện không chịu ra ngoài, Mạch điện hạ vẫn theo sát an ủi.”
A Kiều thở dài, cảnh tượng hôm đó rốt cuộc đã làm Tảo Tảo sợ hãi. Mấy ngày nay, mọi chú ý ở Thượng Lâm Uyển đều dồn về mình mê man bất tỉnh, ngoài Mạch Nhi thì e rằng chẳng ai nghĩ đến việc Công chúa Duyệt Trữ đang tự dày vò bản thân.
“Gọi Công chúa và Hoàng tử trưởng đến đây.” Nàng ra lệnh, Lục Y lĩnh mệnh lui ra.
Sau một lúc lâu thì nghe có tiếng bước chân nhẹ nhàng ngoài hành lang. Lưu Sơ rón rén đến trước giường của nàng, cúi đầu chào, “Mẫu thân!”, giọng cô bé đầy vẻ sợ sệt.
“Tảo Tảo ngốc quá”, A Kiều vừa tức giận vừa chua xót, “Vết thương hôm đó của con sao rồi?”
“Mẫu thân”, Lưu Sơ ngẩng đầu lên nhìn nàng, vẻ mặt kinh ngạc, “Người không trách con sao? Nếu không phải con làm loạn đòi cưỡi ngựa”, mắt cô bé dần dần đỏ lên, “đệ đệ sẽ không mất, mẫu thân cũng sẽ không mê man suốt ba ngày.”
“Chỉ có muội là cứ tự trách mình thôi.” Phía sau, Lưu Mạch gạt đi, “Ca ca đã nói suốt ba ngày nay với muội rồi, muốn trách thì phải trách kẻ có ý đồ hại người. Mẫu thân và phụ hoàng thương muội như vậy, sao có thể nói gì chứ.”
“Tảo Tảo”, A Kiều dịu dàng gọi con gái lại, nắm tay bảo, “Con phải nhớ rằng mẫu thân biết đây không phải là lỗi của con nên đừng tự trách. Thật ra thì…”, nàng cười buồn bã, “cho dù con có không cẩn thận làm sai chuyện gì thì mẫu thân cũng không nỡ trách con bởi vì mẫu thân đã mất đi em bé, nếu lại trách con, giận con thì sẽ mất luôn cả con nữa.”
“Mẫu thân”, Lưu Sơ ôm lấy A Kiều, khóc òa lên, “Mẫu thân, sau này nhất định con sẽ thật là hiếu thuận với người, thêm luôn cả phần cho đệ đệ nữa.”
Đang xúc động nhưng A Kiều nghe nói như vậy thì vẫn không nhịn được cười, “Tại sao con lại biết đó nhất định là đệ đệ. Có thể là muội muội đấy.”
“Mẫu thân”, Lưu Sơ cũng không để ý, nũng nịu hỏi, “Con ở lại đây với mẫu thân có được không?”
Trần A Kiều khẽ lau nước mắt trên mặt cô bé, “Được rồi.”
Lưu Sơ dọn chỗ rồi nằm xuống bên cạnh nàng. Có lẽ bởi vì mấy ngày nay áy náy không ngủ được, lúc này lòng nhẹ nhõm nên cô bé vừa ôm lấy A Kiều thì lập tức ngủ say.
“Mạch Nhi”, nàng nhìn con trai, nhẹ giọng nói, “Mấy ngày qua cực khổ cho con quá.”
Lưu Mạch biết tự kiềm chế nên chỉ nói, “Mẫu thân tỉnh là tốt rồi.” Tuy vậy tuổi cậu vẫn còn nhỏ nên trong đôi mắt đen nhánh giống hệt như Lưu Triệt vẫn lộ ra vẻ hân hoan.
Đến gần chiều tối, Lưu Triệt từ tiền điện trở về, tay cầm một tập tấu chương, nét mặt vẫn còn tức giận, hậm hực nói, “Hay cho một trung thần.” Y trông thấy A Kiều nằm trên giường bình tĩnh xoay nghiêng gương mặt mỹ lệ thì chững lại, cơn tức giận cũng dần nhạt đi.
“Phụ hoàng”, Lưu Mạch lẳng lặng hành lễ, tư thế cung kính.
“Có chuyện gì vậy?” Nàng khẽ hỏi.
“Cũng không có gì”, Lưu Triệt bình thản đáp, đưa tấu chương trong tay cho Lưu Mạch, “Mạch Nhi, con cũng đã lớn rồi, phải học làm một số việc thực sự đi. Bản tấu chương này, con xem thấy thế nào?”
Lưu Mạch mở tấu chương, nhanh chóng đọc lướt qua rồi khẽ cau mày, lưỡng lự nói, “Phụ hoàng.” Lưu Triệt mỉm cười, xua xua tay, “Mẹ con mới tỉnh, con không được quấy rầy người nghỉ ngơi. Lui xuống trước đi.”
Lưu Mạch trầm tư giây lát rồi vâng lời, “Dạ.” Cậu xoay người bước ra khỏi điện Tín Hợp, chắp tay suy nghĩ một chút rồi đi thẳng về hướng khu nhà dành cho các quan lại tùy tùng ở phía bắc Thượng Lâm Uyển.
Mặc dù chức quan của Gián đại phu Trần Hi trên triều đình không tính là cao nhưng lại là con cháu dòng chính của Trần gia nên người ở Thượng Lâm Uyển không dám lơ là, thu xếp cho ở tại Linh Lung các. Bên trong Linh Lung các, Trần Hi đang đùa với Trần Mạn quấn trong tã lót. Trần Mạn khua khua bàn tay bé nhỏ, cười khanh khách, nét mặt sinh động, trong lòng Trần Hi tràn ngập vui sướиɠ. Chợt hắn nghe thấy bên ngoài cửa có tiếng nữ tỳ quỳ xuống chào nho nhỏ, “Mạch điện hạ thiên tuế!”, bèn kinh ngạc quay đầu lại, quả nhiên thấy Lưu Mạch đang đứng ngoài cửa.
“Hi biểu ca, biểu tẩu!”, Lưu Mạch gật đầu chào hỏi.
Lý Nghiên hơi đỏ mặt lên, quỳ gối chào, “Mạch điện hạ!”
Trần Mạn đang được Trần Hi bế trong lòng bỗng nhiên thò tay ra với với về hướng Lưu Mạch, miệng bập bẹ nói gì đó nhưng vì còn quá nhỏ nên ngay cả cha mẹ cũng không nghe rõ. Lưu Mạch mỉm cười hiền hậu, cởi đôi khuyên tai ngọc đang đeo bên hông ra tặng, “Khi cháu họ ra đời thì Lưu Mạch ở trong thâm cung không đến thăm được. Hôm nay tiện đây có một đôi khuyên tai ngọc làm lễ gặp mặt.”
Trần Hi khẽ gật đầu đáp, “Trần Hi xin nhận thay cho Mạn Nhi, xin đa tạ Mạch điện hạ!” Hắn biết Lưu Mạch đến đây thì tất có chuyện quan trọng muốn bàn nên liền giao con gái trong tay cho Lý Nghiên, bảo, “Nàng bế Mạn Nhi vào trong trước đi.” Lý Nghiên gật đầu, đón lấy Mạn Nhi rồi quay người đi vào trong.
“Điện hạ!” Trần Hi quay lại, mỉm cười hỏi, “Nghe nói cô cô đã tỉnh lại rồi à?”
“Ừ.”
“Vậy thì tốt rồi. Điện hạ đến đây là có chuyện gì sao?”
“Hôm nay Tả giám đình úy Mạc Long dâng biểu lên Hoàng thượng nói rằng Công Tôn Kính Thanh trong lao ngục vừa thay đổi khẩu cung, không chịu nhận Nhị hoàng tử Lưu Cứ là chủ mưu trong vụ trường bắn ngày hôm đó, song Mạc Long hỏi chủ mưu đích thực là ai thì hắn lại không trả lời được. Phụ hoàng vô cùng giận dữ.” Lưu Mạch không nhìn Trần Hi, giữ giọng bình thản thuật lại.
“Ồ?” Trần Hi cười đắc ý, “Thật sao?”
“Hi biểu ca”, Lưu Mạch ngẩng đầu lên, cặp mắt đen láy sắc bén nhìn Trần Hi chằm chằm khiến hắn tựa như có một loại ảo giác là bản thân mình đang đối mặt với bậc đế vương uy nghiêm trên điện Tuyên Thất. “Xin hãy nói thật cho ta biết, huynh có nhúng tay vào chuyện này hay không?”
“Dĩ nhiên là có!” Ngoài dự tính, Trần Hi mỉm cười thừa nhận dứt khoát, “Ta làm nhiều việc cho Trần gia chẳng qua chỉ để hỗ trợ điện hạ ngày sau lên ngôi hoàng đế, vì vậy nên cũng không cần phải dối gạt điện hạ.”
“Như vậy”, Lưu Mạch hơi trầm giọng xuống, “Hôm đó làm ngựa kinh hoảng ở trường bắn, huynh có…?” Cậu chần chừ một chút, không biết phải hỏi tiếp như thế nào. Song Trần Hi lại nói giọng lạnh tanh, “Điện hạ, sau khi xảy ra chuyện này thì đúng là Trần gia mới suy nghĩ để làm sao từ đó mưu cầu được lợi ích lớn nhất, thậm chí là đánh đổ Vệ gia. Nhưng Trần gia tuyệt đối không bịa đặt, gây chuyện có hại cho cô cô. Phải biết rằng cô cô không chỉ là mẫu thân của đệ mà còn là cô cô của ta.”
Lưu Mạch nhìn thẳng vào mắt hắn một lúc lâu rồi cuối cùng chớp mắt, “Ta tin tưởng huynh.”
“Cũng xin biểu ca nhớ kỹ rằng ta tuyệt đối không cho phép một ai làm tổn thương mẫu thân và muội muội của ta.”
Lưu Mạch đến nay mới mười hai tuổi mụ! Trần Hi âm thầm kinh hãi trước khí độ làm người khác phải bái phục kia, cất tiếng cười phụ họa, “Điều này thì dĩ nhiên rồi.”
“Làm như vậy”, Lưu Mạch dùng ngón tay phải gõ nhè nhẹ lên án thư, nói tiếp, “Biểu ca cũng không nên quá xem thường phụ hoàng của ta.” Tuy cậu nói giọng nhẹ nhàng nhưng giây phút đó lại khiến Trần Hi kinh sợ toát mồ hôi lạnh khắp người, hỏi lại, “Điện hạ có ý gì thế?”
“Ta sống cùng Lưu Cứ ở Bác Vọng hiên đã bao nhiêu năm nên biết Lưu Cứ tính tình ôn hòa lương thiện giống mình, không phải là kẻ biết làm những chuyện như vậy. Ngay cả có tính cách khác-thì Lưu Cứ cũng không ngu xuẩn, chẳng lẽ nó không biết rằng cho dù hại được Tảo Tảo thì cũng không có ích lợi gì đối với nó mà ngược lại còn mất đi đạo lý. Biểu ca mặc dù thông minh nhưng rốt cuộc vẫn không hiểu được phụ hoàng của ta bằng ta. Phụ hoàng là cha của Lưu Cứ, há lại không hiểu rõ điểm này hay sao?” Lưu Mạch điềm nhiên nói, “Hôm đó ta lo lắng cho mẫu thân nên không suy nghĩ được kỹ, bây giờ thì rõ ràng rồi.”
“Cho nên ở điện Tín Hợp phụ hoàng mới thử dò xét ta”, cậu thầm than một tiếng.
Trần Hi trước giờ vẫn cảm thấy mãn nguyện cho rằng những bố trí linh hoạt của mình sẽ làm cho Vệ gia thất điên bát đảo, lúc này mới thấy như bị một gáo nước lạnh xối vào đầu, chẳng những không đánh đổ được Lưu Cứ mà ngay cả nhà mình cũng sẽ bị liên lụy. Nhưng hắn cũng có tâm trí kiên định, không để lộ ra mặt, nên đứng dậy chắp tay, “Điện hạ cao minh, không biết điện hạ cảm thấy nên tiếp tục chuyện này như thế nào?”
Lưu Mạch khẽ mỉm cười, ngạo nghễ nói, “Nếu mọi người muốn phù trợ cho ta thì chính bản thân mình cũng cần có chút bản lĩnh mới có thể khiến người khác phục. Biểu ca cho rằng căn cơ của Vệ gia nằm ở Nhị hoàng tử Lưu Cứ, Mạch Nhi lại cho rằng căn cơ của Vệ gia là ở Hoàng hậu Vệ Tử Phu.”
Cậu nhớ lại chuyện mẫu thân bị tủi nhục ở Vị Ương cung năm xưa thì ánh mắt bất giác trầm xuống, lạnh lùng nói, “Gia nghiệp huy hoàng của Vệ gia chẳng qua lập thành từ sau khi Vệ Tử Phu lên ngôi hoàng hậu. Một khi Vệ Tử Phu không còn là hoàng hậu nữa thì thân phận của Vệ gia sẽ không còn mà Lưu Cứ cũng mất đi chỗ dựa để lập thân, cho dù vẫn là hoàng tử nhưng chẳng qua cũng giống như Lưu Hoành, Lưu Đán không đáng lo ngại.”
Nói thêm, Vệ Tử Phu lại không phải là mẫu thân Trần A Kiều của mình, thời thế cũng không còn là năm Nguyên Quang nữa, điều đó cho thấy một khi Vệ Tử Phu mất ngôi vị thì sẽ không có cơ hội quật khởi.
“Điện hạ”, ánh mắt Trần Hi thoáng lộ vẻ bội phục nhưng rồi lại thở dài, “Đệ nhân đạo và lương thiện quá!”
“Tìm chỗ có thể khoan dung để mà độ lượng”, Lưu Mạch khẽ chép miệng, “Đối với phụ hoàng đôi khi không chém tận gϊếŧ tuyệt thì mới có thể tìm được đường sống tốt hơn.”
“Như vậy thì điện hạ tính phải làm sao?”
“Biểu ca”, Lưu Mạch khẽ thốt lên, “Ta không tin rằng Công Tôn Kính Thanh không cố ý làm thương tổn Tảo Tảo, như vậy thì chủ mưu thật sự sẽ là ai đây?”
Trong điện Tín Hợp, Công chúa Duyệt Trữ dần dần tỉnh dậy, trông thấy phụ hoàng liền cười hồn nhiên, chợt nhớ lại chuyện lúc trước thì ánh mắt lập tức chuyển thành sợ hãi, Lưu Triệt bật cười bảo, “Con về trước đi.”
Cô bé gật đầu, nhảy xuống giường, chân giẫm xuống nền điện lạnh như băng nhưng cũng không để ý, nhìn quanh một vòng, “Ca ca đâu rồi?”
Lưu Triệt đáp cho qua chuyện, “Mạch Nhi chắc đang xử lý một vài công chuyện.”
“Bệ hạ”, A Kiều xoay người nhìn sang với ánh mắt đầy nghi hoặc, “Rốt cuộc là có chuyện gì vậy?”
“Kiều Kiều”, Lưu Triệt vòng tay từ sau lên bịt mắt nàng, “Nàng không cần nhìn, không cần nghe, không cần lo nghĩ gì cả, đến khi mọi việc kết thúc thì trẫm sẽ dẫn nàng trở về Vị Ương, được chứ?”
Nàng nhìn xuyên qua kẽ tay của y, thấy ánh sáng âm u trong điện. Tiết trời ngày xuân biến đổi nhanh chóng, vừa mới xanh trong rực rỡ mà lúc này đã thành u ám, tựa hồ bão táp lại sắp xảy ra. Trong lòng nàng chợt thoáng qua cảm giác bất an.Quyển 3 - Chương 63: Liều lấy máu can gián phụ vươngTại điện Tiêu Phòng trong cung Vị Ương hoa mĩ cách xa ngoài trăm dặm, chị cả của Vệ gia là Vệ Quân Nhụ đang quỳ gối trước điện, đau khổ cầu xin, “Hoàng hậu nương nương, hãy cứu lấy Kính Thanh của tỷ.”
Vệ Tử Phu phiền não đi qua đi lại một hồi, nhẫn nhịn hết mức nhưng cuối cùng cũng gắt lên, “Bản thân nó không ra gì mới phạm tội đến mức này, thậm chí còn liên lụy tới cả Cứ Nhi. Chuyện cho tới bây giờ thì bản cung cũng hết đường xoay xở, tỷ muốn bản cung cứu thế nào cho được? Đại tỷ, tỷ đã nuôi dạy Kính Thanh thế nào vậy?”
Vệ Quân Nhụ xót xa cho cảnh ngộ của con trai, đau đến quặn tim, nước mắt lã chã, lẩm bẩm nói, “Muội dạy con gái cũng đâu có hơn.”
Vệ Tử Phu ngồi trên điện lập tức nhíu mày, lạnh giọng hỏi, “Tỷ vừa nói gì?”
Vệ Quân Nhụ do dự một lát rồi dập đầu, “Mới vừa rồi là thần nói bừa, mong nương nương nghĩ đến tình chúng ta là con cùng một mẹ mà cứu cháu của nương nương một lần.”
Vệ Tử Phu chợt siết chặt nắm tay trong ống tay áo lễ phục hoàng hậu rộng rãi hoa mỹ, sau đó từ từ thả lỏng, bước đến đỡ Vệ Quân Nhụ lên, ôn tồn bảo, “Đại tỷ, không phải là ta không nghĩ cách cứu Kính Thanh nhưng cả ta và Thanh đệ đều bất ngờ về chuyện này thì làm thế nào để cứu đây? Nếu tỷ có biết được điều gì thì xin hãy nói cho rõ ra.”
“Cứ Nhi là con ta”, nàng ta nhìn thấy vẻ mặt chần chờ của Vệ Quân Nhụ thì mắt dần đỏ lên, “Kính Thanh là cháu của ta, sao bản cung lại có thể thấy chết mà không cứu chứ?”
Vệ Quân Nhụ cắn răng, hạ quyết tâm, nói, “Ta cũng không biết rõ lắm, nhưng trừ Cứ Nhi ra thì chỉ có Dương Thạch mới có thể bảo vệ được Kính Thanh.”
“Vân Nhi!” Vệ Tử Phu thất thanh.
“Nương nương cũng biết”, Vệ Quân Nhụ sợ hãi nhìn nàng ta rồi nói tiếp, “Công chúa Dương Thạch chơi với Kính Thanh từ nhỏ…” Bà ta thấy vẻ mặt nghiêm nghị của Vệ Tử Phu thì nói nhỏ dần rồi nuốt vào mấy lời cuối cùng.
“Bản cung biết rồi”, Vệ Tử Phu thản nhiên, “Đại tỷ về trước đi. Để bản cung thử nghĩ thêm rồi sẽ quyết định nên hành động thế nào.”
Đợi cho Vệ Quân Nhụ đi khỏi, nàng ta giận tái mặt, hỏi, “Vệ Trường công chúa sao rồi?”
Nữ quan thân tín Thải Vi nãy giờ vẫn im như thóc lúc này mới bước lên bẩm, “Đã tỉnh rồi nhưng cơ thể còn yếu ớt.”
Nàng ta gật đầu rồi đi về phía tẩm điện của con gái. Thị nữ vén rèm lên, Vệ Tử Phu liền trông thấy Lưu Phi đang bế con gái quấn trong tã lót ngồi trên đầu giường phía xa, miệng cười hàm chứa vẻ u sầu. Tính Vệ Phỉ vốn hay suy nghĩ từ nhỏ nên mấy ngày nay Vệ Tử Phu thường thấy con gái buồn bực không vui thì cũng chỉ cho là nó đau đớn vì cái chết của biểu ca Hoắc Khứ Bệnh nhưng hôm nay xem ra lại không đơn giản như vậy. Ba đứa con gái của nàng ta từ nhỏ đã rất gắn bó, đặc biệt rất tôn trọng chị cả, nếu như Dương Thạch có suy nghĩ gì thì chắc chắn là Lưu Phỉ sẽ biết.
“Mẫu hậu”, Lưu Phỉ ngẩng đầu lên, nhìn thấy Vệ Tử Phu liền nhẹ nhàng cất tiếng chào.
Vệ Tử Phu gật đầu, bảo Thải Vi, “Dẫn tất cả mọi người ra ngoài.” Nàng ta quay sang thấy vẻ mặt Lưu Phỉ thoáng vẻ sợ hãi thì trong lòng chợt lạnh đi, nghĩ chắc Lưu Phỉ đã biết chuyện.
“Hiện giờ ở trong tẩm điện”, Vệ Tử Phu thong thả bước từng bước một về phía trước giường Lưu Phỉ, “chỉ có hai mẹ con chúng ta. Phỉ Nhi, mẫu thân biết con làm việc luôn biết kiềm chế, sao lại ngu ngốc đến mức như vậy?”
“Mẫu hậu”, Lưu Phỉ rơi lệ nói, “Con cũng không lường được. Lúc Vân Nhi nói thì con cũng đã mắng nó nhưng biểu ca Kính Thanh đã theo thánh giá tới Thượng Lâm Uyển nên cũng không kịp nữa. Vân Nhi khóc lóc cầu xin con đừng nói với người.”
“Hồ đồ”, Vệ Tử Phu giận đến cả người lạnh toát.
“Vân muội chỉ vì bất bình cho con và Chư Ấp”, Lưu Phỉ kéo tay áo Vệ Tử Phu, đau khổ cầu khẩn, “Mẫu hậu, người cứu nó đi.”
“Bản thân mẫu hậu cũng còn khó bảo toàn”, Vệ Tử Phu cười chua chát. Ở khoảng cách sát gần trong gang tấc, Lưu Phỉ mới nhìn thấy rõ ràng Vệ hoàng hậu xinh đẹp vô song năm xưa bây giờ đã có những nếp nhăn hằn bên khóe mắt, dung nhan tiều tụy. Vệ Tử Phu nói tiếp: “Làm sao có thể che chở cho cả Vệ gia?”
Chiều muộn, Hoàng hậu Vệ Tử Phu mới mệt mỏi bước ra khỏi tẩm điện của Vệ Trường công chúa, sau đó truyền gọi Dương Thạch công chúa vào cung. Dương Thạch công chúa đã xuất giá năm ngoái nên mệnh lệnh này cố nhiên không phù hợp với quy định nhưng bệ hạ không có ở cung Vị Ương, trong khi chuyện lần này lại liên quan đến sự tồn vong của Vệ gia nên nàng ta cũng không còn cách nào. Hơn một canh giờ sau, Dương Thạch công chúa Lưu Vân phụng mệnh tiến cung. Vệ Tử Phu nhắm mắt ngồi trong tẩm điện, lúc mở mắt ra nhìn thấy đứa con gái thứ hai đang lẳng lặng đứng trong điện Tiêu Phòng thì lặng đi. Có lẽ Lưu Vân đã biết không còn chút may mắn nào nên mặc một bộ y phục trắng toát, thẳng lưng đứng cực kỳ quật cường, không còn vẻ ôn nhu của thời thiếu nữ. Nữ quan bên cạnh Hoàng hậu khẽ ho khan một tiếng, liền thấy thân thể Lưu Vân cứng đờ, chậm chạp quay đầu lại, nói khẽ, “Mẫu hậu!”
Vệ Tử Phu bảo cung nhân lui ra, hỏi thẳng, “Vân Nhi, con còn muốn nói gì không.
Lưu Vân nở nụ cười buồn bã, quỳ xuống, “Nhi thần không còn lời nào để nói.”
Vệ Tử Phu khẽ quay đầu, giấu đi một giọt nước mắt đang ứa ra. Trong bốn đứa con gái, Lưu Vân là đứa mà nàng ta ít quan tâm và ưu ái nhất. Cô không phải là hoàng tử, lại không phải là đứa con gái được bệ hạ yêu thích nhất như Lưu Sơ, thậm chí không có tính bốc đồng tùy hứng được nhiều người chú ý như Chư Ấp mà chỉ là một Lưu Vân không có gì nổi bật nên khi xảy ra chuyện thì không bị ai nghi ngờ. Nào biết cô lại là người gây ra tai họa lớn khiến ngay cả một hoàng hậu như nàng ta cũng không che giấu nổi.
“Sao con lại làm như vậy chứ?” Nàng ta không nhịn được hỏi.
“Bởi vì con, đại tỷ, tam muội đều rất ghét nó”, Lưu Vân thét lớn, ánh mắt lộ ra vẻ oán hận. Bất giác nước mắt đã tràn ra giàn giụa khắp cả khuôn mặt. Lưu Phỉ oán hận Lưu Sơ vì biểu ca Hoắc Khứ Bệnh mà cô yêu quý cũng đối xử ưu ái với cô bé này. Lưu Thanh ghét Lưu Sơ là bởi vì Lưu Sơ cướp đi sự sủng ái của phụ hoàng vốn thuộc về cô. Còn cô thì sao?
“Mẫu hậu, con thật hận”, cô lẩm bẩm, “Tại sao Lưu Sơ là công chúa của Trần gia nhưng lại có thể qua lại với biểu ca Khứ Bệnh mà không người nào dám chỉ trích, còn con yêu biểu ca Kính Thanh thì lại phải gả cho một người khác?”
“Lúc trước con đau khổ cầu xin mẫu hậu nhưng mẫu hậu vẫn không chịu thành toàn.” Trong lòng mang nỗi ấm ức như vậy, một lần sau khi thành thân tình cờ gặp nhau trên phố Trường An, cô vén rèm xe lên gọi một tiếng biểu ca Kính Thanh mà cảm giác muốn ứa nước mắt.
Vệ Tử Phu tái mặt, hỏi gặng, “Nói như vậy là con còn oán hận ta sao?”
Lưu Vân quay đi, “Mẫu hậu, người xứng chức là một hoàng hậu… nhưng lại không phải một mẫu thân tốt.” Có lẽ vì cô cùng với Lưu Phỉ đồng bệnh tương liên như thế nên Lưu Phỉ mới bằng lòng che giấu cho cô và có lẽ còn có cả chút hâm mộ sâu kín. Dù sao thì biểu ca Khứ Bệnh chưa từng yêu Lưu Phỉ còn giữa Công Tôn Kính Thanh và Lưu Vân dù tốt dù xấu có một chút nuối tiếc, dù rằng càng bước càng sai.
“Thế nên con bảo Công Tôn Kính Thanh tùy cơ hành sự ở Thượng Lâm Uyển để mưu hại Lưu Sơ?” Vệ Tử Phu cảm thấy lòng như đông cứng bởi nỗi oán hận của con gái nhưng vẫn không thể dừng lại, máy móc hỏi.
Lưu Vân khẽ cúi đầu, “Lúc ấy con chỉ muốn cho Lưu Sơ một bài học, nào ngờ lại đến nước này, còn làm liên lụy tới biểu ca Kính Thanh và Cứ Nhi.”
“Con nói thật cho mẫu hậu biết” Vệ Tử Phu hỏi khẽ, “Con và Công Tôn Kính Thanh rốt cuộc thân mật đến mức nào?” Lưu Vân không nói gì, vẫn cúi gằm mặt.
“Trong lòng con đau khổ”, Vệ Tử Phu cảm giác trước mắt tối sầm, giận điên lên, “Nhưng trong lòng đại tỷ của con không đau khổ sao? Con là công chúa Đại Hán, ăn sung mặc sướиɠ lại chỉ biết kêu than, làm liên lụy đến cả đệ đệ. Con có biết năm xưa ta làm ca cơ ở phủ Bình Dương công chúa khổ đến mức nào. Ta khổ sở tranh đấu để đổi lấy vinh hoa ngày hôm nay cho các con, giờ con lại đứng đó oán trách ta. Nếu như con hiện giờ không phải là công chúa Đại Hán, thậm chí là một kẻ khố rách áo ôm, đói khát thì lấy ai để oán thán?” Kể từ khi Trần hoàng hậu bị phế, nàng ta giành lấy vị trí phu nhân, chuyển đến điện Tiêu Phòng được thiên hạ tôn vinh thì đã không còn muốn nhớ lại những ngày hàn vi. Nhưng hôm nay, khi nỗi oán hận của con gái như một thanh đao nhọn cắm vào lòng thì những buồn khổ suốt bao năm qua chợt bộc phát. Nàng ta nghĩ lại, mới thấy điện Tiêu Phòng hoa mỹ chẳng qua cũng chỉ là một cái nhà lao giam hãm mộng đẹp thanh xuân của mình và con gái.
“Mẫu hậu”, Lưu Vân đột nhiên khóc không ra tiếng, “Con biết sai rồi, thế nhưng việc đã đến nước này thì biết làm sao bây giờ?”
Vệ Tử Phu dần trầm tĩnh lại, dằn từng tiếng, “Con lập tức tới Thượng Lâm Uyển nhận tội trước mặt phụ hoàng.”
“Không, con không muốn”, Lưu Vân sợ hãi lắc đầu, “Phụ hoàng yêu Trần A Kiều và Lưu Sơ như vậy, người sẽ gϊếŧ chết con mất.”
Vệ Tử Phu không kìm được, giáng một cái tát vào mặt con gái, rít lên, “Làm sao con lại hồ đồ như thế, chỉ cần mẫu hậu còn ở đây, đệ đệ của con còn ở đây thì sẽ có thể che chở cho con được an toàn. Nếu là đệ đệ của con bị gán cho tội danh đó thì chúng ta coi như xong.”
“Nhưng nếu con nhận thì con nhất định coi như xong”, Lưu Vân nín khóc, cười lạnh lẽo, “Mẫu hậu định hy sinh Vân Nhi để cứu đệ đệ phải không?” Cô không được ai chú ý, từ nhỏ đến lớn vẫn luôn là Dương Thạch có trọng lượng nhẹ nhất trong lòng phụ hoàng, mẫu hậu.
“Chuyện vốn bắt đầu từ con”, Vệ Tử Phu ngọt nhạt, “Giờ con phải chịu trách nhiệm không phải rất công bằng sao. Con là tỷ tỷ của Cứ Nhi. Năm xưa, Nam Cung cô cô có dũng khí đi tới Hung Nô xa xôi kết hôn cầu hòa vì phụ hoàng của con nên tiên đế trong lòng áy náy đối với hai mẹ con phụ hoàng, sau đó vị trí của phụ hoàng mới vững như núi Thái Sơn. Sao con không thể làm một điều gì đó vì Cứ Nhi?”
“Nhưng Nam Cung cô cô có Trường Tín hầu.” Còn cô thì có ai? Có Công Tôn Kính Thanh vùi thân trong lao ngục ở Thượng Lâm Uyển sao? Cô nghĩ đến đây thì liền có một chút dũng khí. Công Tôn Kính Thanh đến cuối cùng vẫn không chịu khai ra cô thì cô chắc cũng có thể làm được một điều gì đó vì gã.
Lưu Vân cười buồn bã, dập đầu với Vệ Tử Phu, “Đã như vậy thì nhi thần bái biệt mẫu hậu, kính xin mẫu hậu hãy nhớ tới nhi thần.” Cô dừng lại rồi nói tiếp, “Nghĩ tình nhi thần đi chuyến này, kính xin mẫu hậu đáp ứng nhi thần một chuyện.”
Vệ Tử Phu cảm thấy lòng nhũn ra, dịu giọng hỏi, “Chuyện gì vậy?”
Lưu Vân lại khấu đầu thêm lần nữa, “Nếu sau này Thanh Nhi thật lòng thích ai thì kính xin mẫu hậu tác thành cho nó, đừng gả cho người mà nó không thích.”
Vệ Tử Phu sững sờ, không nói được tiếng nào, song Lưu Vân cũng không cần nàng ta trả lời, đứng dậy bước thẳng ra khỏi điện.
“Truyền xuống”, Vệ Tử Phu im lặng một hồi lâu mới cất giọng, “Bảo Trường Bình hầu hộ tống Dương Thạch công chúa đi Thượng Lâm Uyển.” Ngoài điện, thị nữ thấp giọng lĩnh mệnh.
Lưu Vân bước đi cực kỳ chậm chạp. Từ điện Tiêu Phòng đến cửa cung gần nhất, nếu dùng long xa thì không quá thời gian cháy hết một nén hương, dù đi bộ thì cũng không quá hai khắc[1], nhưng trong thời gian đó cô còn chưa đi được nửa đường.
1 Một khắc bằng mười lăm phút.
“Hoàng tỷ!” Có tiếng gọi từ phía sau truyền đến. Lưu Vân kinh ngạc quay đầu nhìn lại, thấy Lưu Thanh đang thở hổn hển chạy về phía mình.
“Hoàng tỷ, tỷ và mẫu hậu có chuyện gì vậy? Sao mẫu hậu lại đau buồn, mà ánh mắt của tỷ cũng kỳ lạ như vậy?” Mấy ngày nay, Lưu Thanh dĩ nhiên có thể phát hiện thấy không khí khác thường trong điện Tiêu Phòng, nhưng không hiểu nổi là có chuyện gì. Hôm nay Vệ Tử Phu muốn gặp Lưu Vân, ngay cả cô và Lưu Phỉ cũng bị cấm không được tới gần. Cô thấy Lưu Phỉ lặng lẽ rơi lệ nhưng không hỏi được gì, trong lòng lo lắng nên chờ Lưu Vân rời cung bèn hối hả đuổi theo.
“Không có chuyện gì”, Lưu Vân đã quyết định nên bình thản nói.
“Vậy thì tốt rồi.” Lưu Thanh lẽ lưỡi trêu chọc, “Nếu hoàng tỷ cứ khổ sở thì tỷ phu[2] cũng sẽ đau khổ.” Cô thấy sắc mặt Lưu Vân lập tức cứng ngắc lại liền ngạc nhiên, “Muội nói sai cái gì sao?”
[2] Tỷ phu: Anh rể.
“Không có gì.” Lưu Vân lắc đầu, trong lòng bất giác thấy hơi áy náy với vị hôn phu của mình. Từ khi cô được gả vào Đồng gia, hôn phu sợ thân phận công chúa của cô nên hết mực cung kính. Nếu hắn biết chuyện của cô và biểu ca Kính Thanh thì chắc chắn sẽ vô cùng nhục nhã, chỉ e lần này lại liên lụy đến cả hắn nữa.
Trần A Kiều mê man trên giường mấy ngày liền, khi tỉnh lại cảm giác cơ thể mềm nhũn, mệt mỏi đến cực độ. Một hôm thấy thời tiết ở Thượng Lâm Uyển trong lành, nàng liền sai cung nhân bê ghế tựa ra tắm nắng ngoài điện Tín Hợp. Ánh mặt trời chiếu lên người ấm áp, một lúc sau nàng có cảm giác buồn ngủ khiến Lưu Triệt rất lo lắng. Đêm hôm trước các ngự y đã hội chẩn cho A Kiều một lần nữa vì mặc dù nàng đã tỉnh lại nhưng xưa nay sẩy thai vẫn vô cùng tổn hại sức khỏe, e rằng phải bồi dưỡng một khoảng thời gian rất dài mới có thể dần dần hồi phục.
“Phải rồi”, một khắc trước khi thϊếp đi, A Kiều chợt nhớ đến những lời đám cung nhân đã nói đêm qua, lập tức tỉnh táo, quay sang bảo Lưu Triệt, “Nghe nói bệ hạ đã ra lệnh bắt giữ sư phụ của thϊếp, hôm đó A Kiều dù chưa tỉnh nhưng nghĩ rằng chẳng qua sư phụ cũng chỉ quan tâm đến đồ đệ mà thôi. Kính xin bệ hạ thả người ra đi.”
Lưu Triệt hừ lạnh một tiếng, hời hợt đáp, “Hắn càn rỡ quá!” Tiêu Phương đối với A Kiều rất tốt, trước đây không phải y chưa từng nghi ngờ, chỉ vì kính trọng y thuật và nhân phẩm của Tiêu Phương nên mới tuyệt đối tự tin rằng A Kiều sẽ không thể thoát khỏi vòng tay mình mà mắt nhắm mắt mở cho qua. Nhưng hôm đó chắc là Tiêu Phương bị cảnh A Kiều nằm mê man kích động đến mức không tự kiềm chế nổi nên mới có những lời nói làm tổn thương đến đế vương.
“Bệ hạ”, A Kiều nũng nịu, “người là sư phụ của thϊếp mà. Nếu không có sư phụ thì hôm nay thϊếp cũng không biết đang ở nơi nào.”
Lưu Triệt trầm ngâm một lát, cuối cùng nói, “Nếu như thế thì trẫm đuổi hắn trở về Trường An là được rồi.”
Nàng hài lòng, cười một tiếng rồi nằm xuống ngủ thϊếp đi.
“Bệ hạ”, Dương Đắc Ý khẽ bẩm, “Công chúa Dương Thạch và Trường Bình hầu từ kinh thành tới cầu kiến.” Lưu Triệt nhíu mày, tiếp đó khuôn mặt lộ vẻ hứng thú.
“Rốt cuộc thì cũng tới rồi”, y lẩm bẩm nói rồi chuyển giọng, “Truyền xuống, trẫm gặp bọn họ ở điện Phất Tô.”
Lưu Vân đi theo một viên nội thị, bộ dạng rụt rè tới điện Phất Tô. Trong điện trải thảm màu đỏ tươi, trang trí hoa lệ nhưng trong lòng cô vẫn cảm thấy lạnh lẽo. “Nhi thần Lưu Vân tham kiến phụ hoàng!”, cô cúi đầu bái lạy.
Phải một lát sau trên điện mới truyền xuống giọng nói lạnh nhạt của Lưu Triệt, “Đứng dậy đi.”
“Trường Bình hầu đến đây làm gì?”
Vệ Thanh ở dưới điện cúi người nói, “Thần hộ tống Công chúa Dương Thạch trên đường tới nhận tội với bệ hạ.”
Lưu Triệt không hề tỏ vẻ kinh ngạc, chỉ gật đầu, “Đã đưa đến nơi rồi thì Trường Bình hầu lui xuống trước đi.”
“Bệ hạ”, Vệ Thanh chắp tay nói, “Nghịch thần Công Tôn Kính Thanh tội không thể tha được nhưng dù sao cũng là con cháu của vi thần. Khẩn cầu bệ hạ ân chuẩn cho thần được thăm hỏi.”
“Cũng được”, vẫn là giọng lạnh nhạt của Lưu Triệt.
“Dương Thạch, ngươi muốn nhận tội gì?”
Lưu Vân cảm thấy sống lưng dần dần cứng đờ. Từ nhỏ cô đã vừa sợ hãi vừa kính yêu đối với phụ hoàng của mình. Hôm nay cả điện trống không, chỉ còn lại hai người là mình và phụ hoàng nhưng lại không phải ở trong mối quan hệ cha con. Phụ hoàng có thể dành chút thương xót nào cho mình như đối với con gái không? Cô nghe thấy giọng nói trong trẻo nhưng lạnh giá của mình, “Nhi thần muốn cầu kiến Trần nương nương để đích thân thưa tội với người.”
Lưu Triệt cười nhạt, nói, “Trần nương nương thân thể hư nhược, ngươi không được quấy nhiễu nàng.”
Lòng cô từ từ trầm xuống, quả nhiên là phụ hoàng vô cùng sủng ái người phụ nữ kia. Song việc đã đến nước này thì cũng không còn đường lui, cô đành liều nhắm mắt đưa chân, “Nhi thần đích thân đến nhận tội với phụ hoàng. Người hôm đó sai khiến Công Tôn Kính Thanh làm hại Công chúa Duyệt Trữ không phải là Cứ hoàng đệ mà là nhi thần.”
Một lúc thật lâu trôi qua, Lưu Triệt mới lại cười hỏi, “Tại sao trẫm phải tin ngươi?”
“Phụ hoàng”, Lưu Vân rơi lệ nói, “Người cũng biết tính tình của Cứ hoàng đệ mà. Hoàng đệ ôn hòa lương thiện, làm sao có thể gây ra chuyện như vây?”
Lưu Triệt hỏi giọng thâm thúy, “Chẳng phải Vân Nhi cũng luôn dịu dàng ôn nhu đó sao?”
Cô liền cảm thấy tất cả dũng khí trong người giống như thủy triều rút xuống hết sạch mà chỉ còn lại trái tim băng giá. Trái tim băng giá vì giữa cha với con là lại nghi ngờ nhau đến mức độ này.
“Người đâu”, Lưu Triệt ra lệnh, “Lôi công chúa Dương Thạch ra ngoài, hôm nay dẫn về Trường An thẩm vấn cùng với Nhị hoàng tử.”
“Phụ hoàng”, Lưu Vân bỗng nhiên đứng bật dậy, quát lên, “Lui ra.” Trong khoảnh khắc đó, trên người cô toát ra khí thế của một công chúa Đại Hán khiến những thị vệ phụng mệnh bắt người cùng lui lại một bước. “Nhi thần nguyện lấy máu làm chứng rằng những lời nhi thần nói đều là sự thật.” Cô nói như vậy xong thì buồn bã liếc mắt nhìn vị đế vương một cái rồi xoay người lại lao đầu vào cột nhà.
Máu tươi tóe lên, nhuộm đỏ khắp y phục, trong nháy mắt vẽ nên một bức tranh cực đẹp. Cô gắng gượng mở mắt ra, rốt cuộc trông thấy nét mặt vẫn luôn lạnh nhạt tàn khốc của bậc đế vương đã hơi biến sắc.
“Bệ hạ”, thị vệ đến gần xem xét xong liền bẩm báo, “Sức của công chúa Dương Thạch không mạnh lắm nên mặc dù bị thương nhưng cũng không nguy hiểm đến tính mạng.”
Lưu Triệt gật gật đầu, khẽ thở dài, “Đưa nó đến điện Minh Huy nghỉ ngơi.”
Trước điện Tín Hợp có một cây hạnh đang nở hoa rực rỡ, gió thổi qua làm vài cánh hoa rơi xuống trên mặt A Kiều. Nàng dần dần tỉnh giấc, nghe tiếng cung nhân bên cạnh khe khẽ kháo nhau, “Toàn thân Công chúa Dương Thạch đều là máu….”
“Nói đi nói lại, thực sự là Công chúa Dương Thạch làm hại Công chúa Duyệt Trữ sao?”
“Cũng không chừng. Nếu không phải thật thì sao Công chúa Dương Thạch lại chịu trả giá lớn đến như vậy chứ?”
A Kiều ngẫm nghĩ rồi cất tiếng hỏi, “Có mời ngự y tới khám không vậy?”
Lục Y nín lặng, rón rén bước tới gần, “Nương nương tỉnh rồi à?” Đúng lúc đó thì nghe thấy tiếng mấy thị nữ nhất loạt lên tiếng, “Tham kiến bệ hạ.”
Nhân tiện đang ở điện Phất Tô, Lưu Triệt liền đi theo hành lang xuống đây, lạnh giọng quát, “Các ngươi thật to gan, dám nói nhảm ở trước mặt nương nương.”
Cả đám thị tỳ sợ đến nỗi mặt cắt không còn giọt máu, vội vàng quỳ xuống bái lạy, “Bệ hạ thứ tội, bọn nô tỳ không dám nữa.” A Kiều đỡ lời, “Bọn họ không hề biết rằng thϊếp đã tỉnh.”
Lưu Triệt nhìn nàng, “Kiều Kiều có tấm lòng rất lương thiện.” Trần A Kiều biết y sẽ không phạt đám thị tỳ này, bèn nghiêm mặt nói, “Bệ hạ sai rồi. Không phải thϊếp là người lương thiện mà thϊếp là đại phu, nếu một người bị bệnh thì đại phu phải chữa trị. Thế nhưng nếu người đó phạm tội thì vẫn phải chịu trừng phạt. Đó vẫn là hai việc khác hẳn nhau.”
“Dù sao, mỗi người đều phải chịu trách nhiệm về việc mình đã làm. Còn nếu lấy ơn báo oán thì biết lấy cái gì để báo đức?”, nàng nhìn y, chậm rãi hỏi.
“Ồ, ý kiến của Kiều Kiều cũng thật mới mẻ.” Lưu Triệt mỉm cười dìu nàng ngồi dậy rồi đỡ vào trong điện, “Như vậy, nếu thật sự Dương Thạch là chủ mưu thì Kiều Kiều muốn nó phải nhận trừng phạt thế nào?”
“Việc này phải hỏi bệ hạ mới đúng”, nàng điềm nhiên đáp, “Bệ hạ là phụ thân của Tảo Tảo, cũng là phụ thân của Công chúa Dương Thạch, còn là….” Nàng không nói hết câu, ngừng một chút rồi mới nói tiếp, “A Kiều và Tảo Tảo đều đang đợi bệ hạ đưa ra câu trả lời thỏa đáng.”
Nếu không thể nào có câu trả lời thỏa đáng thì phải làm sao? Lưu Triệt rất muốn hỏi câu này nhưng lại e ngại. Sau khi tỉnh dậy, A Kiều dường như dịu dàng ngoan ngoãn hơn so với trước một chút. Y cũng thỉnh thoảng nhìn thấy nàng thật lòng. Nếu phá hỏng tình cảm ấm áp này thì y không dám chắc hai người sẽ trở lại được như trước kia. A Kiều từ lâu đã chẳng còn là A Kiều của ngày xưa, bọn họ lại chẳng còn trẻ, có được bao nhiêu thời gian để lãng phí? A Kiều không sợ lãng phí thời gian nhưng y lại khác.
Nhà ngục Thượng Lâm Uyển vẫn luôn tăm tối âm u, vì phụng lệnh Hoàng thượng, phủ Đình úy cũng không quá làm khó Vệ Thanh. Vệ Thanh bước xuống cầu thang dẫn vào đại lao, tới trước phòng giam Công Tôn Kính Thanh rồi khẽ gọi, “Kính Thanh!”
Công Tôn Kính Thanh giật mình ngẩng lên, trông thấy Vệ Thanh thì mừng rỡ như điên, “Cữu cữu, cữu cữu”, gã gọi toáng lên, nhào tới trước song sắt, “Có phải người tới cứu cháu ra ngoài hay không?”
Gã thấy Vệ Thanh nín lặng rồi dần dần tỏ vẻ như đưa đám liền chán nản, “Xem ra lần này cháu chết chắc rồi.”
“Ngươi đừng có như vậy”, Vệ Thanh cũng phiền muộn, hỏi, “Ngươi ngẫm nghĩ cho kỹ xem có chút khả năng nào để gỡ tội hay không?”
“Cháu cũng không ngờ rằng chuyện lại tới mức độ thế này”, Công Tôn Kính Thanh lẩm bẩm nói, “Cháu nhiều nhất chỉ muốn để cho con tiểu nha đầu kia ngã ngựa, làm sao biết rằng Trần nương nương lại đang mang bầu rồi con ngựa kia bỗng nhiên phát cuồng lên chứ, rõ ràng chỉ để kim đã bẻ đầu thôi mà.”
Vệ Thanh nhướng mày, “Ngoài gã người hầu tên là Trường Ngữ vâng lệnh ngươi gài kim kia thì có còn ai đến phòng kho nữa không?”
“Đúng rồi”, Công Tôn Kính Thanh chợt bừng tỉnh, “Trần Hi cũng sai người tới phòng kho. Trần Hi chính là người con thứ của Đường Ấp hầu. Hắn còn tới nhà lao gặp cháu, nói cháu vu cáo Nhị hoàng tử là tự tìm đường chết. Cữu cữu”, gã lo lắng nhìn Vệ Thanh, “Cứ biểu đệ có hận cháu không?”
“Thế là ngươi liền phản cung?” Vệ Thanh không khỏi nổi giận mắng, “Hồ đồ, phạm phải chuyện này là hồ đồ thứ nhất, làm liên lụy Nhị hoàng tử là hồ đồ thứ hai, cuối cùng phản cung lại càng hồ đồ. Bệ hạ trước giờ vẫn đa nghi, ngươi nói xuôi nói ngược như thế lại càng đẩy Nhị hoàng tử vào tình cảnh khó khăn.”
“Theo lẽ thì một tên hầu của Trần gia sẽ không dám làm thay chủ nhân những chuyện này.” Vệ Thanh thầm suy nghĩ xem phải nhìn nhận thế nào cho đúng. Hắn cảm thấy người của Trần gia sắp đặt chuyện lần này đúng là vô cùng khôn khéo, giống như bủa một cái lưới lớn bao lấy Vệ gia rồi lạnh lùng quan sát bọn họ cố gắng giãy giụa, cuối cùng đi tới bước diệt vong.
“Kính Thanh”, hắn khẽ bảo, “Ngươi không cần bảo vệ Dương Thạch nữa. Nó đã đích thân đến đây nhận tội với bệ hạ rồi.”
Công Tôn Kính Thanh há hốc miệng, cuối cùng thở dài, “Bệ hạ niệm tình cha con thì chắc sẽ bỏ qua cho nàng thôi.”
Lưu Mạch và Trần Hi đang đánh cờ ở Linh Lung các. Lưu Mạch cầm một quân cờ, chợt hỏi, “Công Tôn Kính Thanh rốt cuộc có quan hệ như thế nào với Lưu Vân?”
Quân đen và quân trắng trên bàn cờ tách biệt nhau, quân trắng chiếm cứ các góc, linh hoạt đa dạng, vây khốn quân đen song quân đen có linh khí át hẳn, đầu đuôi nối nhau, theo xu thế thì chỉ cần thêm mấy quân nữa sẽ có thể tạo thành một con rồng lớn phá không bay đi.
Trần Hi im lặng, hạ quân cờ ngăn cản mới nói, “Xét theo đại cục trước mắt thì đây chỉ là tiểu tiết mà thôi. Thần thấy điện hại chơi cờ phóng khoáng nhưng chặt chẽ, nhất định không phải là người câu nệ tiểu tiết.”
Lưu Mạch khẽ mỉm cười, nhặt lên một quân khác, trầm ngâm nói, “Ta chính là muốn vô số tiểu tiết đan xen với nhau, cuối cùng làm cho Vệ gia không còn sức chống đỡ nữa.”
Quân cờ được hạ xuống như điểm mắt cho rồng, thế cờ liền dần trở nên sáng sủa.Quyển 3 - Chương 64: Thành do mình mà bại cũng do mìnhTrường Bình hầu Vệ Thanh tìm mãi vẫn không thấy tên đầy tớ của phủ Đường Ấp hầu, trong lòng mơ hồ cảm thấy bất ổn, thậm chí không kịp đến từ biệt Dương Thạch công chúa đang dưỡng thương điện Minh Huy, vội vã chạy về Trường An để ngăn cản Vệ hoàng hậu đang điên cuồng định một lần được ăn cả ngã về không. Đến cuối cùng hắn mới phát hiện mỗi bước đi của bọn họ đều nằm trong tính toán của đối thủ.
Trong cung Vị Ương ở thành Trường An.
Phủ Đình úy do Trương Thang phụ trách kín mít như bưng không để Vệ gia dò được một chút tin tức. Vệ Tử Phu lo lắng cho con trai bị giam trong phủ Đình úy, không có cách nào gạt đi được nỗi ưu tư trong lòng, dung nhan ngày càng tiều tụy.
“Nương nương”, Thải Vi kêu lên thất thanh, nước mắt rơi lã chã.
“Có chuyện gì?” Vệ Tử Phu cũng không để tâm, nhìn vẻ mặt đau xót của Thải Vi thì tâm trạng xấu đi, lạnh giọng nói, “Có chuyện gì thì hãy nói thực, nếu dám che giấu, bản cung sẽ không tha cho ngươi.”
Thải Vi bất đắc dĩ, đưa chiếc lược gỗ sau lưng ra, một sợi tóc trắng mảnh mai quấn trên răng lược, trắng tuyền từ đầu đến cuối. Nàng ta ngẩn ngơ nhìn một hồi lâu rồi cười đến xé lòng. Năm Kiến Nguyên thứ hai, bệ hạ còn ở tuổi niên thiếu vừa gặp đã gỡ cây trâm cài tóc của Vệ Tử Phu rồi khen ngợi, “Mái tóc thật đẹp.” Chưa bao lâu sau thì mái tóc đen từng hấp dẫn ánh mắt quân vương đã dần nhuộm màu sương tuyết mà quân vương có quay đầu lại nhìn nàng ta chăng?
“Nương nương”, Thải Vi lại la hoảng, “Người đừng cười như vậy”, giọng nói không đành lòng.
Vệ Tử Phu bình tĩnh nhìn cô, yếu ớt, “Ngươi nói, có phải Trần A Kiều cũng đã có tóc trắng hay không?” Người phụ nữ kia còn hơn nàng ta đến mấy tuổi.
“À”, Thải Vi do dự một hồi mới đáp, “Có lẽ là có.” Cô luôn có ấn tượng rằng Trần nương nương lúc nào cũng giữ nụ cười bình lặng nên có lẽ thời gian in dấu trên nàng cũng chậm hơn người khác.
“Thôi đi”, Vệ Tử Phu thấy nản lòng khoái chí, “Giờ thì bản cung chỉ cầu Cứ Nhi bình an, Thanh đệ bình an, Dương Thạch”, nàng ta hơi chần chừ, “cũng sẽ bình an.” Cứ Nhi, rốt cuộc con sẽ ra sao đây?
Nhị hoàng tử Lưu Cứ ở trong phủ Đình úy, dù chưa từng thụ hình, Trương Thang cũng chưa từng đối xử tệ nhưng phủ Đình úy không thể so được với điện Tiêu Phòng và Bác Vọng hiên. Cậu có tâm tình bình hòa, biểu hiện không quan tâm vinh nhục khiến đám ngục tốt tấm tắc cho là lạ. Ngày hôm đó, ngục tốt thay ca, ngục tốt tuần phòng mới tới nhân dịp người bên cạnh không chú ý liền ném một cuộn giấy vào lao mà không ai hay biết. Lưu Cứ sửng sốt, ngầm quan sát thấy gã vẫn ngả ngớn quàng vai bá cổ cười nói với đồng bạn.
Lưu Cứ mở cuộn giấy ra, trong đó bọc một cây bút than, trên giấy viết, “Ta là quân sĩ của Vệ tướng quân, cảm ân đức của Tướng quân, nguyện truyền lời cho Cứ điện hạ.” Cậu do dự một hồi, cuối cùng không cưỡng lại được nỗi nhớ mẫu thân, viết thật nhanh mấy chữ: “Mạnh khỏe, không cần lo lắng.”
Qua một lúc, ánh nến trong ngục không biết bị gió từ đâu thổi tới dập tắt, gã ngục tốt làu bàu châm lại. Chỉ chốc lát sau đã đến giờ thay phiên, gã ra khỏi cửa ngục chạy thẳng tới phủ Tư nông giao mảnh giấy có bút tích của Lưu Cứ cho Tang Hoằng Dương rồi kể lại mọi chuyện. Tang Hoằng Dương than thở, “Lưu Cứ cũng coi như một nhân tài, chịu đựng được cô độc. Chỉ tiếc….” Hắn dừng lại đầy thâm ý rồi đảo mắt ra lệnh, “Lui xuống lãnh thưởng đi.”
Sau khi ngục tốt vui mừng rời khỏi, Di Khương từ phía sau rèm bước ra, mặt thoáng vẻ lo âu, “A Tang, chàng làm như vậy có tàn độc qua không?”
“Ồ”, Tang Hoằng Dương quay lại ngắm Di Khương, “Ta cũng không biết nàng là người mềm lòng như vậy đấy.”
Di Khương nhớ tới thời thiếu nữ kiêu hùng của mình, cười khẽ, “Nếu là ngày xưa thì tất nhiên thϊếp sẽ không một chút nhíu mày. Chỉ là…”, cô ngừng lại, cúi đầu đưa tay khẽ xoa lên cái bụng đã nhô cao, “sợ tổn hại âm đức ảnh hưởng đến nó.”
Tang Hoằng Dương yên lặng trong chốc lát, nhướng mày, “Được rồi, vì con của chúng ta nên ta sẽ không nghĩ thêm gì khác, chỉ xem Vệ Tử Phu có qua được cửa ải lần này hay không.”
Hắn chắp tay nhìn về phía cung Vị Ương, người phụ nữ trong đó đã từng thông minh và biết lẽ tiến thoái, nhưng bị cung Vị Ương hoa lệ bủa vây suốt bao năm qua nên cũng đã dần hao mòn. Dù sao cũng là phụ nữ, đúng như cái tên của nàng ta, tất cả đều vì chồng vì con[1]. Một khi người thân cận nhất là Vệ Thanh không có bên cạnh, dùng đứa con nàng ta coi trọng nhất để đối phó mới có hiệu quả.
[1] Trong tên của Vệ Tử Phu, chữ “Phu” có nghĩa là chồng, chữ “Tử” có nghĩa là con.
“Huống chi”, hắn cười lạnh, “Nếu ông trời muốn báo ứng thì cứ tới tìm ta, lại đi tìm một đứa trẻ còn chưa sinh ra thì coi sao được?”
Trong một đêm khuya vắng vào tháng Ba năm Nguyên Định nguyên niên, Vệ hoàng hậu đang trong tẩm điện thì bị nữ quan thân tín đánh thức. Nàng ta vội vã bước ra ngoài hỏi người nội thị quỳ dưới điên, “Ngươi nói ngươi có tin tức của Nhị hoàng tử thật không?”
Người nội thị liền dập đầu, “Đồng hương nô tài là ngục tốt phủ Đình úy, ngày xưa dưới trướng của Vệ tướng quân, nhớ tới ân đức Tướng quân nên liều chết truyền ra tin tức Cứ điện hạ, bảo nô tài báo cho nương nương nương.” Gã nói xong liền đưa cuộn giấy lên cao quá đầu.
“Nương nương”, Thải Thanh nhắc khẽ bên cạnh Vệ Tử Phu, “Người này từng chịu ân huệ của Vệ gia, có thể tin.”
Vệ Tử Phu gật đầu, ý bảo Thải Thanh cầm cuộn giấy đưa qua, mở ra thấy đúng là bút tích của Lưu Cứ, vẻn vẹn mấy chữ, “Mạnh khỏe, không cần lo lắng”, nét bút đứt đoạn, không dứt khoát khiến lòng nàng đau nhói.
“Nô tài nghe đồng hương nói”, viên nội thị rưng rưng, “Trương Thang ỷ được bệ hạ sủng hạnh, một lòng hùa theo Trần gia, mặc dù bề ngoài không tra tấn Nhị hoàng tử nhưng ngầm gây khó dễ, giấu đi nhiều điều không thể cho nương nương biết. Lúc Nhị hoàng tử viết bức thư này, tuy miệng nói không muốn để mẫu hậu lo lắng nhưng không kìm được rơi lệ.
Cuộn giấy bị cầm đã lâu nên nhàu nát thành một cục, trên đó có một hai chỗ nhòe nhoẹt, nhìn kỹ thì quả nhiên là nước mắt. Vệ Tử Phu nắm chặt tay, nghiến răng nói, “Đồ nhãi ranh cũng dám cả gan.” Nàng ta quay ngoắt người bước vào trong điện, dáng đi lộ rõ vẻ cương quyết.
“Nương nương”, Thải Thanh kinh hồn bạt vía, vội vàng bảo người nội thị lui ra rồi theo vào hỏi khẽ, “Nương nương định như thế nào?”
“Thải Thanh”, Vệ Tử Phu ngẩng đầu, ra lệnh, “Sáng sớm ngày mai truyền phò mã Lý Giai vào cung để gặp vợ con của nó.” Trong khoảnh khắc, Thải Thanh phảng phất như thấy trên gương mặt dịu dàng của Hoàng hậu bốc lên một làn khí âm u ma quỷ, nhưng khi nhìn lại thì thấy dần hiện lên nụ cười dịu dàng quen thuộc.
“Nhưng nương nương”, Thải Thanh vội nói, “Bệ hạ sắp trở về rồi, chẳng phải Dương Thạch công chúa cũng đã đi nhận tội rồi sao? Bệ hạ trở về sẽ thả Cứ điện hạ thôi mà.”
“Không có tác dụng đâu”, Vệ Tử Phu lắc đầu, “Dương Thạch dùng máu để khuyên can nhưng bệ hạ cũng không có ý chỉ thả Cứ Nhi, đủ thấy người thật sự không còn cần đến Vệ gia nữa rồi.”
Ngày hôm sau, phò mã của Vệ Trường công chúa, con út của thừa tướng Lý Thái là Lý Giai vào cung gặp vợ cùng con gái mới sinh. “Thần Lý Giai, tham kiến mẫu hậu”, hắn bế con gái quấn trong tã lót, thỉnh an Vệ Tử Phu.
Không biết từ lúc nào, tất cả các cung nhân đều đã lui ra. Vệ Tử Phu nhìn đứa bé gái trong lòng Lý Giai một lát rồi quay đi buồn rầu, “Nếu đệ đệ của nó còn sống thì tốt hơn nhiều.”
“Cái gì?” Nụ cười của Lý Giai dần tắt, nghi ngờ hỏi, “Mẫu hậu nói gì?”
“Hôm đó”, Vệ Tử Phu nói giọng đều đều, “thật ra là Vệ Trường sinh đôi nhưng bé trai vừa sinh đã mất.”
“Nhưng”, Lý Giai mặt cắt không còn giọt máu, lắp bắp, “tin tức trong cung báo cho thần…”
“Chẳng qua là vì bản cung không muốn để cho Vệ Trường thương tâm nên giấu đi.”
Thường nói nam nhi khó rơi lệ nhưng dù sao đó cũng là cốt nhục của Lý Giai, là con trai trưởng của hắn. Lý Giai nghiến răng ken két, vành mắt dần đỏ hoe.
“Nếu không phải tin tức của Trần A Kiều truyền đến, Vệ Trường động đến thai khí thì làm sao xảy ra chuyện đó chứ?”, Vệ Tử Phu tiếp tục.
Lý Giai ngẩng đầu lên, “Ý của mẫu hậu là?”
“Khi Văn Đế còn tại vị thì Quán Đào công chúa vô cùng thận trọng, đến khi Cảnh hoàng đế lên ngôi thì dần ngang ngược”, Vệ Tử Phu cười quỷ quyệt, “Ngươi cũng đã biết?”
“Ý của nương nương là?” Lý Giai thất thanh kinh hô, “Điều này sao có thể?”
“Hưng suy của Vệ gia đã trói chặt một chỗ với Lý gia”, Vệ Tử Phu cười khẽ, “Bệ hạ sẽ tin phụ thân ngươi biết chuyện. Hơn nữa, chúng ta cũng không phải là không có phần thắng. Hiện giờ bệ hạ ở trên Thượng Lâm Uyển, sa vào nữ sắc. Bên quan văn, phụ thân ngươi là thừa tướng, tay cầm triều cương. Bên quan võ, Trường Tín hầu không có ở trong nước, Trường Bình hầu cùng Quan Quân hầu có uy vọng trong quân đều là người Vệ gia chúng ta.”
“Những lời này, ngươi chuyển tới phụ thân của ngươi để ông ta tự quyết định.”
Thừa tướng Lý Thái cáo ốm không ra ngoài mà ở trong phủ ngẫm nghĩ về lời của Vệ hoàng hậu. Không thấy được mặt đứa cháu kia, ông ta đương nhiên có chút thương tâm nhưng ông ta cũng không chỉ có một đứa cháu, chỉ là nó có huyết thống hoàng gia nên tôn quý hơn một chút mà thôi.
Ông ta muốn nhổ toẹt vào lời của Vệ Tử Phu truyền đến, thực đúng là cách nghĩ của phụ nữ. Đương kim Thánh thượng sáng suốt oai hùng, tại vị hơn hai mươi năm, bình định Hung Nô, mở rộng lãnh thổ quốc gia, phát triển kinh tế, đất nước thái bình, dân chúng yên ổn làm ăn, uy vọng quá lớn, há lại dễ dàng bị lật đổ? Ông ta kế nhiệm Công Tôn Hoằng, ở bên Thánh thượng nhiều năm nên đã nhìn thấu mọi đường đi nước bước của quân vương. Y tuy sa vào nữ sắc nhưng chưa từng lơi lỏng chuyện triều chính.
Tuy nhiên Vệ hoàng hậu nói cũng có chỗ đúng, ví dụ như bệ hạ vô tình. Nếu Vệ gia sụp đổ thì bệ hạ sẽ không bỏ qua cho ông ta, nhưng Vệ gia muốn đấu cứng thì chỉ sợ sẽ sụp đổ nhanh hơn, như vậy ông ta phải làm sao để tự bảo vệ mình?
Ông ta vốn định làm như không biết chuyện, nhưng Vệ Tử Phu như người sắp chết đuối nên dù chỉ là một cọng rơm cũng cố bám chặt lấy, bóp chết luôn hy vọng đó của ông ta, hôm nay xem ra tất cả chỉ là một kết cục bi thảm.
“Nếu nghiến răng chịu đau vứt bỏ con mình?” Nghĩ tới đây, ông ta chợt giật bắn mình.
Trường Bình hầu Vệ Thanh vội vã chạy về Trường An, ngang qua phủ đệ của mình cũng không vào mà tiến thẳng tới cung Vị Ương, nghe Vệ hoàng hậu nói xong thì nhắm mắt, thở dài, “Hồ đồ!”
Vệ Tử Phu gằn giọng, “Nếu Cứ Nhi không còn, Vệ gia cũng coi như xong. Trái cũng không được, phải cũng không xong, vậy thì chi bằng đánh cuộc một lần may ra còn có cơ hội.”
“Trương Thang làm gì dám để một hoàng tử chết ở trên tay hắn?”
“Tuy không chết nhưng chỉ cần bị thương hay tàn phế thì Vệ gia cũng không còn cơ hội rồi.”
“Tam tỷ”, Vệ Thanh lắc đầu, “Từ nhỏ đến lớn tỷ vẫn luôn thông minh có chủ kiến nhưng hễ cứ động đến Cứ Nhi là lại thành ngu ngốc.”
“Tỷ muốn làm phản, vậy đệ hỏi tỷ chúng ta lấy binh lực đâu ra?”
Vệ Tử Phu chần chừ, “Không phải là có Thanh đệ…?”
“Đệ từng cầm quân, bọn họ sẵn sàng vứt bỏ tính mạng, bừng bừng nhiệt huyết theo đệ xua đuổi giặc Hồ, bảo vệ núi sông Đại Hán. Tỷ thử nghĩ xem liệu bọn họ có theo đệ đi gϊếŧ hoàng đế của mình?”
“Huống chi, bệ hạ vốn là quân chủ anh minh. Y xử trí Vệ gia chúng ta trên Thượng Lâm Uyển, tỷ tự hỏi có thật y không đề phòng chúng ta? Không nói những thứ khác, chỉ riêng quy chế phát binh của nhà Hán thôi thì đã khó rồi, nhất định phải có binh phù mới được.”
“Chẳng lẽ”, Vệ Tử Phu dần tuyệt vọng, “Chúng ta chỉ có thể ngồi chờ chết sao?”
“Khi Dương Thạch dùng máu để khuyên can thì chắc lòng bệ hạ đã dao động”, Vệ Thanh thở dài, “Nhưng hôm nay…?” Hắn chậm chạp lắc đầu, “Nương nương, tỷ đã vứt bỏ cơ hội sống sót mà Công chúa dùng tính mạng đổi lại mất rồi.”
Cuối tháng Ba xuân năm Nguyên Đỉnh đầu tiên, Lưu Triệt ở Thượng Lâm Uyển nhận được tấu chương do thừa tướng Lý Thái cho khoái mã truyền đến thì giận tím mặt, xô đổ ngự án trong điện Phất Tô. Khi trở về nội điện, Trần A Kiều nhận thấy y sắc mặt âm trầm liền tò mò hỏi, “Có chuyện gì thế?”
Lưu Triệt không trả lời, hỏi ngự y đang hầu hạ bên cạnh, “Sức khỏe nương nương hiện giờ thế nào?”
Viên ngự y râu tóc bạc trắng cân nhắc một chút rồi đáp, “Dạo này điều dưỡng thích đáng nên sức khỏe cũng dần cải thiện.”
“Như vậy có thể trở về Trường An được chưa?”
Ngự y cũng không dám khẳng định, chắp tay nói, “Nếu cho xe ngựa đi chậm một chút thì chắc có thể được.”
Lưu Triệt liền gật đầu, ra lệnh, “Chuẩn bị sẵn sàng, lập tức hồi kinh.”
Y đột nhiên ra quyết định như vậy, Trần A Kiều liền hiểu ngay. Đợt săn thú mùa xuân năm Nguyên Đỉnh đầu tiên này có thể được coi là cao hứng mà đi, mất hứng mà về. Các loại chuyện phát sinh ngoài dự liệu của mọi người xảy ra liên tiếp như đèn cù khiến không ai còn tâm tư đi săn. Song nguyên nhân gây ra chuyện đại sự bắt đầu chỉ từ tư tình giữa biểu huynh muội Công Tôn Kính Thanh và Công chúa Dương Thạch. A Kiều liền nói với mẫu thân là Công chúa trưởng Quán Đào, xin bà quán thúc con cháu Trần gia không để dẫm lên vết xe đổ đó.
“A Kiều yên tâm đi”, Đại Công chúa trưởng ngẩng cao đầu, ngạo nghễ nói, “Trần gia ba đời phú quý lại vừa được khôi phục thì làm sao giống như loại nhà giàu mới nổi Vệ gia kia.”
Do ngự y đã căn dặn, lại có Công chúa trưởng Quán Đào đi theo nên Lưu Triệt không để cho A Kiều ngồi chung ngự liễn với y mà bố trí một chiếc long xa tiện nghi khác cho cả đại gia đình bên nàng.
Nàng ôm lấy Lưu Sơ, nói vẻ xót xa, “Đáng thương cho Kiến Nhi vô duyên vô cớ chịu tội. Sơ Nhi không phải sợ, phụ hoàng sẽ làm chủ cho con.”
Lưu Sơ trong lòng nặng trĩu, gật đầu hỏi, “Phụ hoàng sẽ xử trí Dương Thạch và Lưu Cứ thế nào đây?”, trên khuôn mặt vẫn còn có nét lo lắng.”
Đi sau long xa của Trần nương nương chính là xa giá của Công chúa Dương Thạch. Thị nữ mới pha trà, run rẩy dâng lên mời, “Công chúa uống một ngụm đi.”
Lưu Vân quay đầu đi chỗ khác, trên đầu cô còn băng bó lụa trắng trông thật ghê sợ. Mấy ngày qua, sáng nào cô cũng soi gương, cảm thấy nghi ngờ không hiểu tại sao mình lại có dũng khí lao thẳng vào cột nhà ở điện Phất Tô như vậy, hoặc là tại sao đã đập đầu vào rồi mà vẫn không chết, để đến giờ còn chịu đủ các loại đau khổ, chờ phụ hoàng phán định sinh tử.
Người ngồi trên ngự liễn trang nghiêm tôn quý kia là bậc đế vương tối cao của nước Đại Hán đang hồi thịnh vượng, đồng thời cũng là phụ thân của cô. Từ rất lâu rồi, cô luôn ước nguyện rằng y chỉ là phụ thân của mình, như vậy sẽ không có cảnh đau khổ hiện giờ. Dần dần, cô gần như có thể hiểu được tại sao năm xưa Trần hoàng hậu chỉ một lòng một dạ muốn có phu quân chứ không phải là tâm ý đế vương. Từ long xa phía trước vọng lại tiếng cười đùa trêu chọc nhẹ nhàng, cảnh vui vẻ hòa thuận như vậy khiến tâm can cô càng đau nhói.
Vì chiếu cố Trần nương nương, tất cả các long xa đều đi rất chậm, mãi đến gần tối mới thấy cổng thành Trường An ở phía xa. Xa giá lộc cộc vào cổng Chương Thành rồi chạy thẳng tới cổng tây Tư Mã của cung Vị Ương. Khi đi qua cầu Bạch Ngọc, cửa cung đã rộng mở nhưng các xe ngựa đột ngột dừng lại. “Có chuyện gì vậy?”, Công chúa trưởng Quán Đào vén rèm lên hỏi, khí thế của vị công chúa ba triều đại vô cùng uy nghiêm khiến các thị vệ đang đứng giương kích không dám chậm trễ, quỳ một chân xuống bẩm, “Phía trước có người cản ngự liễn.”
Trong gió truyền đến chất giọng lanh lảng đặc biệt của hoạn quan, nghe hổn hển đứt quãng, “Vệ hoàng hậu và Nhị hoàng tử có… ý… có thể gϊếŧ… Ở trên đường… bệ hạ hồi kinh… chôn giấu… Vu cổ.”
Hai chữ cuối cùng giống như một con dã thú ăn thịt người đột nhiên xuất hiện, sắc mặt A Kiều tái đi, chén trà trên tay rớt xuống đổ nước ra khắp toàn thân nhưng nàng vẫn không hề có cảm giác gì. Trên ngự liễn, thiên tử tức giận đến cực điểm lại trở nên bình tĩnh, hạ lệnh, “Đào lên ngay lập tức.”
Thị vệ lĩnh mệnh rời đi, chỉ lát sau thì Mã Hà La đã chạy tới báo đúng là đã đào lên được ba bộ người gỗ, theo thứ tự có ghi ngày sinh tháng đẻ của Trần nương nương, Hoàng tử trưởng, và cả… Hoàng đế.
“Phụ hoàng”, Lưu Vân mặt trắng bệch, không quan tâm đến vết thương trên trán, loạng choạng bước xuống xe định đi tới trước mặt Lưu Triệt song bị lớp lớp thị vệ ngăn lại. Chỉ chưa đầy nháy mắt, hai người rõ ràng là cha và con gái lại đột nhiên xa cách hơn cả những người xa lạ.
“Phụ hoàng”, Lưu Vân ngã xuống đất, gào khóc trong tuyệt vọng, “Mẫu hậu không làm đâu. Người không thể làm như vậy.” Lúc này trông cô đã không còn là công chúa Đại Hán mà chỉ là một tội nhân đợi chết.
“Trần A Kiều”, cô nhìn về chiếc long xa phía sau, oán hận rít lên, “Ngươi dùng cách này hãm hại mẹ con chúng ta mà không thấy lương tâm cắn rứt chút nào ư?”
A Kiều đang được cung nhân thay y phục, sắc mặt tái nhợt, lẳng lặng lắng nghe động tĩnh bên ngoài, nghe vậy cười nhạt, vén rèm lên, đĩnh đạc, “Ta có muốn đối phó với người khác cũng không thèm dùng thủ đoạn bỉ ổi như vậy.” Nàng chỉ nói đúng một câu rồi buông tay cho rèm che xuống, không buồn liếc mắt nhìn lại người bên ngoài.
Lưu Triệt trầm giọng hạ lệnh, “Hộ tống Trần nương nương đi đường vòng trở về cung Trường Môn.”
Mã Hà La vâng dạ rồi đích thân chọn một nhóm thủ hạ đắc lực hộ tống long xa của Trần nương nương rẽ theo tường thành cung điện đi về phía tây. Trần A Kiều trở về cung Trường Môn vẫn còn cảm thấy trong lòng chưa yên. Lưu Phiếu lại cực kỳ khoan khoái, “Năm xưa A Kiều bị dính vào vụ án Vu cổ thì cô ta mới từ một ca cơ mà ngoi lên ngôi vị. Hôm nay chính cô ta lại bị dính vào cái chuyện chết người này, đủ thấy là khí số Vệ gia đã hết.” Bà sung sướиɠ bật cười thành tiếng, “Vệ gia mà đổ thì còn có hoàng tử nào có thể tranh giành ngôi vị với Mạch Nhi nữa được chứ?”
“Mẫu thân”, giọng A Kiều chợt sắc nhọn, “chuyện này…”, nàng lưỡng lự hỏi, “Trần gia có nhúng tay vào không?”
Tiếng cười Lưu Phiếu ngừng bặt, “Không! Đúng là Trần gia có đυ.ng tay chân khi xảy ra chuyện nhưng vậy đã đủ đánh gục Vệ gia, không cần làm thêm bước này.”
“Có lẽ là Vệ Tử Phu biết mình hết may mắn, đau đớn phát cuồng, nên đã làm vậy”, nàng phỏng đoán.
Năm xưa Vệ Tử Phu lợi dụng thế Vu cổ ra tay hạ bệ mình thì đã biết Lưu Triệt căm ghét Vu cổ đến mức nào, trong khi sức mạnh của Vu cổ chỉ là những lời đồn đại vô căn cứ, cô ta từng cho Sở Phục dùng Vu cổ, chẳng lẽ tự bản thân không chút ảnh hưởng?
Nàng nhớ lại cảnh thà gϊếŧ lầm chứ không bỏ sót trước tai họa Vu cổ dưới triều Hán Vũ, bất giác rùng mình. Nếu như, nếu như một ngày có người nói với Lưu Triệt rằng nàng cũng là kẻ khả nghi trong vụ Vu cổ lần này thì Lưu Triệt sẽ xử trí nàng thế nào? Vừa nghĩ như vậy, lòng nàng đột nhiên lạnh ngắt.
Tin tức từ trong cung Vị Ương truyền ra, trong cơn thịnh nộ, bệ hạ đã bắt giam tất cả những người của Vệ gia có liên quan vào ngục, giao toàn bộ nữ quan, cung nhân của điện Tiêu Phòng cho Dịch đình, Vệ hoàng hậu bị quản chế ở điện Tiêu Phòng, do Kỳ Môn quân canh giữ, lần này là thật sự chứ không giống như lần trước. Mọi người hiểu rằng cung Vị Ương đã nổi sóng gió, những bão táp liên quan tới tiền triều cũng bùng lên, Vệ gia bại trận đã là xu thế tất nhiên. Đồng thời bị hạ ngục còn có vị hôn phu của Vệ công chúa trưởng Lý Giai. Thừa tướng Lý Thái quỳ gối trước điện Tuyên Thất, khẩn cầu bệ hạ xét cho con mình còn quá nhỏ tuổi và bản thân mình đã đóng góp công lao mà bỏ qua cho Lý Giai.
Lưu Triệt ngồi trong điện Tuyên Thất xem danh sách liên quan tới Vu cổ do Đình úy trình lên, trong lòng không yên. Danh sách viết đầy mấy trang giấy, có những triều thần trung thành tận tụy, đứng đầu trận mạc trong cuộc chiến Hán hung, có người thì cận kề bên gối, đối xử ôn nhu khi y suy sụp nhất, có các cháu của y, có cả ba đứa con gái là máu thịt y sinh ra. Y từng mong đợi bọn chúng đến, dùng giọng điệu non nớt gọi phụ hoàng. Mấy trang giấy nhẹ tựa lông hồng nhưng liên quan đến gia đình, đến đất nước, đến y thì lại nặng như núi. Có thể là những người này đã bày mưu làm phản khi y ở tận Thượng Lâm Uyển phía xa, mặc dù chưa thành nhưng mưu phản đã sinh. Y nhớ lại lúc ở Thượng Lâm Uyển thì A Kiều rõ ràng là không liên quan, hơn nữa còn bị mê man bao lâu mới tỉnh. Chẳng lẽ nàng bố trí được Vu cổ ư?
Cặp mắt y dần lạnh lẽo, bàn về lòng dạ ác độc, thì y tự nhận mình không thua đế vương của các thời đại khác, nếu đã phản bội thì sao có thể dung tha? Y cầm lấy ngự bút, phê bằng mực chu sa đỏ rực hai chữ, “Chuẩn tấu.” Nhìn sững một hồi, y phiền muộn vứt qua một bên không coi lại.
“Bệ hạ”, Dương Đắc Ý chần chừ bước lên, “Thừa tướng còn đang quỳ bên ngoài, dường như… không duy trì được nữa rồi.”
Lưu Triệt cười lạnh, “Hắn thích quỳ thì cứ quỳ đi.”
Trang phục màu đen vương gia lướt qua trước mặt Lý Thái giống như một cơn gió, chớp mắt đã biến mất. Lý Thái đau đớn, khàn giọng gọi theo, “Bệ hạ!” Bóng dáng quân vương đã xa khuất.
Gió cung Vị Ương thổi qua người Lưu Triệt, bỗng nhiên y rất muốn gặp A Kiều, một A Kiều luôn đứng trên những vinh, nhục, buồn, vui. Hai chữ Vu cổ là một vết thương đối với A Kiều, hôm nay vết thương đó lại bị rách toác chảy máu đầm đìa, chắc hẳn nàng cũng đang oán giận. Từ hành lang truyền đến những tiếng động khe khẽ. Y cau mày, Dương Đắc Ý trông thấy liền biết ý, quát hỏi, “Ai đó?”
Một đứa trẻ mặc trang phục hoàng tử từ hành lang bước ra, bái lạy, “Phụ hoàng.”
“Đán Nhi”, Lưu Triệt hơi bất ngờ, trừ Duyệt Trữ thì những đứa con trai được y để ý nhất từ trước tới nay chính là Lưu Mạch và Lưu Cứ, còn không mấy khi thấy mặt Lưu Hoành và Lưu Đán.
“Nhi thần chơi đùa ở chỗ này, thấy phụ hoàng đi qua nên mới tránh sang một bên”, Lưu Đán nói. Lưu Triệt gật đầu, bỗng nhớ tới mẫu thân của nó là Lý Chỉ, năm xưa cũng chỉ như gió thoảng mây trôi.
Mấy hôm sau, hoạn quan Tô Văn đến trước cung Trường Môn cầu kiến Trần nương nương, Trần nương nương tiếp đãi lạnh nhạt, cuối cùng sai người đuổi ra ngoài. Lưu Triệt biết chuyện này, cười nói, “A Kiều nhìn thấu thế sự rồi mà vẫn không thay đổi được tính nết như trẻ con”, lại bảo, “Đến Trường Môn.” Dương Đắc Ý vui mừng, thầm thở phào một hơi.
Trong lúc nói chuyện, Lưu Triệt chợt hỏi A Kiều về hướng xử trí đối với Vệ gia, nàng suy nghĩ một chút, hỏi lại, “Bệ hạ thật sự tin tưởng chuyện Vu cổ?”
Lưu Triệt sầm mặt, “Kiều Kiều sẽ không cầu tình cho Vệ gia đó chứ?”
Trần A Kiều như tự nói với mình, “Làm vậy chẳng qua như mèo khóc chuột mà thôi.”
“Ngày đó ở Thượng Lâm Uyển, Tảo Tảo đã hỏi thϊếp có trách nó hay không, thϊếp trả lời nếu như nhất định phải mất đi thứ gì đó thì cần phải quý trọng những điều mình đang có.”
“Vệ Trường và Lưu Cứ không phải con của thϊếp, nhưng lại là con của bệ hạ.” Nàng nhìn Lưu Triệt, nói tiếp: “Bệ hạ hôm nay có ác tâm thì sau này xin chớ hối hận, lại càng không thể trách thϊếp.”
“Gieo hạt giống dưa vàng,
Dưa mọc đều xanh mướt.
Chăm tỉa thì dưa tốt,
Cắt trụi khiến dưa tàn,
Có thể hái ba lần,
Hái bốn lần trơ gốc.”[1]
[1] Bài Hoàng thai qua từ (Bài viết về hạt giống dưa vàng).
Lưu Triệt nghe nàng ngâm nga, một chút nhu tình vẫn dằn tận đấy lòng rốt cuộc cũng được khơi gợi. “Kiều Kiều”, y âu yếm gọi rồi hôn nàng, A Kiều để mặc, thoáng cười vẻ không đành lòng. Nàng cầu tình cho đối thủ Vệ gia thì Lưu Triệt tất nhiên sẽ nghe theo. Lúc này Lưu Triệt có lẽ đã không còn là một Hán Vũ Đế lòng dạ ác độc quyết đoán trong lịch sử, còn nàng chẳng qua chỉ thúc đẩy y mà thôi.
Nàng chọn cách làm như vậy, cố nhiên do mình là người đến từ thời hiện đại có lương tâm muốn mọi việc đều được công bình chính đáng, nhưng cũng có nguyên nhân là lo lắng về thế cục ngày sau của Trần gia. Nếu Vệ gia hoàn toàn suy sụp, Trần gia độc quyền thì chẳng biết ngày nào lại tái phát chuyện đế vương nghi kỵ, chi bằng để cho Vệ gia còn đường sống nhưng mất đi thế lực nghiêng trời.
Vệ Tử Phu mất ngôi vị hoàng hậu, Lưu Cứ cũng đã mất gần hết sức ảnh hưởng, nàng tất không thể một lần nữa ngăn cản Lưu Mạch lên ngôi thái tử. Nàng hiểu rõ con trai mình, đối xử với người thân thì ôn hòa, còn với người khác thì thủ đoạn vô cùng. Từ xưa tới nay, những ai ngồi lâu trên ngôi vị thái tử thường ít có kết quả tốt, thế nên nàng dùng hết khả năng lưu lại một đối thủ. Nếu có thể làm cho Mạch Nhi phân tâm thì có lẽ ngày sau khi cha con đối lập, tình thế sẽ hòa hoãn hơn nhiều.
“Kiều Kiều”, Lưu Triệt hỏi, “Nàng không cầu tình cho Vệ Tử Phu sao?”
Nàng nghiêm nghị đáp, “Thϊếp không cầu tình thay cho Vệ Tử Phu.”
Ngày hôm sau, điện Tuyên Thất truyền ý chỉ, Hoàng hậu Vệ Tử Phu phạm án Vu cổ, phế truất ngôi vị, nộp lại ấn tín, ra khỏi điện Tiêu Phòng. Công chúa Dương Thạch và Công Tôn Kính Thanh hãm hại Công chúa Duyệt Trữ, người trước phế làm thứ dân, người sau ban cho được chết. Thái bộc Công Tôn Hạ không biết dạy con, tước hết quan lộc, cách chức làm thứ dân. Thừa tướng Lý Thái cách chức làm thứ dân, Triệu Chu lên làm thừa tướng. Những người còn lại đều bị xử nhẹ, không liên luỵ đến phạm vi quá rộng.
Triều thần vốn cho rằng dựa theo tính tình trước đây của Lưu Triệt thì vụ án Hoàng hậu Vu cổ gây sóng gió một thời này nhất định phải bị tắm trong biển máu, không ngờ lại được cho qua nhẹ nhàng như thế, ai nấy đều ngạc nhiên. Song Vệ gia mất hoàng hậu cũng coi như đã đổ, không còn khả năng khôi phục. Mọi người đều đổ dồn ánh mắt hướng về Trường Môn, ngày xưa là lãnh cung, hôm nay đông như trẩy hội.
Hoàng hậu Vệ Tử Phu đang chơi đàn ở điện Tiêu Phòng, nghe ý chỉ liền cười không thành tiếng, vẫn giữ đúng lễ nghi, hỏi Thượng Viêm đến truyền chỉ, “Có thể cho bản cung gặp bệ hạ một lần được không?”
“Có còn cần thiết?” Thượng Viêm cười giả lả hỏi lại, “Xin mời nương nương!”
Vệ Tử Phu cũng không gượng ép, gật đầu bảo, “Biết rồi.” Sau đó đi vào nội điện.
“Nương nương”, Thải Thanh, Thải Vi òa khóc, ôm lấy chân nàng ta khuyên nhủ, “Người cần gì phải làm thế? Núi xanh còn đó lo gì không có củi đốt. Năm xưa chẳng phải Trần nương nương cũng như vậy mà từng bước từng bước trở lại sao?”
“Bản cung không có cơ hội đó”, Vệ Tử Phu khẽ lắc đầu, “Bệ hạ biết rõ trong lòng là bản cung không phải phạm tội Vu cổ mà là mưu phản. Theo trình tự xử án Vu cổ thì nhiều nhất là phế hậu nhưng làm sao bệ hạ có thể dung tha cho bản cung đã sinh lòng phản bội y? Chi bằng tự vẫn trước khi mật chỉ ban xuống. Có mật chỉ xuống là bản cung nhận tội đền tội. Không có mật chỉ xuống thì là bản cung tự vẫn. Trong lòng bệ hạ chắc vẫn có một chút xót thương, Trần A Kiều cũng không phải là người chém tận gϊếŧ tuyệt. Nếu bọn họ đối xử tử tế với bốn đứa con thì bản cung ở dưới cửu tuyền cũng cảm thấy được an ủi rồi.”
Tháng Tư năm Nguyên Đỉnh nguyên niên, Hoàng hậu Vệ Tử Phu treo cổ tự vẫn ở điện Tiêu Phòng. Tin tức đưa đến điện Tuyên Thất đúng lúc Lưu Triệt vừa viết xong mật chỉ. Y ngạc nhiên đôi chút, vứt mật chỉ sang bên rồi thở dài một hơi. Thì ra một người con gái có ôn nhu dịu dàng đến mấy thì trong lòng vẫn rất cường.
Lưu Triệt viết một ý chỉ khác, dùng nghi lễ phi tần để chôn cất Vệ Tử Phu ở khu dành cho phi tần. Y thông cáo ra bên ngoài, tội danh phế hậu là Vu cổ. Bệ hạ trọng thưởng cho Giang Sung và hoạn quan Tô Văn đã tố cáo nhưng không lâu sau thì gán cho mỗi người một tội, dùng loạn côn đánh chết.
Lúc này đã đến cuối năm Nguyên Đỉnh đầu tiên, Trường Tín hầu Liễu Duệ báo tin đã đánh chiếm được Côn Minh, quốc vương nước Điền quy thuận Đại Hán, nước Điền nhập vào bản đồ lãnh thổ của Đại Hán. Trong khoảng thời gian ngắn, Trần gia đạt đến đỉnh cao uy vọng, điều duy nhất còn thiếu chính là ngôi vị hoàng hậu mà Trần A Kiều đã để mất.Quyển 3 - Chương 65: Sông núi nước Điền tỏa sương sangHai hoàng hậu trước sau đều bị phế bởi tội danh Vu cổ, tin đồn rộ lên trong cung Vị Ương rằng Trần hoàng hậu oán hận Vệ hoàng hậu hãm hại mình năm xưa nên sai người nhà báo thù.
“Các người không phát hiện gì sao?” Cung nhân túm tụm xì xầm, “Ngày xưa Trần hoàng hậu tại vị mười một năm mà Vệ hoàng hậu thất bại cũng vừa vặn mười một năm.” Một người than thở, “Quả nhiên là thiên địa tuần hoàn, báo ứng không sai.”
“Nương nương”, Lục Y nhắc tới chuyện này tức giận run người, “Để nô tỳ đi dạy dỗ đám ăn không nói có đó, người đừng để tâm.”
Trần A Kiều bấm tay tính toán một lượt rồi nói, “Từ năm Nguyên Sóc thứ hai đến năm Nguyên Đỉnh nguyên niên quả nhiên là mười một năm.”
“Nương nương”, Lục Y oán trách, “Bọn họ đều muốn ngồi lên đầu người thế mà người vẫn cứ thản nhiên như không vậy.”
“Miệng lưỡi người đời ai muốn nói thế nào thì nói, quản sao được”, A Kiều cũng không để tâm, chỉ nói, “Tam cung còn chưa quy về ta quản hạt, các ngươi cũng nên chú ý một chút đừng để được sủng ái mà kiêu ngạo, biết chưa.”
Chiến báo của Trường Tín hầu truyền về khiến cả thành Trường An sôi trào. Đây là công lao mở rộng lãnh thổ, luận công thì không thua kém chiến tích đánh Hung Nô đại bại năm nào. Mấy ngày sau, Lưu Triệt đến Trường Môn, nhìn A Kiều như có điều suy nghĩ, đợi đến lúc nàng không thể lảng tránh ánh nhìn của mình thì hỏi, “Kiều Kiều, nàng có muốn trở lại điện Tiêu Phòng không?”
Nàng nhíu mày theo bản năng, lắc đầu vẻ chán ghét. Mặc dù nhiều năm trước đây, tòa cung điện phồn hoa có ý nghĩa nhất tượng trưng là chính cung của triều Hán này đã từng được nàng coi như nhà của mình. Nhưng rồi thế sự xoay vần, ý nghĩa này cũng dần phai nhạt. Tới bây giờ, ba chữ điện Tiêu Phòng đã gắn chặt như máu thịt không thể tách rời với Vệ Tử Phu. Bản thân nàng không muốn bước vào tòa cung điện có dấu ấn của Vệ Tử Phu nửa bước, không phải vì chút tôn trọng cuối cùng với người phụ nữ kia mà vì nàng sợ khi bước vào đó thì những u oán đã phai nhạt trong lòng sẽ lại nổi lên. Nàng sẽ lại bị dồn nén đến điên loạn như trước đây, có thể châm một mồi lửa đốt tòa cung điện thành tro bụi.
Chuyện tình cảm cũng thật sự kỳ lạ, nàng có thể dần phai nhạt những yêu hận với Lưu Triệt nhưng lại giữ mãi những oán hận với Vệ Tử Phu đến chết không quên, dù rằng ân oán này vốn do Lưu Triệt dựng lên. Có lẽ đối với một người phụ nữ thì oán hận bao giờ cũng sâu đậm hơn tình yêu. Song Lưu Triệt cũng không hỏi nguyên do, chỉ khẽ gật đầu, “Nếu vậy thì Kiều Kiều tới điện Chiêu Dương nhé.”
“Tại sao nhất định phải chuyển chứ?” Nàng buồn bực quay đầu, “Thϊếp cứ ở lại Trường Môn thì có gì không tốt.”
“Lần nay thì Kiều Kiều có nói thế nào cũng không được nữa rồi.”, Lưu Triệt nói giọng trêu trọc, “Trẫm định sẽ lấy bắt đầu từ Trường Môn đến hết toàn bộ xã Kiến Chương ở phía tây để xây một tòa cung điện Kiến Chương nên nàng tạm thời đến cung Vị Ương ở đi.”
Trần A Kiều tròn mắt ngạc nhiên, hồi lâu mới bĩu môi, “Xa hoa lãng phí.”
Lưu Triệt nheo mắt, bật cười, “Kiều Kiều, nàng nói gì vậy? Trẫm nghe không rõ lắm.”
“Chẳng lẽ không đúng sao?” A Kiều hùng hổ, “Một cung Vị Ương, một cung Trường Nhạc, còn có Bắc cung, Quế cung, vậy còn chưa đủ cho người ở sao?”
“Trẫm thấy Tang Hoằng Dương liều mạng kiếm tiền quá vất vả liền nghĩ cách giúp hắn tiêu xài.” Lưu Triệt đáp cho qua chuyện, vuốt ve mái tóc đen dày của nàng, thở dài, “Tới lúc nào thì nàng mới mạnh khỏe lại đây?”
A Kiều khẽ bật cười, biết y sẽ không thay đổi chủ ý nhưng nghĩ lại vẫn không cam lòng, “Cho dù như thế thì thϊếp cũng không thích điện Chiêu Dương. Chỗ đó quá tráng lệ, không hợp với thϊếp.”
“Vậy đi.” Tâm trạng Lưu Triệt đang thoải mái nên cũng không so đo với nàng, “Tuỳ nàng lựa chọn những chỗ trống trong cung Vị Ương.” Y nhìn A Kiều vẻ sâu xa, “Kiều Kiều chọn ngay cả điện Tiêu Phòng cũng được.”
“Cốc vàng rượu ngọt hương đưa
Ngọc Đường hoa lệ say sưa lòng người.”[1]
[1] Trích trong bài Thế ngoại tiên nguyên (Suối tiên ở ngoài cõi trần) của Tào Tuyết Cần.
Chỗ cuối cùng mà Trần A Kiều lựa chọn chính là điện Ngọc Đường. Lưu Triệt thở dài, “Điện Ngọc Đường dù tốt nhưng hơi vắng vẻ.”
A Kiều cãi lại, “Thϊếp lại thích nơi vắng vẻ, tựa như cung Trường Môn vậy!” Từ khi nàng vào ở trong cung điện này vào năm Nguyên Sóc thứ sáu đến nay cũng đã gần bảy năm, dần có tình cảm với nó, nhưng rồi cũng đến lúc phải nói lời từ biệt.
Bệ hạ căn dặn tất cả cung nhân ở điện Ngọc Đường phải hầu hạ Trần nương nương cẩn thận, mọi vật dụng dùng trong sinh hoạt, ăn uống hàng ngày của nàng đều phải như hoàng hậu. “Phải như hoàng hậu”, trong điện Phi Sương, Văn Tâm sững sờ nhắc lại bốn chữ trên, thở dài, “Không ngờ đến cuối cùng thì cung Vị Ương vẫn là thiên hạ của Trần hoàng hậu.”
“Hoa chẳng thắm được trăm ngày”, nhiều năm sống một mình trong thâm cung đã khiến Lý Chỉ bất đắc dĩ rèn được tính kiên nhẫn. Nàng ngồi trước cửa sổ, khẽ nói, “Ân vua còn thì thứ gì cũng tốt, ân vua không còn thì có ai thương xót?”
Điện Phi Sương có một hoàng tử nên đám cung nhân không dám khinh nhờn. Các cung nhân còn lại không có con cái, phí hoài tuổi thanh xuân trước sự sủng ái nhiều năm của bệ hạ với Trần hoàng hậu, trong lòng cũng dần nguội lạnh.
“Chẳng lẽ nương nương cho là”, Văn Tâm kinh ngạc hỏi, “sẽ có một ngày bệ hạ bỏ rơi Trần hoàng hậu?”
“Văn Tâm chớ quên”, Lý Chỉ mỉm cười, “Trần hoàng hậu đã không còn trẻ nữa rồi.” Câu “Phải như hoàng hậu” nói đúng ra chẳng phải đến cùng nàng ta vẫn không phải hoàng hậu hay sao.
“Thế nhưng”, Văn Tâm nói, “Sau khi Vệ nương nương qua đời, sủng ái của bệ hạ đối với Trần hoàng hậu không hề thấy suy giảm, chỉ thấy tăng thêm.”
“Làm người phải nhìn rộng ra”, Lý Chỉ cúi đầu, “Huống chi, cho dù như thế thì việc Vệ Tử Phu mất đã phá vỡ thế cân bằng bao năm qua trong cung Vị Ương. Dù là ở triều đình hay trong hậu cung thì cũng dần hình thành một cục diện mới rồi.”
Ở trên đời, chỗ phồn hoa nhất cũng là chỗ hoang vu nhất, nếu không có người trên cao bảo hộ thì phải tự dò dẫm tìm đường cho mỗi bước đi của mình. Nàng vẫn biết mỗi bước mình đi đều nguy hiểm như đi trên mũi đao, nhưng chôn vùi tuổi thanh xuân ở một nơi tịch mịch không ai nhòm ngó tới thì cũng là một loại chết dần chết mòn. Nếu chỉ có một mình, nàng còn có thể chịu đựng được, nhưng sao lại không thể giành lấy một chỗ đứng cho con trai của mình.
“Mẫu phi”, một cậu bé chừng sáu, bảy tuổi đứng ngoài điện gọi giọng ngây thơ.
Vẻ mặt Lý Chỉ chuyển thành dịu dàng, gọi vọng ra, “Đán Nhi yêu, vào đây.”
Lưu Đán chạy vào bên cạnh Lý Chỉ, líu lo, “Mẫu phi, hôm nay phụ hoàng gọi con và Tam hoàng huynh đến điện Tuyên Thất, hỏi việc học hành. Phụ hoàng nói muốn chúng con tới Bác Vọng hiên đấy.”
Lý Chỉ mỉm cười gật đầu, hỏi, “Thế phụ hoàng coi trọng con hơn hay Hoành hoàng huynh hơn?”
Lưu Đán nghiêng đầu suy nghĩ một chút, “Không kém bao nhiêu đâu. Lúc phụ hoàng nghe Tam hoàng huynh nói thì khen một chữ ‘tốt’. Con đáp không tốt nên phụ hoàng không khen, chỉ mỉm cười.”
“Thật ra thì”, Lưu Đán ỉu xìu nói, “cho dù chúng con đều không tệ thì phụ hoàng vẫn chỉ coi trọng Đại hoàng huynh nhất mà thôi. Nghe nói, hôm nay các triều thần đã cùng tâu lên mong phụ hoàng sớm lập thái tử để trấn an thiên hạ.”
“Vệ hoàng hậu đã qua đời, triều thần lần này đều có tâm tư nhất định muốn bệ hạ lập Hoàng tử trưởng Lưu Mạch làm thái tử rồi”, Lý Chỉ thoáng nghĩ, bật lên một tiếng cảm thán.
Vào tháng Bảy năm Nguyên Đỉnh đầu tiên, Trường Tín hầu Liễu Duệ dẫn quân trở về Trường An, dâng lên thư xin hàng của quốc vương nước Điền. Có thể khiến cho một quốc gia quy phục là công lao cực lớn, trong buổi lên triều, Lưu Triệt hỏi, “Trường Tín hầu muốn được ban thưởng như thế nào.”
Liễu Duệ quỳ xuống, chắp tay nói, “Lần này thần từng bị trọng thương trong lúc chiến đấu, mặc dù không làm nhục thánh mệnh nhưng tự nghĩ không thể đảm nhiệm quân chức, mong được về phủ nghỉ ngơi.”
Trong lúc nhất thời, cả triều ồn ào. Lưu Triệt khẽ cau mày, cười nói, “Trường Tín hầu nói vậy e không ổn. Hiện giờ các tướng lĩnh của quân Hán, người thì đã già, kẻ lại rút lui, nếu cả Trường Tín hầu cũng rút lui thì trẫm biết tìm đâu người thống lĩnh quân đội Đại Hán hùng mạnh. Nếu thật sự không may bị thương, thì cứ nghỉ ngơi một thời gian là được.”
Sau khi Liễu Duệ về phủ, thánh ý ban xuống, phong thưởng khá hậu. Nam Cung trưởng công chúa ra đón. Vợ chồng mấy tháng không gặp, Lưu Đàm vừa thấy mặt hắn đã giàn giụa nước mắt.
“Ngốc nào”, Liễu Duệ ôm Lưu Đàm vào lòng, âu yếm.
“Chàng bị thương ở đâu?” Lưu Đàm cũng không muốn than thở nhiều, vội vàng hỏi.
“Không có gì”, Liễu Duệ cười nói, “Chỉ là một vết đao trên cánh tay mà thôi, rất nông, không đáng nhắc tới.”
“Vậy sao…?” Lưu Đàm im bặt, lập tức hiểu ra.
“Mấy ngày nay, dù ta còn ở trong quân nhưng Tang tư nông đã thông báo hết chuyện trong kinh”, Liễu Duệ ưu tư, “Ta dẫn một người trở về gặp nàng.”
Lưu Đàm bất chợt lạnh đi, nhớ tới những chuyện thường gặp trong nhà quyền quý liền chán nản, “Phu quân dẫn theo muội muội nào đó trở lại sao?”
Liễu Duệ ngạc nhiên hồi lâu rồi bật cười, “Nàng nghĩ đi đâu thế?”
Hắn vỗ tay, liền có một bà lão bế một cậu bé chừng ba, bốn tuổi đi vào, cung kính chào, “Hầu gia.”
Liễu Duệ đón lấy cậu bé, bảo, “Lui xuống đi”, lại quay sang Nam Cung, “Lúc ta đánh trận có đi qua một thôn trang, thấy trong một căn nhà không còn ai, chỉ còn lại đứa bé này liền đem về, chúng ta cùng nuôi dưỡng cũng coi như là làm chuyện công đức.”
Lưu Đàm vừa ngạc nhiên vừa ngượng ngùng, lại nhìn cậu bé trong ngực Liễu Duệ tuy không biết tuổi chính xác nhưng mặt mày thanh tú, đôi mắt đen láy, vừa thấy đã cảm giác yêu thích. Nàng liền bế vào lòng, nhìn Liễu Duệ nói khẽ, “Thϊếp tuy là tỷ tỷ của Hoàng đế nhưng mấy năm qua vẫn chưa sinh con cho chàng, nếu chàng muốn nạp thϊếp thì Triệt Nhi cũng không nói gì đâu.”
Liễu Duệ thở dài một tiếng, “Chúng ta có nó là đủ rồi. Dù cho có người nối dõi mà cửa nhà không yên thì có ý nghĩa gì chứ?”
Lưu Đàm dù không đáp nhưng trong lòng mơ hồ vui sướиɠ, nép vào ngực hắn thì thầm, “Có đôi khi thϊếp thật không hiểu chàng.”
Đàn ông trên đời đều coi trọng chuyện con cái, như đệ đệ của nàng cũng vì nguyên nhân như vậy mà năm xưa dần xa cách với A Kiều. Liễu Duệ chỉ im lặng, có một số việc không thể nói ra, dù là với người thấu hiểu mình như Lưu Đàm, nếu nói ra sẽ là chuyện động trời.
Lưu Đàm cũng không để ý, chỉ hỏi, “Đặt tên cho đứa bé này là gì?”
Liễu Duệ suy nghĩ một chút, nói, “Cứ gọi một chữ ‘Ninh’ được rồi.”
Lưu Đàm trầm ngâm một hồi rồi gật đầu, “Thịnh thế an bình, tên rất hay”.[2]
[2] Chữ “Ninh” nghĩa là hòa bình, yên ổn.
Có thể giúp đất nước này an bình, người nhà an bình, bằng hữu an bình, trên đời này chẳng mong gì hơn.
Trường Tín hầu Liễu Duệ vui mừng có được Ninh Nhi, mặc dù không phải là con ruột nhưng vì hôm nay Trần gia có thanh thế cực thịnh ở đế đô Trường An, cộng thêm Trường Tín hầu có nhiều công lao, uy vọng lớn lao nên xe ngựa xếp hàng rồng rắn đến trước cửa chúc mừng. Trần A Kiều mặc dù ở thâm cung Vị Ương cũng nghe nói tới chuyện này.
“Trường Tín hầu đã có con, mặc dù không phải là con ruột nhưng cũng được an ủi rồi”, Mạc Ưu chép miệng.
A Kiều gật đầu, trong lòng cũng vui cho sư huynh, dặn dò, “Chuẩn bị một phần hậu lễ, lúc nào đó ta sẽ đích thân đến tận nơi chúc mừng.”
“Việc này”, Mạc Sầu lúng túng nói, “Chuẩn bị lễ không khó, nhưng nương nương hôm nay đứng đầu cung Vị Ương, đâu có thể tùy tiện xuất cung như khi còn ở Trường Môn nữa?”
“Sao lại không thể?” A Kiều cười khẽ. Nàng chắc đến bảy phần là Lưu Triệt sẽ không lắc đầu từ chối nhưng trong bụng vẫn thấy bực bội khi nghĩ đến bản thân đang hành động tự do lại phải phụ thuộc vào người khác, thực không cam lòng.
Đến tháng Tám, Trần A Kiều tùy ý chọn ngày rồi dẫn Hoàng tử trưởng và Công chúa Duyệt Trữ đến phủ Trường Tín hầu Liễu Duệ. Người hầu trong phủ không dám chậm trễ đón nàng vào nội đường. Khi đi qua trung đường thì đã nghe thấy tiếng người ồn ào bên trong, quản gia Hầu phủ kể khổ, “Mấy ngày nay có biết bao nhiêu người đến chúc tụng, Hầu gia và Công chúa tiếp không xuể nên đành gặp cả một lượt ở trung đường.”
Trong hậu đường yên tĩnh hơn nhiều. Trần A Kiều bước vào thì thấy vợ chồng Tang Hoằng Dương cũng đang ở đó. Lưu Đàm bế một bé trai chừng ba bốn tuổi trong tay, quay lại thấy A Kiều liền lên tiếng trước, “A Kiều muội muội, muội cũng tới à?”
Lưu Sơ vô cùng yêu thích bé trai trong lòng cô cô, chơi đùa một chút rồi hớn hở hỏi, “Ninh đệ đệ đã biết nói chưa?”
“Còn đang bập bẹ”, Lưu Đàm rất kiên nhẫn trả lời.
Trần A Kiều nhìn Liễu Duệ vẻ ngưỡng mộ, “Sư huynh hôm nay có vợ đẹp con ngoan, công danh oai hùng, tâm trí thanh thản, quả nhiên cuộc sống thần tiên cũng không bằng.”
Liễu Duệ cười lớn, “Biết làm sao bây giờ đây, thế cục như thế, còn có thể không hưởng thú được sao?”
Cũng may là Trần gia mặc dù phú quý hiển hách đến cực điểm nhưng lại không can dự vào chính trị. Duy nhất có Trần Hi ở trong triều đình nhưng cũng chỉ là một chức quan nhỏ không quan trọng, không ảnh hưởng đến đại cục. Đại tư nông Tang Hoằng Dương quyền cao chức trọng nhưng lại phụ trách về kinh tế, không ai có thể thay thế được nên cũng không có điểm gì phải cố kỵ.
“A Kiều, Lăng Nhi”, Tang Hoằng Dương nói sang chuyện khác, “Liễu huynh đã khai thông tuyến đường đến Thân Độc trước thời hạn, vậy công tác ngoại thương mà chúng ta trù tính từ lâu đã có thể triển khai được rồi.”
Nhớ tới Ấn Độ cổ đại được coi là một trong bốn nền văn minh cùng với Trung Quốc cổ đại, bản chất thương nhân trong huyết quản Tang Hoằng Dương liền dâng trào. Từ xưa tới nay, ngoại thương có thể mang đến lợi nhuận gấp mấy lần cho tới mấy chục lần, kinh doanh trên lãnh thổ Đại Hán bị đủ loại nguyên nhân kiềm chế, lựa chọn con đường này cũng là phương pháp kiếm lợi rất hiệu quả. Kể từ năm Nguyên Sóc thứ sáu khi Trần A Kiều quay về Trường Môn, phần lớn bí ẩn đều đã được khai mở. Bọn họ cũng không phải kiêng nể gì nữa, dùng phương thức kinh doanh nhượng quyền đưa ra thị trường cách chế trà, đồ trang sức đeo tay, những kỹ thuật khiến người cổ đại kinh ngạc và rất nhiều những thể nghiệm trong cuộc sống hiện đại, sau nhiều năm cũng đạt được thu nhập tương đối khá.
“Chỉ mong tỷ nói với người nhà mình kiềm chế đi một chút, tiền ta kiếm được có nhiều hơn nữa cũng không chịu nổi thói vung tay quá trán kia”, Tang Hoằng Dương cố nhẫn nhịn nhưng rốt cuộc cũng không chịu được, than thở với Trần A Kiều.
Lưu Mạch ngạc nhiên nhìn hắn, khóe miệng giật giật. Cậu vẫn biết Tang thúc thúc không hề câu nệ gì ở trước mặt mẫu thân, nhưng oán trách quân vương rõ ràng như vậy thì cũng thật là hiếm thấy.
A Kiều lườm hắn một cái, muốn hét toáng lên, “Y đâu phải người nhà của ta”, nhưng thấy con gái con trai đang ở bên cạnh nên cuối cùng lại không dám, chỉ giễu cợt, “Đệ không phải là triều thần ư, tại sao lại không khuyên can được?”
Hai người nhìn nhau không nói gì, Tang Hoằng Dương thở dài, chấp nhận sự thực phũ phàng, đề nghị, “Đệ đã tìm được một thương đội đồng ý đi xa đến Ấn Độ….”
“Chờ một chút”, Lưu Mạch nghi hoặc hỏi, “Ấn Độ là cái gì?”
“À”, Tang Hoằng Dương và Trần A Kiều liếc nhau một cái, đồng thanh đáp, “là tên khác của Thân Độc.”
“Thật không?” Lưu Mạch nửa tin nửa ngờ nói tiếp, “Tại sao con không nghe nói bao giờ?”
A Kiều mỉm cười bàn tiếp về đề tài này, “Lần đầu tiên đi thì trước hết hãy mang theo trà, tơ lụa, đồ sứ thôi vậy. Những thứ này nhẹ nhàng, người Thân Độc cũng không thấy hiếm lạ. Nếu có thể thì mang về ngà voi, hương liệu là tốt nhất.”
Tang Hoằng Dương gật dầu, “Nói Liễu huynh phái một đội tinh binh hộ tống thì hẳn sẽ không có vấn đề về mặt an toàn.”
“Không cần”, Trần A Kiều lắc đầu, hỏi, “Quách Giải và Phụng Gia bây giờ đang ở nơi nào?”
“Đâu đó ở phía Tây Nam, mấy ngày trước đó vừa báo tin về”, Tang Hoằng Dương đáp, lập tức tỉnh ngộ, “Ý tỷ là muốn để những du hiệp này hộ tống à?” Hắn xoa cằm, “Nếu có thể cùng bảo vệ thì tốt hơn.”
Hắn quay đầu lại, trông thấy Lưu Mạch đang say sưa theo dõi câu chuyện thì bật cười rủ rê, “Mạch điện hạ có muốn đi một chuyến không?” Nét mặt của hắn dần biến thành trịnh trọng, “Cháu là hoàng tử, không lâu sau sẽ tiếp nhận ngôi vị và có trách nhiệm của mình, khi đó tuyệt đối sẽ không thể làm được những chuyện thường dân vẫn làm được nữa.”
Trần A Kiều không khỏi bất ngờ, âu yếm nhìn rồi giữ chặt lấy bờ vai con mình, ôn tồn hỏi, “Con muốn đi không?”
Lưu Mạch rầu rĩ, “Mẫu thân, Mạch Nhi sẽ không làm khó cho người.”
A Kiều không cho là như vậy, đối với Lưu Triệt thì những chuyện kinh thế kiểu này cũng chỉ là bình thường, dạo này trong lòng y chỉ có mỗi một chuyện lấn cấn là lập người kế vị. Mặc dù nàng cũng không thể làm gì trước chiều hướng phát triển đó, nhưng nếu có thể kéo dài thời điểm con trai lên ngôi kế vị lâu hơn cũng tốt. Phải làm thế nào để thông qua cửa ải Lưu Triệt?Quyển 3 - Chương 66: Rời nhà xa nước qua vạn dặmĂn trưa ở phủ Trường Tín hầu xong, nàng kéo Lưu Sơ đang lưu luyến không chịu rời Liễu Ninh ra xe trở về cung Vị Ương. A Kiều trêu con gái, “Thế nào? Con thích trẻ con lắm rồi sao?”
“Cũng không phải.” Tảo Tảo khẽ run người, muốn thoát khỏi ký ức gì đó không hay, “Con cứ nhớ đến đệ đệ.” Cảnh tượng ở Thượng Lâm Uyển khiến cô bé không dám nói tiếp nữa. A Kiều cũng nhớ tới đứa con đã mất, lòng thấy xót xa.
Trở về điện Ngọc Đường, chợp mắt một lát tỉnh dậy thì Lục Y đã mang thuốc đến, sắc mặt vui mừng, “Ngự y nói rằng đây là bát thuốc cuối cùng. Sau này chỉ cần chú ý một chút tới thức ăn là được, như vậy sức khỏe của nương nương căn bản đã tốt rồi.”
A Kiều đã quen uống những thứ thuốc đắng ngắt kia, nghe vậy chỉ thản nhiên hỏi, “Thật không?” Nàng tự biết cơ thể mình bị ảnh hưởng nặng nề sau lần sẩy thai, dù bề ngoài không có biểu hiện gì nhưng bên trong đã không còn được như ban đầu.
“Bệ hạ luôn rất quan tâm đến nương nương đấy”, Lục Y vẫn vui mừng, “Nghe ngự y nói bệ hạ thường cho gọi hắn đến để hỏi thăm sức khỏe của nương nương.”
Đến tối thì một ngự y khác mang thuốc đến. Nàng nghi ngờ bưng lên, ngửi thấy thì mùi vị vừa có chút quen thuộc lại vừa có chút lạ lẫm thì hơi biến sắc mặt.
“Là trẫm sai bọn họ điều chế”, Lưu Triệt chắp tay bước vào, nói xong bảo mọi người lui ra.
“Trẫm đã hỏi ngự y cẩn thận, mặc dù sức khỏe Kiều Kiều được coi là khỏe rồi, bây giờ đã có thể sinh hoạt phòng the nhưng tốt nhất là trong vài năm nữa không được thụ thai, nếu không sẽ rất tổn hại cho cả hai mẹ con. Chờ thêm vài năm nữa, tuổi thì cũng…” Y dừng lại, đắn đo một chút rồi nói, “Trẫm liền sai các ngự y bàn bạc cân nhắc, thảo ra phương pháp ngừa thai ôn hòa. Trẫm sợ nàng nghi ngờ nên đích thân đến nói.” Y nhìn nàng chằm chằm, quan sát kỹ từng biểu hiện trên mặt.
Nhiều năm trước, khi nàng còn là hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ, người chung chăn gối đã từng gạt nàng, hạ thuốc ngừa thai trong thức ăn. Cho tới bây giờ, mặc dù thời thế thay đổi, vết thương đó đã thành sẹo nhưng vẫn còn rất đau đớn.
Nàng cười nhẹ, “Thϊếp cũng không phải là trẻ con dễ suy nghĩ lung tung.” Nhưng gương mặt nàng đỏ bừng, lầm bầm oán trách, “Nói cho mọi người biết loại chuyện riêng tư này thì vui vẻ lắm sao?”
Lưu Triệt nghe thấy nhẹ cả người, mỉm cười kéo nàng lại trêu đùa, “Trẫm không biết rằng tuổi càng nhiều thì da mặt Kiều Kiều trái lại càng mỏng đi.”
Có lẽ vì quá lâu không thân mật nên càng vuốt ve càng cuồng nhiệt. A Kiều không chịu được, liên tục xin tha, đến lúc trời sáng mới đi ngủ.
Khi tỉnh dậy thì Lưu Triệt đã rời khỏi, Lục Y hầu chủ nhân mặc áo, trông thấy những dấu vết đậm đậm nhạt nhạt trên người nàng thì che miệng cười trộm. A Kiều đỏ bừng mặt, cố gắng làm bộ nghiêm trang, “Cười cái gì, ngươi ra ngoài kia ngay, mặc kệ ta.”
“Dạ được, dạ được.” Lục Y lúc này mới dừng lại, dò xét chung quanh không có ai mới rón rén tới gần nói thầm vào tai A Kiều, “Triều đình báo tin rằng triều thần tiếp tục xin bệ hạ lập thái tử, đồng thời phủ Đường Ấp hầu cũng truyền tin tức”, giọng cô càng lúc càng nhỏ, cuối cùng lí nhí chỉ riêng A Kiều là có thể nghe được, “Nhị hoàng tử Lưu Cứ vô tội được phóng thích, thái độ chán nản, mấy hôm trước lén đi gặp Trường Bình hầu.”
A Kiều rùng mình, con rết trăm chân, chết vẫn còn ngọ nguậy huống chi là chưa chết. Vệ thị huy hoàng, Vệ Tử Phu bao năm ở ngôi hoàng hậu đã cai trị cung Vị Ương ngay ngắn rõ ràng, Vệ Thanh là một đại danh tướng, mặc dù bị Lưu Triệt nghi kỵ đã rời xa quân đội nhưng sức ảnh hưởng thì không phải ai cũng có thể xem nhẹ, huống chi lại vẫn còn có một Lưu Cứ. Nếu Trần gia vì Vệ hoàng hậu đã chết mà xem nhẹ Vệ gia thì Trần gia sao xứng được vinh hiển trăm năm ở nơi đế đô mưa gió bão bùng này.
“Thế à?” Nàng trầm ngâm hỏi, “Đến tình hình này thì Trường Bình hầu còn có thể có cách gì chứ?” Vệ Thanh có thiên phú trên chiến trường chứ chưa bao giờ xuất sắc trong những chuyện đấu mưu đấu trí quỷ quyệt
“Điều này cũng chưa chắc”, Lục Y lắc đầu.
Mấy ngày sau, Nhị hoàng tử Lưu Cứ dâng biểu lên bệ hạ tự xin đi làm phiên vương. Một hoàng tử đã được phân phong làm phiên vương thì có nghĩa là danh phận quân thần đã định, sau này phải tốn rất nhiều công sức mới thay đổi được. Đây chính là quyết định sau cùng của Vệ Thanh sao? Vệ gia rốt cục vẫn phải cúi đầu trước Trần gia để cầu mong bảo toàn được địa vị của hoàng tử và các công chúa họ Vệ.
Trong điện Tuyên Thất, Lưu Triệt trái lại rất kinh ngạc. Rất nhiều triều thần đã ủng hộ việc Nhị hoàng tử dâng biểu lên, còn nói nếu Nhị hoàng tử đã phân đất phong vương thì Tam hoàng tử và Tứ hoàng tử cũng cần được phân phong luôn một thể mới phải lẽ. Kể từ đó, dù Hoàng tử trưởng Lưu Mạch chưa chính thức được gia phong ngôi vị thái tử nhưng đã rực rỡ như cầu vồng mới mọc, khí thế thái tử bao trùm thiên hạ.
Cuối năm Nguyên Đỉnh đầu tiên, Hoàng đế kính báo thái miếu, phong Nhị hoàng tử Lưu Cứ làm Tề vương, đất phong là nước Tề; Tam hoàng tử Lưu Hoành làm Quảng Lăng Vương, đất phong là vùng Giang Tô, lập đô ở Quảng Lăng; Tứ hoàng tử Lưu Đán làm Yến vương, đất phong là vùng Bắc Kinh ngày nay, lập đô ở Kế. Lưu Cứ lớn tuổi nên sau khi được phong vương liền lập tức tới phiên quốc còn Tam hoàng tử và Tứ hoàng tử còn quá nhỏ tuổi nên ở lại Trường An đến khi trưởng thành.
Chớp mắt đã sắp tới năm Nguyên Đỉnh thứ hai. Tuyết rơi đầy trước điện Ngọc Đường dày chừng một thước, trong điện lại ngập tràn vui vẻ. Đến tết, điện Tuyên Thất nghỉ ngơi ba ngày nên Lưu Triệt ở lại điện Ngọc Đường, ngồi trên chiếc ghế được phủ lông cáo dày mỉm cười nghe Lưu Sơ đánh đàn. Lưu Sơ theo Trác Văn Quân tập đàn đã được mấy năm nên hôm nay ngồi ở trước đàn cũng khá chững chạc, chỉ có tiếng đàn là không thể giả dối, A Kiều nghe hồi lâu, khẽ cười nói, “Thật không dễ nghe.”
Lưu Sơ dừng tay, nháy mắt, “Người ta vẫn nói con gái thì giống mẫu thân, con đánh đàn không hay vậy thì mẫu thân cũng chẳng khá hơn.” Lưu Triệt nhìn A Kiều á khẩu, cất tiếng cười vang.
Mọi người đang lúc vui vẻ, Dương Đắc Ý trông thấy cung nhân tới trước mành như có điều gì muốn bẩm liền nhẹ nhàng tiến đến nghe một hồi rồi trở lại bên cạnh Lưu Triệt kho người nói, “Bệ hạ, Tề vương điện hạ đến đất phong, muốn gặp bệ hạ để từ biệt.”
Nụ cười của Lưu Triệt dần nhạt đi, khép mắt, “Bảo nó vào.”
Trần A Kiều nhíu mày, quay đầu lại lườm Lưu Triệt. Dù nàng không muốn gặp Lưu Cứ nhưng nếu nó đã đến điện Ngọc Đường thì nàng cũng không thể né tránh liền gật đầu ra hiệu bảo Lục Y lấy ra một tấm chăn mỏng phủ thêm lên người. Lát sau, Lưu Cứ vén rèm bước vào mang theo một trận gió tuyết, quỳ gối dưới điện bái chào, “Nhi thần Lưu Cứ tham kiến phụ hoàng, nương nương.” Cậu nói mấy tiếng sau cùng cực kỳ ậm ờ. Lưu Triệt liếc nhìn A Kiều, thấy nàng khẽ gật đầu ra vẻ không để ý thì chỉ chậm rãi nhếch môi.
Có lẽ là Lưu Cứ đau đớn trước cái chết của mẫu hậu nên trông gầy đi rõ rệt. Cậu mặc bộ y phục màu lam, mặt mũi nhợt nhạt. Trần A Kiều thầm thở dài, nếu như suy bụng ta ra bụng người thì cũng có thể hiểu được những oán hận Lưu Cứ đối với nàng. Mẫu thân từng hỏi nàng vì sao không ép sát, bức tử Lưu Cứ để nhổ cỏ tận gốc cho hoàn toàn yên tâm, Vệ Tử Phu đã chết, nàng là người thắng mà truy cứu thêm một đứa bé thì thật quá hẹp hòi. Hơn nữa nàng rất có lòng tin đối với Trần gia, đối với Liễu Duệ, đối với Tang Hoằng Dương, thậm chí đối với cả Mạch Nhi nữa. Bọn họ đều là người thông tuệ, cẩn thận, có thể nào để cho một Lưu Cứ nho nhỏ trở mình.
Nàng suy nghĩ một hồi, không ngờ Lưu Cứ lại đang chăm chú theo dõi những động thái của mình. Cậu nhìn người phụ nữ trước mặt, mái tóc búi xõa, dung nhan tươi đẹp được hơi nóng từ lò sưởi hắt vào đỏ bừng, vẻ mặt hờ hững dường như mọi chuyện chung quanh đều không ảnh hưởng đến, liền nghĩ tới mẫu thân của mình ở dưới suối vàng mà lòng sầu thảm. Chính người phụ nữ này đã cướp đi sự quyến luyến của phụ hoàng dành cho mẫu thân. Đến cuối cùng cậu vẫn không thể tha thứ cho mình đã viết ra mẩu giấy đó mà đẩy mẫu thân vào bước đường cùng, rõ ràng chủ ý chỉ là báo bình an thế mà lại thành bùa đòi mạng mẫu thân.
“Thế đấy, Cứ Nhi”, cữu cữu thê lương nói, “dù cháu thông minh nhưng vẫn quá ngây thơ, dễ dàng tin vào người khác để rồi phải trả cái giá quá đắt.” Mẫu thân đã mất, cậu chỉ muốn bảo vệ tỷ tỷ của mình nên phải nhượng bộ.
“Cứ Nhi”, Lưu Triệt nhìn đứa con ngày xưa mình từng yêu quý vô vàn bây giờ lại hóa thành bộ dạng như vậy, trong lòng chợt dâng lên chút tình cha con, dịu giọng, “Đất Tề là đất phong tốt nhất của Đại Hán. Hôm nay con đi phải giữ vững quyền lực và trách nhiệm.”
Lưu Cứ gật đầu, bái lạy thêm lần nữa, “Đa tạ ân điển của phụ hoàng.”
“Nhi thần còn có một thỉnh cầu”, cậu ngẩng đầu lên liếc nhìn Lưu Triệt, vẻ mặt bình thản, ánh mắt trong trẻo.
“Thế à?” Lưu Triệt hỏi, “Là điều gì vậy?”
“Nhị tỷ của nhi thần tuy có phạm sai lầm lớn nhưng tình tỷ đệ vẫn không thể bỏ. Tỷ ấy đã là thứ dân, nhi thần khẩn cầu được dẫn theo tới phiên quốc để có thể chăm sóc cho nhau.”
Lưu Triệt biết cậu sợ Lưu Vân không còn thân phận công chúa, tiếp tục lưu lại Trường An sẽ khó xử và bị người khác xem thường nên gật đầu, “Như vậy cũng được, Cứ Nhi”, y nhìn sâu vào mắt Lưu Cứ đầy hàm ý, “Phụ hoàng thấy con trưởng thành rồi, làm việc ôn hòa là chuyện tốt nhưng cũng có mặt hạn chế. Hôm nay con đi đất Tề làm vương, bản thân còn cần phải học hỏi nhiều hơn.”
Lưu Cứ trầm mặc hồi lâu, khấu đầu thật sâu, nói, “Nhi thần ghi nhớ lời dạy bảo của phụ hoàng.”
“Hôm nay đang là ngày tết”, Lưu Triệt ân cần, “Cứ Nhi để qua lễ Thượng nguyên rồi đi cũng được.”
“Không được”, Lưu Cứ lắc đầu, “Chắc nhi thần ngày mai bái biệt mẫu hậu xong thì sẽ dẫn nhị tỷ lên đường.” Nói xong, cậu cũng không muốn nhìn lại vẻ mặt đang dần chuyển lạnh của Lưu Triệt, đứng dậy muốn lui ra nhưng vừa nghĩ tới tam tỷ lại cắn môi đến suýt bật máu, xoay người lại quỳ xuống trước Trần A Kiều, hô một tiếng Trần nương nương, thanh âm tuy thấp nhưng vẫn nghe được rõ ràng.
A Kiều giấu vẻ kinh ngạc, cười nhạt, “Nhị hoàng tử muốn nói điều gì thì cứ nói đi.”
“Tam tỷ của ta”, Lưu Cứ cúi đầu, “Tính tình từ nhỏ đã bồng bột nhưng với mẫu thân cũng coi là hiếu thuận. Hôm nay mẫu… mẫu thân không còn nữa, tỷ ấy lập thề giữ hiếu ba năm không nói tới chuyện kết hôn. Sau ba năm, kính xin nương nương tác thành cho hôn nhân của tỷ ấy.”
Vệ Trường công chúa đã xuất giá, mặc dù nhà chồng gặp phải tai ách nhưng cô vẫn còn thân phận công chúa, lại có một đứa con gái để chăm sóc, gửi gắm cuộc đời mình vào nó. Hôm nay cung Vị Ương đã là thiên hạ của Trần A Kiều, sinh tử họa phúc của Chư Ấp công chúa Lưu Thanh đều nằm trong tay nàng.
“Ngươi yên tâm”, nụ cười của nàng mang theo chút trào phúng, “Ta không đến mức gây sự với một cô bé… Chỉ cần nó không đi sai đường là được rồi.”
Lưu Cứ ra khỏi điện thì vừa gặp Lưu Mạch từ Bác Vọng hiên trở về. Hai huynh đệ cùng học tập trong một điện gặp tại hành lang nhưng chỉ thoáng nhìn rồi lách người đi qua. Trong lòng Lưu Mạch thoáng buồn bã. Cậu bước thêm một bước thì nhìn thấy bóng người trong điện Ngọc Đường. Nơi đó là người nhà của cậu, những người cả đời sẽ bảo vệ cậu. Nghĩ đến đây thì Lưu Mạch liền thấy lòng thanh thản hơn rất nhiều.
“Phụ hoàng!” Lưu Mạch vén rèm bước vào, cung kính chào.
“Mạch Nhi”, Lưu Triệt cũng tươi tỉnh lại, “Con đến vừa lúc, trẫm có lời muốn nói với con.”
A Kiều giật thót người, vội vàng nói, “Nhắc tới Mạch nhi, thϊếp cũng có lời muốn nói với bệ hạ.”
“Ồ?” Lưu Triệt thuận miệng hỏi, “Có chuyện gì thế?”
Nàng hít một hơi thật sâu, ưỡn thẳng lưng, nhìn Lưu Triệt trịnh trọng, “Sau khi Trường Tín hầu phá được tộc Côn Minh thì Tang tư nông trù tính sẽ cử thương đội đến Thân Độc, chuyện này chắc bệ hạ cũng biết. Thϊếp nghĩ nên để cho Mạch Nhi cùng đi một chuyến.”
Chuyện hoang đường như vậy thì ngay cả Lưu Mạch nghe cũng còn ngạc nhiên, chưa nói những nội thị và cung nữ trong điện. Ai nấy đều hoặc là rớt chén trà hoặc khẽ nghiêng người, ngay cả lão luyện thành thục như Dương Đắc Ý cũng biến sắc. Để cho Thái tử Lưu Mạch sắp kế vị trở thành quân vương đi xa vạn dặm ra nước ngoài theo thương nhân là chuyện xảy ra lần đầu tiên trong hơn trăm năm khai quốc của Đại Hán. Mọi người cũng đã biết tâm tính và tác phong của Trần nương nương mà bệ hạ sủng ái luôn vượt ra ngoài mọi ý liệu nhưng không bao giờ có thể ngờ được nàng lại xuất một việc nằm ngoài mọi chuẩn mực như vậy.
“A Kiều”, Lưu Triệt xẵng giọng. A Kiều cười thầm, biết một khi Lưu Triệt không còn gọi nàng là Kiều Kiều chính là điềm báo trước cơn tức giận.
Lưu Triệt lệnh cho mọi người lui xuống, giọng lạnh lẽo hiếm thấy, “A Kiều, nàng phải biết rằng, phu quân nàng không phải là thương nhân mà là đế vương nắm trong tay cả giang sơn huy hoàng của Đại Hán. Nàng không chú ý bản thân giao du với hạng kinh doanh như Tang Hoằng Dương cũng không nói làm gì nhưng đừng để con của chúng ta cũng đi làm một thương nhân. Thứ mà tương lai nó nắm trong tay chính là cả giang sơn này.”
A Kiều nhìn y hồi lâu, bỗng nhiên bật cười, “Bệ hạ xem thường thương nhân sao?” Thật ra muốn quản lý cả giang sơn cũng không thể rời xa tiền bạc. Nếu không thì lấy đâu ra những chi phí quân lương cho mấy lần đại chiến vừa qua?
“Nhưng thϊếp không phải muốn cho Mạch Nhi đi kinh doanh”, A Kiều nói, “Đại Hán cùng Thân Độc là hai nước lớn, muốn thiết lập quan hệ ngoại giao thông thương thì phải cử sứ thần. Điều thϊếp muốn làm chính là để Mạch Nhi đảm đương chuyện này. Nếu tuổi còn nhỏ thì làm phó thần cũng được. Cam La[1] được phong tướng khi mới mười hai tuổi, Lưu Mạch sang năm đã mười ba tuổi rồi.”
[1] Cam La: Một nhân sĩ thời Chiến Quốc, ông nổi tiếng là nhà chính trị gia từ khi còn niên thiếu, đã từng là môn hạ của Lã Bất Vi – thừa tướng nhà Tần, sau này lập được công lao lớn, được Tần vương trọng dụng.
“Hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, tự có điển khách[2] Ngũ Bị chịu trách nhiệm trù tính, cần gì hoàng tử Đại Hán phải quan tâm?”
[2] Điển khách: Là tên một chức quan thời xưa, thường thì người ở vị trí này sẽ thay mặt triều đình lo liệu các sự vụ và tiếp đãi những vị khách tới các nước nhỏ, các danh tộc thiểu số.
“Ưng non không giương cánh bay thì vĩnh viễn không thể trở thành hùng ưng,” A Kiều ví von, “Thϊếp muốn để cho Mạch Nhi trải qua chút mưa gió.” Nàng nhíu mày, oán trách, “Mạch Nhi càng lớn càng không đáng yêu, bộ dạng giống hệt người lớn chẳng còn giống con trẻ nữa.”
Lưu Triệt dở khóc dở cười, “Nó đã là hoàng tử hiểu biết thế sự nhiều nhất rồi. Năm đó…”, mắt y bất giác tối đi, “Nó lưu lạc với nàng nhiều năm bên ngoài, đã là khác lạ trong hoàng gia. Ngay cả không đề cập tới chuyện tại Thượng Lâm Uyển năm ngoái thì biểu hiện của nó cũng đã hợp cách rồi.”
“Thái tử của một nước”, A Kiều nhớ tới chuyện năm ngoái, trong lòng lại thấy phiền muộn, nghiêm mặt nói, “Không phải chỉ cần am hiểu quyền mưu mà phải có tấm lòng rộng mở, phải có tầm nhìn xa. Cổ nhân nói đi một ngày đàng học một sàng khôn. Chẳng phải bệ hạ muốn người thừa kế càng hoàn mỹ càng tốt sao? Nó phải đích thân cảm thụ giang sơn ngày sau của mình, thậm chí phải tới thăm thú những quốc gia chung quanh Đại Hán mới có được trải nghiệm sâu sắc.”
“Vậy thì…”, Lưu Triệt cũng thấy dao động, trầm ngâm nói, “Nàng là mẫu thân của nó, chuyến đi lần này cực kỳ hung hiểm, chẳng lẽ nàng không lo lắng sao?”
A Kiều lắc đầu, “Nói không lo lắng là không đúng. Cho nên thϊếp mong bệ hạ thu xếp sao cho tốt nhất. Có du hiệp giang hồ và tinh binh của Trường Tín hầu hộ tống, an toàn sẽ không thành vấn đề. Vì lo lắng mà luôn để con cái bên cạnh thì vĩnh viễn nó sẽ không trưởng thành được.”
“Đã như vậy”, Lưu Triệt nhướng mày, “Kiều Kiều yên tâm, trẫm còn có thể tiếp tục lo lắng sao? Nếu có gì bất trắc chỉ nói lên rằng nó không có phúc duyên với giang sơn này.”
Lưu Mạch biết được câu trả lời cuối cùng của phụ hoàng thì rất kinh ngạc nhưng cũng khó áp chế nổi tâm trạng hưng phấn, “Mẫu thân”, cậu nói, “Nếu thật sự phải đi thì con hy vọng được lấy thân phận thường dân để rèn luyện trong gian khổ mà trưởng thành.”
Trần A Kiều suy nghĩ một chút rồi gật đầu, “Con chưa tới hai mươi tuổi, nhưng nếu đi xa thì lấy tên tự đi.” Lưu Triệt ban cho Lưu Mạch tên tự là Trường Trinh.
Vào lúc Điển khách Ngũ Bị nhận mệnh dẫn sứ đoàn đi Thân Độc thì phó sứ là một thiếu niên mà mọi người chưa từng gặp bao giờ, tên gọi Trần Trường Trinh. Vào tháng Ba năm Nguyên Đỉnh thứ hai, sứ đoàn và thương đội cùng nhau lên đường. Trong cung Vị Ương nhiều chính sự phải giải quyết nên Lưu Triệt không thể đến tiễn. Trần A Kiều cùng Lưu Sơ đưa Lưu Mạch đến chỗ rẽ trên đường cái trước cổng thành.
“Mẫu thân không cần phải tiễn nữa.” Lưu Mạch mỉm cười nhảy xuống xe, “Nếu để người ta nhìn thấy hai người, sẽ biết thân phận đặc biệt của con mất.”
“Ca ca”, Lưu Sơ lưu luyến không rời, kéo tay áo Lưu Mạch, “Ca ca phải sớm trở về đấy.”
“Biết rồi.” Lưu Mạch vỗ vỗ trán cô bé, “Ca ca sẽ nhớ mang quà về cho muội.”
Cặp mày trẻ trung của cậu toát lên vẻ tự tin không thể khuất phục, phảng phất như vầng thái dương tỏa rạng vừa mọc trên đầu thành tỏa ánh sáng ra muôn trượng. Biệt ly bao giờ cũng bịn rịn, A Kiều nén nỗi xúc động, mỉm cười nhắc nhở, “Lúc trở về, con cũng đừng mang theo một cô nương Thân Độc nhé. Nghe nói con gái Thân Độc đều rất quyến rũ.” Dù nàng không quan tâm đến dòng dõi nhưng với tình thế của Đại Hán hiện giờ thì dòng dõi hoàng gia vẫn không thể để lẫn huyết thống ngoại tộc.
“Mẫu thân”, Lưu Mạch sửng sốt, mặt đỏ bừng lên, làu bàu, “Mẫu thân nói gì vậy? Con mới mấy tuổi?”
Lưu Sơ cười phì một tiếng, Lưu Mạch cũng cảm thấy buồn cười, bẹo má muội muội, “Muội đó, nghĩ cho bản thân đi, năm nay cũng đã mười ba tuổi rồi, có thể lập gia đình được rồi đấy.”
Lưu Sơ hừ một tiếng, quay đầu đi chỗ khác nhưng lại không tránh khỏi nhớ đến hình ảnh người tướng quân trẻ tuổi cưỡi trên lưng ngựa, nụ cười rạng rỡ hơn cả ánh mặt trời. Trên thế giới này, còn có người đàn ông nào hơn hắn sao? Nghe nói Hoắc Thiện giờ cũng đã bi bô tập nói, biểu hiện rất thông minh.
Lưu Mạch vẫy tay chào rồi rẽ sang góc phố, rồi khuất bóng. Năm Nguyên Đỉnh thứ hai, một năm sau khi trải qua biến cố tại Thượng Lâm Uyển, Trần A Kiều lấy thân phận mẫu thân tiễn con trai bước vào một hành trình không biết ngày về. Tiếng vó ngựa của sứ đoàn lọc cọc đi xa dẫn mang theo nỗi nhớ thương của nàng. Chuyến đi lần này tới Thân Độc sẽ rời xa gia đình, tổ quốc, băng qua vạn dặm. Câu nói sáng nay lúc rời đi của Lưu Triệt vẫn vương vấn trong lòng nàng, “Kiều Kiều”, y nói nhẹ bẫng, “Là một mẫu thân, nàng nhẫn tâm tới mức nào chứ.”
Y chợt nhớ, chẳng phải còn thiếu niên, bản thân cũng đã từng ôm giấc mộng một mình một kiếm đi khắp chân trời góc biển, có điều giấc mộng đó đã sớm tiêu tan trong đời thực.Quyển 3 - Chương 67: Sống kiếp tha hương vì khách lạXuất phát từ Trường An, đoàn người cưỡi ngựa suốt mấy tháng ròng, đi qua những cánh đồng bát ngát, gió mạnh gào rít, táp vào mặt đau rát.
Đến lúc này, Lưu Mạch mới biết thì ra hơn mười năm trong đời cậu vẫn được mẫu thân che chở thật yên lành. Ngay cả vào năm chạy trốn khỏi Trường An cũng chỉ một đường nhàn tản, ngồi trong xe ngựa thư thái, mưa gió chẳng đến thân.
Mẫu thân bây giờ ở cung Vị Ương đang làm gì? Đang cười đùa vui chơi với muội muội hay đang ở bên cạnh phụ hoàng ngắm nhìn hoa cỏ mùa xuân, trăng tròn mùa thu. Ngày qua ngày, cậu dần cảm thấy người đàn ông uy nghi khiến người khác không dám nhìn trong điện Tuyên Thất kia thật đúng là phụ thân của mình. Nếu như không phải có mối quan hệ khó nói thì đó chính là một vị quân vương anh minh, quyết đoán, tráng chí hừng hực đã sáng lập ra giang sơn Đại Hán thịnh vượng rộng lớn khiến cậu kính trọng. Hôm nay, cậu đang đi trên chính giang sơn này. Mẫu thân từng hỏi một ngày nào đó cậu có nguyện ý tiếp nhận giang sơn này không? Khi đó cậu đã không biết phải trả lời như thế nào. Cung điện tráng lệ đã khiến cậu không có tâm tính ngây thơ như những đứa bé cùng tuổi, nhưng tại một nơi bí ẩn sâu thẳm nhất trong tâm hồn, cậu thường hy vọng giống như Quách sư bá đeo gươm cưỡi ngựa hành tẩu trên giang hồ.
“Mười bước gϊếŧ xong kẻ,
Trời đất chẳng dung tình.
Là hoàng hôn màu máu.”
Mẫu thân rốt cuộc cũng thương tình cho nên ở trong một tình thế tưởng như không thể vẫn cho cậu một lần được có cơ hội như vậy. Cậu chân thành cảm tạ mẫu thân đã cho cậu được cưỡi ngựa, thay áo xanh như những người bình thường, bước lên con đường đến một đất nước xa lạ. Tới bây giờ, cậu mới cảm thấy mình yêu thương mỗi tấc đất dưới chân đến mức nào. Mọi ước mơ nói cho cùng cũng chỉ là mơ ước, phải có cơ hội thực hiện một lần mới thỏa lòng khao khát. Nếu có thể được bình an trút bỏ những thứ hành trang đang mang trên người thì cậu mới an tâm bước lên ngôi vị thái tử, trở về làm những bổn phận cần làm, ngày sau sẽ không còn phải tiếc nuối.
“Hoàng tử điện hạ được nuông chiều từ bé ở cung Vị Ương”, một thiếu niên phi ngựa từ phía sau vượt lên cười chế giễu, “đã không chịu được nỗi khổ bị bão cát táp vào mặt rồi sao?”
“Nhật Đan”, Lưu Mạch mỉm cười, “Ngươi không thể nói chuyện cho dễ nghe được sao?”
Ngày thứ ba kể từ khi gia nhập đoàn đi sứ, nhân lúc mọi người đang nghỉ ngơi dưỡng sức, Kim Nhật Đan đi tới bên Lưu Mạch, nói khẽ chỉ để hai người nghe được, “Ngươi đường đường là hoàng tử trưởng điện hạ mà trà trộn vào đoàn đi sứ loại này để làm gì?”
Lưu Mạch giật mình, thấy Quách Giải từ đằng xa nhìn mình lắc đầu tỏ ý không cần lo lắng mới hỏi lại, “Cái gì? Ngươi đã gặp ta sao?”
Ánh mắt Kim Nhật Đan lộ vẻ chê cười, “Ta đã từng làm mã nô ở cung Vị Ương, tất nhiên là Hoàng tử trưởng chưa từng thấy ta nhưng ta thì đã gặp ngươi.”
“Vậy à?” Lưu Mạch bình tĩnh lại, “Có phải ta nên cảm ơn ngươi ít nhất đã không rống lên tiết lộ thân phận của ta ra ngoài hay không?”
“Ta còn chưa đến mức như vậy”, Kim Nhật Đan nói, “Đường đường là hoàng tử điện hạ, vì muốn khoe khoang sự tôn quý của mình mà gia nhập vào đoàn đi sứ tới Thân Độc xa xôi.”
“Ta nghe người gọi du hiệp Quách Giải là sư bá”, gã nhìn Lưu Mạch bằng ánh mắt ngạo nghễ.
“Đúng vậy!” Lưu Mạch mỉm cười bình thản, không biết vì sao lại rất có cảm tình với cậu thiếu niên hận đời lớn hơn mình chừng hai ba tuổi này.
“Như vậy”, ánh mắt của Kim Nhật Đan lóe lên, rút thanh loan đao đeo bên người ra, thách thức, “khó có dịp ngươi không bị thân phận trói buộc, chúng ta tỷ thí một trận xem sao.”
Đi đường buồn chán, lại không biết thân phận của Lưu Mạch nên mọi người đều vỗ tay khen ngợi, tự phát quây thành một vòng tròn chờ xem trận đấu náo nhiệt hiếm có trong cuộc hành trình đơn điệu. Không muốn để cho mọi người biết chuyện, Quách Giải chỉ nhíu mày, đứng ôm kiếm, trông thấy ánh mắt lo lắng của Đốc quân Tiết Thực liền bảo, “Phụng Gia, đệ hãy trông coi A Trinh nhưng không được quấy rầy hứng chí của cậu ấy.” Thân Hổ nhìn sang, sắc mặt lạnh lùng đi thẳng tới bên hai người.
Lưu Mạch dù sao cũng vẫn còn là một đứa trẻ, bị Kim Nhật Đan thách thức liền hăng hái lên tiếng nhận lời, liếc thấy kiểu dáng của thanh loan đao trên tay gã không khỏi bất ngờ, “Ngươi là người Hung Nô à?”
Ánh mắt Kim Nhật Đan ảm đạm, nói giọng cô liêu, “Tình cảnh hôm nay thì còn Hung Nô hay không Hung Nô cái gì chứ? Xem đây!”
Gã bổ xuống một đao, mơ hồ có tiếng ầm ì như sấm nổ cho thấy lực tay rất mạnh.
Lưu Mạch rút thanh kiếm dài mảnh khỏi vỏ, mẫu thân của cậu từng nói rằng kiếm pháp chiến đấu không cần hoa mỹ, chỉ cần thực dụng. Tuy thanh bội kiếm của cậu không tên nhưng là quà tặng của Trường Tín hầu nên rất cứng cáp sắc bén, chống đỡ thế đao của Kim Nhật Đan không lùi nửa bước.
“Hay!” Kim Nhật Đan thử được lực tay của Lưu Mạch, bất giác lên tiếng khen ngợi. Đao vừa rút về lại vung lên, người xem không nhìn ra đường lối chiêu thức mà chỉ cảm thấy thanh loan đao của Kim Nhật Đan chém khắp bốn phương tám hướng, thân pháp Lưu Mạch lại trầm ổn như núi.
Lưu Mạch không đáp mà hỏi ngược lại, “Thân Độc có một môn võ công mà khi thi triển té nước cũng không lọt phải không?” Cậu phản công bằng những thế kiếm hiểm hóc, tức thì đẩy Kim Nhật Đan trở về thế phòng thủ. Người xem ồ lên thán phục, Thân Hổ khẽ nhíu mày. Hắn nhận ra Lưu Mạch dựa vào công phu của Triêu Thiên môn thì không hề bị nguy hiểm, nhưng một thiếu niên Hung Nô luyện võ dựa vào sức mạnh hoang dã và ngộ tính của mình lại có thể chiến đấu ngang tay với người của Triêu Thiên môn khiến hắn vẫn cảm thấy mất thể diện. Mặc dù Lưu Mạch không phải là Triêu Thiên môn chính tông, thân phận của cậu đặc biệt nên nhất định không có quá nhiều thời gian tập võ.
Trong lòng hắn bỗng nảy ra ác ý, có lẽ nên tìm thời gian huấn luyện thêm cho cháu của mình một chút nữa. Hắn tưởng tượng đến vẻ mặt nhăn nhó và bộ dạng kêu khổ thấu trời của Lưu Mạch thì khẽ mỉm cười.
“Làm gì đó?” Chánh sứ Đường Hạ của sứ đoàn choàng y phục lên người rồi từ trong căn lều duy nhất bước ra, nghiêm mặt khiển trách, “Đi đường đã cực khổ mà các ngươi còn muốn ẩu đả à? Còn các ngươi nữa, không có việc gì để làm sao?” Hắn chỉ vào mọi người đang xem náo nhiệt, “Túm tụm lại ở đây mà hò hét.”
Lưu Mạch và Kim Nhật Đan cười ha hả rồi cùng dừng tay. Đường Hạ phất tay bảo, “Trần Trường Trinh, ngươi theo ta vào đây một lát.”
Lưu Mạch ngơ ngác một hồi mới kịp nhận ra là hắn đang gọi mình. Cậu bất đắc dĩ thở dài, đi theo vào trong lều, chắp tay hỏi, “Đại nhân có chuyện gì căn dặn?”
Đường Hạ chắp tay trầm ngâm một lát rồi quay đầu lại nghiêm mặt, “Trần phó sứ, ngươi tuy nhỏ tuổi nhưng là thủ hạ của Ngũ điển khách. Đi sứ phiên bang xưa nay ít khi dùng người mới.”
“Ta chưa từng nghe đến cái tên Trần Trường Trinh này, để tâm quan sát mấy ngày qua thấy ngươi tuy nhỏ tuổi nhưng kiến thức khí độ đều bất phàm.” Đường Hạ nói tiếp, “Nhưng chỉ vẻn vẹn như thế thì không thể nào thuyết phục được Ngũ điển khách cho gia nhập sứ đoàn, hơn nữa còn là phó sứ chỉ thấp hơn một mình ta.”
Lưu Mạch đáp tự nhiên, “Đường đại nhân thật tinh tế. Không dối gạt đại nhân, đúng là Trường Trinh có người thân thích là chư hầu thế gia.” Đường Hạ đã có nhận định, nếu phủ nhận toàn bộ thì ngược lại là không cao minh. Hơn nữa, trên đời có vô số thứ bất thành văn, không phải lờ đi là có thể bỏ qua, tiết lộ ra một chút, ngược lại còn có thể khiến vị cấp trên này dè chừng, sau này cũng không vướng víu tay chân.
Dưới đèn, trong mắt Đường Hạ ánh lên một tia thấu hiểu, một tia khinh thường, một tia hâm mộ rồi dần chuyển thành ôn hòa, nói giọng lễ độ, “Thì ra là vậy, bản sứ biết rồi. Phía ngoài bão cát lớn, Trần phó sứ cũng là người đứng đầu, nên cùng với ta ở lại trong lều nghỉ ngơi đi.”
“Không được”, Lưu Mạch mỉm cười từ chối, “Sư bá và tiểu cữu cữu của ta đều ở bên ngoài, ta ra ngoài với bọn họ. Nếu không khi trở về, mẫu thân sẽ trách mắng ta.”
Lúc vén mành lên đi ra khỏi lều, cậu còn nghe thấy Đường Hạ nói với theo, “Trần công tử có thân thế hiển hách, lại là hậu bối của du hiệp Quách Giải, công phu không tệ. Ngày sau thăng tiến thì đừng quên Đường Hạ nhé.”
Cậu ngẩng đầu lên, nhìn thấy Kim Nhật Đan đang ngồi trên cát cầm bầu rượu tu ừng ực. Gã thấy cậu cũng chẳng hề để tâm, vẻ mặt hào sảng, “Uống một ngụm không?” Gã tung bầu rượu cho cậu, “Đây là rượu mạnh Hung Nô nguyên chất đấy.”
“Không”, Lưu Mạch cười đáp, tung bầu rượu trả lại rồi ngồi xuống bên cạnh.
“Tại sao?” Kim Nhật Đan tỏ ý tức giận, “Ngươi khinh ta sao? Trước khi có triều Hán, ta cũng từng là vương tử của một bộ lạc.”
Lưu Mạch bật cười, “Ta không thể uống rượu.”
Kim Nhật Đan đã từng nghe nói về chuyện Hoàng tử trưởng không uống được rượu nhưng nhất thời không nhớ, nghe vậy liền gật đầu, “Ta trách lầm ngươi.” Gã cười một tràng dài, “Ngươi là người thứ hai của triều Hán mà ta bội phục.”
“Ồ?” Lưu Mạch tò mò hỏi, “Người thứ nhất là ai?”
“Tất nhiên là Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh”, Kim Nhật Đan khẽ đáp, ánh mắt đầy vẻ tán thưởng, “Hồi đó hắn gặp ta ở Ngự mã giám, ta cãi nhau với hắn thế mà hắn cũng không xử tội, ngược lại còn cho ta chăn ngựa. Chỉ tiếc trời cao đố kỵ anh tài.”
Lưu Mạch nghe thấy cái tên đã lâu không được nghe ai nhắc đến lại liền sửng sốt, “Ngươi không hận hắn sao? Chính hắn đã tiêu diệt Hung Nô của ngươi.”
“Được làm vua thua làm giặc, có gì mà hận hay không hận”, Kim Nhật Đan lại uống một hớp rượu, “Hơn nữa, nếu muốn hận thì phải hận chính người Hung Nô đã gϊếŧ phụ vương của ta.”
Trên đường đi, các toán phỉ sa mạc thấy đoàn người có hai đội kỵ binh Khâu Trạch và Phiêu kỵ nổi tiếng tinh anh của Đại Hán hộ tống, cộng thêm du hiệp uy danh nhất Đại Hán theo cùng thì đều chùn bước. Vì vậy, sứ đoàn và thương đội cũng không gặp phải nguy hiểm gì, có chăng chỉ là đường đi vô cùng cực khổ mà thôi.
Dần dà đã đến nước Điền, dân nước Điền mất nước nên nhìn bọn họ bằng ánh mắt thiếu thiện cảm. Tuy nhiên uy danh của đại tướng Liễu Duệ triều Hán năm trước tấn công Côn Minh còn vang dội, kỵ binh Đại Hán đi theo đao giáp sáng ngời khiến bọn họ không dám vọng động.
“A Trinh, không nên suy nghĩ quá nhiều”, Tiết Thực thúc ngựa đi tới bên cạnh Lưu Mạch, gọi tên của cậu.
Hắn nhìn vị hoàng tử trẻ tuổi, cảm thấy tương lai quốc gia sau này được đặt vào tay cậu bé sẽ rất quang vinh. Đương kim Hoàng thượng quả nhiên là vị quân chủ anh minh khi quyết định người kế vị. Lần đầu tiên hắn được đến gần hoàng tử trưởng Lưu Mạch trong khoảng cách gần như vậy, quan sát qua suốt mấy tháng, thấy khí độ, kiến thức, võ công của cậu đều cực kỳ xuất sắc.
Hắn nhớ lại người con gái xinh đẹp trong quân doanh Khâu Trạch rất nhiều năm về trước. Lúc đó Lưu Mạch còn đang quấn trong tã lót, còn cô gái kia… hắn thật ngốc, mãi mà chẳng nhận ra thân phận nữ nhi của nàng. Nghe nói ở bên cạnh bệ hạ, Trần nương nương được đặc biệt ân sủng. Đấng quân vương tưởng chừng chìm trong uy nghiêm bất khả xâm phạm cuối cùng cũng quay đầu lại, thấy được chỗ tốt của Trần nương nương.
“Là người thuộc tầng lớp vương giả, không gì bằng nhận lấy một lãnh thổ để gây dựng khí phách hào hùng. Nếu A Trinh cảm thấy không yên lòng thì càng phải làm cho con dân trên lãnh thổ đó có cuộc sống yên ổn.”
Lưu Mạch cười rạng rỡ, “Đa tạ Tiết tướng quân, ta nhớ kỹ rồi.”
Ra khỏi Côn Minh đã là xứ người, Lưu Mạch nhìn lại cố hương, trong lòng không quá lưu luyến. Khi cậu trở lại nơi đây sẽ càng trưởng thành, càng có dũng khí đối mặt với số mệnh của mình.
Bọn họ mời một người dân bản xứ tinh thông tiếng Hán và tiếng Thân Độc tên là Mạc Nạp. Mạc Nạp da dẻ đen nhẻm, dáng điệu không giống người Hán nhưng rất hay nói. Hắn kể rằng muốn đến Thân Độc thì phải đi qua một ngọn núi rất cao, rất cao, trên đời này không có núi nào cao hơn được nó. Ngọn núi đó tên là…
“Himalaya”, Lưu Mạch thản nhiên nói.
“Đúng rồi”, Mạc Nạp ngạc nhiên nhìn cậu, “Vị tiểu công tử này đã tới nước Điền rồi sao? Rất ít người Hán biết ngọn núi này.”
Lưu Mạch không đáp, hỏi ngược lại, “Có phải Thân Độc có một con sông nổi tiếng tên là sông Hằng hay không?”
“Đúng vậy!” Mạc Nạp càng ngạc nhiên hơn.
Trong lòng Lưu Mạch hiện lên nỗi nghi ngờ. Thuở nhỏ cậu thường ở cùng với mẫu thân, đã quen với việc mẫu thân biết nhiều hiểu rộng. Cứ cho rằng mẫu thân có xuất thân cao quý nên tất nhiên có kiến thức rộng rãi, nhưng cậu ở trong cung Vị Ương bao năm, được các vị tiên sinh uyên bác tới dạy bảo, song ví như chuyện Thân Độc thì ngay cả Đông Phương Sóc cũng không biết, tại sao mẫu thân chỉ một cô gái chốn thâm cung lại biết rõ ràng như nó ở ngay bên cạnh thành Trường An?
Thân Độc cuối cùng đã xuất hiện trong tầm mắt. Lưu Mạch ngồi trên lưng ngựa, từ xa đã nhìn thấy biên giới, một trận gió thổi qua cuốn bụi đất bay lên mù mịt rồi bám vào người tạo thành một lớp xám mờ.
“Tới rồi”, Kim Nhật Đan thúc ngựa đi tới bên cạnh cậu, thở phào nói, lúc này theo lịch Hán là tháng Chín năm Nguyên Đỉnh thứ hai.
Lưu Mạch tới Thân Độc mới biết ở ngoài Đại Hán phồn hoa còn có những quốc gia cường thịnh khác. Đúng như lời mẫu thân của cậu, con gái Thân Độc rất quyến rũ, mặc dù dùng khăn che mặt nhưng chỉ với đôi mắt lộ ra ngoài đã có thể hút hồn người. Mạc Nạp phụng mệnh Đường Hạ đi tới chỗ quân coi cổng thành truyền đạt ý của sứ đoàn và thương đội. Quân giữ cổng cũng chưa từng bao giờ nghe về một nước lớn ở phương đông xa xôi nhưng nhìn vào khí độ, ăn mặc của đoàn người cũng không dám chậm trễ báo lên Thượng ty rồi để bọn họ vào thành.
Đô thành Thân Độc đâu đâu cũng là cảnh phồn hoa, trên phố tấp nập cư dân. Hai bên đường có các quầy bán hàng rong, nghệ nhân thổi sáo điều khiển rắn khiến mọi người hoa cả mắt. Lưu Mạch liếc thấy Đường Hạ mắt nhìn thẳng, khoáng đạt bước qua liền cười khẽ. Xem ra bổ nhiệm Đường Hạ vào chức vụ chính sứ lần nay cũng là một quyết định sáng suốt của Ngũ Bị. Đoàn người ngủ lại tại lữ điếm của Thân Độc, đợi diện kiến quốc vương Thân Độc. Qua bảy ngày, trong vương cung truyền đến lệnh mời sứ giả Đại Hán vào diện kiến.
Quách Giải nói, “Ta sẽ giả trang đi theo.”
Có du hiệp đệ nhất thiên hạ bảo vệ cũng an toàn hơn, Đường Hạ gật đầu đồng ý dù biết Quách Giải phần lớn là vì sư điệt. Lưu Mạch dở khóc dở cười, “Chẳng lẽ các ngươi thật sự xem ta ngay cả chút chuyện này cũng làm không xong.”
Cả ba đi theo người do Quốc vương phái tới. Vương cung Thân Độc toát lên vẻ quyến rũ khác lạ, Lưu Mạch thầm than, dù phong cách khác nhau nhưng không hề thua sự hoa lệ trong cung Vị Ương. Cũng không biết là vì quốc lực của Thân Độc cường thịnh có thể so với Đại Hán hay quốc vương nước này thích xa hoa lãng phí.
“Các ngươi tới từ Đại Hán xa xôi sao?” Trên ngai vàng, Quốc vương thân thể hư nhược ngạo mạn hỏi.
“Đúng vậy”, Đường Hạ mỉm cười cúi chào, “Hoàng đế bệ hạ anh minh thần võ của Đại Hán chúng ta nghe nói ở cực nam Đại Hán có quốc gia Thân Độc phồn thịnh nên nguyện cùng giao hảo với Quốc vương, cùng phát triển phồn vinh. Vì thế liền phái bản sứ không quản đường xa vạn dặm tới đây đưa lên một chút lễ vật Đại Hán.”
Hắn vỗ tay, liền có thị tòng nối nhau tiến vào, những thứ dâng lên bao gồm tơ lụa, lá trà và đồ sứ. Quốc vương nhìn lướt qua các thị tòng liền cảm giác người bưng một món đồ sứ đứng cuối cùng cũng vừa thoáng nhìn sang, ánh mắt tuy ẩn hàm nhưng sâu không thể lường, bất giác rùng mình. Nữ tỳ Thân Độc tiến lên giở ra khay tơ lụa thứ nhất bốn phía đều ồ lên trầm trồ. Trên đó là một bộ y phục may từ tơ lụa có thêu hình cực kỳ thanh nhã, kiểu dáng hoa mỹ phức tạp, bên trên thêu hình hoa đang đua nở, đẹp không sao tả xiết. Sủng thϊếp bên cạnh Quốc vương thốt lên một tiếng, không nhịn được đưa tay ra. Tỳ nữ thông minh, vội vàng dâng lên. Ca cơ đó chạm vào cảm thấy tơ lụa nhẹ bẫng trơn mềm, thích quá không buông tay, than thở, “Tơ lụa Đại Hán trong Thân Độc tuy ít nhưng ta cũng từng thấy, so ra đều kém bộ y phục này.”
“Những thứ kia vốn chỉ lưu truyền trong dân gian. Hôm nay Hoàng đế bệ hạ Đại Hán sai sứ đoàn tới đây, lại là lễ vật dâng lên cho Quốc vương, sao có thể dùng thứ bình thường”, Đường Hạ cung kính đáp.
“Vương thượng”, sủng thϊếp kia uốn éo như rắn dựa vào ngực Quốc vương, “thϊếp rất thích bộ y phục này, Vương thượng ban thưởng cho thϊếp nhé.”
Quốc vương cười khẽ, “Cứ xem hai thứ còn lại rồi nói sau.”
Đồ sứ dâng lên dĩ nhiên cũng vô cùng tinh mỹ, lá trà cũng là thứ mà người Thân Độc chưa bao giờ thấy qua. Cung nhân đem nước sôi lên pha, Quốc vương uống một hớp, nghi hoặc, “Cũng không phải quá thơm ngọt.”
Đường Hạ lúng túng, đang muốn bước tới thì nghe phía sau vang lên một tràng cười, Lưu Mạch tiến lên phía trước, nói, “Uống trà khác với uống rượu, phân biệt không phải là vị ngọt ban đầu mà là dư vị lúc sau.” Cậu ở với A Kiều từ nhỏ, bàn về trà đạo không mấy ai có thể tinh thông hơn, lúc này cậu quay sang cung nhân, “Vị này, lấy cho ta thêm một phần nước sôi.” Cung nhân khϊếp sợ khí độ của cậu, quay đầu nhìn Quốc vương thấy khẽ gật đầu thì xoay người đi vào sau màn.
“Trà này là thứ trà cực phẩm, gọi là Bích Loa Xuân, dân gian còn có tên khác là Sát Nhân Hương”, Lưu Mạch mỉm cười, “Thật ra thì ở Đại Hán, trà trong giới quý tộc là một loại nghệ thuật. Đại Hán chúng ta từng có một vị khai quốc tướng quân, tên là Hàn Tín. Thủ pháp pha trà của ta hiện giờ gọi là Hàn Tín điểm binh.”
Cậu cầm lấy hai chén sứ vừa mới dâng lên, rót nước sôi từ một độ cao vừa phải vào chén, bốc một nắm lá trà rất nhanh rải đều vào từng chén khiến từng lá trà rơi vào trong rồi từ từ xoáy tròn chìm xuống. Quốc vương nhìn nước trà ánh lên một màu xanh biếc sáng ngời thì buộc miệng, “Được chưa?”
Lưu Mạch lắc đầu, “Lần đầu thử trà, còn sớm.”
Cậu gạn hết nước trong chén, lại rót tiếp nước sôi vào, đợi cho lá trà nở bung mới trình lên, “Vương thượng cùng Vương phi thử lại lần nữa.”
Hai người trịnh trọng nhấp một ngụm, cảm giác quả thực rất ngon, nhớ tới câu nói của Lưu Mạch lúc nãy liền gật gù, “Đúng vậy, thật sự vị thấm vào người.”
Lưu Mạch nói thêm, “Trà không chỉ dùng để giải khát, uống lâu dài có thể sáng mắt, tĩnh tâm.” Cậu liếc nhìn sủng thϊếp bên cạnh Quốc vương, “Vị nương nương mà Hoàng đế bệ hạ Đại Hán chúng ta ưa thích nhất chính là trà ngon.
Sủng thϊếp cười nói, “Vị tiểu công tử này nói thật hay.”
Đường Hạ nhân cơ hội đem chuyện thiết lập quan hệ ngoại giao thông thương giữa hai nước ra nói. Tâm trạng Quốc vương rất vui vẻ, biết được lợi ích khi thiết lập quan hệ ngoại giao với nước lớn Đại Hán phương đông nên cũng không gây khó dễ, nhất nhất đáp ứng. Ra khỏi vương cung đã quá buổi trưa, Đường Hạ chờ cho đi khuất mới hừ lạnh, “Trần phó sứ, ngươi phải nhớ kỹ, ta mới là chánh sứ.” Nói xong hắn không vui phất tay bỏ đi.Quyển 3 - Chương 68: Mới biết chữ tình dạ ngẩn ngơLưu Mạch nhăn nhó, không phải cậu không biết vừa rồi biểu hiện hơi quá mức, chỉ là thói quen lúc cần đứng ra tuyệt đối không lùi bước, muốn cậu thu mình lại là chuyện quá khó khăn. Đến lúc trở về lữ điếm, đám thương nhân nghe nói đã nhận được sự đồng ý của Quốc vương đều mừng rỡ, lập tức bắt tay vào chuẩn bị. Bọn họ còn chưa kịp tìm kiếm cửa hàng đã có quý tộc Thân Độc nghe nói đoàn sứ thần nhà Hán dâng lên lễ vật cực quý nên tìm tới cửa. Giá thương phẩm bị đẩy lên rất cao nhưng vẫn nhanh chóng bán hết sạch. Lưu Mạch nhìn thấy thì kinh ngạc, thở dài, “Tang thúc thúc nói rất đúng, mua bán ở nước ngoài quả nhiên là thứ kiếm ra tiền nhất.”
Bọn họ đổi lại một ít tiền Thân Độc để ra phố du ngoạn. Lưu Mạch rong ruổi đến một thương điếm, thấy trong quầy bày một thanh chủy thủ cong có đuôi bằng ngà voi trắng, nhớ lời hứa sẽ đem lễ vật về cho Lưu Sơ liền nói, “Đem ta xem.”
Ông chủ lại không nghe được tiếng Hán, ngơ ngác nhìn sang, Lưu Mạch lập tức hiểu ra, vội vàng nói lại bằng tiếng Thân Độc trúc trắc, “Ta muốn xem.”
Chợt nghe giọng dễ nghe của một cô gái, “Ta muốn cái này”, nói xong cánh tay thon thả của cô chỉ trúng vào thanh chủy thủ Lưu Mạch vừa chọn.
Ông chủ đứng đực ra, không biết xử lý thế nào. Lưu Mạch mỉm cười, cậu vốn đã được mẫu thân dạy không nên tranh chấp với con gái, liền khoát tay bảo thôi rồi rời khỏi cửa hàng. Cô gái kia vội vàng trả tiền, cầm thanh chủy thủ, quay người hấp tấp đuổi theo, hô, “Người phía trước…” Cô do dự một lát rồi nói tiếp, “Xin dừng lại!”
Lưu Mạch kinh ngạc quay đầu, hỏi, “Cô nói được tiếng Hán?”
Cô gái gật đầu, cô nói tiếng Hán tuy còn khó khăn, nhiều chỗ bị sai nhưng quả thực là tiếng Hán, “Ta tên là Diễn Na.” Cô nói tiếp, “Mẫu thân của ta là người Hán.” Cô phải ra hiệu thêm bằng tay, Lưu Mạch mới hiểu được. Có lẽ là trong dòng người chạy loạn nhiều năm trước, mẫu thân của cô bị bán đến nước Điền rồi chuyển tiếp tới Thân Độc.
“Phụ thân thích vẻ phong tình của nữ nhân người Hán nên mua bà sung làm thϊếp. Chế độ dòng dõi của Thân Độc rất nghiêm khắc, mẫu thân là phụ nữ ngoại quốc nên bị xem thường nhất. Ta cũng bị phụ thân đối xử không ra gì. Mẫu thân hoài niệm cố quốc, dạy ta tiếng Hán nhưng ta học nhiều năm vẫn không gặp được một người Hán để nói chuyện.”
Lưu Mạch thương xót cho thân thế của cô, hỏi, “Cô muốn ta giúp cô chuyện gì?”
Diễn Na ứa nước mắt, “Ngươi là thương khách Đại Hán?”
“Không phải”, Lưu Mạch lắc đầu, “Cô biết sứ đoàn Đại Hán tới Thân Độc không? Ta chính là sứ giả của Đại Hán.”
“Như vậy”, trong cặp mắt diễm lệ của Diễn Na bùng lên một ngọn lửa hy vọng, “Ngươi có thể”, cô khát khao nói, “mang ta trở về Đại Hán hay không?”
“Thật ra thì, ta cảm thấy”, Lưu Mạch suy nghĩ một chút, “Cô sống ở Thân Độc nhiều năm như vậy, đã quen thuộc nơi đây, cần gì phải trở về Đại Hán. Dù ta không nhìn thấy dung nhan của cô nhưng nhìn vào mắt liền biết cô rất giống người Thân Độc. Dòng dõi Thân Độc nghiêm khắc, chẳng lẽ Đại Hán lại không? Cô tội gì khổ sở trở về Đại Hán để rồi lại chịu khổ?”
“Nhưng ta muốn nhìn xem một lần nơi mẫu thân của ta đã từng sống”, Diễn Na ủ rũ, “Mẫu thân cho đến lúc chết vẫn hy vọng có thể về đến cố hương.”
“A Trinh”, đằng xa, Kim Nhật Đan kêu lớn, nhìn sang bên này thấy Diễn Na thì ngạc nhiên, “Người này là?”
Diễn Na nói lại lần nữa, Kim Nhật Đan nghe xong nhún vai, “Ta cũng cảm thấy A Trinh nói có lý. Cô đang ở Thân Độc, dù tốt dù xấu còn có phụ thân, trở lại Đại Hán sẽ chẳng có gì cả.”
Diễn Na mặt như đưa đám, hỏi, “Các ngươi bao nhiêu tuổi rồi?”
Lưu Mạch nói, “Mười ba.” Kim Nhật Đan là mười lăm.
“Ta mười bốn tuổi, đã đến tuổi thành thân, nhưng các quý tộc đều xem thường xuất thân của ta, chế độ họ lấy nhau cũng cực kỳ nghiêm khắc…”, Diễn Na òa khóc.
“Nếu cô là con trai”, Kim Nhật Đan nói, “quay về Đại Hán cũng không vấn đề. Đáng tiếc lại là con gái, sẽ có rất nhiều khổ ải không vượt qua được.”
“Ngươi không nên xem thường con gái”, Diễn Na đỏ bừng mặt, trợn mắt, “Chuyện nam nhân có thể làm được thì ta cũng có thể.”
Kim Nhật Đan cười mỉa, “Con trai cũng không khóc nhè như cô.”
Diễn Na buồn bã cúi đầu, đưa thanh chủy thủ cho Lưu Mạch, nói, “Ta thấy ngươi thích thanh chủy thủ này nên tặng cho ngươi.”
“Quân tử không đoạt vật người khác yêu thích”, Lưu Mạch lắc đầu, “Ta chọn cái khác là được.”
“Hiếm khi ta gặp người cùng nước với mẫu thân, coi như là một phần tâm ý của mẫu thân vậy.”
Lưu Mạch bất đắc dĩ, “Coi như ta mua từ cô.” Cậu trả tiền rồi nhận lấy thanh chủy thủ.
“Sao ngươi lại thích thứ đồ vặt vãnh như vậy?”, Kim Nhật Đan buồn cười nhòm vào.
“Đây là thứ mà ta định tặng cho muội muội”, Lưu Mạch cười xòa, ngắm nghía thấy thanh chủy thủ rất tinh xảo, Lưu Sơ nhất định sẽ thích.
Kim Nhật Đan nhớ tới Công chúa Duyệt Trữ được muôn vàn sủng ái trong cung Vị Ương kia, hỏi lại, “Thật không? Con gái yêu thích đồ vật sát phạt như vậy cũng không hay lắm.”
“Tảo Tảo sẽ thích!” Lưu Mạch nói vẻ bao dung, “Kể từ sau khi Quan Quân hầu qua đời, nó lại đâm ra thích mấy thứ này.”
Nấn ná trong đô thành của nước Thân Độc nửa tháng, chờ cho thương nhân mua xong những thứ đặc sản của Thân Độc như răng ngà, hương liệu, Đường Hạ bắt đầu tính toán hành trình trở về. Quốc vương Thân Độc sai người tới nói cảm tạ ý tốt của hoàng đế bệ hạ Đại Hán, nguyện sẽ cử một đoàn sứ thần thăm đáp lễ Đại Hán. Đoàn người ra khỏi đô thành phồn hoa, lần nữa tiến vào đại mạc. Tiết trời đã vào đông, trên đại mạc mênh mông không thấy chân trời, Tiết Thực phát hiện phía sau đội ngũ có một người liền hừ lạnh rồi phóng ngựa quay lại, thì ra đó là một cô gái Thân Độc. Cô thấy hắn cũng không hề kinh hoảng, giao thủ một lát đã bị Tiết Thực bắt được, hô lên, “Ta biết người của các ngươi”, rồi chỉ vào Lưu Mạch và Kim Nhật Đan.
Tiết Thực ngạc nhiên, chuyện liên quan đến Hoàng tử trưởng nên hắn không thể xử trí tại chỗ liền đem trở lại, ném xuống đất. Chiếc khăn che mặt vừa rơi xuống, hiện ra một đôi mắt thăm thẳm quyến rũ, chính là Diễn Na.
Lưu Mạch thúc ngựa tới, bất đắc dĩ thở dài, “Dĩ nhiên cô có thể đi cùng.” Cậu xoay người lại, liếc sư bá và tiểu cữu cữu.
“Không nên nhìn ta”, Quách Giải buồn cười nói, “Nhiệm vụ của ta là bảo vệ an toàn cho các ngươi, thêm một người nữa cũng không quan trọng, muốn đi cùng thì đi cùng.”
“Được”, Kim Nhật Đan chĩa ngón tay cái lên, “Một cô gái có thể theo chúng ta tới đây quả thật không đơn giản. Ta thu hồi lại lời nói ngày đó.”
“Cô trở về đi thôi. Đến Đại Hán thì cô càng thêm bất hạnh”, Lưu Mạch nhẹ lời khuyên nhủ.
“Nhưng ta đã trốn nhà rồi, phụ thân sẽ không chấp nhận ta”, Diễn Na nói, “Ta đã làm việc gì thì vĩnh viễn không hối hận. Nếu ngươi không cho ta đi cùng, ta sẽ tiếp tục lặng lẽ bám theo.” Cô quay đầu vẻ quật cường, “Nếu không phải là không tìm được người Hán, lại không biết đường thì ai thèm đi theo các ngươi.”
Lưu Mạch động lòng, tính cách quyết liệt như vậy có mấy phần giống như mẫu thân của mình. Nghĩ đến mẫu thân, trái tim cậu mềm lại.
“Các ngươi có định về hay không?” Đường Hạ gọi to ở phía trước, “Chúng ta là sứ đoàn Đại Hán, không phải tùy tiện thích dẫn người theo thì dẫn người theo. Cô ta thích làm gì thì cứ việc làm như thế.”
Lưu Mạch ra hiệu cho Tiết Thực. Tiết Thực hiểu ý, tiến lên phía trước nói, “Đường đại nhân hãy nể mặt của ta cho cô nương này đi theo. Cô ấy cũng thật đáng thương.”
“Việc này”, Đường Hạ lưỡng lự. Chức quan của hắn không cùng ngạch với Tiết Thực nhưng Tiết thực là tâm phúc của Trường Tín hầu nên không thể không nể tình, liền trầm ngâm nói, “Nể mặt Tiết tướng quân nên ta cho đi theo.” Diễn Na đứng dậy, vẫn còn ghi hận Lưu Mạch không nói giúp mình bèn trừng mắt lườm cậu một cái. Lưu Mạch chỉ cười, không để ý.
Chẳng mấy chốc đã được hơn một tháng, Tiết Thực giơ chiếc roi ngựa đi vào ngọn núi xa phía trước, “Đi qua ngọn núi này là trở về Đại Hán rồi.” Mọi người cùng cất tiếng hoan hô.
“Đây chính là Đại Hán sao?” Diễn Na tò mò quan sát. Núi vẫn là núi cũ, nước cũng trong xanh, chẳng khác mấy so với Thân Độc.
“Đúng vậy”, Lưu Mạch thản nhiên, “Hy vọng cô không hối hận.”
Diễn Na tức giận trừng mắt, “Ta sẽ không hối hận.” Tiếng Hán của cô đã lưu loát hơn rất nhiều.
Bọn họ đi đường bình an vô sự nhưng lại bị tập kích trước cửa nhà. Một toán người áo đen như quỷ mị từ hẻm núi xông ra, lao thẳng tới chỗ có người thiếu niên ở trong đội ngũ. Đường Hạ sợ đến mức mặt cắt không còn giọt máu. Lưu Mạch vẫn bình tĩnh, hô lên, “Bảo vệ sứ giả Thân Độc.”
Kỵ binh kiêu dũng quả thật thiện chiến, chỉ sau chốc lát đã tàn sát hết một nửa đám áo đen, những cao thủ còn lại cũng không chống cự nổi công phu của Quách Giải và Thân Hổ. Diễn Na há hốc mồm đứng xem, “Thật là lợi hại.” Cô mê mẩn nhìn Quách Giải và Thân Hổ.
Một người áo đen lén đến, vung đao bổ về phía Lưu Mạch. Lưu Mạch rút kiếm ra chặn rồi tức giận đưa mắt nhìn Quách Giải. Quách Giải cất tiếng cười ha hả, “Ngươi dù gì cũng là đệ tử của Triêu Thiên môn, không trải qua một chút chiến trận thì còn gì là hảo hán?”
Lại có người đánh lén từ phía sau, Lưu Mạch hừ lạnh một tiếng, không xoay người mà hoa kiếm chém ra phía sau nhưng không trúng. Diễn Na nhào về phía trước đỡ đao thay cho cậu, kêu lên một tiếng đau đớn. Thanh đao chém sượt qua cánh tay cô để lại một vết máu.
Cuộc chiến nhanh chóng kết thúc. Tiết Thực xuống ngựa hỏi, “Ai phái các ngươi tới?” Hắn còn chưa dứt lời thì đám người kia đều đã cắn lưỡi tự tử, bên mép lưu lại một vết máu quỷ dị.
“Không cần hỏi”, Lưu Mạch nhảy xuống ngựa, tự mình lấy kim sang dược đắp lên vết thương cho Diễn Na, hơi nhíu mày, “Xin lỗi!”
“Ta lỗ mãng rồi”, Diễn Na đau đến mặt tái nhợt nhưng lại cười sảng khoái, “ngươi vốn cũng đối phó được.” Lưu Mạch định bảo rằng cô cần gì phải làm như thế nhưng lại thôi. Có lẽ tất cả đều đã rõ ràng, lớp màn che đã được vén lên thì cần gì phải thẳng thắn đối mặt.
“Ngươi rốt cuộc là ai?” Đường Hạ bước tới hỏi, trong mắt lộ vẻ sợ hãi. Hắn đã nhận ra toán người áo đen này tới là nhằm vào Lưu Mạch, còn từ kỵ binh của Tiết Thực cho tới Quách Giải, Thân Hổ cũng là để bảo vệ Lưu Mạch. Nếu chỉ là con cháu của một thế gia bình thường thì làm sao có thể khiến người khác bỏ vốn liếng lớn truy sát đến tận vùng biên cương hai nước như thế này?
Lưu Mạch khẽ mỉm cười, đến lúc này thì cậu cũng không cần phải giả bộ cung kính, ung dung nói, “Đường đại nhân, ông cần phải trấn an sứ giả Thân Độc trước đã.”
Đường Hạ muốn nói cái gì đó nhưng cuối cùng lại nhẫn nhịn, vâng lời dời đi.
“Ta chỉ muốn đáp lại chút tình của ngươi ngày đó”, Diễn Na hơi thất vọng, “Ngươi đừng tưởng rằng ta không biết gì, nếu không phải nể mặt ngươi thì Tiết tướng quân sẽ không nói giúp cho ta.” Cô sợ gây bất tiện cho cậu nên làm bộ như không biết. Nhưng xét chuyện ngày hôm nay thì người thiếu niên này có thân phận cao hơn hẳn tất cả mọi người.
Lưu Mạch cưỡi trên lưng ngựa quay đầu lại, thản nhiên nói, “Nhân tiện mà thôi, cô nương không cần để trong lòng.” Dường như có một bức tường vô hình dần dần dựng lên giữa hai người.
Lúc này hộ vệ ngầm trở thành hộ tống công khai, kỵ binh vây quanh Lưu Mạch tiếp tục hành trình về Trường An. Đến thị trấn lớn, Diễn Na thay đổi y phục con gái người Hán, mặc dù chưa phải xinh đẹp rực rỡ nhưng do mang dòng máu ngoại tộc, nước da bánh mật, ngũ quan thanh tú nên cũng là một cô gái quyến rũ.
“Ngươi không nhận ra rằng cô ấy thích ngươi sao”, Kim Nhật Đan chọc chọc cánh tay Lưu Mạch, thì thào hỏi.
“Nhật Đan nói gì vậy?” Tai Lưu Mạch đỏ ửng lên. Mặc dù cậu có tố chất nhạy bén nhưng còn quá nhỏ tuổi lại lần đầu tiên gặp phải chuyện như vậy nên không khỏi luống cuống chân tay, đành cố gắng bình tĩnh giả bộ như không biết.
Số phận đã định sẽ không có kết quả, nhưng làm sao người thiếu nữ si tình có thể biết điều đó. Cô thừa hưởng tính cách dám yêu dám hận của người Thân Độc nên không dễ dàng bỏ qua. Cô cản Lưu Mạch lại hỏi, “Ngươi thật sự là không biết sao?”
Lưu Mạch lấy hết can đảm, nói, “Diễn Na, ta không thích cô.”
Cô tức thì rơm rớm nước mắt nhưng vẫn quật cường hỏi, “Tại sao? Ta có chỗ nào không tốt chứ?”
“Không phải, cô rất tốt, thông minh, xinh đẹp, kiên cường”, Lưu Mạch nhìn lảng đi. Khi kết cục đã sớm được định đoạt thì không bằng một đao chia đôi đường đi cho thống khoái. “Chỉ đơn giản là ta không thích, ta cũng không có cách nào để thích cô.”
“Tại sao lại có thể như vậy?” Thiếu nữ vẫn không chịu tin, “Ta biết vì huyết thống của ta, ngươi nhất định không thể rước ta về làm chánh thê.” Cô khẽ cắn răng, biết rằng cho dù ở Đại Hán hay ở Thân Độc cũng chẳng có một người đàn ông nào có thể lấy mình làm chánh thê, chỉ đành dốc trọn vốn liếng, “Ta nguyện ý làm hầu thϊếp, nếu như…”, cô giống như chết đuối vớ được cọng rơm, “nếu như cha mẹ của ngươi không đồng ý thì ta sẽ tự mình đi thuyết phục.”
Lưu Mạch cơ hồ không dám nhìn cô, “Không có tác dụng gì đâu, vấn đề không phải cô đồng ý chịu thiệt thòi là có thể. Mẫu thân của ta hy vọng ta thành thân với một người con gái mình thật lòng yêu, sống với nhau đến đầu bạc răng long. Ta kính yêu mẫu thân của mình nên sẽ không làm trái ý người.”
“Cho nên, thê tử của ta sẽ chỉ là người con gái ta thích, ta lại không thích cô. Nếu ta thích cô, tranh đấu vì cô thì ít nhất còn có một lý do để chống đỡ. Ta cũng không thể thuyết phục được ngay chính bản thân mình.”
Diễn Na kinh ngạc, mắt ánh lên vẻ không thể nào tin nổi. “Mẫu thân của ngươi là người con gái như vậy sao?” Cô khó nhọc cất tiếng hỏi, “Nghĩ được như vậy thì bà ấy nhất định là người rất hạnh phúc. Phu quân nhất định rất yêu bà.”
Lưu Mạch hơi chần chừ, mẫu thân hạnh phúc sao? Cậu thật sự không dám khẳng định. Những năm gần đây, cậu đã quen với sự có mặt của cả phụ hoàng lẫn mẫu thân trong cuộc sống, cũng dần quên đi những khúc mắc đã từng có. Đối với mẫu thân thì người cũng không thể nào tay trong tay với một nam nhân khác nữa. Nhưng khi phụ hoàng nắm tay người thì người có thật lòng tình nguyện hay không, có cảm thấy hạnh phúc hay không? Lưu Triệt là một người rất si tình mà cũng vô cùng bạc tình, đã có mẫu thân suốt bao năm qua mà vẫn còn tình cảm sâu sắc ư? Hơn nữa tình cảm ấy có thể được định nghĩa là yêu sao? Cậu không thể trả lời câu hỏi đó nên không thể làm gì khác hơn là mỉm cười, trịnh trọng nói, “Mẫu thân của ta là người phụ nữ tốt nhất thiên hạ. Nếu cô gặp thì sẽ tự biết.”
Đường đi dẫu dài đến bao nhiêu cũng có điểm kết thúc. Khi thành Trường An dần dần hiện ra trong tầm mắt thì đã là giữa năm, tháng Năm năm Nguyên Đỉnh thứ ba rồi. Chuyến viễn hành này từ đầu đến cuối kéo dài tổng cộng một năm hai tháng.
Đường Hạ cưỡi con ngựa cao lớn từ xa nhìn lại, thấy có một đoàn người đang đứng ngoài trường đình ngoại thành Trường An, tựa hồ đang đợi bọn họ trở về. Gần đến nơi, hắn liền biến sắc mặt, nhận ra Điển khách Ngũ Bị có phẩm cấp cửu khanh còn đứng ở cuối cùng, còn trong số mấy người đứng hàng đầu thì hắn chỉ nhận biết được sủng thần của thiên tử, Đại tư nông Tang Hoằng Dương, vị triều thần hết sức ủng hộ việc đi sứ và thông thương lần này.
“Ca ca!” Một thiếu nữ xinh đẹp kiều diễm thoáng chừng mười ba mười bốn tuổi tay nâng xiêm áo chạy tới. Cô bé mặc y phục hoa lệ, ngay cả y phục tơ lụa dâng cho quốc vương Thân Độc cũng không đẹp bằng.
Nhưng dường như là cô bé sợ ngựa, chạy đến cách bọn họ chừng ba bốn trượng liền dừng lại, cặp mắt vẫn không che giấu được nét vui mừng.
“Công chúa điện hạ”, hai cung nhân đang vội vàng chạy theo phía sau. Đường Hạ nghe thấy cách xưng hô như thế liền lập tức chấn động.
“Tảo Tảo”, Lưu Mạch cũng mừng rỡ, nhảy xuống ngựa rồi ôm chầm lấy Lưu Sơ. Cậu không nhìn thấy ở phía sau, mặt mày Diễn Na đột nhiên tái nhợt.
“Tham kiến Hoàng tử trưởng điện hạ!” Hai cung nhân chạy đến sau cung kính hành lễ.
“Đứng lên đi!” Lưu Mạch phất tay, chỉ nhìn về phía trường đình, nơi mẫu thân đang chậm rãi bước tới.
Tiết Thực tung mình xuống ngựa, quỳ một chân xuống, lớn tiếng, “Thần Tiết Thực, tham kiến Trần nương nương, tham kiến Hoàng tử trưởng điện hạ, tham kiến Công chúa Duyệt Trữ.”
Đám kỵ binh mặc dù không biết thế nào nhưng quân lệnh nghiêm minh, rầm rập nhảy xuống ngựa đồng thanh bái chào, thanh thế rung trời. Mọi người trong thương đội cũng kinh hãi quỳ xuống, miệng lí nhí bái chào. Trần A Kiều khẽ mỉm cười, thản nhiên nói, “Tất cả đứng lên đi!”
“Mẫu thân”, Lưu Mạch bật thốt, rốt cuộc cũng cảm giác rằng mình đã trở về nhà.
“Mạch Nhi”, A Kiều kéo con trai lại, nhìn ngắm cẩn thận. Nàng tiễn con đi đã được hơn một năm, trong lòng nhớ nhung khôn xiết. Đôi khi nàng kinh ngạc nhìn gương mặt của Lưu Triệt nằm bên gối, bần thần ngơ ngác. Hai cha con bọn họ có những nét giống nhau y hệt.
“Mạch Nhi, da con cháy nắng, cũng cao lớn hơn.” Đến bây giờ, lòng nàng mới chùng xuống.
Lưu Mạch cười để lộ ra hàm răng trắng bóng, “Mẫu thân thì vẫn trẻ trung xinh đẹp như xưa.”
“Ồ!” Diễn Na hơi bước về phía trước, mỉm cười nghiêng đầu ngắm nhìn, “Trần phu nhân trẻ trung xinh đẹp, nếu không phải nghe A Trinh gọi thì chắc Diễn Na sẽ coi phu nhân là tỷ tỷ chứ không phải là mẫu thân của A Trinh đấy.”
Tất cả các cung nhân ở chung quanh cùng biến sắc mặt, A Kiều khá bất ngờ liếc mắt nhìn Diễn Na, mỉm cười, “Cứ gọi ta là phu nhân đi. Vị cô nương này là…?”
“Mẫu thân”, vành tai Lưu Mạch lại thoáng đỏ, “Vị cô nương này tên là Diễn Na, phụ thân là người Thân Độc, mẫu thân là người Hán. Cô ấy muốn trở về Đại Hán thăm quê ngoại.”
Diễn Na nhói lên, cô không hiểu cách xưng hô tôn quý trong hoàng gia nhà Hán nhưng khí thế mà mọi người vừa rồi bái chào khiến cô ngầm hiểu được rằng thân phận của Lưu Mạch đích xác là vô cùng tôn quý. Vốn đã cách biệt thật xa, cho tới bây giờ lại càng xa không thể với tới. Nhưng cô vẫn không cam lòng, không thể làm gì khác hơn là ra vẻ không biết để được gặp mẫu thân Lưu Mạch một lần. Lưu Mạch rất nghe lời mẫu thân, nếu được mẫu thân của cậu yêu thích thì có lẽ còn có một tia hy vọng.
“Sao vậy? Ta nói sai sao?”, cô lúng túng hỏi.
“Diễn Na cô nương”, Lưu Mạch xoay người lại, nghiêm túc nói, “Khi đi sứ, vì không thể tiết lộ thân phận nên ta dùng tên giả, lấy họ của mẫu thân. Trên thực tế, họ của ta là họ Lưu.”
Lưu là họ của hoàng tộc Đại Hán, tên húy của Hoàng tử trưởng Đại Hán này chỉ có một chữ Mạch. Diễn Na gật đầu như hiểu như không, thi lễ với A Kiều, “Là Diễn Na lỗ mãng rồi, Lưu phu nhân.”
“Không có gì”, A Kiều cười bình thản, “Đại Hán xa cách Thân Độc cả vạn dặm, cô nương đã trèo non lội suối để hoàn thành ý chí của mẫu thân, dũng khí thật đáng khen. Đến Trường An rồi đã có dự định gì chưa?”
Diễn Na buồn bã liếc mắt nhìn Lưu Mạch. Về đến Trường An thì sứ đoàn và thương đội sẽ giải tán. Cô là một người con gái không người thân không quen đất thì có thể đi đâu được chứ?
A Kiều trông thấy thế liền thầm hiểu, lên tiếng gọi, “Phụng Gia!”
“Tỷ tỷ”, Thân Hổ tách đám người bước ra.
“Nếu Diễn Na cô nương không có chỗ ở thì đệ hãy dẫn cô ấy về, nói với nghĩa mẫu rằng ta ủy thác cho bà chiếu cố giúp”, nàng chần chừ một chút rồi nói thêm, “Nghĩa mẫu dạo này cũng đã lớn tuổi, sức khỏe không tốt. Nếu có thể thì Phụng Gia ở nhà chăm sóc cho bà mấy năm đi.”
Thân Hổ cũng thấy đắng lòng, gật đầu nói, “Đệ biết rồi.”
Trần A Kiều gật đầu tỏ ý chào Quách Giải, nhận lại Lưu Mạch, dẫn Lưu Sơ bước lên long xa rồi rời đi. Mọi người lúc này mới dám ngẩng đầu lên xôn xao bàn luận.
“Ngươi mới vừa đứng kia thật sự là Trần nương nương sao?”
“Chắc là thế. Ta không dám ngẩng đầu lên, nhưng mọi người tôn kính như thế đối với người thì chắc hẳn là đúng rồi.”
“Thế nhưng tại sao vị nương nương mà bệ hạ sủng ái nhất lại đến trường đình cơ chứ?”
“Người tới là để đón con trai.”
“Con trai nương nương chính là Hoàng tử trưởng điện hạ nghe nói là người có hy vọng lớn nhất được thừa kế ngôi vị thái tử vào năm trước.”
“Việc này”, Đường Hạ lưỡng lự một lúc lâu rồi nói, “quá hoang đường, làm gì có khả năng?”
“Ngũ đại nhân, đường đường là Hoàng tử trưởng điện hạ sắp thừa kế ngôi vị thì sao lại có thể gia nhập vào sứ đoàn của ta đi sứ Thân Độc, lại đi cả năm ròng.”
Ngũ Bị cười khẽ, “Tác phong làm việc của Trần nương nương luôn cao thâm khó lường.”
Đường Hạ tái mặt, nhớ lại mấy lần bất kính với Hoàng tử trưởng trong hành trình, cảm thấy cuộc đời này dù còn khá dài nhưng với hắn thì đã kết thúc.
“Không nói chuyện này nữa”, Ngũ Bị thản nhiên, “Nhiệm vụ của chúng ta là tiếp đãi sứ giả của Thân Độc.”
Sứ giả của Thân Độc vừa nhìn thấy cảnh tượng hoành tráng vừa rồi, liền hỏi, “Vị phu nhân vừa rồi thật sự là người phi được Hoàng đế bệ hạ của quý quốc sủng ái nhất đó sao?” Những chuyện quái lạ quả nhiên không có giới hạn.
“Quả nhiên rất xinh đẹp. Con gái Thân Độc chúng ta cũng rất xinh đẹp, thế nhưng nàng ta thật sự là mỹ lệ.”
“Chúng ta bội phục hoàng tử điện hạ của các ngươi đã dám ẩn danh đi sứ đến Thân Độc chúng ta. Đại Hán có hoàng tử điện hạ như vậy thì ngày sau nhất định sẽ càng thêm phồn thịnh.”
“Dĩ nhiên”, Ngũ Bị không đổi sắc mặt đáp, “Hoàng đế bệ hạ của chúng ta là vị quân chủ anh minh đệ nhất.”
“Các vị sứ thần, xin mời đi theo ta tới dịch quán.”
“Quách sư huynh!” Thân Hổ ôm kiếm, khẽ mỉm cười, “Đã tới Trường An rồi thì hãy về nhà đệ chơi vài ngày đi.”
Quách Giải cũng không từ chối, “Nếu không phiền thì đương nhiên rồi.”
“Diễn Na cô nương”, Thân Hổ xoay người lại, thản nhiên nói, “đi theo ta nào.”
Diễn Na thấy vậy thì nảy sinh ác ý, muốn trút hết ngạo khí lên đầu Thân Hổ rồi bỏ đi không thèm nhìn lại. Thế nhưng dù sao Thân Hổ cũng là người mà Lưu Mạch phải gọi là tiểu cữu cữu, ở lại mới không cắt đứt mối liên hệ cuối cùng với Lưu Mạch.
“A Trinh, A Trinh”, cô không biết tên thật của Lưu Mạch, chỉ lẩm bẩm gọi cái tên quen thuộc, cay đắng nghĩ thầm, “ngươi đã trở về, có còn nhớ đến một thiếu nữ đã từng yêu mến ngươi tên là Diễn Na nữa không.”
Cô không biết rằng Lưu Mạch lúc này đúng thật đang thầm nhớ đến cô, khẽ thở dài. Một nam nhân luôn luôn không thể dễ quên người con gái mình yêu thích nhất trong cuộc đời, huống chi người con gái đó thích cậu không vì thân phận, địa vị mà chỉ đơn thuần vì con người của cậu. Tự đáy lòng, e rằng cậu cũng thích cô, nhưng trở lại Trường An thì cô là một thiếu nữ bình dân, còn cậu là Hoàng tử trưởng, chẳng còn một chút liên quan.
Chuyện tình yêu đầu tiên trong đời cuối cùng chỉ là một tiếng thở dài, một bước thoáng qua. Năm nay, Hoàng tử trưởng Lưu Mạch và muội muội song sinh Lưu Sơ cùng tròn mười bốn, bước sang tuổi trưởng thành.Quyển 3 - Chương 69: Bác Vọng nhìn sang Ngọc Đường xaLong xa lăn bánh chạy chầm chậm về hướng cung Vị Ương. “Ca ca!” Cơn gió đầu hè thổi tấm rèm cửa trong chiếc long xa hoa lệ ấm áp lất phất bay lên. Lưu Sơ gặp lại ca ca cách biệt đã lâu nên vô cùng hân hoan, dụi đầu vào ngực Lưu Mạch nũng nịu hỏi, “Ca ca đi lâu như vậy có nhớ Tảo Tảo không?”
Lưu Mạch bật cười, “Dĩ nhiên là có rồi.”
Cậu lấy ra thanh chủy thủ, hào hứng, “Đây là quà mà ca ca đã hứa tặng cho muội.”
Lưu Sơ lần đầu tiên trông thấy thanh chủy thủ có hình dạng như vậy nên rất thích thú. “Đẹp quá!” Cô rút thanh chủy thủ ra khỏi vỏ, lưỡi chủy thủ sáng lóe, chạm vào lạnh toát. “Chuôi thanh chủy thủ này làm bằng gì vậy?”, cô tò mò hỏi.
“Nghe nói là ngà voi. Voi là một loài động vật cực lớn có cái mũi rất dài và có cả một cặp ngà cũng rất dài. Người Thân Độc nhổ chúng ra làm thành đồ trang sức.”
“Thế chẳng phải quá tàn nhẫn sao?” Lưu Sơ ra vẻ không đành lòng.
“Hừ”, Lưu Mạch giả vờ giận dữ, “Tảo Tảo không thích sao? Vậy thì trả lại cho ta đi.” Cậu làm bộ muốn đoạt lại, Lưu Sơ vội vàng giấu biến ra sau lưng. “Đừng, là của ca ca cho thì thứ gì muội cũng thích cả.”
“Ca ca đi sứ có chuyện gì thú vị không?”
“Tất nhiên là có rồi. Sứ đoàn đi lâu như vậy thì tất nhiên có rất nhiều chuyện để kể.”
“Vậy sao?” Lưu Sơ háo hức, “Chuyện thế nào?”
“Ví dụ như”, Lưu Mạch nói, “Ca ca nghe người trong sứ đoàn nói mấy năm trước bọn họ đi sứ Tây Vực, ở đó có một nước tên là Dạ Lang. Quốc vương Dạ Lang hỏi sứ thần, Dạ Lang so với Đại Hán thì nước nào lớn hơn?”
Lưu Sơ ngơ ngác hỏi, “Dạ Lang có lớn lắm không?”
“Chỉ bằng một huyện cỡ vừa của Đại Hán mà thôi”, Lưu Mạch nói, “Cho nên làm người phải biết đi nhiều nơi thì mới có thể mở rộng tầm mắt, không như ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung.”
“Ha ha, vậy nếu quốc vương Dạ Lang biết được sự thật chắc sẽ rất xấu hổ.”
Cung nhân hầu hạ bên ngoài long xa bất giác chú tâm nghe hai huynh muội tôn quý nhất Đại Hán ríu rít trò chuyện. Trong một khắc này, tất cả những gió mưa hiểm ác của cung đình đều không thể lan tới chiếc long xa.
“Tảo Tảo, có chuyện gì xảy ra lúc ca ca không ở Đại Hán không?”
“À, dĩ nhiên là có rồi”, Lưu Sơ nghiêng đầu, ngẫm nghĩ, “Có hai chuyện, một vui một tang tóc, ca ca thích nghe chuyện nào trước?”
Lưu Mạch nói ngay, “Cứ nghe chuyện vui trước đi.”
“Ừ”, Lưu Sơ gật đầu, ánh mắt nhu hòa, “Vào mùa đông mà ca ca đi, dì Lăng mang thai nhưng dì ấy vẫn không muốn xuất giá, Mạt Lăng hầu và phu nhân lại không thể ép thế nên mãi đến đầu năm nay mới gả cho Đông Phương đại nhân. Chỉ mấy tháng nữa là chúng ta lại có thêm một tiểu đệ đệ hoặc tiểu muội muội rồi.”
Lưu Mạch nghe xong không biết nên khóc hay nên cười, mặt mày nhăn nhó, “Thế thì phải chúc mừng sư phụ với dì Lăng rồi, tuy nhiên đúng là không thể tán thành phương thức này.”
“Vậy”, cậu chần chừ một lát mới hỏi, “Chuyện tang tóc là gì?”
Lưu Sơ buồn bã cúi đầu, “Phu quân của sư phụ muội là Tư Mã Tương Như đại nhân đã qua đời đầu năm nay. Sư phụ vì muốn giữ đạo hiếu với chồng nên đã đưa linh cữu về đất Thục.” Cô mếu máo nắm lấy vạt áo Lưu Mạch, “Muội và Tế Quân không còn sư phụ nữa rồi.”
“Chuyện này cũng chẳng thể nào khác được. Muội nhớ sư phụ như vậy, nếu Tư Mã phu nhân biết thì sẽ cảm thấy được an ủi.” Lưu Mạch an ủi cô, ngẫm nghĩ rồi lại hỏi tiếp, “Tế Quân năm nay bao nhiêu tuổi rồi?”
“Hình như là nhỏ hơn muội hai tuổi”, Lưu Sơ nhẩm tính một lát rồi mới đáp. “Có chuyện gì vậy?”
“Không có gì. Cô bé đó mệnh khổ nhưng dù sao vẫn là thuộc hoàng tộc họ Lưu. Tảo Tảo phải chăm sóc cô bé nhiều hơn đấy.”
Lưu Sơ bật cười, “Nga biểu tỷ yêu Tế Quân lắm. Chà, quan hệ bối phận nhà chúng ta cũng thật rắc rối.” Cô bất đắc dĩ nhíu mày.
“Tảo Tảo toàn nói chuyện nhà, có việc chính sự gì không?”
“Cái này”, Lưu Sơ lại nghiêng đầu rồi lắc lắc, “hình như không có.”
“Đủ rồi”, A Kiều cười âu yếm nhìn hai con thân mật, nói, “Tảo Tảo, ca ca của con đi đường vất vả, con đừng bám lấy để cho ca ca nghỉ ngơi chút đã. Đằng nào cũng trở về rồi, sau này tha hồ mà nói chuyện.”
Lưu Sơ khẽ gật đầu, “Con sơ ý quá. Ca ca nghỉ ngơi đi, vài ngày nữa sẽ lại quấy rầy ca ca.”
Lưu Mạch bật cười. Đi suốt một chặng đường dài như vậy, cuối cùng cũng trở về với người thân nên cảm giác căng cứng như dây đàn dần dần được thả lỏng, tuy xe hơi lắc lư nhưng cậu rất nhanh chìm nào giấc ngủ, tâm hồn thanh thản. Long xa đi một mạch không nghỉ từ cửa nam Tư Mã tiến vào cung Vị Ương rồi tới điện Ngọc Đường. A Kiều dắt Lưu Sơ xuống xe rồi bảo khẽ, “Thành Liệt, ngươi cõng hoàng tử trưởng đến điện Thiên nghỉ ngơi đi. Chú ý đừng làm Hoàng tử thức giấc.”
“Nương nương”, viên thượng thừa mới được cất nhắc khẽ bẩm, “Hoàng tử trưởng đã đến tuổi trưởng thành, theo lệ không tiện nghỉ ở cung điện của phi tần.”
“Thượng thừa đại nhân”, A Kiều hơi nghiêm mặt, “Mạch Nhi là con ta lại vừa đi xa về, Thượng thừa đại nhân nể tình ta thương con mà để cho nó được nghỉ ngơi ở điện Ngọc Đường mấy hôm. Có lẽ, vài ngày nữa bệ hạ sẽ có ý chỉ bố trí cho Mạch Nhi rồi.”
Lưu Mạch dựa trên long xa, nghe thấy mấy câu nhẹ nhàng của mẫu thân, giả vờ vẫn ngủ say. Nếu tỉnh dậy thì theo lý sẽ phải từ biệt nhưng cậu lại muốn ở lại với mẫu thân vài hôm.
“Vậy”, Thượng thừa biết rõ, hiện giờ Trần nương nương là châu báu trong tay bệ hạ, chỉ cần chuyện nàng muốn không ảnh hưởng quá lớn thì đều nhất nhất thuận theo. Hoàng tử trưởng ở trong long xa lại rất có thể sắp được tiếp nhận vị trí thái tử nên càng phải nể mặt. Hắn liền lui một bước, nói, “Đã như thế thì nô tài không dám không tuân mệnh.”
A Kiều lại mỉm cười đáp, “Đa tạ Thượng thừa.”
Đã có người sớm báo hành tung hôm nay của Trần nương nương cho Lưu Triệt. Y ngồi trong điện Tuyên Thất nghe xong mãi một lúc lâu mới phất tay bảo người đó lui ra. “Mạch Nhi, con vẫn trở về được sao?”
Y nhủ thầm trong lòng, khóe miệng thoáng một nụ cười mơ hồ.
“Bệ hạ”, Ngũ Bị đứng bên dưới trông thấy vậy cũng yên lặng, cung kính bẩm, “Sứ thần Thân Độc đã sắp xếp thỏa đáng, bệ hạ định gặp lúc nào?”
Đế vương ngồi trên điện trầm mặc một lúc rồi lên tiếng, “Đối với sứ thần Thân Độc thì chỉ cần không lãnh đạm để bọn họ cho rằng Đại Hán xem nhẹ nhưng cũng không qua coi trọng khiến bọn họ tự cao tự đại là được rồi.”
Ngũ Bị cúi đầu, “Thần lĩnh hội.”
Lưu Triệt không mấy để tâm, “Mười ngày nữa thì truyền bọn họ vào điện Tuyên Thất gặp trẫm.”
“Tuân mệnh.”
“Những năm qua, Ngũ khanh đã tận lực đảm nhiệm chức điển khách. Bác Vọng hầu Trương Khiên cũng sắp trở về, ý trẫm muốn chuyển Ngũ khanh sang nhận chức Ngự sử đại phu và cho Trương Khiên tiếp nhận chức vụ của khanh.”
Phẩm cấp ngự sử đại phu xếp trên điển khách, việc này coi như lên chức. Trong lòng Ngũ Bị vui mừng nhưng không để lộ ra mặt, bình thản nói, “Thần Ngũ Bị khẩu tạ thánh ân.”
“Lui xuống đi.”
“Tuân mệnh!”
“Bệ hạ”, Dương Đắc Ý nhìn quanh thấy trên điện không có ai liền tiến lên hỏi, “Hoàng tử trưởng đi xa lâu ngày mới về, bệ hạ có muốn tới điện Ngọc Đường thăm không?”
Lưu Triệt liếc hắn sắc lạnh, Dương Đắc Ý cảm thấy sởn gai ốc, bèn sợ hãi quỳ xuống, “Nô tài đi quá phận sự rồi.”
“Dương Đắc Ý”, Lưu Triệt nheo mắt, “Ngươi theo bên trẫm nhiều năm như vậy nên là người hiểu rõ tâm tư trẫm nhất. Nhưng trẫm cũng không cho phép có người nào suy đoán hành tung của trẫm.”
Dương Đắc Ý liên tục dập đầu, “Nô tài biết tội.”
Điện Tuyên Thất chính sự bề bộn, mãi đến lúc lên đèn mới xử lý xong. Lưu Triệt ra lệnh không dùng xa giá, đi thẳng đến điện Ngọc Đường. Y khoát tay các cung nhân của điện Ngọc Đường đang định hành lễ, vào đến điện Thiên thì nghe thấy giọng điềm đạm của A Kiều, “Mạch Nhi, con hãy nói thật cho mẫu thân biết, con thật sự không thích cô nương kia sao?”
“Mẫu thân”, Lưu Mạch đáp giọng thiểu não. Nghỉ ngơi được mấy canh giờ liền khiến cậu đã phục hồi tinh thần nhưng lúc này lại nghĩ thà rằng mình đang nghỉ ngơi, “Chẳng phải mẫu thân đã căn dặn là không cho phép con mang bất kỳ một cô gái Thân Độc nào về sao.”
“Mẫu thân có dặn vậy à?” A Kiều ra vẻ ngạc nhiên, “Nhưng kế hoạch cũng có biến hóa, nếu thật sự có chuyện như vậy thì cũng nên bàn bạc kỹ để sắp xếp.”
“Thật không?” Lưu Mạch có chút hiếu kỳ, “Nếu như”, cậu nhấn giọng, “nếu như con thật sự thích một cô gái Thân Độc thì mẫu thân làm thế nào?”
“Việc này”, giọng A Kiều dần trầm xuống, “không phải mẫu thân sẽ làm thế nào mà là Mạch Nhi phải như thế nào. Một người muốn giữ được một người khác thì tự mình phải cố gắng chứ không phải dựa vào người ngoài. Mạch Nhi thử tự hỏi xem bản thân mình đã nguyện nỗ lực bao nhiêu, hi sinh bao nhiêu vì cô gái đó.”
Lưu Mạch im lặng một hồi rồi lẩm bẩm, “Cũng may là con không có.”
A Kiều tinh quái nhìn con trai, truy hỏi, “Con hãy nói cho mẫu thân biết, cô nương Diễn Na đó rất thông minh, xinh đẹp lại kiên cường, sao con không thích cô ấy?”
“Mẫu thân hỏi chuyện này làm gì?”
“Mạch Nhi sắp trưởng thành rồi”, A Kiều nói, “Nếu không biết Mạch Nhi thích người con gái như thế nào thì sao mẫu thân chọn vợ cho con được?”
Lưu Mạch ra vẻ triết lý, “Thích là thích, không thích là không thích, còn cần lý do sao?”
“Mẫu thân không tin câu nói đó”, A Kiều mỉm cười, “Lấy đó làm cớ để qua mặt mẫu thân là không được. Thích hay không thích đều có lí do.”
Lưu Mạch bị bức đến đường cùng, đành nói, “Cô ấy không có mẫu thân tốt.”
“Con đã đi theo mẫu thân từ nhỏ, sau này lớn lên thì thấy hình như tất cả con gái trong thiên hạ đều kém mẫu thân. Dì Lăng cũng rất thông minh nhưng thiếu đi vẻ bình lặng của mẫu thân. Biểu tẩu cũng mỹ lệ nhưng lại không hiền hậu như mẫu thân.”
“Diễn Na có tính cách cương quyết cố chấp giống mẫu thân nhưng lại thể hiện quá mức chứ không giấu được như mẫu thân, vì thế Mạch Nhi không thích. Mẫu thân cũng không cần vội tìm vợ cho Mạch Nhi, vì tìm được thật sự rất khó khăn.”
“Nói vậy…”, A Kiều không khỏi ngạc nhiên, đang định nói gì đó thì chợt nghe thấy tiếng hừ lạnh quen thuộc ở bên ngoài điện. Nàng ngoảnh lại đứng dậy đi ra cửa, thấy đám cung nhân đều đang thất sắc nhìn theo bóng lưng đầy giận dữ của Lưu Triệt vừa khuất ở chỗ rẽ ở hành lang.
“Nương nương”, Lục Y lo sợ bước tới gần, “Lúc nãy bệ hạ vừa đến đã bảo mọi người lui xuống, đứng ngoài điện Thiên nghe một hồi thì sắc mặt liền trở nên rất khó coi rồi bỏ đi luôn.”
“Vậy à?” A Kiều trầm ngâm một lát, xem ra cuộc sống thoải mái trong cung Vị Ương đã mài mòn tính cảnh giác của mình đến nỗi không biết cả chuyện Lưu Triệt đứng ngoài điện.
“Mẫu thân”, Lưu Mạch đi ra, sắc mặt hơi tái đi, “Phụ hoàng…”, cậu do dự sửa lại, “ông ấy không có việc gì chứ?”
“Không có việc gì.” Nàng mỉm cười trấn an cậu nhưng lại thấy mình máy mắt, tâm trạng không yên.
Mấy ngày sau, điện Tuyên Thất truyền xuống tin tức, bệ hạ kiếm một cớ không đâu biếm truất Thượng thừa. Nhưng dù thế thì Hoàng tử trưởng vẫn không phải chuyển ra khỏi điện Ngọc Đường. Qua thêm một tuần, bệ hạ theo thỉnh cầu của triều thần lập Hoàng tử trưởng Lưu Mạch làm thái tử. Ngày thụ phong cũng là lúc cậu chuyển khỏi điện Ngọc Đường tới Bác Vọng làm Đông Cung thái tử. Thái tử vừa mới được lập, điện Tuyên Thất đã truyền ý chỉ của bệ hạ chuyển phần lớn chính vụ cho Thái tử xử lý để rèn luyện năng lực chính trị. Lưu Mạch công việc bề bộn đến mức không có cả thời gian nghỉ ngơi chứ đừng nói tới việc đến điện Ngọc Đường thăm mẫu thân. Nhưng xem cách cậu xử lý chính sự thì ngay cả Lưu Triệt cũng phải gật đầu tán dương. Lưu Mạch tuy còn đôi chút lúng túng non nớt nhưng rõ ràng đã có khí chất của bậc quân vương.
Đến thượng tuần tháng Bảy, chiêm sự mới được bổ nhiệm là Lý Dong trình lên điện Ngọc Đường danh sách các thiếu nữ chưa kết hôn của các gia đình quý tộc ở Trường An.
“Chuyện này là sao?” Trần A Kiều ngạc nhiên hỏi.
“Bệ hạ dặn rằng Thái tử điện hạ là người kế thừa ngôi báu của một nước, lại đã đến tuổi thành thân. Xin nương nương chọn một thiếu nữ hợp lý ở trong số này, việc còn lại đã được thu xếp xong”, Lý Dong rất mực cung kính bẩm báo.
Trần A Kiều đành nói, “Được rồi, ngươi lui xuống đi. Những chuyện còn lại, ta sẽ nói với bệ hạ.”
“Nương nương”, Lục Y vén rèm cửa đi vào, “Lý tiệp dư của điện Phi Sương và Hình khinh nga của điện Thừa Hoa tới bái kiến nương nương.”
Nàng nhíu mày, sắc mặt bất giác trầm xuống, “Để họ vào đi.”
Tấm rèm lại được vén lên, dung nhan của hai người phụ nữ vừa bước vào tuy không còn như hồi xuân sắc năm xưa nhưng vẻ nhu hòa, kiều diễm đều khiến người ta động lòng. Vừa nhìn thấy hai người, Trần A Kiều không tránh khỏi nỗi ai oán, tuổi trẻ của bọn họ đã trôi qua không trở lại.
“Trần nương nương”, Lý Chỉ ôn tồn cúi đầu, “Hoàng tử trưởng rốt cục đã nhận sắc phong làm thái tử. Xin chúc mừng nương nương.”
“Đa tạ Lý tiệp dư”, A Kiều đặt tay lên tờ danh sách, trong lòng cảm giác không yên.
“Đây là…?” Hình Nhược buột miệng hỏi, cặp mắt mỹ lệ ánh lên một tia tò mò.
“Khởi bẩm hai vị nương nương”, Lục Y cung kính bẩm, “Đây là danh sách những thiếu nữ có thể thành thân với Thái tử điện hạ mà bệ hạ sai người đưa tới.” Cô còn chưa dứt lời thì đã thấy hai vị nương nương hơi xịu mặt xuống, trong lòng lấy làm đắc ý.
A Kiều không phủ nhận nhưng cũng không có ý nhắc nhở Lục Y, chỉ nói qua vài chuyện vô thưởng vô phạt. Một lát sau thì từ bên ngoài có tiếng nội thị loan báo, “Bệ hạ trở về.”
Lưu Triệt vào điện Ngọc Đường, trông thấy hai người Hình, Lý thì khá bất ngờ. Hai người khẽ cúi chào, miệng nói, “Tham kiến bệ hạ.” Lý Chỉ dù sao cũng còn nín nhịn được, chứ Hình Nhược thì đã rơm rớm mấy giọt nước mắt, dung nhan yêu kiều khiến ai trông thấy cũng phải thương xót.
“Thần thϊếp cáo lui”, Lý Chỉ ở bên cạnh Hình Nhược quỳ gối, u oán nói. Nàng và Hình Nhược đứng lên lui ra khỏi điện Ngọc Đường rồi thẫn thờ than một tiếng, bệ hạ cũng không giữ lại.
“Lý tỷ tỷ”, Hình Nhược khẽ quay mặt thấm khô những giọt nước mắt, “Tỷ bảo bệ hạ thật sự không còn nhớ đến những ngày đã cùng chúng ta nữa ư?”
“Làm sao quên được?” Lý Chỉ mỉm cười nắm tay trấn an Hình Nhược, “Dung nhan tươi tắn như hoa lê ngậm sương mai thế này, bệ hạ muốn quên có thể quên được sao?”
Hình Nhược bật cười cay đắng, “Cứ tiếp tục thế này thì cũng già mất thôi.”
Hình Nhược tạm biệt Lý Chỉ, ánh mắt tối lại, “Muốn muội giơ đầu chịu báng ư? Lý tỷ tỷ, tỷ nghĩ muội sẽ không mưu cầu cho bản thân mình sao?”
“Mẫu phi”, từ phía sau có tiếng kêu sợ hãi vang lên khiến cho ánh mắt nàng ta trở lại ôn hòa ấm áp, nàng ta xoay người lại gọi, “Hoành Nhi!” Những năm này, hai mẹ con sống nương tựa lẫn nhau ở trong cung Vị Ương nên đã nuôi dưỡng được tình cảm chân thành.
“Hoành Nhi, con cũng đã lớn rồi,” Hình Nhược nhẹ nhàng xoa đầu Lưu Hoành, “Mẫu phi sẽ lập mưu tính kế cho con, ngày sau con đừng quên mẫu phi nhé.” Lưu Hoành mới vừa đầy mười tuổi biết điều gật đầu rồi rúc vào trong lòng Hình Nhược, trong một thoáng không ai thấy để lộ ra ánh mắt thâm trầm không thuộc về lứa tuổi này.
“Kiều Kiều đã lựa chọn được thiếu nữ hợp lý chưa ?” Trong điện Ngọc Đường, Lưu Triệt như chưa từng trông thấy hai người kia, vuốt ve mái tóc Trần A Kiều, dịu dàng hỏi,
“Thϊếp cũng muốn nói chuyện với bệ hạ một chút về vấn đề này”, A Kiều giật tóc mình ra, xẵng giọng, “Đừng động vào tóc của thϊếp, Mạch Nhi còn nhỏ quá.” Nàng không khỏi có chút lúng túng, “Mặc dù hôm đó thϊếp có nói là chọn vợ cho nó nhưng đó chẳng qua là trêu chọc nó mà thôi. Cho dù là thật sự phải lấy vợ thì cũng nên để chính bản thân nó lựa chọn, vì dù sao đó mới là người chung sống với nó cả đời.”
Lưu Triệt nhớ lại chuyện hôm đó cũng cao giọng, “Trẫm năm xưa cũng có được lựa chọn cho mình đâu. Cứ để cho nó tự lựa chọn, nếu cả đời vẫn không tìm được ai thì chẳng lẽ cả đời nó sẽ không lập gia thất hay sao?”
“Bệ hạ nói vậy”, A Kiều không chịu thua, “là bệ hạ không hài lòng về A Kiều sao? Nếu như vậy thì người không cần đến điện Ngọc Đường nữa.”
“Đó là hai chuyện khác nhau”, Lưu Triệt cau mày, “Trẫm cảm thấy nó nên kết hôn rồi, để khỏi cứ bám lấy mẫu thân không chịu rời xa.”
Trần A Kiều tự hào là vẫn có thể đoán được một chút tâm sự của Lưu Triệt nhưng lúc này nghe vậy cũng không nhịn được cười, “Con gái thì tất nhiên là phụ thuộc vào cha mẹ. Khi còn bé thϊếp cũng rất bám… phụ thân của mình.”
Sau này phụ thân càng ngày càng ít về nhà khiến mẫu thân như rửa mặt bằng nước mắt, mãi sau này nàng mới hiểu được mấu chốt trong đó. Nhưng phụ thân ở kiếp trước tuấn tú phong độ, thương nàng như châu báu, khi đó nàng thật sự cũng đã rất thương ông. Nàng dứt bỏ đoạn ký ức nhưng không phát hiện ánh mắt âm trầm của Lưu Triệt ở phía sau, “Ai bảo khi Mạch Nhi và Tảo Tảo còn bé thì nàng lại không ở bên cạnh bọn chúng.”
Lưu Triệt không thể hiểu nổi một điều. Thời gian qua, y cũng đã từng suy nghĩ nếu năm đó ở lầu Thanh Hoan, y nhận ra A Kiều rồi dẫn nàng trở về thì liệu sẽ có một kết quả khác hay không? Nhưng ngay cả chính y vào năm đó cũng thể xác định được, liệu rằng mình có thể tàn nhẫn ngoảnh mặt, hạ lệnh vĩnh viễn không để cho nàng xuất hiện trước mặt? Lúc đó triều đình bất ổn, ngoại thích thế lớn nên không cho phép có một hoàng tử thuộc về Trần gia xuất hiện ở triều đình.
Năm đó, cả hai người họ đều còn trẻ tuổi, nếu nhận lại nhau thì một lần nữa sẽ lặp lại cảnh đối lập như nước với lửa, có lẽ sẽ tồi tệ hơn, nào ngờ bỏ lỡ thoáng chốc đã bảy năm dài đằng đẵng. Đó là những năm tháng trẻ trung tươi đẹp nhất của cuộc đời. Nàng chập choạng chạy trốn khỏi chiếc l*иg giam hoa lệ mà y dựng nên, biến thành một cánh chim phượng hoàng tắm lửa phục sinh, dần dần lột xác trở thành kiêu kỳ xinh đẹp dến như vậy, để khi gặp lại khiến y mê muội.
Đó cũng là khoảng thời gian từ khi Lưu Mạch và Lưu Sơ cất tiếng khóc chào đời cho đến lúc trưởng thành đã biết nói ngọt cười tươi. Một đôi con trai con gái xinh xắn ở cách xa y tận chân trời góc bể cứ thế trưởng thành, thông minh, lanh lợi mà y lại hoàn toàn không hay biết. Ánh mắt của y biến đổi phức tạp, cuối cùng y xuống nước, “Nếu như vậy thì tạm thời kéo dài một hai năm để xem thế nào đã.” Tiếc là tin tức Thái tử chọn phi đã làm kinh động cả đám hoàng thân quốc thích ở trong thành Trường An.
“Người cũng đừng làm cho nó cuống lên”, A Kiều cố giãy ra khi y đòi thân mật, gắng gượng nói nốt, “Thϊếp đã bao ngày không được gặp nó rồi. Trái lại sang năm thì Trư Ấp sẽ hết hạn chịu tang, nên tính toán cho nó.”
Lưu Triệt hừ lạnh, cho dù thế nào thì người con gái trong lòng này cũng là của y mãi mãi. Y có thân mật với những người khác thì đã làm sao? Nàng vẫn là của y.
Ngày hôm sau, Lục Y hầu hạ A Kiều thức giấc, lên tiếng oán trách, “Vì sao nương nương lại để cho Hình khinh nga và Lý tiệp dư gặp bệ hạ chứ? Nếu bệ hạ nhớ lại bọn họ thì ….”
A Kiều cười nhạt, “Nếu chỉ thoáng gặp mặt một cái mà có thể nhớ lại thì họ không gặp nhau ở đây cũng có thể gặp nhau ở nơi khác.” Lưu Triệt mặc cho hai cô gái kia bỏ đi như vậy thì đã đủ để nói rằng con tim của y thật sự không rung động.
Lục Y cứng họng, “Thế cũng đúng. May là bệ hạ vẫn không động lòng. Tuy nhiên Hình khinh nga cũng không phải là vừa, nương nương cần phải cẩn thận đấy.”
A Kiều khẽ mím môi. Lục Y vẫn còn quá đơn giản, cho tới nay chỉ là kẻ giơ đầu chịu báng chứ chưa từng là người sau màn giật dây. Lý Chỉ đứng bên chưa bao giờ chịu ra mặt kia mới thực sự là ngòi nổ. Nếu Lưu Triệt nhớ đến người đẹp Hình Nhược thì coi như phá vỡ cục diện ân sủng riêng điện Ngọc Đường hôm nay. Làm sao có thể khiến bệ hạ không nhớ tới cô ta chứ? Cô ta đã sinh được một con trai một con gái.
Dù sao thì cô ta cũng sinh được một hoàng tử còn Hình Nhược ngoài việc xinh đẹp dưới gối thì chẳng có gì. Có được Tam hoàng tử là do ngày xưa bế từ chỗ Vương tiệp dư mà thôi.
“Vệ Tử Phu vừa chết mà những người đàn bà trong cung Vị Ương đã nổi dã tâm rồi”, nàng thở dài nói.
Nếu nói tranh đấu với Vệ Tử Phu là số mệnh nàng không né tránh thì việc nàng chỉ ở bên cạnh đế vương lại bị những nữ nhân không thù không oán này thù hận và tính kế là vì sao? Ai có thể tồn tại lâu như vậy trong cung Vị Ương là chốn lòng người phản trắc mà lại không có một chút tâm cơ?Quyển 4 - Chương 70: Từ cổ mỹ nhân như danh tướngĐến mùa thu thì những công việc chính sự bệ hạ giao cho Thái tử cũng dần dần ít đi. Lưu Mạch cuối cùng cũng có được một khoảng thời gian rảnh rỗi, hàng ngày đều vào cung thăm mẫu thân.
“Mạch Nhi”, Trần A Kiều dặn dò, “Con tuy là thái tử nhưng vẫn là thần tử của Hoàng thượng. Đạo lý ở cùng vua là phải tự mình cân nhắc, mọi việc phải cẩn thận.”
“Mẫu thân yên tâm”, Lưu Mạch mỉm cười nói, “Mẫu thân, con muốn điều một người đến bên cạnh con.”
“Ồ?” A Kiều tò mò, “Là ai thế?”
“Một người bạn con đã kết giao hồi đi sứ, mặc dù là người Hung Nô nhưng tâm tính thuần khiết, tên là Kim Nhật Đan.”
A Kiều chợt nhớ ra nhân vật trong lịch sử này nên gật đầu, “Mạch Nhi đã là thái tử, chuyện như vậy tự mình quyết định là được rồi.”
Lưu Mạch vâng dạ rồi nói, “Chuyện của con nhưng vẫn phải bẩm báo với mẫu thân một tiếng để cho mẫu thân không phải lo lắng.” Cuối mùa thu năm Nguyên Đỉnh thứ ba, Kim Nhật Đan nguyên là vương tử bộ lạc Hưu Đồ của Hung Nô vào làm phủ thừa cho Thái tử.
Chỉ chớp mắt đã gần tới năm Nguyên Đỉnh thứ tư. Một hôm, Thái tử đang bàn việc cùng với Kim Nhật Đan trong điện thì bất chợt cả hai cùng im lặng khi nghe thấy tiếng chân bước trên hành lang bên ngoài điện. Người đi trước bước nhẹ nhàng tựa hồ không biết võ công, người phía sau lại trầm ổn không gây tiếng động, rõ ràng là cao thủ.
Kim Nhật Đan nhẹ nhàng đi ra, giật mạnh cánh cửa rồi xuất thủ đánh xuống cổ người đi trước. Đột nhiên gã nghe thấy Lưu Mạch ở phía sau la lên thất thanh, “Dừng tay, Nhật Đan!”
Dung nhan yêu kiều mỹ lệ mà linh lợi trông rất quen thuộc. Kim Nhật Đan vội vàng thu hồi lực đạo, không ngờ viên nội thị áo xanh phía sau thiếu nữ đã vươn cánh tay gầy khô ra, rõ ràng còn cách gã chừng hai cánh tay nhưng đã lập tức chặn đứng thế công. Cánh tay gã đau đớn như lửa đốt, kình phong lướt qua mé tóc của người vừa đến, cắt đứt mấy sợi.
“To gan!” Người đi theo phía sau cất giọng lanh lảnh, “Dám động thủ đối với Công chúa Duyệt Trữ ư?”
Kim Nhật Đan thầm than xui xẻo rồi, bất chấp tay đau quỳ xuống nói, “Vi thần không biết Công chúa điện hạ đến, cho là kẻ xấu xâm nhập điện Bác Vọng nên lầm ra tay, kính xin Công chúa trị tội.”
Lưu Sơ còn chưa hết kinh hoàng, nhướng cặp mày liễu lên trách mắng, “Bản công chúa phụng mệnh mẫu thân tới gặp ca ca của bản công chúa mà không được sao?”
Lưu Mạch khoát tay ý bảo Kim Nhật Đan lui về phía sau rồi nói, “Tảo Tảo, tại sao muội không cho người thông báo một tiếng?”
“Muội chỉ muốn cho ca ca một bất ngờ.” Lưu Sơ tỏ vẻ ấm ức, oán hận đưa mắt lườm Kim Nhật Đan rồi nói tiếp, “Không ngờ mình lại bị kinh sợ trước.”
“Nhật Đan!” Lưu Mạch nhanh mắt liền hỏi, “Cánh tay của ngươi có sao không?”
“Khởi bẩm Thái tử điện hạ”, viên nội thị phía sau Lưu Sơ khom người nói, “Nô tài thấy có người dám động thủ với Công chúa, tình thế cấp bách phải dùng Liệt Vân chưởng đánh cách không. Vị đại nhân này bây giờ chắc sẽ rất khó chịu.”
“Thì ra là thế”, Lưu Mạch nhìn hắn, “Có thuốc giải chứ?”
“Việc này…” Viên nội thị liếc mắt nhìn Lưu Sơ. Lưu Sơ gật đầu nói, “Không phải là hắn cố ý, cho hắn đi.”
Viên nội thị khẽ vâng dạ đáp lời rồi lấy từ trong ngực ra một viên thuốc, “Một nửa thoa ngoài da, một nửa uống vào.”
“Ca ca”, Lưu Sơ phủi tay, nói, “Mẫu thân nói rằng sắp sang năm mới rồi, điện Bác Vọng của ca ca lại không có phụ nữ trông nom nên bảo muội tới sai người dọn dẹp. Nhưng đến lễ mừng năm mới thì ca ca vẫn phải trở về điện Ngọc Đường.”
Lưu Mạch cảm thấy trong lòng ấm áp, lại cười nói, “Được rồi, Tảo Tảo cảm ơn mẫu thân thay ca ca nhé.”
Lưu Sơ thản nhiên nói, “Là người một nhà còn cảm ơn gì chứ? Cung Kiến Chương đầu năm mới sẽ xây xong, phụ hoàng nói khi đó sẽ cho mẫu thân chuyển sang đó ở. Đến lúc ấy muội sẽ dễ dàng tới chỗ của ca ca.”
“Nhưng mà”, cô đảo mắt, “khó khăn lắm muội mới được ra ngoài, sao có thể trở về dễ dàng như thế chứ.”
“Tảo Tảo muốn ra ngoài cung chơi”, Lưu Mạch mím môi cười, dễ dàng đoán được tâm ý của muội muội, “thì phải đợi thêm một lúc nữa. Ca ca xử lý xong chuyện này thì mới có thể ra ngoài được.” Không ngờ Lưu Sơ lại lắc đầu nói, “Mẫu thân bảo muội phải trở về trước giờ Ngọ, muội không chờ lâu thế được đâu.” Cô suy nghĩ một chút rồi nói, “Ca ca phái người đi theo muội vậy, là hắn nhé.” Cô chỉ đúng vào Kim Nhật Đan.
Kim Nhật Đan dùng thuốc, quả nhiên cảm thấy cánh tay dịu hẳn nhưng vẫn không cam lòng nghĩ rằng: Nếu không phải vừa rồi mình thu hồi lực đạo, cứ liều mạng thì chưa biết ai hơn ai. Nhưng lúc này gã thực không ngờ thiếu nữ kia lại chỉ đúng vào mình.
“Kim công tử!” Ra khỏi cửa cung, bước đi trên phố xá náo nhiệt của thành Trường An nhưng gương mặt mỹ lệ của Lưu Sơ dần trầm xuống. Kim Nhật Đan ở sau lưng cô quan sát, cảm thấy hơi hoảng hốt, rõ ràng là thiên kim tiểu thư trong khuê phòng không hiểu thế sự, lúc này nhìn như tách biệt khỏi phố xá ồn ào.
“Lúc nãy khi ta muốn đi vào”, Lưu Sơ quay đầu lại nhìn gã, ánh mắt chợt lóe lên, “công tử đang nói với ca ca điều gì đó?”
Kim Nhật Đan khẽ giật mình nhưng chỉ một thoáng đã trấn tĩnh, “Cũng không có gì, chỉ là Thái tử điện hạ nói năm gần đây…”
“Kim Nhật Đan”, Lưu Sơ ngắm nghía sợi dây lưng, không nhìn qua gã, giọng dần gay gắt, “Nếu ta không nghe được chút gì thì sao lại gọi ngươi?”
Vì chuyện này mới gọi gã ra sao? Kim Nhật Đan nghĩ vậy nên cũng nghiêm mặt, “Tiểu thư đã biết vậy thì ta cũng không giấu. Trên đường Thái tử điện hạ trở về bị người tập kích, tuy chưa bị thương nhưng thích khách cũng đã tự vẫn. Chúng ta đang đoán việc này rốt cuộc là do người phương nào gây nên?”
“Ồ?” Lưu Sơ nắm chặt tay nhưng vẻ mặt vẫn bình thản, “Các ngươi đoán sao?”
“Thái tử điện hạ nói, nếu gϊếŧ người có thể đạt được lợi ích thì không ngoài thế lực sau lưng các hoàng tử.”
“Là đệ đệ nào của ta sao?”
“Thiên hạ đều biết hai nhà Trần, Vệ không thể đứng chung, Thái tử điện hạ gặp chuyện, người trong thiên hạ đều đoán là Tề vương điện hạ. Thái tử điện hạ lại nói, khả năng chuyện này do Lưu Cứ làm không lớn, bởi vì kiếp này hắn vô duyên tranh giành ngôi vị hoàng đế, thậm chí chỉ cần đi sai nửa bước sẽ khiến cho dư đảng Vệ thị tan thành mây khói theo. Tính cách Lưu Cứ thiên về trầm ổn, sẽ không dễ dàng mạo hiểm.”
“Như vậy”, Lưu Sơ cúi đầu, “ca ca cảm thấy do mẫu thân Lý tiệp dư của Tứ hoàng tử gây ra?”
“Công chúa điện hạ cực kỳ thông minh.”
Sau khi Vệ hoàng hậu rơi đài, Trần gia nhất thời thế lớn, tuy ít liên quan đến chính trị nhưng uy danh tại đế đô cực thịnh. Lưu Triệt dù sủng ái A Kiều nhưng cũng không muốn duy trì cục diện như vậy nên đã đề bạt người nhà của Lý Chỉ, dẫu không thể tạo ra một Vệ gia thanh thế hiển hách khác nhưng địa vị cũng xấp xỉ. Bởi vậy Lý Chỉ muốn đánh cược một lần sao? Lưu Sơ cười khẩy, “Muốn thông qua ca ca để làm mẫu thân suy sụp? Ta cũng muốn nhìn xem, ai sẽ giỏi hơn trong chuyện đùa nghịch tâm cơ này?”
“Công chúa”, Lương Uy nói, giọng cung kính, “Không còn sớm nữa, chuyện Công chúa muốn hỏi cũng đã biết, chắc là về được rồi.”
“Sao đã xong được chứ?” Lưu Sơ suy nghĩ rất nhanh, tâm tư thay đổi còn nhanh hơn, thoáng cái đã tươi cười, quay sang Kim Nhật Đan ngoắc ngoắc ngón tay, hỏi, “Kim công tử, cô gái trở về cùng sứ đoàn ngày hôm ấy có phải đã ở lại nhà tiểu cữu cữu của ta không?”
Kim Nhật Đan chưa bao giờ quen biết một cô bé như vậy nhưng giờ coi như cũng đã hiểu qua về tiểu công chúa có tư duy nhanh nhạy được sủng ái này. “Những hoàng tử lớn lên trong cung”, trong lòng gã thầm nghĩ, “có ai là đèn đã cạn dầu chứ?” Chỉ là con gái không liên quan đến quá nhiều lợi ích nên sẽ đơn giản hơn rất nhiều. Trong ba cô con gái của Vệ hoàng hậu trước kia, Dương Thạch công chúa chỉ vì một lúc căm phẫn đã gián tiếp làm Vệ gia suy sụp. Còn công chúa Duyệt Trữ của Trần nương nương sau khi hồi cung vẫn luôn được sủng ái, danh tiếng chỉ thua mẫu thân của nương nương là Công chúa Trưởng Quán Đào như một ngoại lệ. Làm cho cả Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh lúc trước cùng Thái tử điện hạ trẻ tuổi hiện giờ trong điện Bác Vọng đều phải coi trọng, tiểu công chúa này hẳn là có chỗ hơn người. Người phụ nữ nuôi dưỡng được hai đứa con xuất sắc như vậy thực sự thế nào? Gã đột nhiên cảm thấy hiếu kỳ đối với Trần nương nương, người mà gã chỉ thấy thoáng qua ngoài thành Trường An vào ngày ấy.
“Đại khái là thế?” Gã cười nhẹ, “Tiểu thư muốn làm gì?”
“Ta muốn đi xem, cô gái nào có con mắt tốt như vậy, lại thích ca ca.” Lưu Sơ nháy mắt, “Lương công công, nếu mẫu thân biết ta đi thăm Thân bà bà, người sẽ không giận đâu.”
Lương Uy bất đắc dĩ thở dài, “Công chúa đã nói vậy rồi, Lương Uy nào dám không tòng mệnh.”
Thân gia tọa lạc tại cửa Tuyên Bình phía đông thành Trường An, lúc Lưu Sơ đến đó đã gần trưa. Người gác kéo cổng trông thấy dung nhan xinh đẹp mà quen thuộc thì lắp bắp, “Công… thiếu tiểu thư, sao cô lại tới đây?”
“Sao ta không thể tới?” Lưu Sơ duyên dáng, “ngươi đi thông báo cho bà bà một tiếng nhé.”
Người gác cúi đầu vâng dạ, tuy Lưu Sơ nhiều lần theo mẫu thân tới đây nhưng chưa bao giờ nói rõ thân phận.
“Họ Thân kia”, Lưu Sơ rảo bước tiến vào phủ thì nghe giọng nữ mắng chửi giận dữ từ sương phòng phía đông hậu viện vọng ra, “Tuy ta ở lại nhà ngươi nhưng cũng không thiếu nợ của ngươi, ngươi mặt nặng mày nhẹ như vậy cho ai xem?” Cô gái xinh đẹp từ trong cửa bước ra, thấy thiếu nữ mặc y phục tôn quý đang đứng ở nội viện thì không khỏi giật mình.
“Tiểu cữu cữu”, Lưu Sơ trêu chọc, “Nếu mẫu thân biết cữu cữu bắt nạt một cô bé như vậy, người sẽ không vui đâu.”
Diễn Na trên mặt lúc trắng lúc xanh, đang muốn quay người bỏ đi, lại nghe thấy giọng cô bé ngọt ngào, “Hôm nay cháu tới thăm ca ca, lén ra ngoài thăm bà bà, lần sau tiểu cữu cữu thấy mẫu thân nhất định phải nói hộ cho Tảo Tảo vài câu. Nếu không mẫu thân tức giận thì cháu thảm rồi.” Có thể cảm thấy người trong kia nghe được nhăn nhó một hồi, ở lại hay bỏ đi đều không xong, chân như đeo chì không thể nhấc nổi một bước.
Thân Hổ lắc đầu nói, “Mẫu thân thương cháu như vậy, chắc sẽ bỏ qua thôi.” Hắn ngẩng đầu nhìn sắc trời, bảo, “Đã tới đây rồi thì ở lại ăn cơm trưa, xong rồi ta sẽ tự mình đưa cháu về. Tảo Tảo muốn ăn món gì?”
Đầu bếp của Thân gia là do A Kiều tự mình dạy dỗ nên tay nghề so với đầu bếp trong cung Vị Ương cũng không kém, Lưu Sơ nhanh nhảu, “Cháu muốn ăn gà xé.”
Thân Hổ gật đầu ra hiệu cho Thanh Dung xuống bếp chuẩn bị. Đợi cho Thanh Dung đi được khá xa, Lưu Sơ bỗng nhiên ảo não nói thêm, “Ôi trời, lúc nãy quên dặn làm thêm món cá sốt rồi”, cô quay sang Thân Hổ, “Tiểu cữu cữu, cữu cữu đi nói giúp cháu nhé.”
Kim Nhật Đan đứng yên nhìn tiểu công chúa kia giở trò, biết cô muốn nói chuyện một mình với Diễn Na nên đỡ lời, “Bố trí giả sơn chỗ biệt viện bên kia cũng khá đặc sắc, để ta đi xem trong ao có cá hay không.” Gã nói xong liền lập tức bước đi.
Lưu Sơ hài lòng, quay sang nói, “Diễn Na tỷ tỷ, hôm trước chúng ta đã từng gặp qua ở trường đình, hôm nay tỷ tỷ không ngại nói chuyện với ta chứ?”
Diễn Na trở lại, nụ cười trên mặt thoáng vẻ giễu cợt, “Dân nữ thân phận thấp kém, sao dám không nghe Công chúa sai bảo?”
Lưu Sơ khoát tay ngăn lại cơn tức giận của Lương Uy, “Ở Thân gia, ta cùng mẫu thân xưa nay không đề cập tới thân phận. Tỷ tỷ không cần câu nệ.” Cô quan sát thấy dung nhan xinh đẹp của Diễn Na có nét tiều tụy liền thở dài, “Tỷ tỷ đã quen ở Trường An chưa?”
Diễn Na lắc đầu, “Cũng không để ý, Trường An hay Thân Độc có gì khác nhau đâu?” Cô nhìn qua Lưu Sơ, nhẹ nhàng hỏi, “Diễn Na cũng muốn hỏi Công chúa một câu, ca ca ngươi… hiện giờ sao rồi?”
“Ca ca”, Lưu Sơ có chút cân nhắc, “Cũng ổn, chỉ là phụ… phụ thân của ta giao cho ca ca rất nhiều việc nên bận rộn.”
“Đôi khi ngẫm lại cũng không biết ta là may mắn hay bất hạnh”, Diễn Na cười buồn, “Ngẫu nhiên gặp một người Hán trên phố ở Thân Độc lại là thái tử điện hạ tôn quý của Đại Hán.”
“Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”, Lưu Sơ chợt nhớ tới Hoắc ca ca từng khẳng khái nói đợi cô đầy mười bốn tuổi sẽ cầu hôn với Hoàng gia. Hôm nay cô đã đầy mười bốn tuổi nhưng hắn lại không biết đang ở nơi nào.
“Công chúa điện hạ có nỗi khổ gì sao?” Diễn Na cười lạnh, “Ái nữ của Hoàng đế nói vậy cũng không sợ đau đầu lưỡi?”
“Tỷ tỷ còn nhỏ không ở Đại Hán nên chắc chưa từng nghe nói”, Lưu Sơ cũng không tức giận, “lúc ta cùng ca ca sinh ra thì mẫu thân đang lưu lạc ở bên ngoài, mãi đến năm ta sáu tuổi mới quay trở về cung Vị Ương. Ta cũng không phải vừa sinh ra đã được sủng ái.”
“Cái gì?” Diễn Na kêu khẽ một tiếng, tỏ vẻ áy náy.
“Nhưng thời gian đó cũng không có gì khổ sở, mẫu thân và sư công đều rất thương chúng ta. Diễn Na tỷ tỷ”, Lưu Sơ nhìn qua Diễn Na, tò mò hỏi, “Thứ cho ta mạo muội hỏi một câu, tỷ tỷ thích ca ca ở chỗ nào?”
Diễn Na tuy khá bất ngờ nhưng cô gái Thân Độc cũng không có tính e dè nên nói luôn, “A Trinh dĩ nhiên là rất tốt.” Mấy ngày nay, mặc dù cô đã biết tên thật của Lưu Mạch nhưng vẫn quen gọi cái tên khi còn ở Thân Độc, nếu không cảm giác thật xa lạ.
“Nhưng ta thích hắn còn vì hắn là người đầu tiên ta thấy đối xử hòa nhã với mọi người. Phụ thân ta là người Thân Độc, mẫu thân là người Hán nên từ nhỏ tới lớn, ngay cả thân nhân đều coi thường ta. Đến cả tên họ Kim kia”, cô oán hận trừng mắt nhìn Kim Nhật Đan đứng bên bờ ao phía xa, “tuy không xem thường nhưng nói năng cũng gay gắt. Chỉ có A Trinh đối xử với ta rất tốt, dù không thích ta cũng không gây tổn thương.” Lưu Mạch là một sự ấm áp trong sinh mệnh của cô. Cô đã ở trong giá lạnh quá lâu nên vừa gặp là ôm chặt lấy.
Lưu Sơ hơi hoảng hốt, muốn nói điều gì lại chần chừ hồi lâu mới hít sâu một hơi, “Diễn Na xem ca ca quá tốt rồi.”
Lưu Mạch bản tính hòa nhã nhưng lại không phải là người tốt theo nghĩa thông thường. Đối với cậu, người không quan hệ tới lợi ích như Diễn Na thì có thể giúp được sẽ giúp nhưng nếu sâu hơn một bước chắc chắn sẽ không chịu, còn đối với địch thủ thì thủ đoạn của cậu có thể nói là cực kỳ tàn nhẫn. Cho đến nay, người được cậu bảo vệ chỉ có bản thân cô và mẫu thân. Nếu Diễn Na không có cách nào để cậu chấp nhận thì vĩnh viễn không được cậu đối xử tốt một cách toàn tâm toàn ý.
Ngược lại, Thân Hổ, vẻ ngoài lãnh đạm nhưng trong lòng lại rất nồng nhiệt. Một ngày nào đó khi Diễn Na hiểu thấu Lưu Mạch thì chắc chắn tâm tình ái mộ của thời thiếu nữ sẽ tan theo mây gió. Vì hiểu lầm mà ái mộ, vì hiểu rõ mà chia lìa, đó vốn là điều ngớ ngẩn bao đời của tình yêu. Lưu Sơ khẽ thở dài, nghe tỳ nữ của Thân phủ tới gọi, bà bà thấy nói cô đến thăm rất vui mừng, bảo cô lên phòng trên.
Năm trước, mắt của Thân đại nương dần mờ đi, đi đường cũng nhanh mệt, đại phu chẩn bệnh bảo là do lúc còn trẻ bị tổn hại sức khoẻ quá độ nên đến tuổi này cần tĩnh dưỡng thật tốt.
“Giờ Tiểu Hồ Tử đã trở về rồi”, Thân đại nương vỗ vỗ lưng Lưu Sơ, “cháu cùng mẫu thân, cả ca ca của cháu đều tốt, dù bà bà có lập tức ra đi cũng an tâm.”
“Bà bà”, Lưu Sơ khổ sở, “bà nói vậy, mẫu thân và cữu cữu nghe được lại thấy khó chịu đấy.”
“Được rồi”, Thân đại nương cười hiền hậu, “Ta không nói là được chứ gì.”
“Tiểu Hổ Tử cùng cô nương Diễn Na lại ầm ĩ bên kia rồi”, bà dỏng tai lên nghe rồi lắc đầu, “Cũng tốt, cái nhà này đã lâu không náo nhiệt như vậy.”
Lưu Sơ không nén được tò mò, “Bà bà thích Diễn Na tỷ tỷ sao?”
Thân đại nương hơi chần chừ, “Chưa nói tới có thích hay không, chỉ nhìn nó lại nhớ tới mẫu thân của cháu ngày xưa.” Bà buông tay ra, bồi hồi, “Tảo Tảo, cháu có biết? Năm đó khi lần đầu bà gặp mẫu thân của cháu thì còn chán nản hơn cả Diễn Na, trên người có vết đao rất sâu, sắc mặt tái nhợt, trong bụng mang cháu và ca ca khiến người ta không thể không thương xót. Ai có thể ngờ về sau lại trở thành người phụ nữ được hoàng đế Đại Hán sủng ái nhất. Đời người quả là vô thường.”
Trời dần tối, khi Lưu Sơ trở lại bên ngoài điện Ngọc Đường của cung Vị Ương thì nghe thấy tiếng đàn của A Kiều. Năm tháng chuyển dời, tiếng đàn của A Kiều cũng đã trở nên rất thuần thục, cô nghe đến ngây người.
“Con còn nhớ quay về à?” A Kiều không quay đầu lại.
“Mẫu thân”, Lưu Sơ chột dạ sa vào lòng nàng, “Con tới thăm bà bà.”
“Thôi đi!” A Kiều buồn cười, gỡ tay cô xuống, “Đừng tưởng mẫu thân không biết con đến xem cô nương Thân Độc kia.”
“Mẫu thân đã biết rõ còn muốn hỏi làm gì?”, Lưu Sơ ỉu xìu.
“Không nói chuyện này nữa”, A Kiều ngừng đàn, quay người nhìn cô, “Tảo Tảo, giờ con cũng đã lớn rồi. Đợi sang năm, Chư Ấp công chúa xuất giá thì cũng đến lượt con. Tảo Tảo đã thích ai chưa?”
Lưu Sơ khẽ giật mình, vội vàng quay đi, “Con không xuất giá”, giọng cô kiên quyết nhưng nước mắt suýt ứa ra.
“Nếu như mẫu thân không tìm được ai tốt hơn Hoắc ca ca thì con sẽ ở vậy.”
Trần A Kiều nhìn bóng lưng thẳng tắp của con gái, nghẹn ngào. Hoắc Khứ Bệnh đã mất được bốn năm nhưng không ngờ trong lòng Lưu Sơ vẫn còn sâu nặng như vậy.Quyển 4 - Chương 71: Vị Ương sóng gió lại nổi lênTháng Mười hai năm Nguyên Đỉnh thứ ba, đã gần đến năm mới. Một hôm, lúc điện Ngọc Đường chuẩn bị tắt đèn đi nghỉ thì Lưu Triệt hỏi, “Việc thu dọn cung Vị Ương năm nay do Kiều Kiều phụ trách nhé.”
Vào cuối năm, là quý tộc hay nhà nông cũng đều phải thu dọn để đón năm mới. Nếu là nhà nông thì tất nhiên chuyện này do chủ nhân thực hiện không có gì phải bàn, nhưng trong cung đình thì việc phụ trách thu dọn còn có ý nghĩa rộng hơn. Từ khi Vệ Tử Phu tự vẫn ở điện Tiêu Phòng vào năm Nguyên Đỉnh đầu tiên, Trung cung chưa được lập nên Lưu Triệt vẫn phân công cho nữ quan phụ trách công việc thu dọn trong hai năm Nguyên Đỉnh thứ hai và thứ ba chứ không giao phó cho bất kỳ phi tần nào. Lúc này y nói như thế khiến Trần A Kiều không khỏi bất ngờ. Là người quyền thế nhất cung Vị Ương hiện giờ, nàng định giao việc này cho người khác nhưng lại thấy làm thế không phù hợp, song vẫn ngại phải tính toán những thứ lặt vặt nên giao cho Lục Y đi làm thay.
“Ngươi hôm nay là nữ quan của ta, cho dù là phi tần trong cung Vị Ương cũng phải nể mặt.” Nàng dặn Lục Y, “Nhưng ngươi cũng cần phải giữ bổn phận cẩn thận, không được gây ra tranh cãi. Hơn nữa”, nàng do dự một chút rồi nói, “để ý tới Công chúa Chư Ấp ở điện Kim Hoa một chút cho ta.”
Lục Y vâng dạ rồi mỉm cười nói, “Nương nương, Lục Y làm việc thì người cứ yên tâm.”
Lý tiệp dư ở điện Phi Sương và Hình khinh nga ở điện Thừa Hoa đều rất thân thiện, không gây khó dễ gì. Lục Y vừa bước ra khỏi điện Thừa Hoa thì viên nội thị đi cùng liền nói, “Lục cô cô, phía trước chính là điện Kim Hoa.”
Lục Y đáp khẽ một tiếng, nghĩ đến dáng vẻ kiêu căng ngạo mạn của Chư Ấp hồi Vệ Tử Phu còn sống. Công chúa chưa xuất giá thì sống ở trong cung, nhưng khi Vệ Tử Phu qua đời thì Lưu Thanh đã trưởng thành mà lại là công chúa thuộc dòng chính nên không tiện giao phó cho phi tần trông nom, vì thế Trần nương nương mới cho ra ở riêng tại điện Kim Hoa. Trần nương nương nói rằng Công chúa Chư Ấp còn chưa hiểu nhân tình thế thái, rất giống chính bản thân nàng năm đó, vì thế nên mặc dù không đối đãi đặc biệt nhưng sau khi Vệ Tử Phu chết thì cũng không ngược đãi hay gây khó khăn gì. Cung nhân điện Ngọc Đường đều cảm thán rằng Trần nương nương có tấm lòng quá mức lương thiện, nhưng chẳng phải chính vì Trần nương nương như vậy nên bọn họ mới tận tụy trung thành đối với nàng hay sao?
“Lục Y!” Trần nương nương mỉm cười nói với cô, “Ta đối xử tốt với mọi người nhưng cũng không để cho người khác trèo lên đầu lên cổ. Mọi người ở điện Kim Hoa hôm nay đều biết hiện giờ ai là chủ nhân của cung Vị Ương. Lưu Thanh đã không còn là cô công chúa làm mưa làm gió trong điện Tiêu Phòng năm xưa nữa thì có thể làm được cái gì chứ?”
Trong tháng đầu tiên Công chúa Chư Ấp vào sống ở điện Kim Hoa, tất cả mọi người trên dưới từ điện Kim Hoa cho tới cung Vị Ương đều tẩy chay vì cho rằng cô chẳng còn tiền đồ gì nữa. Để lấy lòng Trần nương nương đang độc chiếm ân sủng của quân vương, cách ăn nói hàng ngày của họ đều mơ hồ lộ ra vẻ khinh miệt. Ngay cả những vật dụng đưa lên đều hết thiếu cái này lại sai cái kia khiến Chư Ấp xưa nay được nuông chiều không sao chịu được, thường xuyên nổi giận đùng đùng ở điện. Một tuần sau Trần A Kiều mới biết chuyện này. Lục Y vốn hiểu rõ cách làm người của chủ nhân, bèn hỏi, “Có cần nô tỳ đến cảnh cáo người ở điện Kim Hoa hay không?”
Ngoài dự liệu của cô, A Kiều lại lắc lắc đầu mà nói, “Để từ từ, ta muốn xem cô Công chúa Chư Ấp này rốt cuộc là kiểu người thế nào.”
Phàm là người đang từ trên trời ngã xuống, nếu không phải vì tuyệt vọng mà vươn lên thì sẽ vì tuyệt vọng mà sụp đổ, A Kiều muốn biết cô công chúa chua ngoa đanh đá nhất triều Hán Vũ cuối cùng sẽ đi theo con đường nào. Cũng chỉ sau khi biết điều đó thì nàng mới quyết định được cách đối xử với cô ta.
“Lục Y”, Trần A Kiều dặn thêm, “Đợi thêm một tháng nữa, nếu Công chúa Chư Ấp không thể tự mình cải thiện được tình hình đó thì ngươi phải đi cảnh cáo đám cung nhân một chút.”
Nhưng ngoài dự liệu của hai người, chưa đầy một tháng thì cô công chúa chua ngoa đó không chỉ học được cách kiềm chế tính tình của mình mà còn khiển trách cả đám cung nhân ở điện Kim Hoa khiến bọn họ dù trong lòng có nghĩ gì nhưng cũng không dám thể hiện ra ngoài mặt.
“Rốt cuộc cũng có khí phách một công chúa. Một hôm nhân dịp một cung nhân có lỗi cố tình chậm phục vụ mình, cô ta gọi bộ phận phụ trách hình phạt đến đánh cho cung nhân đó mười trượng rồi triệu tập mọi người”, Lục Y thuật lại cho Trần A Kiều xem những lời nói của Công chúa Chư Ấp hôm đó, “Cho dù có như thế nào thì ta cũng đường đường chính chính là một công chúa, nếu chọc đến phụ hoàng thì phụ hoàng sẽ bảo vệ ta hay là bảo vệ bọn nô tỳ các ngươi? Ta là Chư Ấp chứ không phải là Di An không có chỗ dựa nào. Đệ đệ của ta là Tề vương, đứng đầu một nước chư hầu, cữu cữu của ta là Trường Bình hầu năm xưa tấn công tiêu diệt thiết kỵ Hung Nô. Sau ba năm giữ đạo hiếu để tang cho mẫu thân thì ta vẫn là công chúa. Đám nô tài các ngươi hãy tự hỏi mình có mấy cái đầu chứ?”
Trần A Kiều điềm nhiên lắng nghe, chỉ hỏi lại, “Công chúa Di An là ai?”
“Nương nương quên rồi sao?” Cô mỉm cười nhắc, “Chính là con gái của Doãn tiệp dư năm xưa.”
Trần nương nương khẽ ồ lên một tiếng, “Hẳn là Công chúa Chư Ấp không muốn ta nhúng tay vào quản chuyện của cô ta. Lục Y, ngày mai ngươi hãy đến điện Kim Hoa, ngầm dạy bảo đám cung nhân một chút.” Nàng vẫn bình thản như cũ, “Trần A Kiều này không phải là loại người ném đá xuông giếng[1], không cần bọn họ làm những chuyện nịnh nọt kia. Chú ý không được để cho Lưu Thanh biết. Ngoài ra cũng đi nói với bên chỗ Công chúa Di An rằng dù sao thì cô bé cũng là công chúa Đại Hán, dù ta không muốn gặp bọn họ nhưng cũng không muốn có người đối xử tệ bạc.”
[1] Ném đá xuống giếng: Được hiểu tương tự như câu “Giậu đổ bìm leo”, có nghĩa là thừa lúc người ta gặp rủi ro, thất thế mà vùi dập, lấn lướt.
Điện Kim Hoa là một tòa cung điện rất tầm thường trong bốn mươi tám điện của cung Vị Ương, không quá tốt nhưng cũng không quá kém, không quá náo nhiệt nhưng cũng không quá vắng vẻ. Các cung nhân điện Kim Hoa đứng ở trước điện, cung kính chào, “Lục cô cô!”
Những năm qua, Lục Y đã giấu A Kiều điều một số cung nhân tâm phúc vào điện Kim Hoa. Cung nhân vừa chào chính là một trong số đó.
Lục Y hỏi, “Công chúa của các ngươi đâu?”
“Công chúa biết hôm nay sẽ dọn dẹp, ngại trong điện bụi bặm nên ra ngự hoa viên rồi, mọi việc đều tuân theo sự sắp đặt của cô cô”, cung nhân bẩm.
Lục Y gật đầu, nhớ lời Trần nương nương đã dặn liền hỏi, “Công chúa gần đây có chuyện gì đặc biệt không?”
“Cũng không có”, cung nhân suy nghĩ một chút rồi nói, “nhưng mấy hôm trước Tề vương có gửi thư về, Công chúa đọc xong thì khóc suốt một đêm.”
Lục Y nhìn quanh điện Kim Hoa, không phát hiện thấy điều gì khác thường liền đi ra ngoài. Sau khi dọn dẹp xong, cô bẩm báo với A Kiều. A Kiều suy nghĩ một lát rồi mỉm cười nói, “Va vấp một lần thì sẽ khôn ngoan hơn. Chuyện năm Nguyên Đỉnh đầu tiên đủ để răn dạy bọn họ, phàm là Lưu Thanh còn chút thông minh thì chắc sẽ không làm loạn nữa.”
Chẳng mấy chốc đã đến năm mới, yến tiệc của cung Vị Ương theo thông lệ được tổ chức trên đài Bách Lương, ca múa mừng cảnh thái bình. Trần A Kiều ngồi ở bên cạnh Lưu Triệt, nhìn các phi tần quanh năm khó gặp mặt quân vương đang ngồi trên đài, lòng chợt thấy buồn. Nhưng cho dù buồn nàng cũng không thể đẩy Lưu Triệt vào vòng tay người khác. Nhã nhạc cung đình hôm nay do nhạc sư Lý Diên Niên giỏi nhất của Nhạc phủ biểu diễn.
“Kiều Kiều”, Lưu Triệt ở bên cạnh thấy nàng ngơ ngẩn thì khẽ gọi.
Nàng mỉm cười đáp, “Không có gì.” Đang định cáo từ trở về điện thì bỗng nghe thấy một giọng nói trong trẻo ở phía dưới, “Phụ hoàng, hôm nay là tất niên, Thanh Nhi đã học một điệu múa đặc biệt để chúc mừng Đại Hán ta trị yên thiên hạ, chúc phụ hoàng vạn thọ vô cương.”
Nàng đã mấy năm không gặp Lưu Thanh, hôm nay nhìn cô súng sính thướt tha từ trong đám người bước ra, sau khi trưởng thành thì càng thêm giống như người con gái kia lúc phô bày tuổi hoa đẹp nhất.
Lưu Triệt khá bất ngờ nhưng vẫn gật đầu, “Nếu như thế thì Chư Ấp hãy múa đi!”
Năm xưa Vệ Tử Phu nhờ ca múa mà được sủng hạnh. Ba cô gái được thừa hưởng dáng vẻ của nàng ta nên thân thể cũng mềm mại. Chỉ là Lưu Thanh ngày xưa được sủng ái vô hạn nên không chịu nỗ lực tập luyện, hôm nay cố ý muốn làm cho Lưu Triệt mềm lòng nên nhảy múa dập dờn đẹp mắt. Lưu Triệt bất giác động tâm, quay sang nhìn A Kiều, thấy nàng cúi đầu, nét mặt lơ đãng. A Kiều không biết nhưng Lưu Triệt vẫn còn nhớ rõ. Nhiều năm trước, khi Vệ Tử Phu vẫn còn sống, đang giữa độ tuổi hoa đã nhảy múa một vũ điệu mừng xuân ở phủ Bình Dương hầu, giành được tình cảm của Lưu Triệt. Sau đó là một cuộc bể dâu, nhưng Vệ Tử Phu cũng đã chết rồi. Người đã chết thì mọi việc đều chấm dứt. Lưu Triệt không nén nổi nỗi buồn bã trong lòng. Trần A Kiều trông thấy liền nắm tay gọi khẽ, “Bệ hạ, A Kiều mệt rồi, xin phép về điện Ngọc Đường nghỉ ngơi trước.”
Các phi tần ở dưới đài thoáng xôn xao. Những năm qua Trần nương nương độc chiếm hết mọi ân sủng nên họ vốn không còn trông mong gì. Nhưng nếu Trần nương nương rời khỏi đây thì những người còn lại cần dựa vào bản lĩnh của mình để khiến cho bệ hạ vui vẻ. Phải biết rằng hôm nay là ngày khởi đầu của năm mới, chỉ riêng việc có thể giành được ân sủng của bệ hạ vào ngày đầu năm đã là vinh hạnh lớn nhất ở cung Vị Ương. Lưu Mạch đội mũ thái tử ngồi dưới đài khẽ nhếch miệng. Cung Vị Ương quả thật vĩnh viễn không bao giờ yên tĩnh, mẫu thân vẫn chẳng thể thích ứng.
Hiếm có mùa đông nào ít tuyết như hôm nay. Đã sang năm mới nhưng trời đêm vẫn còn trong trẻo. Nàng ngồi trong cung xa ấm áp, mơ hồ cảm thấy có một làn gió lạnh thấu xương không biết từ đâu thổi vào. Từ sau lần đẻ non năm đó, cơ thể nàng trở nên sợ lạnh. Nàng luôn nhớ về cung Trường Môn quen thuộc đã bị Lưu Triệt thu hồi để xây cung Kiến Chương. Mặc dù Ngọc Đường cũng tốt nhưng vào mùa đông thì hàng ngày vẫn phải đốt lửa, tóm lại vẫn không bằng Trường Môn.
“Đám nô tài đó thật là vô dụng”, trở về điện Ngọc Đường, cho đám người hầu lui xong thì Lục Y mới giận dữ, “Ngay cả chuyện Công chúa Chư Ấp gần đây tập múa như vậy mà cũng không biết bẩm báo lên.”
“Thôi được rồi”, Trần A Kiều lại không cảm thấy hỏng việc, “Công chúa Chư Ấp chẳng qua cũng chỉ là một người đáng thương mà thôi.”
Đến tháng Tư năm nay thì cô sẽ hết kỳ hạn ba năm chịu tang, phải tính tới chuyện hôn nhân. Chuyện cần nhất trong cuộc đời con gái chẳng qua chỉ là tìm được một người chồng tốt mà thôi. Hôm nay, nàng chính là chủ của cung Vị Ương, Lưu Thanh sợ nàng gây khó dễ nên mới tốn công sức để làm cho Lưu Triệt rủ lòng thương. Công chúa thành hôn thì phải được bệ hạ cho phép.
“Nhưng mà”, nàng than thở, “tại sao không có ai chịu tin ta quả thật không có ý gây khó dễ chứ?”
Khi Lưu Triệt trở về điện Ngọc Đường thì Trần A Kiều đã đi ngủ được một lúc lâu. Đốt lửa than trong phòng ngủ không tốt cho sức khỏe nên trước khi đi ngủ Lục Y đã chuyển lửa than ra ngoài điện, trong điện chỉ còn duy nhất một cây nến nho nhỏ. Dưới ánh nến mờ mờ, Lưu Triệt thấy A Kiều đắp chiếc chăn bằng gấm thật dày mà vẫn cảm thấy lạnh, nằm co ro một góc. Y khẽ nhíu mày, thầm thở dài, nhẹ nhàng nằm xuống ôm nàng vào lòng.
Thoáng cái đã gần đến năm Nguyên Đỉnh thứ tư.
Theo thông lệ, ba ngày trước năm mới sẽ không thiết triều nên khi ánh sáng ban mai nhàn nhạt xuyên qua song cửa chiếu vào tẩm điện, Trần A Kiều tỉnh dậy còn đang ngái ngủ, thấy Lưu Triệt nằm bên cạnh thì giật mình.
“Nàng dậy rồi sao?” Lưu Triệt khá vui vẻ, hôn lên má nàng một cái, trêu chọc, “Trẫm còn đang nghĩ lúc nào Kiều Kiều mới dậy.”
Nàng không có thói quen có người khác bên gối khi thức giấc nên ậm ừ một lúc mới nói, “Bệ hạ dậy trước đi.”
Trong suốt năm Nguyên Quang, dù Lưu Triệt đã giảm dần việc nắm thực quyền nhưng vẫn rất chăm chỉ, gần như không bao giờ dậy muộn. Người thong thả nói, “Chẳng mấy khi rảnh rỗi, chơi đùa với Kiều Kiều một lúc đã.”
Sắc mặt A Kiều lúc đỏ lúc trắng, ra sức đẩy y một cái, gắt gỏng, “Thiếp không cần.” Vừa tung chăn định nhảy xuống thì hơi lạnh ập vào khiến nàng run lên.
Cung nữ bên ngoài điện nghe thấy tiếng cười đùa bên trong liền nhẹ nhàng vén rèm hỏi, “Bệ hạ, nương nương đã dậy chưa?” A Kiều vội vàng nấp sau lưng Lưu Triệt, nói vọng ra, “Vào đi.” Lưu Triệt nhắm mắt, chỉ cười nhẹ không lên tiếng.
Mạc Sầu mang đồ rửa mặt vào, thấy bệ hạ còn đang ở trên giường thì sắc mặt ửng hồng, cúi thấp đầu xuống. Nói đúng ra, chẳng mấy khi bệ hạ và nương nương thức dậy cùng nhau.
A Kiều thấy ngoài trời đã sáng rõ liền hỏi, “Bây giờ là mấy giờ rồi?”
“Bẩm đã giờ Mão ba khắc”, Mạc Sầu đáp, “Phải rồi, phủ Công chúa trưởng báo tin đêm qua Công chúa trưởng Phi Nguyệt đã sinh hạ một bé gái, cả hai mẹ con đều bình an.”
“Đêm qua à?”, A Kiều vui mừng, “Thật là một đứa bé có phúc, ngay cả sinh ra cũng biết chọn giờ.
Đợi đến ba ngày sau, khi điện Tuyên Thất thiết triều trở lại thì Trần A Kiều mới bứt ra được để đi thăm mẹ con Lưu Lăng. Phủ Công chúa trưởng cực kỳ náo nhiệt, người đến tặng lễ nườm nượp. A Kiều ngồi trên giường dành cho bà đẻ trong phòng Lưu Lăng, cười hỏi, “Làm mẫu thân rồi thấy thế nào?”
“Cũng chẳng biết nói thế nào”, Lưu Lăng mỉm cười, Đông Phương Sóc bế con gái không rời tay, “Lúc mang thai đi lại bất tiện thì chỉ muốn sinh cho xong. Đến lúc sinh hạ thì đau không chịu nổi, sau đó lại rất yêu thương.” Tình mẫu tử đến thật tự nhiên, chôn sâu trong huyết mạch mỗi người mẹ.
“Xinh quá!” Trần A Kiều nhìn bé gái trong lòng Đông Phương Sóc, thở dài, “Trong đám cháu gái đời sau của Trần gia thì Mạn Nhi và con của hai người là xinh đẹp nhất, không biết khi lớn lên sẽ bắt mất hồn bao nhiêu chàng trai.”
“Muốn lấy con gái của ta”, Đông Phương Sóc hùng hổ, “đầu tiên phải bước qua cửa ải này đã.”
Lưu Lăng bật cười, xẵng giọng, “Nói lung tung gì đó”, rồi quay sang A Kiều, “Chẳng cần phải đợi lâu, Tảo Tảo hiện giờ không phải đã bắt mất hồn vía bao nhiêu chàng trai thành Trường An rồi sao?”
Lưu Sơ xinh đẹp là con gái yêu của đương kim Hoàng thượng, là muội muội song sinh của Thái tử điện hạ, mẫu thân cô lại là Trần nương nương độc chiếm thánh sủng trong cung Vị Ương. Thân thế tài mạo ngút trời, dần đến tuổi xuất giá khiến cho tất cả gia đình quyền quý trong thành Trường An đều chú ý xem con cái nhà ai sẽ vinh hạnh lấy được báu vật như vậy. A Kiều hơi nhướng mày, thở dài, “Trong lòng nó vẫn nhớ Quan Quân hầu, chưa từng nhìn đến người nào khác.”
“Chuyện này”, Lưu Lăng cũng biết chuyện nên cảm thán, “Để qua năm xem, biết đâu nó lại xem trọng ai đấy?”
“Đành vậy thôi”, A Kiều cười gượng, hỏi Đông Phương Sóc, “Đặt tên con là gì rồi?”
“Ha ha”, Đông Phương Sóc vừa cười xong lại im bặt, lúng túng cúi đầu không đáp.
“Đừng hỏi chàng”, Lưu Lăng lườm một cái, “từ lúc con được sinh ra đến giờ chàng chỉ biết bế không rời tay, bản thân được xưng học rộng tài cao mà nghĩ ra vô số cái tên đều không vừa ý. Đến giờ vẫn chưa xong đấy.”
Trần A Kiều phì cười, đúng là lòng cha mẹ có thể so được với trời đất, mà Lưu Lăng lấy Đông Phương Sóc cũng là một cặp hạnh phúc.
“Chi bằng”, nàng nhìn Lưu Lăng, “muội chọn cho nó một cái tên đi?”
“Cũng được”, Lưu Lăng suy nghĩ một chút, nhướng mày, “đặt tên một chữ là ‘Mi’ vậy.”
“Mị?” Đông Phương Sóc lắc đầu, “‘Mị’ trong ‘Vũ mị’ sao? Nghe quá tầm thường”[2].
[2] Chữ “Mi” có âm đọc tiếng Trung là “Méi”, Đông Phương Sóc nghe nhầm thành chữ “Mị” có âm đọc là “Mèi.” Chữ “Mị” trong từ “Vũ mị” lại có nghĩa là xinh đẹp, quyến rũ.
“Ai nói là chứ ‘Mị’ kia chứ”, Lưu Lăng gạt đi, “là chữ ‘Mi’ trong ‘Thủy mi’.”
“Đông Phương Mi?” Trần A Kiều ngâm nga, “cũng rất đẹp đấy!” Thủy mi là dải nước ở mấp mé bờ, vừa là nước mà vừa là bờ, không phải là nước mà cũng không phải bờ, một chữ cực kỳ mê hoặc.
Tên vừa được đặt xong, Đông Phương Mi đang ở trong lòng phụ thân bỗng giãy một cái rồi khóc toáng. Đông Phương Sóc chân tay luống cuống, đành nhìn lên hai người phụ nữ trên giường cầu cứu.
Trần A Kiều mủi lòng ôm lấy, nhìn qua rồi nói, “Chắc nó đói bụng rồi. Đông Phương đại nhân bế nó tìm bà vú đi để ta và Lăng Nhi nói chuyện một chút.”
Sau khi Đông Phương Sóc đi ra, Trần A Kiều liền thả lỏng, ngồi dịch sát thêm chỗ Lưu Lăng, hỏi, “Lăng Nhi, mấy ngày vừa rồi cũng không có thời gian rảnh ngồi với muội nên chưa kịp hỏi. Muội nói thật cho tỷ biết, lúc trước sao lại không cẩn thận để mang thai Mi Nhi?”
Lưu Lăng quay mặt, giận dỗi, “Tỷ là sủng phi đoan trang trong mắt mọi người, sao lại hỏi mấy chuyện quỷ quái như vậy?”
“Chẳng phải là do muội sao?” A Kiều điềm nhiên, “bằng không thì tỷ hỏi làm gì.” Các nàng cùng nhau lớn lên, cùng học tại một trường, cùng làm cảnh sát, cùng xuyên qua thời gian đến đây, biết rõ nhau như chiếc bóng của mình.
“Cũng chỉ vì uống nhiều rượu quá”, Lưu Lăng thở dài, “khó mà tránh được.”
“Ồ?” A Kiều hỏi dồn, “Như vậy là Lăng Nhi say à?”
“Cũng không phải”, Lưu Lăng thành thật đáp, “chỉ là rượu vào thì buông lỏng lý trí, phóng túng một chút thôi.”
“Cần gì phải nói muội?” Nàng phản công, “Tỷ thì sao? Hồi cung nhiều năm như vậy, cũng từng có thai, vậy ở chung với đế vương thiên cổ kia thì thế nào?”
A Kiều giật mình, ngượng ngập, “Sao lại quay sang tỷ?” Mặt nàng dần đỏ lên.
“Sao không chứ?” Lưu Lăng buồn cười, “Chỉ cho quan viên thắp lửa mà không để dân chúng đốt đèn. Tư Mã Thiên từng nói, ‘Đế vương có thể ba ngày không ăn nhưng không thể một ngày không có nữ nhân’, tỷ thấy có đúng không?”, nàng hiếu kỳ nên hỏi dồn.
A Kiều chật vật đứng lên, nói một câu hàm hồ, “Thật là lợi hại”, rồi tìm cớ chuồn thẳng, còn nghe tiếng cười khanh khách của Lưu Lăng văng vẳng bên tai.Quyển 4 - Chương 72: Xây điện Kiến Chương rước phượng vềNàng ra khỏi phòng thì mặt đang nóng bừng cũng dần lạnh xuống, từ xa trông thấy Đông Phương Sóc đang đứng bên cửa ngách, cạnh đó là một người đàn ông mặc áo xanh, dáng vẻ gầy yếu nhưng khí chất toát lên vẻ chính trực. Người đó nghe thấy tiếng bước chân đến gần liền ngẩng đầu nhìn sang, ánh mắt trong sáng.
“Trần nương nương!” Đông Phương Sóc thấy nàng liền gật đầu chào.
“Ừ, Đông Phương đại nhân không cần đa lễ.” Trần A Kiều nhìn sang người bên cạnh, “Vị này là…?”
Người đàn ông áo xanh lùi về sau một bước, quỳ xuống nói, “Hạ thần Tư Mã Thiên, tham kiến nương nương”, giọng hết sức bình thản.
“Ồ!” Trần A Kiều thốt lên, thầm nghĩ quả nhiên nhắc đến Tào Tháo thì Tào Tháo đến, Lưu Lăng vừa nhắc tới thì người này đã xuất hiện ở quý phủ của Công chúa trưởng. Nhưng vào thời này thì Tào Tháo còn chưa sinh ra.
“Nương nương, Tư Mã đại nhân là bạn tốt của thần”, Đông Phương Sóc chắp tay bẩm, “Gia đình có truyền thống học vấn, văn chương tài hoa, thuở nhỏ đã lập chí muốn viết ra một bộ sử trước nay chưa từng có. Thần cảm phục ý chí nên kết làm bạn.”
“Ta cũng nghe nói qua”, Trần A Kiều gật đầu nhìn Tư Mã Thiên đầy thâm ý, “Tư Mã đại nhân, ta rất mong chờ ngày ông viết ra bộ sử kia.”
Tư Mã Thiên khẽ giật mình, ngẩng đầu nhìn nàng, trong ánh mắt thoáng chút nghi ngờ khó hiểu. Thời đại hiện giờ cũng không phải niên đại như nguyên bản trong lịch sử. Hôm nay người ngồi ở vị trí thái tử là Mạch Nhi của nàng sẽ không còn cục diện khó khăn, Hung Nô cũng đã suy sụp, Lưu Lăng cũng không phải xuống đài. Quan trọng nhất là vị đế vương ngồi trong điện Tuyên Thất kia sẽ không còn bạo ngược, vui giận bất thường như trước, như vậy Tư Mã Thiên cũng có thể tránh được mối khuất nhục bị thiến?
Lúc còn trẻ nàng đọc Sử ký thì luôn trầm trồ tán thưởng những chuyện trước thời Hán Vũ Đế, duy chỉ khi chép chuyện đương triều thì Tư Mã Thiên khó tránh khỏi tỵ hiềm. Cho dù là chuyện ông ta tán dương họ Lý, công kích họ Vệ hay là phê phán thẳng thắn Hán Vũ Đế đều khiến người ta có cảm giác trả thù cá nhân. Sử ký có tất cả mười hai tập, chỉ thiếu duy nhất tập về Hán Vũ Đế, quả thật là đáng tiếc. Hiện giờ nàng thật sự chờ mong có một bản ký mới và hoàn chỉnh về Hán Vũ Đế.
“A Thiên”, Đông Phương Sóc hỏi Tư Mã Thiên còn đang nhìn hút theo bóng Trần A Kiều, “làm sao vậy?”
Tư Mã Thiên bừng tỉnh, “Trần nương nương quả là khác với tưởng tượng của ta!”
“Thì ra là thế”, Đông Phương Sóc phì cười, “Gặp nương nương ta liền cảm thấy bệ hạ có một vị sủng phi như vậy ở bên cạnh là điều may mắn.”
“Ta vẫn cho là”, Tư Mã Thiên khép mắt, “có thể được sủng hạnh trở lại sau khi bị ruồng bỏ thì tất không tránh khỏi hiềm nghi là quyến rũ mê hoặc quân vương.”
“May mắn là Tư Mã đã không viết như vậy trong sách sử.”
“Đúng vậy”, Tư Mã Thiên tự giễu, “Trung Hoa mênh mông, lịch sử hào hùng, không biết cả đời này ta có thể viết xong hay không.”
Qua cửa Tư Mã phía tây cung Vị Ương trở lại điện Ngọc Đường thì phải đi qua điện Thừa Hoa của Hình khinh nga. Trần A Kiều ngồi trong long xa, nghe tiếng đàn ai oán vẳng ra từ điện Thừa Hoa liền than khẽ: “Đánh mất thánh ân ngồi điện cũ, quay đầu nhớ mãi tiếng đàn buông.”
“Nương nương”, Lục Y nghe không rõ, bèn hỏi, “Người vừa nói gì vậy?”
“Không có gì”, A Kiều hỏi lại, “Lục Y, cung Kiến Chương sắp xây xong chưa?”
“Cũng sắp rồi”, Lục Y đáp, “Tính ra cũng tròn ba năm. Thành Liệt nói rằng bệ hạ ra lệnh không sợ tốn kém, chỉ cần tinh xảo đẹp đẽ.”
“Như vậy”, Trần A Kiều gõ gõ vào song cửa, “khi xây xong cung thì chắc phải tuyển cung nữ, nếu có thể cho một số cung nữ lớn tuổi của cung Vị Ương ra ngoài thì cũng coi như là một chuyện công đức.”
Sang xuân, qua tháng Ba là lễ trăm ngày của Đông Phương Mi. Bấm tay tính ra đã tròn ba năm Công chúa Chư Ấp để tang. Một hôm, Trần A Kiều lệnh xuống bảo mời Công chúa Chư Ấp đến điện Ngọc Đường. Lúc Lưu Thanh tới, nhìn xuyên qua bức rèm che thấy Trần A Kiều ngồi trên điện Ngọc Đường trang nhã phồn hoa với vẻ mặt thanh thản thì nắm tay bất giác siết chặt trong ống áo rộng.
“Nương nương”, Mạc Thất vén rèm bước vào bẩm, “Công chúa Chư Ấp đã đến rồi.”
“Lưu Thanh ra mắt nương nương”, cô khẽ quỳ gối. Những năm gần đây, sau khi mẫu hậu mất, cô đã học được cách kiềm chế nên lúc này mới có thể thi lễ đúng phép tắc với Trần A Kiều khiến ngay cả bản thân cũng phải cảm thán.
“Đứng lên đi!” Người phụ nữ ngồi trên ghế chủ tọa ngẩng đầu, nét mặt nhu hòa, trông vẫn còn rất trẻ. Ngược lại, cô nhớ rõ trước khi mẫu hậu mất thì khóe mắt của người đã có những vết rạn chân chim mờ mờ.
A Kiều hơi nhếch miệng, biết rằng sự ngăn cách giữa nàng với người của Vệ gia bằng cả sự vinh nhục của gia tộc, bằng cái chết của Vệ Tử Phu nên vĩnh viễn không thể chung sống hòa bình với nhau. Đã vậy gặp chẳng bằng không gặp, gần gũi chẳng bằng sơ giao, nếu đã không thoải mái với nhau thì một dao chặt đứt cho xong. Nàng liền hỏi, “Chắc hẳn Công chúa Chư Ấp đã rõ rằng hết tháng này thì ngươi đã trọn kỳ để tang, bản thân ngươi cũng đã mười tám tuổi, qua tuổi thành thân một chút rồi nên ý của ta là nên sớm xuất giá. Ngươi đã có ai hợp ý chưa?”
Lưu Thanh khẽ mỉm cười, nhớ lại năm xưa nhị tỷ Lưu Vân trước khi lên đường tới Thượng Lâm Uyển nhận tội với phụ hoàng đã từng cầu xin với mẫu hậu rằng nếu như có một ngày cô xuất giá thì hãy để cho cô được lựa chọn theo ý mình. Trần A Kiều là người kỹ tính, chắc sẽ không vì bị lôi kéo vào việc tranh đấu gì đó mà buộc người muội muội cuối cùng phải bước vào cuộc sống khổ hạnh giống như hai người tỷ tỷ. Mẫu hậu đến phút chót vẫn không đáp ứng. Thật ra dù có đáp ứng thì cũng thay đổi được điều gì chứ? Mẫu hậu đã chết rồi. Mẫu hậu đã tự vẫn ở điện Tiêu Phòng để cho bốn chị em bọn họ có thể sinh tồn bình yên trong cung điện này. Từ khoảnh khắc đó, cô đã không còn khả năng có được hạnh phúc. Cuối cùng cô lựa chọn bước theo lối mòn của hai tỷ tỷ, hợp lại thành một con đường bình yên vì đệ đệ của mình.
“Nương nương”, cô cúi đầu, “Ta thích con thứ Thạch Triệt của Nội sử Thạch đại nhân.”
Trần A Kiều trầm ngâm, “Ta biết rồi, ngươi cứ về trước đi.”
Lục Y đợi cho Lưu Thanh đi khỏi liền hỏi, “Nương nương, người xem Công chúa Chư Ấp kia…?”
A Kiều nâng chén trà, khẽ nhấp một ngụm, “Nếu đó là đối tượng do Công chúa Chư Ấp đích thân lựa chọn thì ta nghĩ sẽ chấp nhận.”
“Sao vậy?” Lục Y kinh ngạc thốt lên, “Thạch Triệt đâu có gia thế hiển hách bằng vị hôn phu của Vệ Trường và Công chúa Dương Thạch trước kia.”
“Nhưng Vệ gia cũng đã kém xa thanh thế một nhà năm hầu tước năm xưa rồi”, A Kiều cười nhạt, “Nếu cô ta chọn người quá hiển hách thì ta sẽ nghĩ như thế nào”, nàng nhìn về hướng điện Tuyên Thất, khẽ nói thêm, “bệ hạ sẽ nghĩ như thế nào?”
“Nội sử đại nhân Thạch Khánh quản lý kinh đô, mặc dù chức quan chưa vào hàng cửu khanh hiển hách nhưng chức vụ lại rất quan trọng. Thạch Khánh đã từng làm sư phụ của Tề vương Lưu Cứ, mối thâm giao đó có thể bảo vệ cho cô ta ở Thạch gia không phải lo nghĩ.” A Kiều than một tiếng, khen ngợi, “Tiến có thể tấn công, lui có thể phòng thủ, quả nhiên là thông minh.”
“Thế à”, Lục Y lo lắng hỏi, “Nương nương tính sẽ thành toàn cho cô ta sao?”
“Tại sao lại không?” A Kiều hỏi lại. Nếu như trong lòng Lưu Triệt còn chút thương xót con gái thì nàng cần gì phải mang tiếng ác vào thân? Có lẽ Lưu Thanh không suy nghĩ kỹ càng, có thể là đã nhận lệnh của Vệ gia, nhưng với gia phong mấy đời trung thần của Thạch gia, thiên tử anh minh, ngôi vị thừa kế đã vững chắc mà muốn Thạch gia theo Vệ gia mưu phản được ăn cả ngã về không thì tuyệt đối không có khả năng.
Tháng Ba năm Nguyên Đỉnh thứ tư, Trần nương nương chuyển ý tứ của Công chúa Chư Ấp tới Lưu Triệt. Y trầm tư suốt đêm. Đến ngày hôm sau, điện Tuyên Thất truyền ý chỉ ban hôn. Tháng Năm năm Nguyên Đỉnh thứ tư, Công chúa Chư Ấp xuất giá. Trần A Kiều lấy thân phận phi tần tối cao hiện tại ở cung Vị Ương đứng trên điện Tuyên Đức cùng Lưu Triệt tiếp nhận lễ bái của Công chúa Chư Ấp và Phò mã.
Trần A Kiều nhìn Lưu Thanh mặc trang phục màu đỏ bước lên xe hoa rời đi không quay đầu nhìn lại thì thở dài một hơi. Nàng không thể không thừa nhận, khi người con gái cuối cùng mang huyết thống của Vệ Tử Phu rời khỏi cung Vị Ương này thì lòng nàng cũng có chút thoải mái hơn.
Hôn lễ của Công chúa Chư Ấp không được long trọng bằng Vệ Trường công chúa xuất giá năm xưa nhưng dù sao cũng là công chúa hoàng thất xuất giá nên có đầy đủ tất cả các nghi lễ. Tề vương Lưu Cứ đi tận nước Tề làm phiên vương ba năm nhuốm bụi phong trần về Trường An tham gia hôn lễ của tỷ tỷ ruột nhưng chỉ thoáng trông thấy nhau trên điện Tuyên Đức, không có cơ hội gặp nhau lấy một lát. Hôn lễ trong cung kết thúc, Lưu Cứ đến điện Tuyên Thất yết kiến phụ hoàng. Ba năm không gặp, Lưu Triệt nhìn đứa con thứ quỳ dưới điện, Lưu Cứ cũng cao hơn một chút, nét mặt trầm tư không còn vẻ ngơ ngác như ngày mới đi đến đất phong.
“Đã trở về rồi”, Lưu Triệt nghĩ một lát rồi bảo, “thì ở chơi thêm mấy ngày nữa. Đúng dịp tỷ tỷ của con xuất giá, con hãy gặp nó nhiều hơn.”
Lưu Cứ khẽ cúi đầu, cung kính nói, “Đa tạ phụ hoàng ân điển!”
“Bệ hạ”, nội thị ở bên ngoài điện khom người bẩm báo, “Thái tử điện hạ cầu kiến.”
“Tuyên cho vào”, Lưu Triệt bình thản.
Lưu Mạch mặc bộ y quan thái tử bước vào điện, dập đầu chào, “Nhi thần tham kiến phụ hoàng.” Nét mặt cậu toát lên vẻ phấn chấn tự tin của tuổi thiếu niên, Lưu Cứ liếc nhìn cảm thấy chói mắt, cúi đầu bái chào, “Thần tham kiến Thái tử điện hạ.”
“Thôi nào nhị đệ”, Lưu Mạch thân thiện đáp.
“Phụ hoàng và Thái tử điện hạ có việc cần bàn, nhi thần xin cáo lui trước”, Lưu Cứ nói, thấy Lưu Triệt ở trên điện gật đầu liền lui ra. Cậu ra khỏi điện Tuyên Thất thì nghe thấy tiếng Lưu Mạch ở trong điện, “Qua mấy hôm nữa thì phụ hoàng sẽ tuần du sông Phần nên nhi thần đến để xin chỉ dạy chuyện giám sát đất nước.”
Ánh sáng rực rỡ ngoài điện chiếu lên trên người rất nóng bức nhưng lòng Lưu Cứ vẫn thấy lạnh lẽo. Cậu bật cười khổ sở. Năm xưa khi đi nhận phong đất Tề, cữu cữu đã nói rằng khôn ngoan không lại được với trời, hiện giờ Vệ gia đang ở hoàn cảnh xấu nên không cầu có công, chỉ cầu vô hại. Vì vậy, những năm qua ở đất Tề, cậu luôn biểu hiện bình thường, cố gắng duy trì lãnh thổ được thanh bình để không khiến cho Lưu Mạch nghi ngờ. Cậu vốn cho rằng nếu có một ngày mình bộc lộ sự sắc bén vẫn giấu kín thì thiên hạ nhất định phải lóa mắt, nhưng vừa rồi lại phát hiện khi bản thân còn ở ngưỡng cửa trưởng thành thì người ấy đã thành thục. Trong những ngày tháng ở đất Tề, cậu có nghe nói đến chuyện người phụ nữ ở điện Ngọc Đường kia cho đứa con trai duy nhất của nàng vượt qua đại mạc đi sứ Thân Độc. Khi đó cậu rất kinh ngạc, chuyện đó thật sự ngoài sức tưởng tượng của cậu. Nhưng, quả là đi xa làm cho con người kiên cường nhanh hơn bất kỳ danh sư nào dạy bảo. Bản thân cậu chỉ là bông hoa ở cung Vị Ương được mẫu thân nuông chiều, lần đầu tiên nếm trải gió mưa thì lại rơi vào cảnh nhà tan cửa nát.
Tháng Sáu năm Nguyên Đỉnh thứ tư, cung Kiến Chương được xây xong, hết tròn ba năm. Hôm đó ở điện Ngọc Đường Lưu Triệt rất vui, nói, “Kiều Kiều có rảnh rỗi thì sang đó xem. Nàng chắc chắn sẽ vui thích.”
Trần A Kiều không để ý, chỉ nói, “Lần này chọn cung nữ mới, nhân tiện cho những cung nữ lớn tuổi trong cung Vị Ương về nhà. Nếu trong cung quá nhiều cung nữ lớn tuổi thì sẽ tăng thêm oán khí, cuối cùng tổn hại đến thiên hòa.”
“Những chuyện này cứ giao cho Kiều Kiều vậy.” Lưu Triệt đang có tâm trạng tốt, lại không phải là việc gì lớn nên thuận miệng đồng ý.
Trần A Kiều mời Kiến Chương lệnh đến hỏi, “Cung Kiến Chương có bao nhiêu điện phủ?”
Kiến Chương lệnh cung kính bẩm, “Cung Kiến Chương có mười ba ngôi ngoại điện, bốn mươi chín ngôi nội điện. Bệ hạ đã có lệnh đặc biệt chuyển cung Trường Môn thành điện Trường Môn, là điện chính trong các nội điện, lại dùng vôi cát trát tường, tất cả đều làm như Trung cung.”
A Kiều cảm thấy rất bất ngờ, hỏi lại, “Thật không?”
Đến tối, Lưu Triệt từ điện Tuyên Thất trở về, trông thấy bộ dạng buồn bã của nàng bèn triệu Lục Y tới hỏi, “Chủ nhân của ngươi có chuyện gì vậy?”
“Hôm nay nương nương triệu kiến Kiến Chương lệnh tới hỏi chuyện, sau đó tâm trạng thì cứ u uất như vậy”, Lục Y cung kính bẩm báo.
Lưu Triệt hiểu ngay, vẫy tay bảo Lục Y lui ra. Y chắp tay thong thả bước vào, hắng giọng, “Thuở thiếu niên, trẫm đã từng ước hẹn rằng nếu thành thân được với Kiều Kiều thì sẽ xây lầu vàng cho nàng ở. Kiều Kiều còn nhớ chăng?”
Nàng ừ hữ không đáp, tất nhiên trong nàng nhớ mãi lời hứa ngọt ngào đó nhưng khắc sâu hơn lại là cơn gió lạnh thấu xương thổi xuyên qua phòng khi lời hứa đổ vỡ tan tành, nhìn xa xăm vô tận vẫn chỉ thấy đau khổ tuyệt vọng không bờ bến.
“Nàng không muốn về điện Tiêu Phòng cũng không sao, trẫm đã xây điện Kiến Chương cho nàng.” Y nhìn thẳng vào mắt nàng, phát hiện thấy vẻ mặt nàng có chuyển biến rất nhỏ liền bịt kín mắt nàng không cho suy nghĩ, hôn thật sâu lên môi nàng, thầm thì ước hẹn, “Lần này trẫm đảm bảo rằng Kiến Chương sẽ không sụp đổ.”
Nàng khẽ lách người tránh ra. Lời thề lầu vàng rốt cuộc có mấy phần giả dối, mấy phần thật lòng, lâu như vậy rồi thì khó có thể kiểm chứng nổi. Đã bao nhiêu năm làm vợ làm chồng, nàng thấy đối với người đàn ông bên cạnh này khi càng hiểu rõ lại càng mê hoặc. Nàng đi cùng y qua hết cả thời niên thiếu, nàng đã chứng kiến hầu như hết thảy cuộc đời của y, nàng tự cho bản thân đã hiểu rất rõ. Nhưng khi gần trong tấc gang nàng lại phát hiện rằng thật ra bản thân không hề hiểu y.
Từ năm Nguyên Sóc thứ sáu cho tới bây giờ đã là mười năm rồi. Nàng cho là với tính có mới nới cũ, có trăng quên đèn thì y sẽ không chịu được nàng quá lâu, nhưng y lại chịu ở bên nàng hơn mười năm. Tuy rằng mười năm đó chỉ bằng mặt mà không bằng lòng nhưng lâu dần thì việc có y bên cạnh tựa hồ cũng thành một thói quen. Hồi năm Lý Nghiên xuất hiện, cô ta trẻ trung như vậy, xinh đẹp như vậy, nàng thật sự đã cho rằng y sẽ bỏ nàng. Tuy nàng không quá đau buồn nhưng cuối cùng khi y lựa chọn ở lại với nàng, nàng lại cũng không quá vui mừng. Từ đó về sau, giữa hai người mới có được một chút lòng tin. Khi nàng mất đứa con ở Thượng Lâm Uyển thì khoảng cách với y lại gần thêm, sinh ra cảm giác muốn dựa dẫm vào y. Dựa dẫm nhưng vẫn đồng thời đề phòng, đôi khi ngay cả bản thân nàng cũng chẳng rõ nếu bây giờ y bỏ nàng thì người không chịu được là y hay là nàng?
“Thật ra”, nàng cúi đầu, “Người không cần phải như vậy.” Tâm hồn nàng đã dần bình lặng, nếu không phát sinh biến động thì cuộc đời này sẽ cứ thế thôi. Nhưng nếu phát sinh biến động thì nàng vẫn sẽ rời đi, dù có quyến luyến, có quay đầu nhìn lại nhưng cuối cùng vẫn nhất quyết rời đi.
Ánh mắt Lưu Triệt thoáng qua vẻ lo lắng mơ hồ, “Trẫm vui mừng thấy như thế.” Y siết chặt thêm vòng tay đang ôm eo A Kiều khiến nàng đau, khẽ kêu lên một tiếng. Y giật mình, hơi nới lỏng vòng tay nhưng vẫn còn ôm rất chặt. Nàng nhăn mày, thật ra cũng không tin lời nói cung Kiến Chương là xây cho nàng. Lưu Triệt xây cung Kiến Chương quá nửa vẫn là vì chính y, nhưng nàng vẫn tiếp nhận chuyện điện Trường Môn.
Giờ khắc này nàng tựa vào trong lòng y, bỗng nhiên rất muốn hỏi y một câu rằng nếu sớm biết có ngày hôm nay thì có hối hận ngày đó đã tuyệt tình như vậy? Đến bây giờ, có đem cả thiên hạ đến trước mặt thì nàng cũng không thể nào xóa nhòa hoàn toàn chuyện quá khứ.
Nhưng cuối cùng thì nàng vẫn không lên tiếng. Có một số việc mà sức người không thể làm gì được.
Tháng Bảy năm Nguyên Đỉnh thứ tư, Trần A Kiều chuyển từ điện Ngọc Đường sang điện Trường Môn của cung Kiến Chương. Điện Trường Môn tuy hạ từ cấp cung xuống cấp điện nhưng còn rộng lớn hơn cả cung cũ. Từ ngoài điện nhìn vào, rèm che buông rủ ánh lên đủ các loại màu sắc, đều là những màu mà Trần A Kiều ưa thích. Chỉ riêng việc đem rừng trúc ngày trước nàng thích nhất trồng lại trong nội viện, khi gió chiều ngày hè thổi qua chiếu bóng trúc lên rèm cửa sổ bằng lụa mỏng gây cảm giác mát mẻ đã khiến nàng rất vui thích.
“Nghe cung nhân nói”, Mạc Vong trầm trồ, “cung Trường Môn, à quên”, cô vội vàng bậm môi, “phải gọi là điện Trường Môn chứ, vào lúc bắt đầu xây dựng thì đã đặt địa long rồi, dù mùa đông thì nương nương cũng sẽ không bị lạnh. Bệ hạ đúng là thật lòng chăm sóc nương nương từng ly từng tý.”
A Kiều liếc cô một cái, cười nhẹ như không, “Có phải ngươi cũng muốn tìm một người như vậy? Dù sao cũng sắp tuyển cung nữ mới, nếu ngươi muốn thì ta sẽ để cho ngươi xuất cung.”
“Nương nương đừng…”, Mạc Vong kêu lên khiến Mạc Thất che miệng giấu đi nụ cười.
Trần A Kiều lườm nàng, “Cười cái gì?”
“Nô tỳ đang cười”, Mạc Thất không vừa, “nương nương không chú ý sao? Vừa rồi nương nương đã nói một chữ ‘Cũng’.”
Nàng khẽ giật mình.Quyển 4 - Chương 73: Mười năm Hà Tây mười năm Hà Đông[1][1] Hà Đông chính là tỉnh Sơn Tây của Trung Quốc bây giờ. Do sông Hoàng Hà chảy qua phía Tây của tỉnh Sơn Tây, tức là Sơn Tây nằm ở phía đông của sông Hoàng Hà, cho nên ngày xưa người địa phương gọi Sơn Tây là Hà Đông.
Rất nhanh, các cung nữ được tuyển từ khắp mọi miền đã về đến nơi. A Kiều không đủ sức quản việc này nên giao cho Lục Y, Mạc Thất và Mạc Vong, “Các ngươi hỏi ý của các cung nữ ngoài ba mươi tuổi của toàn bộ điện trong cung Vị Ương, nếu ai muốn về nhà thì sẽ cho về rồi bổ sung người mới vào. Chi phí cho cung nữ trong tất cả các điện cũng phải cắt giảm đi một chút. Cung Kiến Chương hay cung Vị Ương đều thế.”
“Về phần chọn lựa cung nữ mới”, nàng dặn, “không câu nệ tướng mạo, gia thế, chỉ cần nhanh nhẹn, trung thực là được. Ngoài ra cũng nói thêm cho họ biết từ giờ trở đi thì niên hạn phục vụ là hai bảy tuổi, nếu ai có gì không bằng lòng thì cứ đến nói trực tiếp với ta.” Cả ba người đều cúi đầu vâng dạ, lĩnh mệnh rời đi.
Lệnh này vừa ban ra đã khiến cho cả cung nữ cũ và mới đều cảm động công đức của Trần nương nương. Thỉnh thoảng cũng có một vài phi tần cấp thấp trong cung Vị Ương đã từng được ân sủng của bệ hạ từ nhiều năm trước ôm hận trước sự độc chiếm ân sủng của Trần nương nương nên đã đánh cuộc một lần lành làm gáo vỡ làm muôi gây náo loạn đến cả điện Tuyên Thất, nhưng bệ hạ chỉ cau mày nói, “Trẫm đã giao mọi chuyện trong hậu cung cho Trần hoàng hậu cân nhắc quyết định, từ phi tần, nữ quan tới cung nữ, nội thị trong cung Vị Ương đều phải tuân thủ.” Sau đó lại tuyên phạt cắt ba tháng bổng lộc của những người này.
Tất cả cung nữ liền câm như hến, vài ngày sau vẫn có người tò mò hỏi, “Trần nương nương ở trong điện nào của cung Vị Ương nhỉ?”
“Trần nương nương không ở trong Vị Ương”, lại có người ra vẻ hiểu biết, “nghe nói Trần nương nương là phi tần mà bệ hạ sủng ái nhất, được coi như là hoàng hậu của cung Vị Ương. Trần nương nương thân thể cao quý, tính ra còn là biểu tỷ của bệ hạ. Hai người có tình cảm từ nhỏ, bệ hạ từng nói rằng nếu lấy được Trần nương nương làm thê tử thì nhất định sẽ xây một lầu vàng cực lớn cho nàng.”
“Phì”, liền có người cười nhạo, “Có ai chưa từng nghe chuyện này mà cần cô nói chứ.”
“Cô thì biết cái gì?” Người nọ nói vẻ không vui vì bị ngắt lời, “Những năm qua bệ hạ quả nhiên đã giữ đúng lời hứa, xây cung Kiến Chương còn hoa lệ hơn cả cung Vị Ương tặng cho Trần nương nương. Mấy hôm trước Trần nương nương đã chuyển vào điện Trường Môn của cung Kiến Chương. Tôi còn nghe nói rằng tất cả phi tần đều ở trong cung Vị Ương, bởi vậy mà trong cung Kiến Chương chỉ có một mình Trần nương nương. Các người thử ngẫm mà xem ân sủng của bệ hạ đối với Trần nương nương sâu đậm đến mức nào.”
Các cung nữ vừa mới xa nhà xa quê vào cung nghe vậy đều không nhịn được nghĩ đến phong thái của Trần nương nương danh chấn kinh thành, hồi lâu sau mới có người lên tiếng, “Tôi nghe nói cũng vì cung Kiến Chương mới xây xong nên chúng ta mới được tuyển vào làm cung nữ đấy.” Không biết ai sẽ có phúc khí có thể được hầu hạ Trần nương nương đây.
“Nhưng mà”, một giọng thì thào, “tôi từng nghe nói rằng có một khoảng thời gian bệ hạ đã chán ghét ruồng bỏ Trần hoàng hậu, trục xuất người và lập một vị ca cơ làm hoàng hậu. Chỗ mà Trần hoàng hậu ở sau khi bị trục xuất gọi là cung Trường Môn.”
Đám cung nữ im lặng hồi lâu rồi đồng thanh nói, “Nói mò.” Vệ Tử Phu sớm đã thành một khối đất vàng còn Trần nương nương vẫn được Thánh thượng cực kỳ sủng ái, bên nào nhẹ bên nào nặng thì chẳng cần nhìn cũng biết.
“Điều này cũng có thể là thực”, có người lại nói, “Cái gì thuộc về ai đã do trời định. Người khác muốn đoạt cũng đoạt không được.”
“Đám lười biếng này”, một vị cô cô dạy dỗ cung nữ đi ngang qua, nghe thấy tiếng trò chuyện liền bước vào, “đã trễ thế rồi còn chưa chịu nghỉ ngơi, học tập chưa đủ vất vả sao?”
Đám cung nữ vội vàng im bặt rồi nằm xuống nhưng cô cô vẫn không buông tha, “Vừa rồi các ngươi nói chuyện gì? Nếu không nói cho ta thì ngày mai ta sẽ không tha.”
“Ngươi nói mau”, bà tiện tay chỉ một cung nữ. Người cung nữ này lại hồn nhiên, “Chúng tôi đang nói chuyện Trần nương nương thật hạnh phúc.”
Đám cung nữ đều sợ đến tái mặt, len lén nhìn cô cô nhưng lại thấy bà tỏ nét mặt dịu dàng, khẽ bật cười, “Các ngươi đã biết được những gì nào?”
Cung nữ kia liền bạo gan, “Cô cô, người ở trong cung đã lâu chắc đã từng được gặp Trần nương nương, nương nương thật sự đẹp lắm phải không?”
“Đúng là đám các ngươi chẳng biết gì cả”, cô cô cười nói, “Lúc Trần nương nương vừa mới bị trục xuất về cung Trường Môn thì cô cô đây còn chưa tiến cung. Những năm nay người chuyển về điện Ngọc Đường thì cô cô đứng trong nội cung có mấy lần được trông thấy từ xa, quả nhiên là mặt mày như vẽ… Kỳ thật”, bà bỗng chuyển giọng, “các ngươi nhìn Công chúa Duyệt Trữ thì biết, người sinh ra con gái xinh đẹp như vậy có thể tầm thường được sao?”
Lúc đó Trần A Kiều đang đánh cờ với Lưu Triệt tại điện Trường Môn. Đối với cờ vây, nàng tự nhận trình độ của mình không cao, tuy những năm qua có tập luyện nên trình độ đã hơn trước đây nhưng vẫn không thể là đối thủ của Lưu Triệt chơi cờ từ nhỏ. Nàng đánh cờ với y thì mười trận thua đến chín nhưng Lưu Triệt chỉ si mê ngắm nhìn dung nhan của nàng, cờ chưa tới chung cuộc đã hôn lên môi rồi nhẹ nhàng bế nàng lên giường. Nàng chế giễu, “Trận này cũng không thể coi như người thắng.”
“Chờ một lát lại tiếp tục”, Lưu Triệt nào có để tâm đến ván cờ, chỉ thuận miệng nói, “Kiều Kiều thắng làm sao được.” Nụ cười nàng hơi sững lại, thầm nghĩ lần sau nhất định phải hất bàn cờ đi. Nhưng rất nhanh nàng cũng chẳng còn lòng dạ nào nghĩ đến chuyện gì. Ân ái qua đi, cơn buồn ngủ kéo đến, nàng nghe tiếng y gọi tên mình thì cũng mơ màng đáp lại.
“Kiều Kiều, nàng còn nhớ không”, y thì thầm, “Ngày ấy cũng ở Trường Môn này, chúng ta chơi cờ năm quân…” Y cúi đầu nhìn xuống đã thấy nàng nhắm mắt, nhịp thở đều đặn, đi vào giấc ngủ từ khi nào. Ánh mắt y sáng lên, nhìn nàng hồi lâu rồi thở dài một hơi, khẽ vén lại mấy sợi tóc lòa xòa trên gương mặt nàng. Những chuyện năm xưa giờ đã quá xa xăm.
Kinh Thi từng viết tháng Bảy đổ lửa. Mãi đến cuối tháng Bảy thì cái nóng trong thành Trường An mới dần lui, đi lại trong cung Kiến Chương dường như đã cảm giác thấy hơi thở mùa thu sắp tới. Tất cả các đại quan trong kinh thành đều đang chuẩn bị những việc liên quan tới chuyến bệ hạ tuần du sông Phần. Trong thời gian bệ hạ tuần du cũng là lần đầu tiên Hoàng tử trưởng Lưu Mạch với thân phận thái tử ở lại Trường An giám sát việc nước.
“Không biết”, Mạc Ưu và Mạc Sầu vừa sắp xếp hành trang cho Trần A Kiều vừa nhìn nhau vẻ lo âu, “Thái tử điện hạ có thể làm được không?”
A Kiều đang đọc sách bên cạnh, nghe vậy buồn cười nói, “Có nhiều trọng thần giúp đỡ như vậy thì còn gì có thể sai lầm được đây?” Nàng tin con mình sẽ đủ sáng suốt, không để lộ sơ hở nào cho người khác lợi dụng.
“Nương nương”, Lục Y dẫn theo hai cung nữ vừa mới tiến cung là Ánh Chu và Phiếu Tử từ ngoài rèm bước vào, nói, “Ba cung nữ trước kia của điện Ngọc Đường vừa về quê, theo lệ sẽ giảm một người. Nô tỳ thấy hai người này cũng được nên dẫn về để bổ sung.”
Ánh Chu, Phiếu Tử quỳ gối, bái lạy, “Tham kiến Trần nương nương.”
A Kiều đánh giá hai cô gái còn rất trẻ, thấy một cô dáng vẻ ngây thơ, cô còn lại có dáng vẻ thanh nhã nên đều ưa thích, gật đầu, “Chỗ của ta không có quy tắc gì cả, các ngươi ở thêm ít ngày nữa sẽ biết.” Hai người cung kính dập đầu.
“Nương nương”, Mạc Ưu hầu hạ A Kiều lâu ngày nên biết chủ nhân rất tốt bụng, hỏi, “Nương nương hãy nói cho chúng nô tỳ biết sẽ dẫn ai đi theo trong chuyến bệ hạ tuần du sông Phần lần này?”
Cô vừa hỏi như vậy thì tất cả cung nhân trong điện, thậm chí ngay cả Lục Y cũng đều dỏng tai lên, chỉ có mấy cung nữ vừa gia nhập thì sợ run người, chưa từng nghĩ tới cung nhân trong điện Trường Môn lại có thể nói chuyện với chủ nhân như vậy.
A Kiều buông quyển sách xuống, “Ta dặn các ngươi lúc ra ngoài không cần mang quá nhiều hành lý, đủ là được. Người cũng thế, không cần đi quá nhiều. Như vậy đi, cũng đừng nói ta bất công, cung nữ thì dẫn theo một mới một cũ, nội thị Thành Liệt trầm tĩnh cẩn thận nên ta để hắn hầu hạ Thái tử điện hạ, sau này cứ thế. Ngoài ra chọn một cung nữ khác hầu hạ Công chúa Duyệt Trữ.”
Mọi người đồng thanh ồ lên một tiếng, không chịu, “Như thế chẳng phải khiến cho chúng nô tỳ phải đánh nhau vỡ đầu sao?” Tuy cung Kiến Chương vô cùng hoa lệ nhưng nếu ở quá lâu sẽ rất nhớ không khí bên ngoài.
Đã đến tháng Tám, chuyến đi tuần của thiên tử chuẩn bị suốt mấy tháng cuối cùng đã sẵn sàng. Ngày mùng mười tháng Tám năm Nguyên Đỉnh thứ tư, Lưu Triệt dẫn theo Trần A Kiều, Công chúa Duyệt Trữ và tất cả đại thần tuần du sông Phần, để lại Thái tử Lưu Mạch gần bước sang tuổi mười lăm ở lại đế đô Trường An giám sát việc nước, có thể tự xử lý tất cả chính sự, nếu như có việc lớn thì phải cho khoái mã báo Hoàng đế. Vương tử Kim Nhật Đan từ thân phận phần tử của phủ Thái tử vào triều nhậm chức Quang Lộc đại phu và đệ đệ khác mẹ Hoắc Quang của Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh hiện giờ đã thăng đến chức thái trung đại phu đều đi theo tùy tùng.
“Lần này mới công bằng chứ?” Lưu Sơ nhìn từ long xa ra ngoài thấy những ruộng lúa mạch gợn sóng đến tận chân trời, thỉnh thoảng lại thấy một thôn quê giản dị nhưng tràn đầy sức sống, bỗng buông rèm quay sang đắc ý nói, “Từ trước đến giờ chỉ có mỗi ca ca xuất cung còn con thì ở lại một mình. Lần này cũng đến lượt con xuất cung để ca ca ở lại nội cung.”
A Kiều cốc vào đầu cô mắng yêu, “Con ghen tỵ với cả ca ca sao?”
“Đâu có!” Lưu Sơ cãi, “Con chỉ cảm thấy trong cung buồn chán, đi ra xem đồng ruộng thấy thật thoáng đãng. Huống chi”, cô ngẩng đầu ngắm Lưu Triệt và A Kiều, hài lòng, “phụ hoàng cùng mẫu thân đều ở bên, không thể tốt hơn, thêm cả ca ca nữa là hoàn mỹ.” A Kiều phì cười, liếc thấy ánh mắt Lưu Triệt cũng sáng lên ấm áp.
Lưu Sơ hưng phấn, không chịu ở hành cung đã chuẩn bị trước mà khăng khăng đòi vào ở trong một nhà trọ trông rất sạch đẹp. Lưu Triệt chiều cô nên cũng không phản đối, dùng thân phận thương nhân chọn lấy mấy căn phòng tốt nhất, chỉ khổ mấy thị vệ đi theo phải cải trang.
“Bệ hạ”, Dương Đắc Ý nhăn nhó tiến lên, “Nếu muốn ở đây thì phải bao toàn bộ nhà trọ, nếu không nơi này hỗn tạp khó an toàn.”
Lưu Sơ nghe xong cảm thấy không đúng, vừa muốn lên tiếng, đã thấy mẫu thân quay đầu, cười hỏi lại, “Lấy đâu ra nhiều thích khách như vậy chứ? Nếu bao hết thì chúng ta ra ngoài ở trọ còn có ý nghĩa gì?”
Lưu Triệt chớp lấy cơ hội trêu chọc, “Trẫm chỉ định nói tính Sơ Nhi trẻ con nhưng không ngờ cả Kiều Kiều cũng thế.”
Nàng trừng mắt, “Nếu phu quân đại nhân không muốn ra thì ai động tới người được chứ?”
Y trầm mặc một lát rồi cười phá lên, “Kiều Kiều nói thật hay.”
Chưởng quỹ Tiền Lai của nhà trọ Tường Phúc từ trong bước ra, từ xa đã thấy nhóm người ăn mặc y phục tôn quý, khí độ bất phàm, nhất là người đàn ông ở chính giữa có cặp mắt sắc sảo, không giận mà uy. Lão biết đó là người đứng đầu nên không dám chậm trễ, đích thân ra đón, khom người nói, “Bản điếm là nhà trọ tốt nhất thành Lâm Phần, mấy vị khách quan muốn ở trọ thì xin mời đi theo ta.”
Lão rất tự tin vì bàn ghế đồ đạc trong nhà trọ đều trên mức thông dụng ở các nhà giàu hạng trung của Đại Hán, nhưng khi thấy người đàn ông áo đen vẫn khẽ nhíu mày liền thầm giật mình, biết người này vô cùng giàu sang.
Lưu Triệt nhìn sang thấy A Kiều và Lưu Sơ đang khá hào hứng nên cũng không nói gì, gật đầu, “Ta bao hết toàn bộ số phòng hảo hạng.”
“À”, chưởng quỹ Tiền Lai quá sức vui mừng nhưng vẫn còn do dự nói, “Bản điếm có bảy phòng hảo hạng nhưng một phòng đã có người ở rồi.”
“Thì lấy hết sáu phòng kia vậy”, Trần A Kiều ngẩng đầu, nói chặn ngang ý định đuổi người của Dương Đắc Ý, “Hãy thu dọn ba gian phòng hảo hạng trước đã.” Nàng thăm dò sắc mặt của Lưu Triệt rồi nói tiếp, “Tất cả chăn gối đều phải mới. Không cần lo về chuyện tiền phòng.” Nàng phất tay, tùy tùng đi theo liền móc ra một xâu tiền, nói, “Phàm là đồ ăn mặc và vật dụng đều phải theo tiêu chuẩn tốt nhất, sẽ không thiếu tiền phòng của ngươi.”
Chưởng quỹ Tiền Lai kinh hãi, gập người cung kính, “Ta biết rồi, để ta đi chuẩn bị.”
Tiền trả đầy đủ nên chưởng quỹ cũng hành động rất dứt khoát, rất nhanh đã có tiểu nhị bước tới, “Phòng chữ Thiên số một và số hai đã được thu dọn xong. Xin mời khách quan đi theo tôi.”
Đi xe ngựa suốt cả ngày nên Lưu Sơ đã mệt mỏi, từ nãy đến giờ là cố gắng gượng, lúc này thu xếp xong liền được Mạc Sầu dẫn đến phòng số hai, thoáng chốc đã ngủ say. Trong lòng A Kiều chợt dâng lên niềm hưng phấn, thật giống như cảm giác mỗi lần lén trốn nhà ra ngoài chơi với bạn bè khi nàng còn thơ bé, thứ cảm giác này giờ đây đâu dễ tìm lại được. Nàng tựa vào cửa sổ phòng khách ngắm nhìn đường phố tấp nập phía dưới đang vọng lên những tiếng rao hàng bằng khẩu âm đặc trưng của vùng Sơn Tây.
“Kiều Kiều thích ồn ào như vậy sao?” Lưu Triệt sau khi được cung nữ hầu rửa mặt xong thì nhẹ bước đến gần đứng ở sau lưng nàng.
“Vâng.” Nàng không nhịn được cười nói, “Ở trong cung đã lâu, giờ nghe lại những âm thanh này thì thấy như từ trên mây trở lại trần gian, không thể chân thực hơn được nữa.”
Y ngắm nhìn vẻ mặt hoan hỉ của nàng, “Nhưng trong nhân gian lại không biết có bao nhiêu người ngày đêm mong mỏi có thể tìm được đường dẫn lên trời xanh.”
Nàng bình thản, “Chẳng qua là thấy lạ mà thôi. Bệ hạ thấy mình trị nước bình yên, con dân thái hòa thì mất hứng sao?” Hỏi xong, nàng chăm chú quan sát nét mặt y, cố tìm một nét không vui nhưng lại chỉ thấy toát lên vẻ nhu hòa, “Đã ở bên ngoài thì đừng xưng hô theo nghi lễ trong cung nữa. Kiều Kiều hãy gọi là Triệt Nhi giống như trước đây có hơn không?”
“Thiếp không dám.” Nàng lắc đầu, “Để cho người ngoài nghe thấy gọi tên húy của thánh thượng thì chẳng phải loạn hết sao.”
Trên hành lang bằng gỗ bên ngoài cửa vang lên những tiếng chân bước lẹt xẹt. Tiểu nhị gõ cửa, nói, “Khách quan, mời dùng trà.” Gã bỗng nhiên kêu lên một tiếng kinh hãi.
Dương Đắc Ý biến sắc mặt, liền cùng thị vệ lao vọt ra hỏi, “Có chuyện gì vậy?”
“Không có chuyện gì”, Tiểu nhị bị dọa đến phát sợ, ngập ngừng đáp. Gã tò mò nhìn về hướng bên trong phòng, không biết đôi vợ chồng ở tại phòng số một kia rốt cuộc có thân phận gì. “Chẳng qua là một con cua mà thôi.”
Gã mang nước trà vào trong phòng, đặt lên trên bàn rồi xoay người lại nhặt con cua lên, “Khách quan là người vùng ngoài nên không biết, bờ sông Phần của chúng tôi cứ đến mùa thu là có cua bò ra nên thường xuyên có thể trông thấy.”
Dương Đắc Ý giẫm chân, chỉ là một con cua, cớ gì lại khiến phải ngạc nhiên như thế. Trong gian phòng hảo hạng ở đối diện vang lên tiếng cười rồi đóng cửa lại.
“Ồ!” A Kiều nhìn thấy con cua béo vàng trong tay tiểu nhị thì chợt nảy ra ý, “Tiểu nhị ca, có thể bắt một giỏ cua mang về đây cho ta được không?”
“Bờ sông Phần có nhiều cua nhưng chẳng ai thèm bắt vì không đáng tiền”, Tiểu nhị nghi hoặc nhìn A Kiều và hỏi, “Phu nhân muốn bắt cua làm gì?”
Nàng chỉ cười, “Đến lúc đó thì ngươi sẽ biết.”
Dương Đắc Ý thử độc rồi rót cho Lưu Triệt và A Kiều mỗi người một chén trà, thở dài, “Chủ nhân, phu nhân, thật ra thì trà trong cung ngon hơn trà này nhiều, tội gì phải mất công ra tận bên ngoài như thế này chứ?”
A Kiều nhấp thử một ngụm. Sau khi nàng và Tang Hoằng Dương đưa kỹ thuật chế trà vào kinh doanh thì chỉ trong vài năm, trà sao thủ công đã thế chỗ của loại trà trước đây trên khắp đất nước Đại Hán. Loại trà chưởng quỹ lấy ra chiêu đãi bọn họ đã là cực phẩm trong dân gian. Tuy đối với A Kiều thì vẫn chưa là gì cả nhưng loại thường uống ở nhà thuở nhỏ thì cũng chỉ như vậy mà thôi. A Kiều thầm thở dài một tiếng, tự biết bản thân đã quen với cuộc sống xa hoa lãng phí trong hoàng cung nên ngày càng xa cách cuộc sống trước đây.
Cua ở sông Phần có chút khác với cua của những nhánh sông con còn lại của sông mẹ Trường Giang, thân hình to hơn nhưng chân lại bé hơn, một giỏ chứa được khoảng chừng trăm con. Lúc này đang là cuối tháng Tám theo lịch thời Hán, cua có mùi vị ngon nhất. A Kiều chọn lấy ba, bốn mươi con cua cái còn thả hết cua đực. Nàng mượn phòng bếp của nhà trọ, bóc bỏ mai, chân càng và yếm cua, dùng lửa mạnh nướng chín rồi sắp lên khay.
Các đầu bếp trợn mắt há mồm quan sát, không một ai biết là có thể ăn cua theo cách này. Lưu Sơ đứng bên xem, thấy cua vừa chín tới mùi thơm nức mũi thì không nhịn được đã định ăn vụng một con nhưng nhìn khay cua thì lại không biết ăn như thế nào, đành ngước lên nhìn A Kiều vẻ chờ đợi. A Kiều bật cười, nói, “Thì cứ chấm vào mà ăn thôi.” Nàng lấy gừng, hành và dấm pha với nước dùng, bóc vỏ cua làm mẫu, chấm vào nước chấm rồi đút cho Lưu Sơ.
Lưu Sơ ăn thử, cảm thấy miếng thịt cua trong miệng vô cùng non mềm thì cực kỳ thích thú, thốt lên khen, “Ngon quá!”
“Phu nhân”, Dương Đắc Ý phụng lệnh Lưu Triệt tới tìm A Kiều, thấy hai mẹ con nàng đang ăn cua trong bếp thì vội giục, “Chủ nhân đợi lâu rồi.”
Lưu Sơ trừng mắt nhìn, chợt nhớ rằng phụ hoàng còn đang đợi ở ngoài đại đường liền cúi đầu có vẻ áy náy. A Kiều dỗ dành, “Chúng ta quay lên nào.”
Cua rất ngon nhưng Lưu Triệt thấy vẫn nguyên hình nên chỉ dám lấy đũa lật qua lật lại, hỏi giọng nghi ngờ, “Thứ này có thể ăn được thật sao?”
Những người khác trên đại đường cũng đều ngửi thấy mùi thơm, nhưng vẫn không nghĩ rằng những con cua thường ngày nhìn thấy khắp nơi trong thành lại có thể nướng lên ăn được nên cùng lắng tai nghe đáp án.
“Người có thể không ăn cũng được”, A Kiều thản nhiên đáp rồi túm lấy tay Lưu Sơ nói, “Cua tính hàn, sức khỏe Tảo Tảo không tốt nên không được ăn nhiều.”
“Con không chịu”, Lưu Sơ chu môi, “Ăn ngon vậy mà.”
Lưu Triệt biết rằng con gái được mẹ nuôi dưỡng từ thuở nhỏ nên rất kén ăn, không khỏi động lòng hiếu kỳ, ra dấu bảo Dương Đắc Ý gỡ cho một con cua. Y nghe thấy A Kiều cười phì một tiếng nhưng vẫn học nàng chấm nước chấm, vừa nếm thử một miếng liền nhướng mày, quả nhiên là ngon vô cùng.
“Được rồi”, A Kiều nói, “Con chỉ được ăn thêm một con nữa, nhiều hơn là không được.”
“Ứ”. Lưu Sơ khẽ làu bàu, “Mẫu thân làm nhiều như vậy để làm gì? Chẳng lẽ người và phụ… phụ thân đại nhân ăn hết cả hay sao?”
A Kiều hơi gắt, “Mẫu thân có mang cho người khác cũng không để con ăn thêm nữa.”
“Dương Tam”, nàng xoay người lại gọi.
“Phu nhân”, Dương Đắc Ý khom lưng đáp.
“Cua còn dư, ngươi và những người cùng đi mỗi người một con, còn lại thì mang mời mỗi bàn một con. Phải rồi”, nàng nhìn lên căn phòng hảo hạng trên lầu hai, nói, “Mang một con đến mời vị tiên sinh trên phòng hảo hạng kia nữa.” Dương Đắc Ý khom người vâng dạ, chỉ mỗi mình Lưu Sơ giận dỗi quay lưng.
Mọi người tạ ơn, thận trọng nếm thử theo cách vừa chứng kiến rồi lộ ra vẻ mặt mừng rỡ đến kinh ngạc. Căn phòng hảo hạng trên lầu hai không mở cửa, chỉ vang lên tiếng đàn tựa như thay lời chào hỏi.Quyển 4 - Chương 74: Đêm xuống khung trời như nước biếc[1][1] Câu thơ thứ ba trong bài thơ Thu tịch của Đỗ Mục.
Đến tối, chưởng quỹ Tiền Lai tới cầu kiến, “Phu nhân, đầu bếp của bản điếm đã thấy cách người nấu cua, tự thấy cũng có thể làm được. Chỉ không biết…?”
Nàng mỉm cười, nghe giọng điệu cũng đoán được ý của ông ta, “Mặc dù nhà ta cũng có một tửu lâu nhưng ở cách đây khá xa, chưởng quỹ muốn dùng cách này cũng không sao.”
Tiền Lai cực kỳ vui mừng, “Nếu như thế thì xin đa tạ phu nhân. Để báo đáp lòng khảng khái của phu nhân, chi tiêu của cả gia đình phu nhân cứ để bản điếm…”
“Phu quân nhà ta yêu cầu vật dụng rất cao”, A Kiều điềm nhiên nói, “Mặc dù nấu cua cho lợi nhuận khả quan nhưng trong thời gian ngắn cũng khó có thể bù đắp nổi nên không làm khó dễ chưởng quỹ. Chỉ xin chưởng quỹ quan tâm đến chúng ta nhiều hơn là được rồi.”
Tiền Lai nhớ rằng người nhà này xa hoa lãng phí, lúng túng cười đáp, “Điều đó thì tất nhiên rồi.”
“Như vậy”, nàng cười khẽ, “Xin phiền chưởng quỹ đưa ba thùng nước tắm mới đến đây cho chúng ta.”
Lưu Triệt ở phòng bên tắm rửa xong đi ra ngoài thì thấy A Kiều đã xong trước, mái tóc còn chưa khô vương trên má trông hết sức quyến rũ. Nàng đang ngồi ở mép giường, tay ôm đàn tỳ bà.
“Kiều Kiều muốn đánh đàn sao?”
“Đúng vậy.” Nàng nhìn sang, “Bệ hạ cũng đã lâu không thổi địch rồi, chi bằng thổi một khúc hòa tấu với A Kiều nhé.”
Lưu Triệt không trả lời, vẫy tay bảo mang địch tới, thử âm rồi nói, “Thổi bài gì đây?”
A Kiều thuận miệng đáp, “Người nói đi.”
Y suy nghĩ một chút rồi đề nghị, “Phong nhập tùng nhé.”
A Kiều cúi xuống, gảy dây tấu nhẹ cung đàn. Nàng nghe tiếng địch ở bên cạnh uyển chuyển, lúc đầu hơi cứng nhắc nhưng dần thuần thục. Rõ ràng là một khúc vui tươi nhưng y thổi lên thì luôn mang theo khí phách.
Phòng đối diện cũng có tiếng địch vang lên, so với của Lưu Triệt thì kém về khí khái nhưng lại hơn về thuần thục, rất hợp với ý nghĩa của bản thân khúc nhạc.
Lưu Triệt để địch xuống, ôm lấy nàng khẽ nói, “Kiều Kiều thất thần mất rồi.”
“À.” Nàng tỉnh lại, hỏi, “Người tra xét thân phận người đối diện chưa?”
“Chẳng qua là một nhân sĩ về nhà chịu tang mà thôi.” Y không quan tâm lắm, định thân mật nhưng nàng cười né tránh, “Đừng, còn chưa uống thuốc.”
Đi tuần thú bên ngoài, lại ở phòng trọ nên lịch trình hơi rối loạn. Lưu Triệt than một tiếng, sai người mang thuốc tới rồi nhìn A Kiều nhíu mày nhăn nhó uống thuốc. Vì không phải ở trong cung, lại không biết gì về người sát vách nên phải kiềm chế không ít. Nhưng cũng vì không phải ở trong cung đình hoa lệ đầy áp lực không thở nổi nên A Kiều ít nhiều cảm thấy nhẹ nhõm. Nàng nhắm mắt hồi lâu, vẫn không cảm thấy buồn ngủ, khẽ gọi, “Bệ hạ!” Người đàn ông bên cạnh vẫn thở đều đều, không trả lời nàng.
Nàng mở mắt, ánh trăng soi tỏ chiếc màn tơ trên đỉnh đầu. Chiếc màn mới trắng như tuyết, không được rộng rãi tinh xảo như ở trong cung nhưng lại khiến nàng càng cảm thấy thân thiết. Đã lâu như vậy nhưng nàng vẫn còn thích nhưng đồ vật giản dị trong sáng. Nếu có thể mãi mãi được sống cuộc đời bình lặng hôm nay, không phải chứng kiến những cảnh phân tranh khốc liệt thì tốt biết nhường nào. Nhưng người đang ở bên cạnh nàng là ai chứ?
Nàng khẽ liếc mắt nhìn y, đôi môi chợt thì thầm tên một người khác nhưng lại không bật ra, một người vừa gần gũi vừa xa lạ.
Đuôi tóc vẫn còn ấm chưa khô, một trận gió nhẹ lùa qua cửa sổ khiến chiếc rèm dịu dàng lay động.
Lưu Triệt ngủ đến nửa đêm, cảm giác trước ngực nóng rực, tỉnh dậy, gọi: “Kiều Kiều, Kiều Kiều!” A Kiều nằm trong vòng tay y khẽ đáp lời nhưng vẫn không mở mắt. Y vội vàng đưa tay sờ thử trán nàng, thấy nóng hầm hập thì hoảng hốt gọi, “Người đâu!”
“Chủ nhân”, nội thị Tiểu Dung tiến vào, thắp đèn dầu lên, nghe thấy giọng Lưu Triệt có vẻ lo lắng liền hỏi, “có chuyện gì vậy?”
Ngọn đèn dầu soi sáng gian phòng. Lưu Triệt nhìn rõ được mới biết A Kiều đang sốt cao, mặt mày tái nhợt nhưng vùng cổ lại đỏ thẫm. Cho dù không hiểu về y học, y cũng biết sốt cao đến mức độ này là cực kỳ nguy hiểm, nghiêm mặt sai bảo, “Ngươi đánh thức mọi người dậy, đi mời các đại phu ở gần tới đây. Những người khác về hành cung, gọi toàn bộ ngự y đi theo có mặt.”
Rất nhanh, cả nhà trọ thắp đèn sáng rực, người người mặt mũi nặng nề đi qua đi lại khắp hành lang. Dương Đắc Ý đánh thức chưởng quỹ nhà trọ đang ngủ say sưa, hỏi kỹ chỗ ở của đại phu gần nhất rồi lập tức cử người đi mời. Lão đại phu đáng thương vừa bị mời tới còn chưa kịp hết kinh hãi, trông thấy A Kiều nằm trên giường giật mình kêu lên một tiếng, không kịp tức giận mà vội vàng bắt mạch, cặp mày nhíu chặt. Lưu Triệt đã hơi có vẻ lo lắng, nhìn thấy sắc mặt lão đại phu như thế liền trầm giọng hỏi, “Bệnh tình nội tử thế nào?”
“Thứ cho lão phu nói thẳng.” Lão đại phu vuốt vuốt chòm râu, nói: “Tôn phu nhân vốn sức khỏe đã yếu, chắc rằng từ trước đã từng không chỉ một lần bị tổn thương nặng nề phải không?”
Lưu Triệt nhớ từ chuyện A Kiều đã từng bị đao chém cho tới hai lần sinh đẻ thì sầm mặt gật đầu.
“Chính là thế đó. Phu nhân đã bị thương tới căn cốt, lần này lại bị lạnh nên gió độc thừa dịp cơ thể trống rỗng xâm nhập vào, phát bệnh hết sức nặng nề, không thể tránh được.” Đại phu cân nhắc rồi bảo: “Ta kê phương thuốc, cho phu nhân uống ngay lập tức thì mới có thể giải bệnh. Có điều cần kiêng kỵ, phải tĩnh dưỡng không thể đi đường được nữa.”
“Chuyện này”, Lưu Triệt nghĩ tới hành trình tuần thú phương đông liền nhíu mày, chợt nghe Dương Đắc Ý ở ngoài cửa bẩm báo, “Chủ nhân, đại phu nhà ta đã tới.” Hắn cũng khá cơ trí, đến thời điểm then chốt vẫn nhớ tới việc không thể tiết lộ thân phận. Lão đại phu hơi nhếch bộ râu dài, vẻ không hài lòng. Điều tối kỵ của những người làm đại phu là bệnh nhân không tin y thuật của mình, ra khỏi cửa còn tìm người khác điều trị. Chỉ là ông ta cũng thầm kinh hãi, không biết người đàn ông áo đen này có thân phận gì mà ở giữa nơi đất khách quê người vẫn có thể lập tức gọi đại phu trong nhà đến. Ông ta nhớ tới việc bệ hạ tuần thú phương đông đang ở trong hành cung Lâm Phần, sáng suốt cúi đầu im lặng.
Lưu Triệt cũng không chú ý tới điều này, quay đầu ra lệnh, “Trước hết cứ sắc thuốc theo đơn này. Các ngươi”, y chỉ vào những ngự y vừa mới chạy tới, nói: “Bắt mạch cho phu nhân đã, sau rồi bàn phương thuốc. Nếu có nửa điểm lầm lỗi thì sẽ hỏi các ngươi đó.”
Tiểu Dung tiễn vị đại phu kia ra cửa, nhắc nhở, “Phương đại phu, chuyện hôm nay của chủ nhân cùng phu nhân nhà tôi, nếu ông nói ra nửa câu…”, hắn bỏ dở câu nói giữa chừng.
Đại phu đã sống đến tuổi này nên dĩ nhiên biết phải làm gì, vội nói, “Hôm nay ta gối cao ngủ kỹ ở trong nhà, chưa từng đến khám bệnh?”
Tiểu Dung rút ra một xâu tiền lớn, nói: “Đây là tiền chẩn bệnh, ông về đi.” Phương đại phu ra khỏi cửa, quay đầu lại thoáng nhìn nhà trọ Tường Phúc đèn đuốc sáng trưng, lau mồ hôi lạnh, bước đi một mạch.
Các ngự y chẩn đoán cơ bản cũng giống như Phương đại phu, suy tính tăng giảm một chút liều lượng trong phương thuốc của Phương đại phu, song Trần A Kiều nằm trên giường vẫn nóng hầm hập, đành phải cho uống thuốc đã sắc từ lúc trước. Cũng may, mặc dù A Kiều sốt đến mê man nhưng vẫn còn uống được thuốc mà không tốn quá nhiều sức lực. Lưu Triệt chờ giây lát rồi thử xem nhiệt độ thân thể A Kiều, thấy vẫn còn nóng rực, tức giận hỏi, “Tại sao vẫn chưa hạ nhiệt?”
Đám ngự y sợ hãi, run như cầy sấy, viên ngự y đứng đầu ấp úng đáp: “Để dược tính phát huy tác dụng cũng phải chờ mấy canh giờ.”
Chuyện lớn như vậy tất nhiên làm Lưu Sơ tỉnh giấc, mặc vội quần áo, đến đứng trước giường mẫu thân. Cô tỏ vẻ sợ hãi, nhìn Lưu Triệt ngập ngừng hỏi: “Phụ thân, mẫu thân không làm sao chứ?”
“Chắc là ban chiều vẫn chưa gội đầu nên giờ lại toát mồ hôi”, Lưu Triệt nghĩ vậy, ngắm nhìn Lưu Sơ rồi ôn tồn bảo, “Sơ Nhi, con về ngủ trước đi, mẫu thân ngày mai là khỏe thôi.”
“Con…” Lưu Sơ theo trực giác, không chịu nghe lời. Mạc Sầu đứng bên thấy sắc mặt Lưu Triệt sa sầm, vội kéo cô ra. Nếu bệ hạ nổi giận, cho dù thường ngày vẫn sủng ái Lưu Sơ nhất, thì cũng khó bảo đảm dưới cơn thịnh nộ sẽ như thế nào.
Đến giữa giờ Sửu lại cho uống thuốc lần nữa thì Trần A Kiều cuối cùng cũng hạ sốt, sờ tay vào da thịt cũng không còn nóng lắm. Các ngự y thở phào một hơi nhìn bệ hạ phất tay bảo bọn họ lui ra.
“A Kiều”, Lưu Triệt nhìn A Kiều đắm chìm trong giấc ngủ sâu, thở dài nói: “Trẫm phải làm gì cho nàng đây?”
Trên giường, Trần A Kiều khẽ rên lên một tiếng, hơi mở mắt ra. Lưu Triệt vội vàng ôm lấy nàng, hỏi, “Nàng nói gì vậy?”
A Kiều ở trong ngực y khẽ lẩm nhẩm, mơ màng nhìn y.
Ánh mắt Lưu Triệt sáng lên, nghe rõ ràng câu nàng gọi là “Triệt.”
Từ năm Nguyên Sóc thứ sáu, sau khi Trần A Kiều trở về cung Trường Môn gặp lại y vẫn chưa bao giờ chủ động gọi là Triệt. “Kiều Kiều”, y khẽ ôm lấy nàng, giọng ấm áp, ánh mắt hơi có vẻ suy tư: “Năm xưa khi Cú Dung hầu từ biệt trước thềm rồng, nàng đích thân đưa tiễn, lúc quay lại rất là cảm khái.”
“Cú Dung hầu?” Một lúc sau A Kiều mới có phản ứng, “Là Lưu Đường.” Nàng nhắm mắt lại, cảm thấy miệng đắng lưỡi khô, khẽ gọi, “Nước.”
Lưu Triệt nhỏm dậy định gọi Lục Y mang trà vào, không ngờ người nằm trong lòng lại níu tay kéo áo, lo lắng nói: “Triệt Nhi, ở đây với thiếp, đừng bỏ đi.” Y hơi kinh ngạc, an ủi, “Được rồi, ta sẽ không đi.” Y nghĩ tới vẻ kinh hoàng, lệ thuộc, u oán trong đáy mắt nàng, liền cất tiếng gọi, “Dương Đắc Ý, mang nước vào đây.”
A Kiều uống nước xong lại chìm vào giấc ngủ, nhờ thế mà toát mồ hôi, đỡ hơn khá nhiều. Khi mặt trời đứng bóng, nàng mới tỉnh dậy, lúc này đã thật sự tỉnh táo. Nàng nghe tiếng Dương Đắc Ý ở phòng kế ngoài thấp giọng bẩm, “Bệ hạ, nương nương bị bệnh, mà chuyến tuần thú phương đông lại cấp bách, phải làm thế nào đây?”
Lưu Triệt trầm mặc một lát rồi đáp, “Đợi thêm một ngày nữa xem sao.” Nàng nhắm mắt lại, gọi: “Bệ hạ.”
Lưu Triệt bước vào khiến sàn nhà bằng gỗ vang lên tiếng cót két, y thấy nàng đã tỉnh lại thì vẻ mặt rất dịu dàng, cười nói: “Kiều Kiều.”
Nàng suy nghĩ một chút, nói: “Đêm qua A Kiều sốt cao ngủ mê man không biết làm thế nào. Hôm nay đã hồi tỉnh, muốn được tĩnh dưỡng đôi chút. Tạm thời cũng chưa thể trở về Trường An, còn đi tuần thú phương đông thì vất vả. Bệ hạ là quân chủ một nước, chuyến đi tuần thú phương đông tế tự thần linh thổ địa lần này đã được quyết định lâu rồi, không thể thay đổi được.”
Lưu Triệt lo lắng ngắm nhìn gương mặt nàng. Nếu như nói A Kiều bây giờ là A Kiều của khi hồi cung năm Nguyên Sóc thứ sáu: thông minh, lý trí, tỉnh táo, vậy thì A Kiều nửa mê nửa tỉnh đêm hôm qua lại càng giống với A Kiều trước khi bị trục xuất hồi năm Nguyên Quang thứ năm mà y vẫn còn nhớ: cố chấp, bất an, mê muội níu giữ tình cảm, không chịu buông tay.
“Đêm hôm qua”, y thăm dò, song thấy ánh mắt nàng yên tĩnh, không bộc lộ điều gì, liền than thầm một tiếng rồi bỏ lửng không hỏi nữa. Thực ra, A Kiều biểu hiện cuồng si phụ thuộc hay tĩnh lạnh ơ hờ, rốt cuộc loại nào nặng hơn ở trong lòng y thì ngay cả bản thân y cũng không biết được rõ ràng.
Lưu Sơ hẩy hẩy tay, ý muốn được ở lại cùng mẫu thân nhưng lại bị A Kiều đẩy sang cho Lưu Triệt, nói: “Mẫu thân còn đang phải tĩnh dưỡng, làm thế nào có thể phân tâm chăm sóc cho con được. Con hãy tiếp tục tuần thú phương đông cùng phụ hoàng, kẻo sau này lại nói mẫu thân không công bình, chỉ cho ca ca ra ngoài mà cứ giữ rịt con ở trong cung.”
Đến chiều tối, Trung lang lệnh Thượng Quan Kiệt đến bẩm báo, “Bệ hạ, đã chuẩn bị xong ngựa xe và nghi trượng để tiếp tục đi tuần phía đông. Sáng sớm mai có thể lên đường.”
Lưu Triệt khẽ đáp một tiếng, lại hỏi, “Kiều Kiều, hay là nàng hãy đến ở tại hành cung, trẫm cũng yên tâm hơn.”
A Kiều lắc đầu đáp, “Dù là phải tĩnh dưỡng, nhưng đã xuất ngoại mà còn phải ở trong hành cung thì còn có ý nghĩa gì nữa.” Nàng sợ Lưu Triệt không đáp ứng, vội tiếp, “Được rồi, thiếp tự biết lo cho bản thân. Dù sao thiếp cũng không muốn cứ phải nằm mãi trên giường đâu.”
Lưu Triệt bật cười, biết A Kiều từ lâu đã không còn là một thiếu nữ chỉ ở khuê phòng không biết thế sự thời Nguyên Quang trước đây, giờ lại mới khỏi bệnh nên không đành lòng làm trái ý nàng, xoay người bảo Thượng Quan Kiệt: “Điều một đội thị vệ tinh nhuệ ở lại bảo vệ Trần nương nương.”
Thượng Quan Kiệt lớn tiếng vâng dạ, lại chắp tay làm lễ về hướng Trần nương nương ở trong phòng: “Vi thần vốn là người Lâm Phần, nếu nương nương muốn ở lại chỗ này tĩnh dưỡng, trong gia tộc thần còn có hai muội muội, mặc dù tuổi còn trẻ nhưng có thể hầu hạ, làm người dẫn dường cho nương nương.”
“Nếu như thế”, Lưu Triệt suy nghĩ, có hai thiếu nữ thông thạo tình hình địa phương bầu bạn với A Kiều thì nàng cũng sẽ được thảnh thơi hơn, liền nói, “Ngươi bảo bọn họ đến nhà trọ gặp Trần nương nương.” Thượng Quan Kiệt lại ứng tiếng vâng dạ.
Trần A Kiều cười hỏi: “Đại nhân là…?”
“Vi thần là Thượng Quan Kiệt”, hắn trả lời đúng theo khuôn phép, “Hai muội muội của thần, một người có tên chỉ một chữ là Vân, một người có tên chỉ một chữ là Linh.”
Dương Đắc Ý đích thân tiễn Thượng Quan Kiệt ra ngoài, tươi cười nói: “Thượng Quan đại nhân quả nhiên là cao minh.”
Thượng Quan Kiệt chỉ khẽ mỉm cười, cung kính nói, “Dương tổng quản quá khen rồi. Tổng quản cả ngày hầu hạ ở trước ngự tiền, nếu có thể nói tốt về Quan Kiệt đôi câu ba lời thì Quan Kiệt cảm kích khôn cùng.”
“Tất nhiên rồi”, Dương Đắc Ý vẫn tươi cười, “Chỉ cần hai muội muội của ngươi chịu tranh đấu”, hắn nói đầy ẩn ý.
Đương kim Thái tử bây giờ tròn mười lăm tuổi, đã có thể thành gia lập thất. Hai năm trước, trong kinh thành từng có lời đồn đại là bệ hạ dự tính chọn vợ cho Thái tử, mặc dù sau đó đánh trống bỏ dùi nhưng đám quyền quý cao thấp ở thành Trường An có con gái vừa độ tuổi đều ngầm tính toán. Một khi được làm bên ngoại của Thái tử, sau này còn có thể làm hoàng hậu của đất nước thì vô cùng vinh quang. Nhưng Thái tử có tính tình lạnh nhạt, chưa từng nghe nói đến chuyện lả lơi ong bướm với bất kỳ người con gái nào. Dưới tình huống như vậy, bắt đầu tấn công từ mẫu thân Trần nương nương của Thái tử rõ ràng là lựa chọn tốt nhất. Dù sao người đời cũng biết Thái tử là người con chí hiếu, được Trần nương nương yêu thương, tất nhiên có thể ảnh hưởng ở mức độ cực lớn đến lựa chọn của Thái tử điện hạ.
Dương Đắc Ý đứng trước hiên nhà nhìn bóng dáng Thượng Quan Kiệt đĩnh đạc rời đi, ánh mắt hơi tối lại. Thượng Quan Kiệt đúng thật là một kẻ có tâm cơ, nắm bắt cơ hội rất tốt. Trần nương nương lâm bệnh ở lại Lâm Phần, hắn lập tức tiến cử hai muội muội đến bên cạnh Trần nương nương. Chỉ cần hai cô gái nhà Thượng Quan có thể khiến Trần nương nương vui lòng, cho dù không thể với đến được Thái tử thì cũng sẽ trợ giúp không nhỏ đối với con đường làm quan của Thượng Quan Kiệt. Tuy hắn bây giờ là đệ nhất tổng quản nội thị, rất được bệ hạ tin dùng ân sủng. Bệ hạ còn đang phong độ nhưng con thỏ còn biết đào cho mình ba hang, làm người há có thể không lưu cho mình một đường lui?
Lưu Triệt ôm A Kiều vỗ về thêm một đêm, sáng sớm ngày hôm sau thì xe ngựa đã đến trước cửa nhà trọ nên y đành phải rời đi. A Kiều gượng dậy, đứng trước cửa nhà trọ đưa tiễn. Lưu Sơ kéo áo nàng lưu luyến không rời nhưng cuối cùng nén lòng nói: “Mẫu thân yên tâm, con nhất định giúp người canh chừng phụ thân, không để người con gái nào khác tới gần.” Cũng không biết là cô vô tình hay cố ý mà giọng nói chỉ đủ để Lưu Triệt đứng phía sau nghe thấy. A Kiều lúng túng, giả vờ cả giận quát: “Trẻ con biết gì!” Nàng ngẩng đầu thấy khuôn mặt vốn lạnh lẽo của Lưu Triệt thoáng có nét cười, lại càng luống cuống.
“Kiều Kiều”, Lưu Triệt nhẹ giọng dặn dò, “Nàng ở lại thành Lâm Phần một thời gian, đợi… Ta từ Hà Đông trở lại sẽ đón nàng cùng quay về kinh.” Y nói xong liền bước thẳng lên xe, nô tỳ đứng dưới trông thấy sắc mặt của y liền vội vàng đưa Lưu Sơ lên.
Xe lăn bánh lóc cóc, Lưu Triệt vén mành nhìn lại phía sau. Ở đằng xa, A Kiều vẫn cúi đầu lặng lẽ đứng trước cửa, không biết đang nghĩ gì. Gió thu thổi tà áo nàng bay lất phất làm lộ ra dáng vẻ yếu ớt, mỏng manh. Trong chớp mắt, xe đã mất hút qua góc phố. A Kiều nghe trong lòng như có tiếng đàn ngân lên rồi vụt tắt, thảng thốt không biết là mình nhẹ nhõm hay buồn bã.Quyển 4 - Chương 75: Gà gáy giục về chốn ruộng vườnNàng đứng thật lâu trong gió sớm mãi đến khi Lục Y lo lắng bước đến nói: “Phu nhân, người mới vừa khỏi bệnh không nên ra gió, vào nhà đi thôi.” A Kiều chậm rãi gật đầu, quay vào, bảo, “Mời giúp ta chưởng quỹ đến đây.”
Tiền Lai quan sát cách xử sự của bọn họ suốt một ngày một đêm thì biết chắc chắn thuộc giới quyền quý. Hiện giờ đương kim Hoàng thượng đi tuần thú phương đông, lão suy đoán bọn họ là con cháu của một thế gia chư hầu nào đó nhưng không ngờ được rằng, người đàn ông mặc đồ đen khiến cho lão không dám nhìn thẳng hôm qua lại chính là đương kim Hoàng thượng.
“Phu nhân có gì dặn bảo sao?” Lão cung kính hỏi. “Cũng không có gì”, A Kiều đáp: “Đêm qua ta mệt mỏi quá nên đã làm phiền chưởng quỹ.”
“Chuyện này không có gì.” Tiền Lai không dám nghĩ thêm, khiêm nhường trả lời.
“Người cũng biết rằng ta không được khỏe nên phải ở lại thành Lâm Phần tĩnh dưỡng”, A Kiều uống một hớp trà nóng rồi nói tiếp: “Ở trọ mãi không phải là biện pháp tốt nên muốn mua một căn nhà. Chưởng quỹ thông thạo thành Lâm Phần nên ta mời người tới tính giùm.”
“Không có gì”, Tiền Lai phấn khởi: “Nói đến phòng ốc tốt nhất trong thành Lâm Phần thì phải là ở trung tâm thành…”
A Kiều xua tay: “Tính ta không thích xa hoa.” Nàng thấy bộ dạng ngờ vực của Tiền Lai thì khẽ mỉm cười: “Hôm qua là bởi vì phu quân ta…” Nàng không nói hết câu đã chuyển ý, “Ta không thích ở lâu trong thành, chỉ muốn tìm căn nhà nào đó lớn một chút ở ngoại ô không quá gần cũng không quá xa thành.”
“Dĩ nhiên”, nàng khẽ mỉm cười, “giá cả không là vấn đề.”
“Phu nhân”, Mạc Thất nhìn nàng vẻ không hài lòng, “Nếu chủ nhân biết người làm loạn lên như vậy thì sẽ phật ý đấy.”
Nàng thản nhiên đáp, “Đừng để người biết là được.”
“À”, Tiền Lai trầm ngâm một lúc lâu rồi nói: “Phía đông thành có một biệt viện của nhà họ Vương. Họ là một nhà giàu bị sa sút, chắc sẽ sẵn lòng bán.”
A Kiều không kiên nhẫn nghe thêm, xoay người bảo, “Thành Tục, ngươi đi xem xem, nếu vừa ý thì mua lại.”
“Nhưng phải nhớ kỹ”, nàng hơi mím môi, “Ta đã nói không thích xa hoa là không thích xa hoa.”
Thành Tục cẩn trọng, nói: “Nô tài biết rồi.”
Xế chiều, tiểu nhị đến bẩm báo rằng có hai cô nương họ Thượng Quan xin gặp, đang chờ bên dưới. A Kiều liền nói, “Mời bọn họ vào đi.”
Hai thiếu nữ chừng mười ba mười bốn tuổi đẩy cửa bước vào. Thiếu nữ đứng trước mặc y phục màu đỏ tươi, vóc người cao dong dỏng trông rất xinh đẹp, thiếu nữ đứng sau mặc y phục màu xanh nhạt, dung nhan hơi kém hơn nhưng khi mỉm cười trông rất duyên dáng. Cả hai đợi tiểu nhị đẩy cửa ra ngoài rồi mới chỉnh đốn trang phục quỳ lạy, khép nép chào: “Tiểu nữ Thượng Quan Vân, Thượng Quan Linh tham kiến nương nương!”
“Được rồi.” Hai thiếu nữ còn trẻ như vậy nên Trần A Kiều tự thấy không cần phải lên mặt làm gì, hòa nhã nói, “Ở bên ngoài thì gọi ta là phu nhân.” Nàng trông thấy hai người có vẻ mệt mỏi thì bỗng bật cười, “Hai người từ xa tới nên chắc mệt rồi, đi nghỉ ngơi trước đi.”
Thượng Quan Vân ngạc nhiên, còn Thượng Quan Linh ở phía sau thì lại đỏ bừng mặt, kéo tỷ tỷ dập đầu nói: “Đa tạ phu nhân.”
Lục Y đợi hai cô lui ra xong rồi mới nói, “Hành vi của hai vị cô nương họ Thượng Quan có phân biệt cao thấp.”
“Từ trước đến nay, thế gia đại tộc vẫn luôn coi trọng ngôi thứ.” A Kiều không quan tâm lắm, chỉ nói, “Được cưng chiều hay không thì cứ nhìn cách đối nhân xử thế là biết ngay.”
Mạc Thất vén rèm đi vào, mau mắn nói tiếp, “Phu nhân đoán đúng. Nô tài đã sai người hỏi tên phu xe đưa hai tỷ muội đến đây. Thượng Quan Vân và Thượng Quan Kiệt đại nhân đều là con vợ cả, Thượng Quan Linh là con vợ lẽ. Phủ Thượng Quan bây giờ do Thượng Quan Kiệt quản lý nên tất nhiên thân sơ có khác.”
“Chắc là vậy rồi”, A Kiều thở dài, “Thượng Quan Vân có khí độ đại gia, còn muội muội của cô ấy thì biết ý hơn.”
Hai hôm sau, Thành Tục báo rằng đã mua được tòa nhà ở phía đông thành. A Kiều sai người tới cửa hàng tính tiền, đang định xuống lầu thì thấy phu nhân của chưởng quỹ đứng ở trước cửa, vẻ mặt kính cẩn nhưng lại lúng túng. Nàng mỉm cười hỏi: “Có việc gì thế?”
“Được phu nhân chiếu cố truyền cho cách nấu cua”, Tiền phu nhân cười ngượng ngùng, “Nhưng nhà bếp nấu thử thế nào cũng không có được mùi vị mà phu nhân đã làm hôm trước. Ta biết phu nhân tôn quý nhưng bất đắc dĩ lắm mới phải xin thỉnh giáo.”
“Phu nhân nhà ta có thân phận thế nào”, Thượng Quan Vân từ trong phòng đi ra, mặc bộ y phục màu vàng nhạt càng tôn thêm vẻ kiêu ngạo, liếc xéo: “mà để cho các ngươi hỏi mấy chuyện vặt vãnh này?”
“A Vân”, Trần A Kiều nhẹ nhàng nhắc nhở rồi mỉm cười nói với Tiền phu nhân đang tái mặt: “Nấu cua cũng phải có cách, chắc hôm trước bọn họ xem chưa kỹ.” Nàng nói rõ lại một lần nữa cách thức và những điểm cần tránh khi nấu cua. Tiền phu nhân liên tục cảm ơn, thật lòng nói, “Phu nhân, người vô cùng cao quý mà lại tốt bụng hiếm có, nhất định sẽ gặp lành.” Bà nói xong liền tiễn bọn họ đến tận ngoài cửa. Lúc lên xe, A Kiều liếc thấy Thượng Quan Vân vẫn còn có vẻ hơi ấm ức thì buồn cười thở dài, rốt cuộc cô vẫn là một bông hoa trồng trong nhà, không hiểu chuyện đời.
Tỷ muội Thượng Quan Vân là gia quyến nhà quan nên có xe riêng đi sau Trần nương nương. Vừa lên xe, Thượng Quan Vân đã oán trách, “Ta nói sai sao, đáng ra không nên nói nửa câu với đám dân thường kia.” May mắn là cô còn nhớ hạ thấp giọng để chỉ một mình muội muội nghe được.
“Tỷ tỷ”, Thượng Quan Linh cười khẽ, tiếng cười trong trẻo như dòng suối róc rách, dịu dàng nói: “Người là Trần nương nương, dĩ nhiên chúng ta phải theo tính của người.”
Đến biệt viện ở phía đông thành, Thượng Quan Vân khoác tay muội muội xuống xe, hơi chau mày thầm nghĩ nhà họ Vương này đúng là đã suy tàn. Phòng ốc tuy lớn nhưng không xa hoa tinh xảo, bố trí trong viện cũng không phải là giả sơn lầu các mà chỉ trồng cây cối, thua xa phủ đệ của các cô ở Trường An. Trần nương nương lại ra vẻ yêu thích, lên giọng khen, “Không tệ.” Thành Tục ở bên an phận, bước lên phía trước, nói, “Nô tài biết phu nhân thích nhất là hoa cúc, dưới cửa sổ phòng chính vừa lúc có một bụi hoa cúc đang nở. Nô tài trông thấy liền nghĩ phu nhân nhất định sẽ vừa lòng nên không do dự mua ngay.”
Bên ngoài biệt viện là nhà dân bình thường, giờ đã gần trưa nên khói bếp không ngừng bốc lên, thỉnh thoảng có tiếng gà gáy chó sủa, thê tử gọi trượng phu, tỷ tỷ hò đệ đệ. A Kiều lắng nghe một hồi như quên mất thân phận cung phi mà xem mình như Đào Uyên Minh quy ẩn điền viên, hào hứng hỏi: “Chung quanh đây có chỗ nào bán thường phục không?”
“À”, Thành Tục suy nghĩ một chút rồi nói: “Cuối hẻm có một nhà nhưng chỉ bán cho làng giếng nên không được sang trọng lắm. Nếu phu nhân muốn thêm quần áo thì chờ ngày mai vào thành.”
“Với số y phục của ta, hiện có còn mua thêm gì nữa”, A Kiều lắc đầu, “Đến đó xem thế nào.”
Bà chủ Cố tam nương của hiệu may thấy phong thái của cô gái tiến vào liền mỉm cười đi ra ngoài đón và chào hàng: “Phu nhân, y phục của ta tốt nhất khu vực này, toàn là hàng tơ lụa, may từ gấm Tứ Xuyên đấy.”
A Kiều lắc đầu, mở to mắt, nói: “Ta chỉ muốn mua y phục bình thường, không cần loại quá đắt.”
Cố tam nương giật mình, cặp mắt người đối diện quả thật xinh đẹp, trầm tĩnh thanh tú như làn sóng trên mặt hồ xanh biếc. Thượng Quan Vân không nhịn được, lên tiếng, “Phu nhân, cần gì mua loại y phục này, người có phải là nhà nông đâu.” Câu cuối cùng cô chỉ nói khẽ, nhưng Trần A Kiều vẫn nghe thấy, bật cười: “Vẫn nói là nhập gia tùy tục, để ta thử làm nhà nông một lần xem thế nào?”
Nàng tiện tay chọn lấy một bộ y phục màu xanh biếc, lại nhờ Cố tam nương búi tóc theo kiểu thường thấy của phụ nữ nhà nông. Lúc quay người lại, ngay cả Cố tam nương cũng tấm tắc, rõ ràng nàng chỉ mặc y phục bình thường, trên tay không đeo trang sức nhưng từ chân mày khóe mắt vẫn toát lên khí chất thanh tao, cao quý hơn những người chung quanh. A Kiều rất hài lòng, chỉ mấy bộ y phục nữa mà bảo, “Các ngươi hãy chọn lấy vài bộ đi. Chúng ta đang ở Lâm Phần thì sống theo nếp ở Lâm Phần, không được đem tập quán của kinh thành tới đây.”
Ngoài tỷ muội Thượng Quan thì mọi người còn lại đều xuất thân từ nhà bình thường, biết tính chủ nhân, nghĩ tới bệ hạ thuận mắt với dáng vẻ của Trần nương nương hiện giờ, vẫn luôn sủng ái nương nương nên chắc sẽ không nói gì. Vì vậy ai nấy đều tự chọn đồ cho mình, có cảm giác thích thú như khi còn bé giấu cha mẹ làm chuyện xấu, nên len lén che miệng cười. Trong một ngày buôn may bán đắt như vậy, Cố tam nương cực kỳ vui vẻ, nhìn A Kiều mặc y phục bình thường đã không còn cảm giác xa cách không thể với tới, mà ngược lại, cảm thấy có chút gần gũi, thân thiện hỏi, “Phu nhân họ gì?”
A Kiều nhíu mày: “Phu quân ta họ Long.”
“Long phu nhân”, Cố tam nương cũng không thấy gì khác thường, mỉm cười,hỏi tiếp: “Người định ở lại Lâm Phần lâu hay sao?”
“Cũng không phải.” A Kiều lắc đầu, “Ta theo phu quân ra ngoài, thân thể suy nhược nên phải lưu lại đây tĩnh dưỡng, đợi phu quân trở lại thì cùng nhau về kinh.”
“Vậy thì thật đáng tiếc.” Cố tam nương ra vẻ đồng tình, “Long phu nhân đẹp như vậy, phu quân lại không vì người bị bệnh…”
Nàng hiểu ý nhưng chỉ cười nhạt. Lúc này không biết nhà ai ở quanh đó tấu lên một khúc nghe uyển chuyển thanh thoát. Cố tam nương thở dài, “Người thổi địch là một sĩ tử nghèo họ Ninh, mẫu thân mới qua đời vài ngày trước nên vừa quay về giữ đạo hiếu, nghe nói cũng có chút học vấn nhưng không gặp thời.”
Thượng Quan Vân không dám làm trái ý A Kiều nên miễn cưỡng chọn lấy vài bộ nhưng trong lòng bực bội. Thượng Quan Linh vốn tính hiền lành, chú ý chọn lấy mấy thứ làm nổi bật nước da của mình rồi nhìn qua Trần nương nương vẻ suy tư. “Trần nương nương có thân thể cao quý lại được bệ hạ ân sủng nhất nhưng cớ sao lại là một người con gái như thế này?” Hai tỷ muội đồng thời thầm nghĩ.
Ngày tháng ở Lâm Phần trôi qua nhanh như nước chảy. A Kiều lúc rảnh rỗi chăm sóc rau dưa ở trong vườn, thỉnh thoảng đẹp trời dẫn đám người dưới đi dạo quanh thành Lâm Phần. Thành Tục khuyên can đến gần đứt lưỡi, “Phu nhân, thân phận của người là sao chứ? Nếu nương nương ở bên ngoài xảy ra chuyện, chúng nô tài lấy gì mà trả lời bệ hạ đây?”
A Kiều nghiêng đầu nhìn hắn một lát rồi cười hỏi lại, “Ngươi cho là ta không biết sao?” Nàng chỉ vào đám thị vệ mặc y phục giả như người bình thường ở khắp hang cùng ngõ hẻm nhưng thỉnh thoảng lộ ra vẻ khí phách oai hùng, không hợp lắm với cảnh phố xá: “Bọn họ còn ở trong thành Lâm Phần thì có thể xảy ra chuyện gì chứ?” Càng chưa nói, nàng không tin rằng Lưu Triệt đi mà không thông báo quan viên địa phương theo dõi bọn họ cẩn thận.
Nàng trả lời vậy khiến Thành Tục cũng bật cười: “Cho dù thế nhưng phu nhân muốn ra bên ngoài vẫn nên theo trình tự, không thể bỏ qua.”
“Tổ tiên thường bảo”, Thượng Quan Vân vẫn không phục, cố nói vớt thêm một câu, “Cành vàng lá ngọc không thể lơi là, huống chi là giữa phố xá?”
A Kiều thản nhiên nói, “Ai bảo rằng tổ tiên luôn luôn nói đúng. Tỷ như hàng ngày ăn cơm vẫn có thể bị nghẹn, chẳng lẽ lại không được ăn nữa hay sao?” Thượng Quan Vân cứng họng, không nói được gì.
Theo lệnh của A Kiều, nếu muốn ra ngoài thì phải ăn mặc y phục bình thường, không để cho người ngoài nhận ra sự khác biệt của bọn họ. Thượng Quan Vân mặc y phục bình dân thì cảm thấy khó chịu nên chỉ theo A Kiều ra ngoài một lần rồi liền cáo bệnh, tình nguyện nằm lì trong phòng không chịu đi đâu.
“Nơi đây chính là chợ Đông nổi danh nhất thành Lâm Phần, tất nhiên là không phồn hoa bằng thành Trường An nhưng cũng náo nhiệt lắm rồi.” Thượng Quan Linh ngược lại đón nhận gian khổ một cách bình thản, bộ y phục bó sát người càng thể hiện rõ vẻ mềm mại, dịu dàng. Cô mỉm cười giới thiệu phong thổ thành Lâm Phần cho A Kiều.
“Thế này cũng không tồi”, A Kiều hào hứng, nhìn kỹ những món trang sức trong chợ, nếu thấy vừa ý liền bảo những người đi theo xuất tiền ra mua để làm quà tặng cho Lưu Mạch và Lưu Sơ, thậm chí còn chọn mua cho cả những người hầu đi theo, nhưng nghĩ tới Lưu Triệt lại cau mày thở dài. Hàng bán ở chợ thì trấn này chắc sẽ không thuận mắt bậc đế vương kia. Nàng cũng tìm không ra vật gì phù hợp với y.
“Trả tiền đi”, nàng mỉm cười bảo, đang nhìn Thành Tục lấy tiền ra thì chợt nghe thấy đằng sau có tiếng trêu chọc, “Vị tiểu nương tử này trông đúng là cực kỳ xinh đẹp. Hãy theo ta về nhà, bảo đảm cho nàng được ăn ngon, mặc đẹp.” Thượng Quan Linh luống cuống chân tay, lùi lại đến bên cạnh nàng.
Quả thật là triều đại nào cũng có những kẻ như vậy. Nàng cười lạnh, quay đầu lại thì thấy một gã dáng vẻ con nhà quyền quý mặc y phục lượt là may từ gấm. Gã nhìn thấy nàng thì sáng mắt, nói “Vị nương tử này quá là đẹp đi”, còn chưa nói dứt lời thì đã cảm thấy mắt hoa lên, một trận mưa tiền quất thẳng vào mặt. Thì ra A Kiều nổi giận trước thái độ nham nhở của gã nên giằng lấy xâu tiền Ngũ Thù trong tay Thành Tục, chẳng thèm xem là bao nhiêu mà ném thẳng luôn vào mặt gã, gia tăng kình lực khiến xâu tiền đứt tung, đập trúng vào mặt gã làm máu me tung tóe.
Gã kia hét lên: “To gan thật.” Nhưng khi gã nhìn thấy sắc mặt lạnh tanh của A Kiều thì lại len lén cúi gầm mặt xuống.
“Tiếp tục đi”, A Kiều điềm nhiên nói, “Thật không biết nhà ai thừa ăn thừa mặc mà nuôi dưỡng ra cái hạng người…”
Đám người theo hầu giật tay áo gã kia, lo lắng nhắc: “Chủ nhân.” Trên các góc phố đã lảng vảng mấy người không nhìn ra thân phận, khuôn mặt ẩn hiện sát khí đang tiến đến gần. Nhìn lại, số tiền Ngũ Thù văng vãi trên mặt đất dù không phải quá nhiều nhưng người phụ nữ này có thể dùng để đánh người mà đám người theo hầu không hề tỏ vẻ tiếc của, thì đủ thấy bọn họ không phải là nhân vật bình thường. Gã kia quen ỷ vào quyền thế gia đình hoành hành tác quái nhưng cũng không phải ngu ngốc, lui dần về phía sau, hung hăng hăm dọa: “Cứ chờ đấy”, rồi loạng choạng bỏ đi.
A Kiều chỉ cười nhạt, biết đám thị vệ sẽ không dễ dàng bỏ qua cho đám người dám hạ nhục nàng, quay sang dặn Thành Tục: “Bảo bọn họ một câu, không được gây chết người.” Thanh Tục không bằng lòng, nhưng vẫn tuân lệnh rời đi.
A Kiều mất hứng, liền nói: “Trở về thôi.” Sau lưng nàng chợt vang lên tiếng cười khẽ, rồi một giọng ấm áp truyền tới: “Hàn thiếu gia ỷ thế hiếp người thì thấy nhiều rồi, nhưng lại là lần đầu tiên thấy cách ứng đối tuyệt diệu như Long phu nhân vậy. Ninh Triệt bái phục.”
Một văn sĩ áo trắng bước ra từ trong Tức Lam các ở bên đường, tay ôm một ống đựng giấy mực, khuôn mặt sáng láng, thanh cao chính trực, có mấy phần giống Tiêu Phương, sư phụ của A Kiều. A Kiều ngạc nhiên, “Tiên sinh biết ta sao?”
“Phu nhân chưa từng gặp tại hạ”, Ninh Triệt hơi khom người, nói: “Tại hạ thì đã được trông thấy phu nhân vài lần. Mang ơn tặng cua ở nhà trọ Tường Phúc, phu nhân có còn nhớ chăng?”
“Ồ”, A Kiều liền nhớ ra, nói: “Ngươi chính là sĩ tử ở căn phòng thượng hạng đó.”
“Đúng vậy”, Ninh Triệt mỉm cười, “Mấy ngày nay dân chúng thành Đông đối xử thật tốt với phu nhân.”
A Kiều khẽ mỉm cười, không tiếp lời hắn mà chỉ khen, “Tiên sinh thổi địch rất hay.”
“Quá khen”, Ninh Triệt mỉm cười đáp, “Phu quân của phu nhân cũng thổi rất hay nhưng hãy thứ cho ta nói thẳng, Long tiên sinh thổi địch rất có khí phách, xem ra không phải là nhân vật bình thường, chỉ là thành tựu lại không đạt đến đỉnh cao.”
Thượng Quan Linh tái mặt, lo lắng nhìn A Kiều. A Kiều gắng nhịn nhưng cuối cùng vẫn bật cười một tiếng, cố giữ vẻ nghiêm trang, “Tiên sinh không nên nói ra những lời này ở trước mặt người.”
Trở về biệt viện thì trời đã muộn, nàng rửa mặt, vào phòng nằm một mình, Phiêu Bích tiến vào bẩm, “Ninh Triệt cầu kiến.”
Nàng sững người, nhưng không quay đầu lại, nói: “Không gặp.”
Lục Y thở phào, thăm dò sắc mặt của nàng rồi buông một câu “Không biết hôm nay bệ hạ đã đến Hà Đông chưa?”
A Kiều ngậm một quả ô mai đặc sản của Lâm Phần, liếc mắt nhìn sang, uể oải: “Muốn nói gì thì cứ nói ra đi, đừng vòng vo.”
Lục Y liền đỏ mặt, nói: “Nếu bệ hạ biết phu nhân hôm nay trò chuyện với vị Ninh Triệt tiên sinh kia thì khó bảo đảm sẽ không tức giận.”
A Kiều hừ lạnh một tiếng: “Ta chỉ có thể không chủ động gặp người khác. Nhưng nếu tình cờ gặp cũng phải kiêng kỵ thì làm người còn có ý nghĩa gì chứ.”
Từ xa truyền đến tiếng địch, khúc nhạc trong đêm rất rõ ràng, tuy Lục Y ít học thơ nhưng cũng nghe hiểu bài đang thổi chính là Kiêm gia vô cùng nổi tiếng trong Kinh Thi miêu tả việc người nam nhớ người nữ, bất giác biến sắc.
“Ngươi ngạc nhiên làm gì chứ”, A Kiều trông thấy liền bật cười, “Người ta muốn mỗi ngày thổi một khúc. Ai mà quản được người ta thổi khúc kia chứ?”
Song tiếng địch đúng là rung động lòng người. A Kiều nhớ tới Lưu Triệt đã đi được nửa tháng rồi, khe khẽ thở dài.Quyển 4 - Chương 76: Chim nhạn quay về, trăng mãn lầuCuộc sống ở Lâm Phần cực kỳ thanh bình. A Kiều ban ngày rất bận rộn chẳng có thời gian tưởng nhớ nhưng về đêm, bên cạnh thiếu một người cũng nảy sinh cảm giác không quen. Có nguyện ý thừa nhận hay không thì nàng cũng đích thực là có một chút vương vấn nhớ nhung liên quan đến người kia.
Dù thoáng vấn vương rằng hôm nay y đang ở nơi đâu nhưng cứ nghĩ tới dáng vẻ uy nghiêm không biết đâu là mừng là giận, tựa như có người thiếu y mấy vạn xâu tiền không trả thì nàng lại chợt ngộ ra rằng mình đã lại một lần nhớ tới y. Nàng tự cười nhạo mình. Người đàn ông kia đã mất mười năm để một lần nữa khắc hình ảnh của mình vào tâm hồn nàng. Trong suốt mười năm này, y có khi tức giận, có khi dửng dưng, có khi ác độc, có khi toan tính nhưng lại chưa từng thật sự xúc phạm nàng. Y đã hao tâm tổn trí vì nàng mà thanh tẩy triều đình để nàng được an toàn ở bên cạnh mình. Y đã vì nàng mà xây cung Kiến Chương không có bóng dáng những phi tần khác, một lần nữa tìm về với lời hứa thời niên thiếu. Nàng từng cho rằng có nhiều thứ đã tan vỡ rồi thì sẽ là tan vỡ, cố níu kéo trở về cũng không còn được như xưa. Nhưng bây giờ nàng lại hơi dao động, có những thứ đã được sửa sang lại cho tốt, nếu có thể nhẫn nại thì vẫn sử dụng được. Mười năm tổn thương, có thể dùng mười năm khác để bù đắp lại được sao? Ngay cả có bù đắp lại được thì những việc đã xảy ra cuối cùng vẫn còn tồn tại, chỉ cần ngoảnh đầu là sẽ thấy dấu vết thời gian in hằn trong cuộc đời.
Mà cuộc đời con người có thể có được mấy lần mười năm?
Dần dà, cả hai cũng đều bước đến lúc xế chiều. Nàng cố tự hỏi lòng, có phải mình thật sự muốn cuộc đời sẽ trôi qua như vậy? Thật sự là chỉ một khi y rời bỏ nàng thì nàng mới có thể không luyến lưu nhớ về y. Từ hồi ở cung Cam Tuyền năm xưa, nàng lui một bước để y tiếp cận, sau đó hàng ngày cùng chung sống, không hề phân ly. Đến hôm nay thì rốt cục đã có phân ly, nàng ở cách xa, nhắm mắt lại liền phát hiện rằng mình đã khắc họa rõ ràng từ nét lông mày, bờ môi của y.
“Thừa nhận đi.” Nàng tự nhủ với bản thân. Đúng như y không cách nào phủ nhận rằng y đã từng tàn nhẫn vô tình làm thương tổn nàng, nàng cũng không thể nào phủ nhận rằng trong lòng nàng có sự hiện hữu của y.
Chẳng lẽ chưa từng bị xóa mất?
Cuộc đời làm sao lại đi đến nước này chứ?
Trong những năm đầu mới xuyên không tới đây, nàng ở một khoảng cách thật xa, đề phòng nhìn y, cảnh giác sợ hãi. Nàng cảm thấy tốt nhất hai người nên là hai ngọn núi vĩnh viễn đừng bao giờ gặp nhau cho cuộc sống được an lành. Sau đó, vận mệnh không thể tránh né đã khiến hai người gặp nhau. Nàng không cam lòng, muốn trốn tránh nhưng lại chưa từng chạy thoát khỏi lòng bàn tay của y. Y là Hán Vũ Đế danh tiếng lẫy lừng trong lịch sử, nắm cả thiên hạ này trong tay mà trăm tơ nghìn mối của nàng đều ở trong chốn thiên hạ đó.
Nàng nhớ mãi những đau đớn đã từng thấu đến tận xương cốt, học xù lông như con nhím để nếu y tiếp cận sẽ máu đổ đầm đìa. Dần dần nàng thu mình, học cách bơi lội như cá trong nước, duy trì một khoảng cách như gần như xa, cho rằng với tính tình của mình thì chẳng bao lâu y sẽ có trăng quên đèn, dõi mắt theo những người con gái xinh đẹp khác. Nhưng y vẫn luôn ở bên cạnh nàng, thời gian thấm thoắt thoi đưa thoáng một cái đã qua hết mười năm.
Nàng vật vã suy tư rồi chìm vào giấc ngủ thật say. Đến ngày hôm sau, nàng lười biếng tỉnh giấc. Thượng Quan Linh đi vào, xấu hổ nói: “Hôm qua Linh Nhi khiến cho phu nhân bị phiền phức. Đa tạ ơn phu nhân cứu giúp.”
“Cũng không phải là lỗi của ngươi”, A Kiều mỉm cười nói, “Không cần để trong lòng.”
Thượng Quan Linh an tâm, ánh mắt lại lấp lánh: “Phu nhân thích nghe địch sao?” Nàng thản nhiên đáp, “Ta thuở nhỏ cũng có tập, không dám nhận là giỏi nhưng cũng biết nghe.” “À”, nàng chợt nổi hứng, bèn bảo, “Linh Nhi hãy thổi một khúc nghe cho vui đi.”
Tiếng địch của Thượng Quan Linh tinh tế, chứa đựng tính cách người con gái nhu hòa. Nàng lắng nghe một khúc, bỗng nhiên nói, “Ta cũng muốn học, Linh Nhi hãy dạy cho ta nhé.”
Thượng Quan Linh khá bất ngờ nhưng lập tức mỉm cười đáp, “Phu nhân đã có lệnh, nô tỳ sao dám không tuân lời.”
Nhạc lý có những nét tương tự như nhau, nàng lại từng xem Lưu Triệt tập thuở nhỏ, nên đến buổi tối đã có thể tập tọe thổi được, chỉ là âm thanh rất khó lọt tai. Đám nô tỳ qua lại đều nhíu mày, ngay cả Thượng Quan Linh cũng không còn giữ được nét mặt nhu hòa nữa. Thành Tục ở trong viện chỉ muốn bịt tai lại. Bỗng hắn nghe ngoài cửa có người hỏi, “Phu nhân ở đâu?” Hắn ngẩng đầu nhìn lên, thấy thủ lĩnh đám thị vệ hộ vệ bọn hắn đang dẫn một người đi vào.
Người đó cũng có giọng nói lanh lảnh giống hắn, “Bệ hạ đi Hà Đông tế tự trở về, đang cho lâu thuyền dọc theo sông Phần, sông Thuận xuôi xuống. Người viết thư lệnh cho nô tài dùng khoái mã chạy về trước, giao cho Trần nương nương đích thân mở.”
Thành Tục mừng rỡ, vội vàng đón nhận, chạy vào bẩm: “Phu nhân, bệ hạ có tin về.” A Kiều lặng người, đứng sững, rồi quay đầu nhìn lại. Lúc đó, ánh trăng thanh thoát trải trên mặt đất tỏa sắc như mây khói.
Ngày mười lăm tháng Chín năm Nguyên Đỉnh thứ tư, thánh giá đến Hà Đông tế tự thần Hậu Thổ[1]. Lưu Triệt mặc bộ y phục đế vương bằng gấm đen tôn quý nhất thế gian, thực hiện từng bước một theo trình tự của buổi lễ, dần cảm thấy buồn tẻ. Y lướt nhìn khắp dưới đài nhưng không tìm thấy bóng dáng thân thương. Người đó không ở bên cạnh y.
[1] Thời xưa, địa thần được gọi là Hậu Thổ.
Sau khi tế tự kết thúc, Thái thường Vương Nhạc tiến lên bẩm, “Bệ hạ có muốn ở lại Hà Đông vài ngày…” Hắn chưa dứt lời thì Lưu Triệt đã cắt ngang, “Không! Lần này ra ngoài lâu quá rồi, cần phải nhanh chóng trở về kinh mới được.”
Nghi trượng hoàng đế chỉ dừng lại ở Hà Đông hai ngày thì quay về. Vừa tiến vào lưu vực sông Phần, y liền sai trưng dụng lâu thuyền để mở yến tiệc chiêu đãi bá quan ở trên sông. Quan viên lập tức tập hợp cả lại trên sông Phần, người người chúc tụng bệ hạ thịnh thế anh minh, quốc thái dân an, văn có thể an bang, võ có thể định quốc, trước đánh Hung Nô, sau hàng nước Điền, chiến công muôn đời hiếm thấy. Lưu Triệt phấn chấn, uống vài chén rượu nhưng thấy mọi người vẫn e dè thì đi vào trong khoang thuyền. Dương Đắc Ý bưng nước nóng tới lau mặt cho Hoàng đế, bỗng nghe Lưu Triệt hỏi, “Quan viên ngoài kia như thế nào?”
Y quay đầu lại, cặp mắt đen nhánh tựa ngôi sao suy nhất trong màn đêm sáng lạnh mà cô độc, mím môi như tự hỏi: “Chẳng qua là vài chén rượu mà thôi, trẫm dễ dàng say như vậy sao?”
Dương Đắc Ý làm như không có chuyện gì, khom người nói, “Bá quan văn võ đều uống tận hứng, ca tụng bệ hạ thánh minh.”
Lưu Triệt hừ lạnh một tiếng, ra hiệu cho nội thị đẩy cửa sổ bên khoang thuyền. Gió thu lạnh lẽo trên mặt nước thổi vào khiến y bất giác rùng mình một cái nhưng ngay lập tức tỉnh táo trở lại, cười ha hả, “Cảnh thật đẹp, tiếc là Tư Mã Tương Như đã mất chứ không thì nhất định sẽ có bài phú hay trình lên.”
Dương Đắc Ý nhìn mặt đoán ý, mỉm cười tiến lên phía trước nói, “Dù Tư Mã đại nhân không còn nhưng bên ngoài có không ít sĩ tử cũng giỏi về từ, phú. Chi bằng bệ hạ lệnh cho bọn họ viết xem?”
“Thôi đi”, Lưu Triệt chắp tay nói: “Lúc nào cũng phải dựa vào bọn họ, trẫm học thơ văn từ thuở nhỏ, chẳng lẽ không tự làm được một bài sao?”
“Đúng thế, nô tài vẫn biết tài hoa văn chương của bệ hạ.” Dương Đắc Ý vội vàng khen nịnh rồi sai viên quan phụ trách thư bút chuẩn bị bút, mực và vài tờ giấy thượng hạng trải ra trên án. Mái chèo khua nước sông tạo thành những làn sóng, trên thuyền đàn sáo tưng bừng, ăn uống linh đình, vui sướng náo nhiệt như hoa thêu trên gấm, gió thu thổi qua làm lau sậy ven bờ kêu xào xạc. Khi rời Trường An thì trời mới chớm vào thu, đồng ruộng một màu xanh ngắt, lúc đó A Kiều còn ở bên cạnh y cười hớn hở mà giờ đã là cuối thu. Trên không trung vẳng đến tiếng nhạn kêu, một đàn chim nhạn từ chân trời xa xôi bay về phương nam.
Lưu Triệt chắp tay đứng trước cửa sổ, ngâm nga:
“Gió nổi thu về mây trắng buông,
Cỏ hoa tàn úa nhạn nam phương.”
Y đứng lặng lẽ, tâm trạng từ hoan lạc tột độ dần thoáng chút u buồn. Đã nhiều năm, y ở trên ngôi cao, chí khí hào hùng chưa bao giờ biết quay đầu nên rất ít khi có thời gian mà thương xuân sầu thu. Thuở niên thiếu khi hòa hợp cầm sắt[2] với A Kiều thì trong lòng vẫn có suy nghĩ riêng của mình, sau đó nổi trận lôi đình phế hậu, A Kiều không thể chịu đựng đến nỗi hai người chia cắt.
[2] Cầm sắt: Đàn cầm và đàn sắt.
Thuở niên thiếu, y không hề do dự lựa chọn vì thời cuộc mà vứt bỏ lời hứa lúc còn ngây thơ, chẳng bao giờ nghĩ rằng sẽ có một ngày phải hối hận. Đến tuổi trung niên, y đã có thể một tay sáng tạo ra thế cục của Đại Hán nhưng vẫn một mực giữ nàng bên cạnh, kiên trì hàn gắn vết thương năm đó. Hối hận sao? Bọn họ tự vấn lòng, nếu như được làm lại một lần nữa thì y vẫn không chút do dự làm như cũ. Ở trên ngôi vị đế vương, chút tơ tình nồng thắm quá nhẹ so với vạn dặm núi sông Đại Hán. Nhưng bao đêm ôm người con gái trầm lặng ơ hờ, ngắm nàng trong lúc ngủ say vẫn còn hơi nhíu mày, thì không phải là y không đau lòng. Đau lòng bởi vì y đã từng làm nàng bị thương tổn, vì vậy dễ dàng tha thứ cho vẻ xa cách của nàng.
Từng năm qua đi, y dần cảm nhận rõ ràng rằng người con gái này đã chiếm chỗ trong lòng mình nhưng chỉ không biết nàng ở sâu trong tâm hồn y thế nào. Hằng ngày ở bên nhau tuy cảm thấy vui vẻ nhưng lại không có quá nhiều cảm xúc. Một khi chia lìa mới biết gắn bó như bóng với hình, nhìn mỹ nhân nào cũng thấy nhạt nhẽo. Y vẫn biết mình vô tình nhưng lại không biết một người dù vô tình đến đâu vẫn có một trái tim. Trái tim lạnh lẽo dĩ nhiên sẽ làm cho y có thể bàng quan nhìn sống chết của người đời, nhưng người đó lại ở trong tim y, trừ khi y tự cắt đứt trái tim của mình ra, còn không thì khó mà dứt bỏ. Đế vương có vô tình đến đâu thì cũng là một con người. Một con người vốn sinh ra đã có yêu có hận, có vui có buồn, có suy nghĩ của mình.
“Hoa lan đượm sắc cúc thơm hương,
Nỗi nhớ giai nhân mãi vấn vương.”
Lúc này A Kiều đang làm gì ở Lâm Phần? Trong lòng y cứ vấn vương nhưng miệng vẫn tiếp mạch ngâm,
“Lâu thuyền đi dọc ở sông Phần
Ở giữa dòng ngang sóng bạc dâng
Tiêu trống hòa ngân cùng tiếng hát
Trong vui cực độ thấy thương thân
Trẻ trung mấy nỗi, già lân đến rồi!”
Thời gian là thứ mà không ai có thể cưỡng lại. Lúc tuổi thiếu niên bừng bừng chí khí nên không xem trọng, rồi y lên ngôi vị đế vương nên chẳng hiểu ra. Đến hôm nay đã dần tới tuổi “tứ thập nhi bất hoặc”[3], lại cảm khái trước cảnh sắc tươi đẹp đang nhẹ nhàng trôi qua trong khi bọn họ tuy đang có vẻ đối xử với nhau như thời niên thiếu cầm sắt hòa hợp, nhưng đều biết rõ chẳng thể nào quay lại như lúc ban đầu. Tráng chí thời tuổi trẻ dần cũng nhạt đi, mái tóc anh hùng rồi cũng điểm sương, mỹ nhân đẹp đến đâu khi nằm xuống cũng chỉ là một nắm xương trắng. Đó là nỗi bi thương của kiếp người mà đế vương, anh hùng hay mỹ nhân đều chẳng thể làm được.
[3] “Tứ thập nhi bất hoặc” là một câu trong Luận ngữ, có nghĩa là khi người ta tới bốn mươi tuổi mới có thể hiểu thấu mọi sự lý trong thiên hạ, phân biệt được việc phải hay trái cũng như hiểu được ai là người tốt hay xấu, phân biệt được những ai là người chân chính yêu nước thương nòi và biết được cái gì nên làm hay không.
Câu từ bi tráng hùng hồn, viên quan phụ trách thư bút động tâm, đứng dậy chắp tay hỏi, “Bệ hạ, bài từ này đặt tên là gì?”
Lưu Triệt trầm ngâm một lát rồi cảm khái: “Đặt tên là Thu phong từ đi.”
Quận thủ Tào Minh đứng bên ngoài khoang thuyền nín thở lắng nghe Lưu Triệt ngâm thơ, tiến vào bái chào: “Thần tham kiến bệ hạ”, sau đó tán dương, “Hôm nay nghe bệ hạ ngâm Thu phong từ, mới biết tài học của bệ hạ khiến bậc đại gia từ phú như Tư Mã Tương Như cũng phải hổ thẹn.” Hắn nói vậy thật sự nịnh nọt quá mức, Lưu Triệt nghe xong không vui, cười nhạt hỏi, “Trẫm hỏi ngươi, vùng Trì Hạ của ngươi thế nào?”
Tào Minh vội vàng quỳ xuống, cung kính bẩm, “Thần theo ý chỉ của bệ hạ làm việc, mọi việc của Trì Hạ đều tốt. Chỉ là”, hắn do dự nói, “nếu sông Phần dâng nước gây họa thì dân chúng sẽ trôi dạt khắp nơi.”
Lũ lụt sông Hoàng Hà vốn là căn bệnh bao đời nay của Đại Hán. Lưu Triệt nhíu mày, nói: “Ngươi lui xuống trước đi.”
“Tuân mệnh”, Tào Minh khom người lui ra, nghĩ đến hai câu Lưu Triệt vừa ngâm: “Hoa lan đượm sắc cúc thơm hương, nỗi nhớ giai nhân mãi vấn vương”, thì như hiểu ra điều gì đó, bèn vội vàng sai thuộc cấp xuống thuyền mời mấy thiếu nữ con nhà gia giáo đẹp nhất ở Trì Hạ đến, dặn dò, “Nếu được bệ hạ ưu ái là vinh hạnh của ta mà cũng là vinh hạnh của các ngươi.” Mấy thiếu nữ chẳng qua là con gái những nhà bậc trung, có cơ hội được hầu hạ quân vương đều không nén nổi vui mừng, ai nấy đỏ bừng mặt, thi lễ nói, “Đa tạ Tào đại nhân.”
Thị vệ bảo vệ bệ hạ hơi lộ vẻ kỳ lạ nhưng không có ý kiến của bề trên nên cũng không tiện ngăn cản việc này. Tào Minh dẫn mấy thiếu nữ đi tới trước khoang thuyền, đang định bẩm báo thì chợt nghe một giọng nữ trong trẻo từ phía sau truyền đến: “Các ngươi là ai?” Một thiếu nữ tôn quý chừng mười bốn, mười lăm tuổi đi vòng từ khoang sau thuyền ra, cực kỳ xinh đẹp, làm lu mờ mấy cô gái mà Tào Minh đã lựa chọn kỹ lưỡng.
“Tham kiến Công chúa Duyệt Trữ”, cung nhân bên cạnh nhất loạt hành lễ.
Tào Minh cũng bái lạy. Trước mặt Công chúa, hắn không dám nói lung tung, chỉ có thể thành thật: “Thấy bệ hạ đi đường mệt nhọc nên thần đặc biệt tuyển chọn mấy dân nữ nhanh nhẹn hầu hạ.”
“Miễn đi.” Lưu Sơ lạnh nhạt, “Nô tỳ bên cạnh phụ hoàng rất nhiều, không cần phải làm phiền dân chúng.”
“Vậy…”, Tào Minh thầm kêu khổ trong lòng, không biết vị công chúa này không hiểu chuyện hay cố tình ngăn trở. Hắn nghe nói Hoàng đế đi lần này không mang theo phi tử nào nên lường trước chuyện sẽ thành công. Dù sao chẳng mấy người đàn ông có thể dễ dàng cự tuyệt thiếu nữ tuyệt sắc, nào ngờ lại có người ngăn cản. Người này cũng không phải phi tần được sủng ái nào mà lại là một công chúa. Công chúa có thể được bệ hạ dẫn theo thì chắc là được sủng ái vô cùng. Nhưng chuyện này cũng không xung đột lợi ích với công chúa, chẳng lẽ lại có công chúa nào dám mạo hiểm phạm tới quyền uy của phụ vương?
“Nô tài tham kiến Công chúa Duyệt Trữ.” Dương Đắc Ý mở cửa khoang thuyền rồi bước ra ngoài, thầm lấy làm buồn cười. Hắn biết Hoàng đế hôm nay đang nhớ Trần nương nương, quá nửa là không muốn gặp những cô gái này nên có lòng nhắc nhở Tào Minh: “Bệ hạ viết thư và bảo nô tài chọn người giỏi cưỡi ngựa đưa tới Lâm Phần để Trần nương nương tự tay mở xem.”
Lưu Sơ chớp mắt, nói: “Dương công công chờ đã, ta cũng viết một phong thư, người đưa luôn cho mẫu thân của ta nhé.”
“Nô tài tuân lệnh Công chúa”, Dương Đắc Ý gật đầu nói: “Kính xin Công chúa mau viết đi.”
Lưu Sơ muốn rời đi nhưng lại nhìn Tào Minh, cắn môi ra vẻ khó khăn. Dương Đắc Ý cười, nói: “Nô tài biết rồi.” Tào Minh mặt trắng bệch, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, biết lần này lợn lành chữa thành lợn què rồi.
“Tào đại nhân”, Dương Đắc Ý mỉm cười nói, “Nếu không có chuyện gì thì mời trở về đi thôi.”
Khoái mã truyền thư chưa đầy nửa ngày đã đến Lâm Phần. Trần A Kiều nhận thư, mở ra xem thì thấy là giấy vân tiên thượng hạng, nét chữ thanh thoát, bút lực mạnh mẽ như muốn thoát khỏi tay nhưng bút pháp lại có chút mềm mại, cho thấy tình cảm dịu dàng khi đó của người viết.
“Khanh[4] thấy chữ như gặp mặt.
[4] “Khanh” là cách xưng hô giữa vợ và chồng ở thời cổ đại, thể hiện tình cảm thân thiết gắn bó giữa hai người.
Tháng Chín gió mạnh, ta mở yến trên sông Phần chiêu đãi bá quan. Nhìn gió thu thổi làm rơi lá, nhạn bắc di cư xuống phương nam, lòng có cảm nhận viết ra một bài từ gửi khanh phương xa.
Đây chính là bài Thu phong từ nổi danh trong lịch sử.
“Trong vui cực độ thấy thương thân
Trẻ trung mấy nỗi, già lân đến rồi!”
A Kiều ngâm hai lần, tâm hồn rung động đến mức phải thầm trấn tĩnh rồi mới mở tiếp thư của Lưu Sơ. Thư của Lưu Sơ vẫn luôn chân thành hồn nhiên, viết vội mấy câu nhớ nhung, cuối cùng lại thêm một câu nói hôm nay vừa cản được một đám nữ nhân định mê hoặc phụ hoàng. Nàng không biết nên khóc hay cười, dặn dò Thành Tục: “Ngươi cho người mang thư nghỉ ngơi một đêm, chờ ta viết xong thư thì bảo hắn mang về.” Thành Tục an tâm lui ra, nàng cũng không hơi đâu mà nghĩ về chuyện này, cứ trăn trở suy xét tâm trạng của mình.
Thượng Quan Linh liếc thấy vậy liền đứng dậy tươi cười hỏi, “Nương nương viết thư trả lời bệ hạ, không biết Linh Nhi có được vinh hạnh mài mực cho nương nương không?”
A Kiều khẽ gật đầu đồng ý, lấy tờ giấy hoa tiên thượng hạng đặt trên án, cầm bút lên nhưng trong thoáng chốc lại thẫn thờ không biết viết gì. Người ấy đang có lý tưởng hào hùng lại viết ra bài từ phú cám cảnh tuổi hoa niên như vậy, thật sự khiến người khác phải tìm hiểu cảm nhận trong đó. Trước kia nàng đã từng đọc đoạn mở đầu của bài Thu phong từ khá nổi tiếng này, ngoài sự kinh ngạc trước một vị hoàng đế bậc nhất thiên cổ lại có tài văn chương không kém, thì cũng chỉ coi đó là một bài thơ bình thường. Hôm nay Lưu Triệt gửi nó cho mình, từng câu từng chữ đều liên quan tới bản thân mình, thì lòng cảm thấy ngọt ngào, tình cảm trào dâng, hoàn toàn khác trước.
Nước trong nghiên đã hòa tan mực đen nhánh, nhưng Thượng Quan Linh vẫn kiên nhẫn mài tiếp. Cô nhìn A Kiều đang nghiêng nghiêng khuôn mặt, bạo gan hỏi, “Nương nương yêu bệ hạ lắm sao?”
Nàng nghe vậy thì nhìn sững vào Thượng Quan Linh. Nét mặt thiếu nữ này có vẻ tò mò hiếu kỳ rất tự nhiên, thuần phác mà trầm tĩnh.
“Tại sao lại hỏi như vậy chứ?” Ánh nến chập chờn lay động theo làn gió thu thổi vào qua cửa sổ, câu hỏi của nàng cũng nhẹ như ánh nến.
“Bởi vì”, Thượng Quan Linh mím môi, cười vẻ ngượng ngùng, “Vẻ mặt nương nương rất dịu dàng.”
Yêu ư? Nàng mím môi cười, trầm ngầm một lát rồi nắn nót viết thư, bỏ vào phong bao, dán lại rồi dặn, “Sáng sớm mai giao cho người nội thị đưa thư.”
Ngoài song cửa, đêm thu vẫn chưa tàn.Quyển 4 - Chương 77: Dung nhan xinh đẹp chẳng nỡ rờiNgự tiền tổng quản Dương Đắc Ý thở dài đứng trước tẩm điện của bệ hạ trong hành cung. Hai ngày trước, lâu thuyền của bệ hạ từ sông Phần trở về hành cung, sau khi nghe người báo về tin tức của Trần nương nương từ Lâm Phần thì sắc mặt cứ luôn âm trầm, tính tình cũng trở nên bực bội. Đám cung nhân hầu hạ đều im như thóc, ngay cả hắn cũng bị khiển trách đến mấy lần. Không biết dâng lên phong thư đang cầm trong tay này thì tâm tình bệ hạ sẽ chuyển biến tốt đẹp hay là lại phát cáu giận hơn nữa.
“Bệ hạ”, hắn vém rèm, khom người đi vào, bẩm, “Lâm Phần chuyển tới thư do Trần nương nương tự tay viết.”
Lưu Triệt đang xem xét chính sự do Thái tử Lưu Mạch từ Trường An ngoài xa ngàn dặm chuyển tới đợi ngự thẩm, nghe vậy thì trầm ngâm một lát rồi mới nói, “Mang lên đây.”
Giấy hoa tiên thượng đẳng của Tức Lam các phảng phất vẫn còn giữ hơi ấm bàn tay giai nhân. Y mở thư, đưa lên ánh nến, thấy nét chữ tròn trịa như châu ngọc, có vẻ trầm tĩnh hơn nhiều so với cách viết phiêu thoát thời niên thiếu. Dương Đắc Ý để ý thấy Lưu Triệt biến đổi sắc mặt, tựa hồ thoáng tức giận, trong lòng có chút hồi hộp rồi lại thoáng vui mừng, biến hóa cực nhanh. Cuối cùng, y cắn răng nói, “Dương Đắc Ý, truyền lệnh xuống, xe ngựa nghi trượng như đã định trở về Trường An, còn Thượng Quan Kiệt dẫn mấy thị vệ tâm phúc theo trẫm lập tức tới Lâm Phần.”
“Dạ…” Dương Đắc Ý trợn mắt há mồm, tự cho rằng mình hiểu rõ bậc quân vương nhưng cũng chưa từng ngờ tới việc Lưu Triệt sẽ ra quyết định ngoài dự liệu như thế. hắn cuống quýt khuyên can, “Như vậy có nguy hiểm quá không.” Giọng hắn nhỏ dần, thấy sắc mặt Lưu Triệt khư khư cố chấp thế kia thì hẳn là sẽ không nghe lời khuyên can, đành hỏi, “Thế Công chúa Duyệt Trữ thì sao?”
“Sơ Nhi”, Lưu Triệt nghĩ một lúc rồi đáp: “Để nó trên xe ngựa, đi chậm thôi. Thân thể nó đã yếu đuối lại không biết cưỡi ngựa.”
Dương Đắc Ý chỉ biết lí nhí vâng dạ, khi vén rèm bước ra ngoài vẫn còn suy tư, liếc mắt về phong thư của Trần nương nương đã viết cái gì mà khiến bậc đế vương nhiều năm rèn luyện không để vui buồn lộ ra mặt phải biến sắc, nóng vội như vậy.
“Mười sáu nên chồng vợ,
Vì chàng nở nụ cười.
Mười bảy duyên cầm sắt,
Soi gương tô đỏ môi.
Mười chín Trung cung lập,
Tiêu Phòng quý nhất đời.
Hai mốt chàng thay dạ,
Tân nhân đẹp tuyệt vời.
Rộn tiếng đồn châm chọc,
Lần lữa chẳng tin lời.
Hai chín bị ruồng bỏ,
Gọi chàng, chàng vẫn rời.
Kim ốc từ ngày đó,
Chỉ còn lệ tuôn rơi.
Chợt tới nay mùa hạ,
Theo ra Trường An chơi.
Chàng ở phương xa thẳm,
Thiếp bên rèm ngóng trời.
Chung sống mười năm hiểu,
Lòng sâu nặng chàng ơi.
Nếu biết hôm nay thế,
Năm xưa sao vẫn làm?
Cảm kích chàng tâm ý,
Thiếp xin chuộc lỗi lầm.
Đêm nối dài thương nhớ,
Thoáng đã tới rạng đông.”
Lưu Triệt ngâm nga mãi trong lòng bài thơ này, chợt quay đầu lại hỏi: “Từ đây phi ngựa đến Lâm Phần mất bao lâu?”
“Ước chừng phải một ngày rưỡi”, Thượng Quan Kiệt đáp. Đế vương đi tuần rất chậm. Lần trước đưa thư dùng khoái mã nên quãng đường mất hai ngày rút xuống chỉ còn nửa ngày. Nhưng Lưu Triệt là quân vương nên không thể giống như nội thị ra roi thúc ngựa đi thẳng một mạch, vì vậy đoán chừng như thế cũng không sai lệch nhiều. Bởi vì đi lén nên Dương Đắc Ý là ngự tiền tổng quản không được theo cùng. Lưu Triệt chỉ dẫn theo mấy thị vệ, gần trưa đã về tới Lâm Phần. Y đến biệt viện thành Đông nhưng A Kiều lại không ở nhà. Đám người hầu mới thu nhận không biết ai ở trước mặt nên cứ ấp a ấp úng không chịu nói ra chỗ chủ nhân đi. Lưu Triệt đứng ngoài cửa chờ mãi phát bực, định phát tiết thì nghe đám người hầu hô lên: “Thượng Quan tiểu thư đã tới.”
Thượng Quan Vân mặc bộ quần áo gấm, cau mày vén rèm bước ra hỏi: “Ồn ào quá. Có chuyện gì thế?”
“Vân muội”, Thượng Quan Kiệt từ xa trông thấy, vội vàng ngăn chặn không để cô nói ra những lời không xuôi tai. Hắn tiến lên, thầm thì: “Bệ hạ tới đó, chú ý một chút.” Thượng Quan Vân bấy giờ mới để ý tới một người áo đen ở giữa đám người phò tá, nhìn dáng vẻ từ xa đã cảm thấy khí thế hơn người. Cô thầm kinh hãi, lẩm bẩm nói, “Làm sao có thể thế được?” Chẳng phải bệ hạ đang trên đường tuần thú phương đông trở về sao?
Thượng Quan Kiệt không để ý, cau mày hỏi, “Tại sao chỉ có mình muội ở đây? Phu nhân và A Linh đâu?”
Thượng Quan Vân lúng túng hồi lâu mới trả lời, “Phu nhân dẫn bọn A Linh ra ngoài, chắc là đến hồ Phi Điếu ở hướng đông.” Thượng Quan Kiệt ừ một tiếng, thầm tức giận Thượng Quan Vân kém hiểu biết, không nắm lấy cơ hội Trần nương nương ra ngoài mà đi theo lấy lòng. Hắn trợn mắt liếc nhìn cô, nhưng bây giờ lại không phải là lúc để mắng mỏ nên đành quay đầu nhìn Lưu Triệt đứng xa đã nghe được, không nói một lời mà cứ thế rời khỏi biệt viện đi về hướng đông, liền vội vàng chạy theo.
“Thượng Quan tiểu thư”, đám người hầu bấy giờ mới vỡ mật kinh hồn, sợ hãi chỉ vào bóng Lưu Triệt hỏi: “Người kia là ai vậy?” Thượng Quan Vân cứng họng một lúc lâu, suýt nữa thì rơi lệ, oán hận trả lời, “Chính là chủ nhân nhà các ngươi đấy.” Nói rồi giậm chân trở về phòng, đóng cửa rầm một tiếng, giam mình trong đó.
Lưu Triệt đi về hướng đông được một đoạn đường thì thấy một hồ nước sâu ở đằng xa. Đã vào cuối thu, lại không như trong cung có người chuyên chăm sóc, nên bãi cỏ xơ xác, héo úa kéo dài đến tận chân trời. Hồ có diện tích rất lớn, y đưa mắt nhìn quanh nhưng không thấy bóng dáng người cần tìm. Đang định lệnh cho Thượng Quan Kiệt đi tìm thì y nghe thấy tiếng người nói lao xao cách đó không xa, mặc dù nghe không rõ nói cái gì nhưng trong đó có một giọng nói thanh nhã, rành rọt, chính là của A Kiều.
Lưu Triệt thầm thở dài một hơi. Y bỏ đoàn, phi ngựa chạy một mạch đến Lâm Phần chẳng qua là muốn sớm được gặp A Kiều nhưng bây giờ người ở ngay trước mắt thì y lại không vội mà dẫn cả nhóm từ từ đi tới. Bên hồ toàn là cỏ lau tươi tốt cao đến đầu người, có con đường nhỏ sình lầy dẫn đến một đầm sen ở bên cạnh. Lúc này hoa sen đã tàn, ngay cả lá sen cũng héo quắt không còn nguyên dạng. Mấy người nông dân đứng rải rác lấy củ sen ở dưới đầm, chợt có một phụ nữ trạc tuổi trung niên trong số đó quay đầu lại gọi lớn, “Long phu nhân, người hãy về đi thôi. Nơi này bùn đất, làm ô uế quần áo của người thì ngại lắm.”
“Không sao đâu, Tiền đại thẩm”, A Kiều mỉm cười đáp, “Ta chờ thêm lát nữa.”
“Thật không ngờ”, Ninh Triệt đang đứng hóng mát bỗng nói “Long phu nhân lại có hứng thú thích xem bọn họ lao động đến như vậy.”
Nàng sầm mặt, liếc nhìn bộ y phục trắng tinh như mới của hắn, có vẻ suy nghĩ gì đó rồi hỏi lại: “Ta thích tới nơi này thì liên quan gì tới Ninh công tử chứ?”
“Thật ra thì.” Ninh Triệt cũng không lấy làm phiền, thản nhiên nói thẳng, “Ta là thân sĩ tử, vốn không nên hỏi tới chuyện của thương nhân nhưng vì từ thuở nhỏ đã mất cha mẹ, để nuôi gia đình nên vạn bất đắc dĩ mấy năm qua cũng phải làm việc cho Tang tư nông, trông coi chuyện lương thảo, bạc tiền của quốc gia. Mặc dù thương nghiệp bị xem nhẹ nhưng cũng có thể tìm được đường sống.”
Nghe hắn nhắc tới Tang Hoằng Dương, A Kiều liền thấy hứng thú, hỏi: “Hiện nay Tang tư nông đang tập trung vào buôn bán với Than Độc, Ninh công tử chắc cũng có hứng thú.”
Ninh Triệt thở dài đáp, “Dân gian có câu ‘Còn cha mẹ, không đi xa’. Mặc dù ta không còn cha mẹ nhưng vẫn nhớ tới kỳ vọng của cha mẹ trước lúc lâm chung. Thân Độc xa xôi vạn dặm, không nên tùy tiện mạo hiểm.”
Người đời ai cũng muốn phụng dưỡng mẹ cha, A Kiều chợt cảm thấy bi thương, bèn nói: “Xin lỗi, không biết lệnh tôn, lệnh đường…”
“Không sao.” Ninh Triệt cười một tiếng khoáng đạt, “Năm Kiến Nguyên, sông Hoàng Hà đổi hướng. Dân chúng tử thương vô số. Cha mẹ ta cũng vậy. Còn không biết ngày giỗ nữa.”
“Hoàng Hà đổi hướng?” A Kiều sửng sốt.
“Đúng vậy.” Ninh Triệt hơi cảm khái, “Hãy nhìn thành Lâm Phần này. Nó nằm bên bờ sông Phần, nếu Hoàng Hà lại tràn tiếp sang thì sẽ phải có vô số người trong thành Lâm Phần tử thương đó.”
“Thượng Quan nhị tiểu thư”, Phiếu Tử không cảm thấy hứng thú với chuyện hai người đang nói, ngầm giật giật tay áo Thượng Quan Linh khẽ nhắc: “Mặt trời đứng bóng rồi, lúc nào thì phu nhân mới quay về?”
Thượng Quan Linh vốn là tiểu thư con nhà đại gia, tuy chỉ là dòng thứ không được sủng ái, nhưng cũng chưa từng phải ăn ngủ ở chốn ruộng đồng. Mấy ngày nay cô đi theo A Kiều, mặc dù thấy không quen nhưng cũng có rất nhiều điều mới lạ. Bình tâm mà xét thì cô cũng không e ngại cuộc sống này. Cô trông chừng sắc nước, điềm nhiên đáp: “Cũng phải một lát nữa.” Bỗng nhiên cô nín bặt, nhìn một đoàn người từ phía sau đang chậm rãi đi tới. Tuy cô là tiểu thư con quan nhưng chưa từng có vinh hạnh được gặp bậc đế vương chí tôn ở cung Vị Ương. Lúc này, cô thấy ca ca tính tình cao ngạo lại một mực cung kính đi theo phía sau người đang đến thì liền mơ hồ đoán được thân phận người đó. Dù cô thông minh linh lợi nhưng vẫn là đứa trẻ mười ba tuổi nên chỉ biết đứng ngây ra, không biết nên hành lễ hay là nên quay lại báo cáo cho Trần nương nương. Suy nghĩ chốc lát, cô vội vàng bước tới kéo tay tay áo Trần A Kiều.
A Kiều quay đầu lại, trông thấy người kia thì lập tức sững người. Nàng vẫn biết tính tình y vốn đơn thuần nhưng chưa nghĩ sẽ gặp nhau ở đây. Một cảm xúc không tên mãnh liệt trong nháy mắt bao phủ tâm hồn nàng, không phân biệt được là nhớ mong hay là cảm động. Lưu Triệt ở đằng xa chỉ thấy A Kiều run người một lát, bỗng nhiên cười lên khanh khách, lao về phía y. Y chẳng kịp quản đến những nghi ngờ trong lòng về chuyện âm thầm tình tự, vội vàng la lớn, “Cẩn thận”, lui lại một bước, ôm nàng vào lòng. Con đường bùn lầy như vậy, nếu không cẩn thận trượt chân thì sẽ thành chuyện để đàm tiếu.
A Kiều vẫn giữ nguyên nét mặt tươi cười rạng rỡ. Sau năm Nguyên Quang, Lưu Triệt gần như không còn trông thấy nàng cười khoan khoái không hề giữ ý như vậy nữa. Khuôn mặt nàng tựa như mặt trời mọc lên vượt tầng mây, tỏa sáng vạn trượng khiến y không thể nào rời mắt. A Kiều ôm chặt lấy vai y, định gọi rồi lại ngừng, suy nghĩ một chút mới gọi một tiếng khe khẽ: “Triệt Nhi”, trong lòng ngập tràn hạnh phúc.
Y chấn động, hỏi lại: “Nàng vừa gọi là gì?”
Ninh Triệt ở đằng kia thoáng lộ ánh mắt suy tư, mỉm cười chắp tay nói, “Vị này chắc là Long tiên sinh rồi. Ngưỡng mộ đại danh đã lâu.”
Lưu Triệt giật mình, thấy A Kiều ở trong lòng khẽ ối một tiếng rồi định tách ra. Song đây là lần đầu tiên nàng “rúc đầu vào ngực”, Lưu Triệt sao chịu bỏ qua. Y giữ nàng ở bên cạnh, lạnh lùng cười một tiếng rồi đáp: “Không dám nhận.”
Tiền đại thẩm ở xa nhìn sang thấy tình cảnh bên này,mặc dù đang làm việc nhưng vẫn vui vẻ cười nói, “Long phu nhân, phu quân người trở về rồi, nhìn hai người đúng thật là trái tài gái sắc ông trời tác hợp.”
A Kiều khẽ cúi đầu, hơi đỏ mặt. Lưu Triệt nhìn buồn cười, lúc này mới chú ý thấy quần áo của nàng không tỉ mỉ mềm mại bằng thường ngày. Quả nhiên như tin tức báo về, A Kiều mặc y phục bình dân, song vẫn không thể nào che lấp vẻ cao quý của nàng. Vì thế khi mới nhìn nàng, y cũng không chú ý. Lúc này quan sát kỹ mới thấy A Kiều dù bớt đi một phần cao quý nhưng nhiều hơn một phần thanh tân. Làn da nàng vì đi nắng nhiều nên hơi nhuốm nâu, càng xinh đẹp khó tả. Y xa A Kiều đã gần một tháng, nhớ thương khôn nguôi, lúc này lại càng miệng đắng lưỡi khô, không muốn dây dưa nhiều, nắm chặt tay nàng, thì thầm: “Về thôi.”
A Kiều thấy ánh mắt nóng bỏng chết người của Lưu Triệt thì hiểu ngay, khẽ cất tiếng vâng dạ. Đám cung nhân cực kỳ yên lặng, không dám nói năng gì, bước theo sau. Thượng Quan Kiệt được Lưu Triệt liếc mắt nhắc nhở trước khi rời đi nên cũng lui lại phía sau. Hắn thấy thứ muội Thượng Quan Linh mân mê vạt áo nhìn hai người đi phía trước, vẻ mặt phức tạp, bất giác hỏi, “A Linh, có chuyện gì thế?”
Thượng Quan Linh cúi đầu, khẽ đáp: “Không có chuyện gì.”
Ngạn ngữ có câu “Tiểu biệt thắng tân hôn”[1] huống chi gần một tháng xa cách đủ để cho Lưu Triệt và Trần A Kiều hiểu được tình cảm phức tạp giữa hai người nên càng thêm nhung nhớ. Vừa về đến biệt viện, Lưu Triệt vẫy tất cả người hầu lui ra rồi ôm giai nhân vào lòng, nhẹ nhàng tháo chiếc trâm ngọc khiến suối tóc đen mượt của nàng xõa xuống gần như che lấp mặt y, tỏa ra hương thơm dìu dịu. Nàng phì cười, âu yếm, “Sao chàng trở về vào lúc này?”, sóng mắt lưu động uyển chuyển đẹp khó tả xiết. Lưu Triệt hơi lúng túng. Tính y yêu mỹ nhân, nhưng chỉ có một Trần A Kiều là khiến y bị ép tới mức mấy lần phải làm ra những chuyện ngay bản thân cũng thấy là vọng động. Song y vẫn không lộ ra nét mặt, mà chỉ khẽ cười hỏi: “Chẳng lẽ Kiều Kiều không đoán được sao?”
[1] Tiểu biệt thắng tân hôn: Vợ chồng xa cách ít ngày khi gặp lại còn mạnh mẽ và say thắm hơn đêm tân hôn.
Ngày đó y viết bài thơ gửi cho nàng chỉ bởi vì phiền muộn nên cũng muốn làm cho nàng buồn theo, nhưng nào ngờ lại vất bỏ xe ngựa nghi trượng tự mình chạy đến Lâm Phần gặp nàng. Bình tâm nghĩ lại thì việc y làm như vậy lại khiến cho nàng thấy vui trong lòng. Phàm đã là nữ giới, phần lớn sẽ đều hân hoan khi một người đàn ông vì mình mà vứt bỏ chính sự, phi ngựa tới gặp, huống chi người đó đúng ra thì không thể làm chuyện như vậy.
“Thế nhưng mà…” Nàng vừa định nói thì Lưu Triệt đã không kiềm chế được, ngắt lời: “Những chuyện khác đợi lát nữa nói sau.” Y cúi xuống hôn lên đôi môi kiều diễm. Nụ hôn của y độc đoán và nóng rực, nàng rất nhanh không thể cưỡng lại, ngả xuống giường cùng y. Nàng có cảm giác mình như một chiếc thuyền cô độc giữa biển vắng mịt mù, bị hủy diệt qua mỗi đợt sóng lớn ập tới, nhưng mỗi lần như vậy y lại càng cuộn lên con sóng lớn hơn khiến nàng không thể chống đỡ. Cuồng nhiệt trên giường đến tàn đêm, Lưu Triệt mới đứng dậy, ăn mặc chỉnh tề xong thì dịu dàng nói với A Kiều còn ngái ngủ: “Nàng ngủ thêm một chút nữa đi.” Y quay sang dặn Lục Y, “Ở lại đây chăm sóc nương nương.”
Lục Y trong bụng vui mừng, mỉm cười khuỵu gối nói: “Nô tỳ cẩn tuân ý chỉ bệ hạ.”
Ngự tiền tổng quản Dương Đắc Ý không có ở đây, người duy nhất trở lại cùng Hoàng đế là nội thị Tiểu Dung. Hắn đứng canh ngoài cửa phòng trong, thấy Lưu Triệt đi ra liền vội vàng khom người nói: “Lang trung lệnh Thượng Quan Kiệt vẫn quỳ trong viện nói là không có năng lực, phụ ý chỉ của bệ hạ nên tới đây để thỉnh tội.”
Lưu Triệt ngẩn ra một lúc mới nhớ tới ý chỉ của mình bảo Thượng Quan Kiệt chú ý đến sĩ tử tên gọi là Ninh Triệt kia. Y nhướng mày cười lạnh nói, “Chỉ có một tên sĩ tử mà hắn cũng không theo dõi nổi thì còn làm được gì?”
“Bệ hạ nói phải”, Tiểu Dung vẫn khom người, cung kính nói, “Chỉ là Thượng Quan đại nhân…”
Lưu Triệt gặp lại A Kiều nên tâm trạng đã thanh thản trở lại, lúc này nghĩ tới những báo cáo về Ninh Triệt thì bất giác nổi giận đùng đùng, phất tay áo xoay người lại nói: “Bảo hắn đến đại đường gặp ta.”
Thượng Quan Kiệt tiến vào đại đường, thấy Hoàng đế đang ngồi ngay ngắn trên ghế cúi đầu uống trà, nét mặt nhìn không ra là vui hay giận thì thầm giật mình, biết chuyện lần này không hay, liền quỳ xuống bẩm, “Tội thần Thượng Quan Kiệt tham kiến bệ hạ.”
Lưu Triệt trầm ngâm một lát mới nói, “Hãy nói xem, ngươi đường đường là lang trung lệnh của Đại Hán có thể điều động tới gần trăm Kỳ Môn quân trong thành Lâm Phần, tại sao để cho một tên sĩ tử chạy thoát?”
“Ninh Triệt chắc không phải là sĩ tử bình thường.” Thượng Quan Kiệt cúi đầu bẩm, “Bởi vì bệ hạ cũng không dặn bảo rõ ràng xử trí người này như thế nào, nên thần chỉ sai mấy thị vệ bám theo hắn, thấy hắn về nhà làm rầm rĩ một hồi rồi thôi. Thần cũng không để ý lắm, chỉ cùng mọi người đứng canh chừng trước cửa nhà hắn. Không ngờ thật lâu không thấy có động tĩnh gì nên mới vào xem thì không thấy tung tích hắn đâu nữa, chỉ phát hiện thấy trong nhà hắn có địa lao thông ra ngoại ô.”
“Bất tài.” Lưu Triệt giận dữ, ném cái chén nhỏ trong tay về hướng Thượng Quan Kiệt. Thượng Quan Kiệt không dám tránh, bị ném trúng trán chảy máu đầm đìa, nước trà đổ tung tóe khắp người trông hết sức nhem nhuốc. Lưu Triệt vẫn chưa nguôi giận, quát: “Dẫn hắn ra ngoài. Cả mấy tên thị vệ vô dụng kia nữa. Phạt mười trượng!”
Trong phòng, Trần A Kiều cũng đã tỉnh dậy, đang để cho Lục Y hầu hạ tắm rửa thì nghe tiếng trượng đánh và tiếng kêu rên trong viện liền hỏi, “Bên ngoài có chuyện gì vậy?”
“Nghe nói Thượng Quan đại nhân phụng mệnh bệ hạ điều tra Ninh công tử nhưng để cho Ninh công tử biến mất ngay trước mắt nên đang bị phạt trượng”, Lục Y không đành lòng nói, ghé sát tai A Kiều thì thầm: “Bệ hạ cũng có quan điểm giống nương nương, Ninh công tử quả nhiên có chút bản lĩnh, không phải là người bình thường.”
Trần A Kiều chỉ cười không nói gì. Chưa nói đến gì khác chỉ riêng chuyện trên con đường nhỏ bùn lầy bên hồ Phi Điểu hôm đó, nàng và Lưu Triệt đều không tránh khỏi bị vấy bẩn y phục, nhưng bộ y phục màu trắng của Ninh Triệt lại rất sạch sẽ. Một chuyện nhỏ như vậy đã vô tình làm lộ thân phận của hắn. Một sĩ tử bình thường lại có thể giữ được y phục trắng muốt trong bùn lầy sao?
“Thật ra thì”, Lục Y lại nói, “Phi Hoằng đã bám theo Ninh công tử, Thượng Quan đại nhân vốn không đáng bị phạt.”
Trần A Kiều lườm sang một cái, Lục Y bất giác lo sợ, “Nương nương, nô tỳ nói sai điều gì hay sao?”
Nàng thản nhiên nói, “Chuyện Phi Hoằng không thể nói cho người khác biết.”
“Tại sao?”, Lục Y hỏi, “Chẳng phải nương nương đã hòa thuận với bệ hạ rồi sao? Nếu có thể làm nguôi cơn giận của bệ hạ, cớ sao không làm?”
“Bởi vì”, nàng đứng sau rèm mặc lại y phục, “bệ hạ không chỉ là phu quân của ta mà còn là bệ hạ của Đại Hán. Nếu người bệ hạ phái đi không làm được việc mà người của ta lại làm được, vậy chẳng khác gì làm mất thể diện của người. Dù người không nói ra thì trong lòng cũng sẽ không vui.” Hơn nữa, chuyện này xảy ra do nàng.
“Tại sao lại so sánh như vậy được chứ?”, Lục Y không phục nói: “Thượng Quan đại nhân hành sự theo cách công khai của quan viên, còn Phi Hoằng lại là cao thủ lăn lộn trên giang hồ thì so sánh thế nào đây?”
“Nhưng ngươi phải nhớ kỹ là không được nhắc tới”, nàng gí vào mũi Lục Y, nói.
“Được rồi”, Lục Y đáp, lại hỏi, “Bệ hạ đã trở lại, hôm nay nương nương mặc y phục mới may hay y phục mang theo từ trong cung?” “Việc này”, A Kiều do dự một hồi, nói: “Cứ mặc như thường đi, nhưng khi rời khỏi Lâm Phần thì không cần đem theo những y phục này nữa.”
Đây chẳng qua chỉ là một hơi thở thoảng qua, một giấc mộng điền viên khi nàng rời khỏi Trường An hoa lệ. Trời sáng lên, tỉnh mộng rồi thì lại trở về, những chuyện trong giấc mộng đều xóa hết không còn dấu vết. Lục Y gật đầu, chọn một bộ y phục màu xanh thay cho nàng.Quyển 4 - Chương 78: Phía Đông hửng nắng chiếu nhân gianNàng ra khỏi phòng, xuống đến hành lang thì thấy Lưu Triệt mặc y phục màu đen đang chắp tay đứng bên cạnh giàn dưa trong vườn. Y nghe tiếng, quay đầu lại, thấy bộ y phục của nàng thì thoáng có vẻ ngạc nhiên, nét mặt tươi cười hỏi: “Kiều Kiều đã tỉnh dậy rồi à?”
“Ồn ào thế này, thϊếp có muốn không tỉnh cũng không được.” Nàng mỉm cười nói, “Triệt Nhi đang nhìn cái gì đấy?”
Cặp mắt Lưu Triệt sáng lên, nắm lấy tay nàng, nói: “Không có gì, chỉ là thấy giàn dưa này lại nghĩ đến đời sống dân chúng mà thôi. Văn hoàng đế trước kia từng nói việc đồng áng là gốc rễ của thiên hạ, quả thật là chí lý. Mấy năm qua trẫm lo đánh trận, cũng đến lúc chăm lo đời sống dân chúng rồi.”
“Bệ hạ có thể nghĩ như vậy”, nàng vui mừng, nói: “đúng là phúc cho dân chúng. Chẳng qua…”
Nàng chưa nói xong đã thấy Phiếu Tử tới bẩm báo, “Bệ hạ. Trần nương nương.” Cô vào cung chưa lâu, mặc dù Trần A Kiều đối xử thân thiện nhưng lại hiếm khi được gặp Hoàng đế nên bây giờ đứng trước mặt Lưu Triệt thì không khỏi run rẩy, gắng gượng nói cho hết lời, “Vị Tiền đại thẩm kia tới thăm, xin được gặp nương nương. Mọi người không biết xử lý như thế nào nên bảo nô tỳ tới bẩm báo.”
Người ở thành Lâm Phần đủ tư cách cầu kiến Trần A Kiều không phải là không có nhưng chắc chắn không phải là một phụ nữ nông thôn, tuy nhiên bà ta không biết thân phận Trần nương nương. Trần nương nương gặp và đối xử thân thiện với người ngoài là chuyện của nàng nhưng nếu bọn họ đến biệt viện lại là chuyện khác.
“Thật không?” Trần A Kiều có chút kinh ngạc, buông tay Lưu Triệt, nói, “Mời bà ấy vào đi.”
“Long phu nhân.” Nhà nông vốn đối xử với nhau rất tình cảm, lúc rảnh rỗi thường đến thăm nhà nhau. Bọn họ vừa tới ở đây không lâu, mọi người thấy phong cách không tầm thường, lại không biết lai lịch nên giữ thái độ khá e dè. Song Trần A Kiều cư xử rất hòa đồng nên chiếm được cảm tình của mọi người. Hôm nay, Tiền đại thẩm thấy phu quân nhà người ta trở về đoàn tụ nên khi xong việc đồng áng về nhà mới nghĩ đi nghĩ lại rồi cầm vài thứ tới gặp để chúc mừng. Nhưng bước vào trong viện, bà thấy khí thế, sắc mặt của đám người hầu nhà họ Long thì nơm nớp lo sợ, mãi khi gặp được Trần A Kiều mới thở phào nhẹ nhõm, mỉm cười nói, “Hôm nay thấy Long tiên sinh trở về, vừa may có ngó sen non nên ta đem một ít sang cho hai vợ chồng làm món nhắm rượu, coi như mừng hai người đoàn tụ.”
A Kiều tròn xoe mắt, cảm giác rất lạ lẫm vì dù ở kiếp trước hay kiếp này thì nàng cũng chưa từng nhận lễ của người không quen biết. Nàng rất cảm động trước tâm ý của Tiền đại thẩm, nhận lấy cái rổ rồi nói: “Vậy thì đa tạ đại thẩm rồi, nhưng ta cũng không thể nhận không lễ vật của đại thẩm.” Nàng xoay người lại bảo, “Phiếu Tử, đi lấy chút tiền.”
Phiếu Tử đang đứng cách xa Lưu Triệt nghe vậy thở phào một hơi, khôi phục thần sắc, khuỵu gối, cười một tiếng rồi mới đi.
“Không cần.” Tiền đại thẩm khoát tay cười nói, “Mùa này ở nông thôn có rất nhiều ngó sen, cũng chẳng đáng là bao, nên nào dám lấy tiền của phu nhân.” Trần A Kiều tinh nghịch, nói, “Vừa khéo thứ nhà ta có nhiều nhất chính là tiền Ngũ Thù, thế nên đại thẩm cứ lấy một giỏ đi.”
Tiền đại thẩm nghe vậy bật cười, nói: “Đã vậy thì ta nhận.” Bà ta liếc Lưu Triệt ở khá xa, thấp giọng nói với A Kiều: “Long phu nhân, xem ra phu quân của người là một nhân vật không phải tầm thường, lại rất yêu thương người, người phải tích phúc đấy.”
A Kiều cũng chỉ cười, tiễn Tiền đại thẩm xong liền đưa giỏ ngó sen cho Phiếu Tử, căn dặn, “Mang xuống bảo đầu bếp làm bữa tối.” Phiếu Tử vâng dạ rồi nhẹ bước lui ra.
“Xem ra”, phía sau truyền đến giọng trêu chọc của Lưu Triệt, thì ra y nhân lúc nàng dặn dò Phiếu Tử đã lẳng lặng đến gần nói: “Nếu không phải trẫm về kịp thời thì chẳng mấy hôm nữa Kiều Kiều sẽ trở thành một phụ nữ nông dân thật sự rồi.”
Nàng bật cười, xoay người lại hỏi vẻ nghiêm túc: “Thì đúng là như vậy. Còn mấy ngày nữa thì nghi trượng đi tuần thú phương đông mới về tới Lâm Phần, không biết bệ hạ có nguyện ý cùng A Kiều giả trang thành một nông phu trong mấy ngày này không?”
Lưu Triệt nhìn nàng thật sâu, từ từ nói: “Khanh đã muốn vậy thì trẫm không từ chối.”
Lúc Thượng Quan Kiệt chịu phạt trượng thì Thượng Quan Vân cùng Thượng Quan Linh đều ở trong biệt viện. Thượng Quan Vân mở cửa sổ từ trong phòng nhìn ra, thấy ca ca ở đằng xa mặt trắng bệch, miệng kêu la đau đớn thì bất giác nước mắt chảy ròng ròng. Cô nghe Thượng Quan Linh ở phía sau khẽ thở dài một tiếng, cả giận nói, “Đó cũng là ca ca của muội, vì sao muội không hề đau xót chút nào chứ?”
“Tỷ tỷ nói không đúng rồi.” Thượng Quan Linh nheo mắt: “Tỷ tỷ sao biết muội muội không đau xót? Chẳng lẽ cứ đau xót là phải khóc như tỷ tỷ sao? Điều chúng ta cần làm bây giờ là lấy thuốc trị thương bôi cho ca ca.”
Thượng Quan Vân nén giận, tự đi lấy thuốc trị thương rồi cùng Thượng Quan Linh tới chỗ Thượng Quan Kiệt. Thượng Quan Kiệt được bôi thuốc xong thì nằm dài trên giường, thở dài nói, “Vân muội, ca ca chịu biết bao khổ cực mới tạo ra được cơ hội như vậy cho hai muội. Muội là tỷ tỷ mà sao không thông tuệ như Linh muội, lại bỏ lỡ cơ hội chứ?”
Thượng Quan Linh đứng ở phía sau Thượng Quan Vân, nghe vậy hơi sững người, lặp lại hai chữ “Linh muội” rồi cười nhạt. Từ trước vẫn chỉ gọi cô là A Linh, giờ đổi suy nghĩ rồi sao? Thượng Quan Vân oán hận trợn mắt nhìn Thượng Quan Linh, ấm ức nói, “Muội không làm được chuyện như vậy.”
Cô là tiểu thư con nhà quyền quý, tự xưng cầm kỳ thi họa đều không thua kém ai, tinh thông cả môn đàn tỳ bà sở trường của Trần nương nương. Đáng ra cô phải được như ước nguyện, nào ngờ Trần nương nương căn bản không ra bài theo quy củ. Thượng Quan Kiệt thầm than một tiếng rằng đúng là gỗ mục không thể dùng để điêu khắc, cũng là cha mẹ và mình làm hư cô. Hắn chán nản nói: “Các muội trở về đi thôi.”
Thượng Quan Vân nhẫn nhịn trở về phòng, cuối cùng quay sang quát Thượng Quan Linh, “Muội đắc ý rồi chứ. Muội chỉ là con dòng thứ thế mà lại được Trần nương nương khen ngợi, ngay cả ca ca giờ cũng đối xử khác, vượt qua cả ta. Đắc ý quá rồi. Cũng chỉ là chịu hạ mình nịnh nọt người ta chứ có gì đặc biệt hơn người?”
“Tỷ tỷ nói vậy sai rồi.” Không ngờ Thượng Quan Linh lắc đầu, “Thứ nhất, nương nương không thích tỷ tỷ nhưng vẫn đối xử bình thường giống như với muội, có thấy phân biệt gì đâu. Thứ hai, tỷ tỷ cho rằng mình xuất thân cao quý nên không chịu hòa đồng với đám bình dân nhưng tỷ không biết rằng một người thực sự cao quý, chẳng hạn như Trần nương nương, dù có làm chuyện gì thì cũng vẫn là người cao quý. Chẳng phải bệ hạ đã tận mắt nhìn thấy nhưng lại càng thêm sủng ái nương nương sao? Tỷ tỷ quá để tâm tới hình thức nên không thấy bản chất mà thôi. Thứ ba, muội chưa bao giờ phải hạ mình. Nương nương làm việc khác hẳn suy đoán của mọi người. Trong một tháng qua, muội đi theo người, làm những chuyện mình chưa bao giờ làm mà cảm thấy vui vẻ, càng thêm kính nể người chứ không hề hạ mình.”
Thượng Quan Vân im lặng nhìn muội muội vẫn luôn đứng sau lưng mình bằng ánh mắt xa lạ, dường như đây không phải là muội muội từ nhỏ lớn lên với mình mà là một cô nương chưa từng gặp bao giờ.
Đoàn xe ngựa nghi trượng của Hoàng đế đi chậm dọc theo sông Phần suốt một ngày, mãi tối muộn mới đến địa giới Tấn Trung. Ngự tiền tổng quản Dương Đắc Ý tuyên chỉ của bệ hạ là nghỉ đêm ở Tấn Trung, ngày sau lại tiếp tục lên đường. Một thiếu nữ mặc bộ quần áo màu xanh ngọc từ ngự liễn nhảy xuống. Dương Đắc Ý vội vàng tiến lên nghênh đón và nói, “Công chúa điện hạ đi xe ngựa cả ngày mệt nhọc, hãy về hành cung nghỉ trước đi.”
Lưu Sơ nhướng mày định nói nhưng nghĩ ngợi gì đó lại thôi, chỉ hừ lạnh một tiếng rồi đi ngang qua Dương Đắc Ý vào trong hành cung. Quan viên Tấn Trung đã tốn bao công sức để nghênh đón ngự giá, tiến hành sửa sang lại tẩm điện của hành cung, mặc dù không được phồn hoa như hai cung Vị Ương, Kiến Chương trong thành Trường An nhưng cũng hơn cũ rất nhiều. Mạc Sầu hầu hạ Lưu Sơ rửa mặt, quan sát thấy Công chúa vốn tình tình luôn hiền hòa giờ lại đang u ám, hỏi thăm dò, “Bệ hạ biết rằng sức khỏe Công chúa không tốt, lại không biết cưỡi ngựa nên mới không dẫn Công chúa cùng đi.”
“Nhưng ta cũng rất nhớ mẫu thân mà”, Lưu Sơ bực tức nói, “Thường ngày vẫn nói ngàn thương vạn thương ta gì gì đó, đến lúc then chốt thì lại bỏ mặc ta mà đi. Coi như ta đã được thấy nhà đế vương vô tình nhất.”
“Công chúa, người sao có thể nói vậy.” Mạc Sầu không biết nên khóc hay cười, cẩn thận nhìn bốn phía, dặn dò, “Chớ để người khác nghe được câu này. Nếu lọt ra, cho dù bệ hạ sủng ái Công chúa nhất cũng sẽ không dễ dàng tha thứ đâu.”
“Vốn thật thế mà.” Lưu Sơ ngồi trên giường, càng nghĩ càng thấy lòng lạnh lẽo, “Ngay từ khi ra khỏi Trường An đã không có ca ca ở bên cạnh, đến Lâm Phần thì mẫu thân bị bệnh không thể đi tiếp được. Hôm nay ngay cả phụ hoàng cũng bỏ ta lại nữa. Cuối cùng chắc hẳn là ta một thân cô quạnh ở trong nghi trượng ngự giá trở về kinh.” Cô không nén nổi bực bội, đứng lên nói, “Ta ra bên ngoài đi dạo một chút, không cần ai đi cùng.”
Lưu Sơ rời khỏi tẩm điện, mặc kệ Mạc Sầu gọi lớn phía sau. Một cơn gió thu thổi qua khiến cô tỉnh táo hơn. Cô đi dọc một đoạn hành lang, chợt nghe thấy tiếng cười khí phách hào hùng ở phía hành lang tiếp theo, “Quan Quân hầu có đệ đệ như ngươi cũng có thể được an ủi suốt đời.”
Tiếng cười có vẻ hơi quen quen nhưng thứ mà cô quen thuộc đến tận xương cốt chính là danh hào đã lâu không ai nhắc tới kia, cho đến tận giờ nhắc lại cô vẫn còn thấy đau đớn. Cô đứng ở góc hành lang nhìn xuống, bên dưới toàn là cây cảnh. Cây cuối thu lá úa vàng, chỉ có vài gốc tùng bách là còn giữ được màu xanh biếc. Có hai thiếu niên đang đứng nói chuyện với nhau dưới tàng cây, người quay lưng về phía cô có bờ vai rộng lớn, trông hơi quen quen nhưng nhất thời cô không nhận ra là ai. Thiếu niên đứng đối diện dường như nghe thấy gì đó, hơi ngẩng đầu lên trông thấy cô liền lộ vẻ sửng sốt, mắt ánh lên tia kinh ngạc. Hắn có gương mặt thanh tú, còn đẹp gấp mấy lần những cô gái bình thường.
Thiếu niên khom người bái chào, “Thần, đại phu Hoắc Quang, tham kiến Công chúa Duyệt Trữ.”
Thiếu niên đứng trước vội vàng quay lại lộ vẻ hào hứng. Đó chính là Kim Nhật Đan mà cô từng gặp trong cung Thái tử Lưu Mạch. Hắn cũng bái chào theo quy củ, tuy cúi đầu nhưng giọng nói lại để lộ ra một thứ tình cảm không kiềm chế được.
“Miễn lễ.” Lưu Sơ nhìn hai thiếu niên, lòng chợt bùi ngùi. Cô nhớ lại năm xưa từng có duyên gặp mặt hắn một lần ở trước giường bệnh Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh. Lúc đó hắn nhỏ hơn mấy tuổi so với bây giờ, còn chưa trưởng thành nhưng cũng đã có khuôn mặt tuấn tú.
“Đây là đệ đệ khác mẹ của huynh, tên là Hoắc Quang.” Hoắc ca ca đã nói như thế, đó là lần cuối cùng cô gặp Hoắc ca ca. Ngay ngày hôm sau, Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh bệnh nặng qua đời. Nếu Hoắc Khứ Bệnh không chết, cô sẽ quen thân với thiếu niên này. Song vận mệnh đã đùa giỡn cô, sau khi Hoắc ca ca qua đời, mặc dù cô vô cùng đau thương nhưng chưa bao giờ nghĩ tới việc gặp Hoắc Thiện hay Hoắc Quang. Không chỉ bởi vì cô sợ gặp mặt sẽ đau lòng mà còn bởi vì trong nội tâm của cô, Hoắc ca ca chính là Hoắc ca ca, không người nào có thể thay thế được một li một tí, cho dù người đó là con hay đệ đệ của hắn.
Trong thoáng chốc cô hồi tưởng lại những chuyện cũ thương cảm của mình nhưng gương mặt vẫn bình thản. Cô hỏi, “Tại sao Hoắc đại nhân lại gặp Kim đại nhân thế?”
“Bẩm Công chúa”, Kim Nhật Đan ôm quyền đáp, “Thần từng có duyên gặp mặt Quan Quân hầu một lần, rất bội phục. Nghe nói Hoắc đại nhân là đệ đệ của Quan Quân hầu nên nói chuyện với nhau. Hoắc đại nhân thông minh sáng láng, quả nhiên cũng là nhân tài.”
Theo ký ức thì không thể nói tướng mạo của Hoắc Khứ Bệnh không đẹp, dù sao cha mẹ hắn đều là người đẹp xuất chúng nhưng điều trước tiên khi mọi người lần đầu gặp và chú ý tới tuyệt đối không phải là vẻ điển trai bề ngoài mà là khí thế như đao tạc rìu chém, lẫn vào vẻ hào hùng ngựa xéo Hung Nô của hắn. Xét từ góc độ này thì Hoắc Quang không giống ca ca của hắn một chút nào. Nàng nghĩ như vậy, liền hỏi: “Hoắc đại nhân võ nghệ thế nào?”
“Việc này”, Hoắc Quang lưỡng lự một lát rồi mới đáp, “chỉ biết chút ít.”
Lưu Sơ mím môi, xoay người lại nói: “Ra đây đi.”
Hai thị vệ từ trong góc chạy ra, chắp tay chào, “Tham kiến Công chúa.” Một trong hai người không nhịn được hỏi, “Làm thế nào Công chúa biết chúng thần theo sau?”
“Ta không phát hiện được.” Lưu Sơ mỉm cười đáp, “Ta chỉ biết rằng Dương Đắc Ý tuyệt đối không dám để ta đi một mình ở hành cung này.”
“Ngươi”, cô chỉ viên thị vệ vừa hỏi và bảo: “Đưa đao cho Hoắc đại nhân”, rồi xoay lại nói với viên thị vệ nãy giờ vẫn im lặng: “Ngươi hãy thử công phu của Hoắc đại nhân.”
“Nhớ kỹ”, cô lạnh giọng căn dặn đầy thâm ý, “Không được nương tay nhưng cũng không được làm thương tổn Hoắc đại nhân.”
Hoắc Quang bất đắc dĩ nhận lấy mạch đao rồi so chiêu với viên thị vệ. Song hắn rõ ràng là kẻ ngoại đạo về võ nghệ, chống đỡ được mấy chiêu thì ngay cả Lưu Sơ cũng nhìn ra tình cảnh đỡ trái hở phải của hắn. Cô thầm thở dài, cố nén vẻ thất vọng hiện rõ trên hàng mi. Thậm chí ngay cả về mặt này hắn cũng không giống như người kia. Nhưng cho dù hắn có giống với người kia, hào hùng vạn trượng, vũ dũng thiện chiến thì cũng sao chứ? Hắn mãi mãi không phải là người kia, một người độc nhất vô nhị, một người rực rỡ như ánh mặt trời ban trưa nhưng lại mất sớm.
Lưu Sơ mất hứng phẩy tay nói: “Thôi, ngươi về đi.”
Hoắc Quang trả mạch đao cho thị vệ, có chút không phục song trông thấy vẻ đớn đau hiện rõ trên hàng mi người thiếu nữ đang thất thần, chỉ đành thở dài, chán nản rời đi.
“Cô không thể như thế này được.” Chẳng biết bao lâu sau, cô lại nghe thấy giọng nói kia, ngạc nhiên ngẩng đầu lên thì thấy Kim Nhật Đan đang cười. Nụ cười của Kim Nhật Đan cũng giống như vầng thái dương. Nếu nói, Hoắc Khứ Bệnh là ánh mặt trời giữa trưa rực rỡ khiến người khác không dám mở mắt ra nhìn thì nụ cười cởi mở của Kim Nhật Đan lại tựa như vầng thái dương ấm áp trong buổi sáng mùa đông làm cho người khác không nỡ rời xa.
“Ngươi…” Giọng nói của cô có chút lưỡng lự, “tại sao vẫn còn ở đây?”
“Ta biết cô muốn hỏi gì.” Kim Nhật Đan mỉm cười nói, “Về công, cô là công chúa Đại Hán, còn ta chỉ là một triều thần nho nhỏ không thể quản chuyện của cô. Nhưng về tư, ta là bằng hữu tốt của A Mạch, cô lại là muội muội bảo bối A Mạch yêu thương nâng niu ở trên tay, ta không thể nhìn cô chìm sâu vào đau khổ.”
“Cô đi theo ta.” Hắn cầm tay, kéo cô chạy đi. Thi thoảng có cung nhân bắt gặp, ai nấy đều dõi mắt nhìn nhưng Công chúa Duyệt Trữ là công chúa được bệ hạ cưng chiều nhất, cô đã không phản ứng thì nào có ai dám nói gì. Hắn dẫn cô tới chuồng ngựa, chỉ vào con tuấn mã buộc ở trong đó, nói: “Cô hãy nhìn nó.”
“Kim Nhật Đan, ngươi có ý gì.” Lưu Sơ hất văng tay hắn ra, cả giận nói, “Người trong thiên hạ đều biết ta sợ ngựa, ngươi lại cố tình dẫn ta tới nhìn nó.”
Nàng xoay người định bỏ đi. Kim Nhật Đan đứng sau lưng nàng lại thản nhiên nói, “Bị ngã ở nơi nào thì phải đứng dậy từ nơi đó. Công chúa Duyệt Trữ có hai tâm bệnh, một là Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh và một là biến cố Thượng Lâm Uyển, có phải vậy không?”
Lưu Sơ hơi chậm bước lại nhưng không quay đầu mà chỉ cười lạnh, “Là ca ca nói cho ngươi biết. Huynh ấy đối xử với ngươi đúng là hết sức chân thành.”
“Hoàng gia không có gì là bí mật.” Hắn cười nhạt, “Huống chi đây lại không phải là điều gì cần bí mật.”
“Người Hung Nô chúng ta tôn thờ sói ở Trường Sinh Thiên nhưng bạn trung thành nhất lại là tuấn mã.” Kim Nhật Đan tự hào, “Ngựa hiểu tính người, nếu nó trung thành với một người thì cả đời sẽ không thay đổi. Ở trên chiến trường, chiến mã chỉ biết tiến về phía trước, không quay đầu nhìn lại.”
“Công chúa Duyệt Trữ, cô cần gì phải câu nệ quá khứ đến mức không dám nhìn về tương lai nữa chứ.”
“Biến cố Thượng Lâm Uyển là người gây họa chứ không phải tội của ngựa. Công chúa vì vậy mà sợ ngựa thì thật sự là oan uổng cho ngựa rồi.”
“Ngươi chỉ ngụy biện.” Lưu Sơ đáp lại mỉa mai.
Hắn chưa từng trải qua cảnh mẹ ruột của hắn để cứu hắn đã cưỡi tuấn mã phi như bay đuổi theo chém bay đầu ngựa. Máu tươi vấy trên người mẫu thân, máu nhuộm ở trên váy cô cùng đỏ như nhau, đều nóng hổi như nhau. Thật ra thì cô không hề sợ máu ngựa vấy trên người. Con gái hoàng đế Đại Hán mà không có lấy một chút dũng khí can đảm thì làm sao xứng đáng với tổ tiên đã đổ máu giành thiên hạ. Thật ra thì cô chỉ một mực tự trách. Mặc dù là bị người hãm hại nhưng vì cứu cô nên mẫu thân mới mất đi cốt nhục, mới… bị tổn thương sức khỏe phải điều dưỡng bao năm vẫn không hồi phục mà còn rất dễ mệt dễ ốm.
“Công chúa có thể yên tâm”, Kim Nhật Đan mỉm cười nói, “Ta xuất thân từ thảo nguyên, tự tin sức lực và thuật cưỡi ngựa đều tốt hơn A Mạch. Ta sẽ dắt ngựa cho Công chúa chạy một vòng trong cung có được không?”
“Việc này”, cô cắn môi, nóng lòng muốn thử nhưng vẫn không vượt qua được nỗi sợ hãi trong lòng.
“Không phải sợ.” Hắn ôn tồn khuyên nhủ, cho ngựa ăn nắm cỏ khô, nói: “Ngựa có tính tình ngoan ngoãn, cô hãy thử một chút xem.”
Lưu Sơ học theo hắn, cầm một nắm cỏ khô đưa tới mồm ngựa. Con ngựa màu nâu ăn cỏ ngay trên tay cô rồi thè chiếc lưỡi thật dài ra liếʍ liếʍ tay. Cô cười khúc khích, nhìn vào mắt ngựa chỉ thấy vẻ hiền lành.
“Nhìn lâu sẽ khóc đó.” Hắn ở đằng sau chắp tay nói.
Thật sự là cô suýt nữa đã khóc. Cô vội vàng che giấu, quay đầu lại hỏi hắn: “Ngươi thật sự bảo đảm là có thể dắt ngựa cho ta sao?”
Hắn ngẩn người ra, tiếp đó sung sướиɠ cười lớn, “Tất nhiên.”
Kim Nhật Đan kiểm tra yên ngựa, buộc dây cương ngay trước mặt cô rồi đỡ cô lên ngựa. Con ngựa khẽ thở phì phì, tựa như biết thiếu nữ trên lưng yêu chiều mình nên cũng vô cùng thận trọng, ngoan ngoãn cho Kim Nhật Đan dắt đi khắp quá nửa hành cung. Lưu Sơ dần dần bình tĩnh lại, hô lên: “Được rồi, dừng lại thôi. Trời đã muộn, ta cũng phải về rồi.”
Kim Nhật Đan mỉm cười dừng ngựa lại, đỡ cô xuống rồi hỏi: “Thế nào?”
Lưu Sơ trong lòng vui mừng nhưng không muốn để lộ ra ngoài, chỉ thản nhiên đáp một câu, “Không tồi.”
Con ngựa đã được thả dây cương, thơ thẩn ăn cỏ ở bên cạnh. Kim Nhật Đan đang yên đang lành bỗng nhiên biến sắc mặt, vội vàng vọt lên kéo con ngựa ra.
“Có chuyện gì thế?” Lưu Sơ không hiểu chuyện gì bèn hỏi.
Kim Nhật Đan ngồi xổm xuống, ngắt lấy một cọng cỏ răng cưa, “Ở trên thảo nguyên, loài cỏ này có tên là Mã Thượng Phong. Nghe nói ngựa ăn phải thì nó chỉ cần hơi bị một chút kí©ɧ ŧɧí©ɧ là sẽ phát điên. Người Trung Nguyên không giỏi chăn nuôi bằng người Hung Nô nên không mấy ai biết. Ta tưởng rằng chỉ ở Hung Nô mới có cỏ này, thật không ngờ ở Tấn Trung cũng có.”
Lưu Sơ liền biến sắc mặt, “Ngươi nói thật sao?”
Cô cũng ngắt lấy một cọng cỏ rồi bước tới gần con ngựa. Kim Nhật Đan hiếu kỳ nhìn cô, “Cô định làm gì thế?”
Con ngựa mở to đôi mắt hiền lành nhìn cô. Lòng cô chợt mềm nhũn, vứt cọng cỏ đang cầm trong tay đi, bảo, “Dắt nó về tàu ngựa, chớ để nó ăn cỏ khô lung tung nữa.”Quyển 4 - Chương 79: Rắn ẩn trong cỏ đợi ngàn dặmCô đi dọc hành lang trở về tẩm điện. Dương Đắc Ý chờ sẵn ở trước điện, cúi người hỏi, “Công chúa cưỡi ngựa vui vẻ chứ?”
“Nô tài biết Công chúa cảm thấy khó chịu nhưng bệ hạ và nương nương không ở đây, người có thân phận cao nhất hiện giờ chính là Công chúa điện hạ. Kính xin Công chúa nhìn đại cục, ít nhất đừng để lộ ra sơ hở trước khi ngự giá về đến Lâm Phần đón bệ hạ và nương nương.”
“Dương công công”, Lưu Sơ quay sang nhìn viên ngự tiền tổng quản kề cận phụ hoàng hỏi, “Công công ở bên cạnh phụ hoàng đã bao nhiêu năm rồi?”
Dương Đắc Ý giật mình, lúc này từ Công chúa Duyệt Trữ toát ra uy thế trùng trùng, có mấy phần bóng dáng của Lưu Triệt.
“Nô tài đi theo bệ hạ từ năm Kiến Nguyên tới bây giờ cũng đã được mấy chục năm rồi.”
“Như vậy, công công có biết,”, Lưu Sơ mỉm cười hỏi, “Lý tiệp dư và Hình khinh nga của cung Vị Ương quê quán ở đâu không?”
“À…” Dương Đắc Ý kinh ngạc, không biết vì sao Lưu Sơ lại hỏi thế. Hắn suy nghĩ một lát rồi đáp, “Hình khinh nga là đồng hương đất Thục với nô tài, còn Lý tiệp dư là người Trường An.”
“Vậy à.” Lưu Sơ chớp mắt, không biết là ngỡ ngàng hay thất vọng, lẩm bẩm, “Đều không liên quan tới Tấn Trung sao?”
“Vậy thì không phải.” Dương Đắc Ý mỉm cười nói, “Nghe nói dường như là Lý tiệp dư có kể với bệ hạ, nhà mẹ nương nương ở Tế Nguyên, cũng gần quanh đây.”
Gió muộn thổi qua, bóng cây ngoài điện đung đưa vang lên tiếng xào xạc. Một lúc lâu sau Lưu Sơ mới ngẩng đầu lên nhìn Dương Đắc Ý, nghiêm túc nói: “Chuyện ta hỏi hôm nay không được kể cho phụ hoàng và mẫu thân biết.”
Dương Đắc Ý chợt thấy lòng lạnh toát, chẳng lẽ cô công chúa lương thiện đáng yêu nhất này rốt cuộc cũng bước lên con đường mà mỗi người trong cung Vị Ương đều phải đi sao? Đến cùng điều gì đã khiến cô thay đổi? Nhưng hắn là ngự tiền tổng quản thân cận của bệ hạ nên đã chứng kiến vô số chuyện, chỉ khẽ thở dài, nói: “Nô tài cẩn tuân ý chỉ của Công chúa.”
Lưu Sơ nhìn theo Dương Đắc Ý từ từ đi ra rồi so vai tiến vào tẩm điện. Không khí trong điện ấm áp khiến cô khẽ rùng mình. Mạc Sầu vội vàng tới đón, nói: “Công chúa, cuối cùng người cũng chịu trở về rồi.” Cô thấy sắc mặt Công chúa không tốt, lo lắng hỏi, “Công chúa, có chuyện gì sao?”
Lưu Sơ nhìn Mạc Sầu, lẩm bẩm nói: “Ta hơi lạnh.”
“Lạnh?” Mạc Sầu sửng sốt, đưa tay sờ thử lên trán cô thì quả nhiên thấy lạnh ngắt. Giờ đã gần tới mùa đông nhưng Tấn Trung lại không lạnh lắm, hơn nữa Công chúa mặc khá ấm nên càng không có lý do để lạnh. Mạc Sầu không thể nghĩ ra, đành nói, “Để nô tỳ lấy áo dày cho người.”
Cô khẽ gật đầu, để Mạc Sầu mặc thêm áo, hầu hạ rửa mặt. Lúc lên giường, cô lại nhớ tới chuyện năm kia ở Thượng Lâm Uyển. Vì chuyện đó, mẫu thân của cô đã mất đi một phần cốt nhục, thân thể cũng không còn khỏe mạnh, còn Vệ gia cũng mất đi ân sủng của thánh thượng và tính mạng của hoàng hậu. Xảy ra chuyện lớn như vậy nhưng ban đầu lại chỉ vì một con ngựa nổi điên mà thôi. Ca ca nói cho cô biết lý do là lúc ấy Công Tôn Kính Thanh con của Thái phó có tư tình với Dương Thạch công chúa nên lợi dụng chức vị của phụ thân bố trí kim nhọn trong yên ngựa của cô. Không ai tin lời biện giải của hắn, dù sao kết luận cuối cùng vẫn là con ngựa nổi điên. Chuyện đó đã qua được hơn ba năm rồi, nhưng ngoài Lưu Cứ, Dương Thạch, thì còn có cô vẫn không thể quên nổi. Bởi vì đó là lỗi của bọn họ nên mới dẫn tới người mình yêu mến bị tổn thương không cách nào vãn hồi. Nỗi nghi ngờ mơ hồ mà ngay cả bản thân mình cũng không biết là cái gì được ẩn giấu đã lâu đến hôm nay mới dần bộc lộ rõ ràng. Kim giấu ở dưới yên ngựa có thật là do sơ suất không phát hiện ra không? Chắc chắn là người lắp yên ngựa đã cố ý để chuyện phát sinh rồi bản thân mình làm ngư ông đắc lợi ngồi xem hai nhà Trần, Vệ tranh đấu. Trong mắt cô thoáng hiện lên một tia sắc bén. Rất ít người có thể dùng cỏ khiến cho con ngựa trong nháy mắt phát điên lên, nhưng nếu dùng được thì đó quả thật là một nước cờ cao minh. Chỉ là, cô tuyệt đối không tha thứ cho kẻ dám lợi dụng mình để làm tổn thương mẫu thân.
“Lý Chỉ phải không?” Lưu Sơ nhớ tới người đàn bà có dung nhan xinh đẹp đang dần bị quên lãng trong cung Vị Ương, dường như bà ta cũng đã từng cố gắng làm tổn thương ca ca cô.
“Vậy thì tính cả nợ mới, nợ cũ cùng một lượt đi.” Cô chầm chậm nghĩ.
Trong cung Vị Ương cách đó ngàn dặm, Tiệp dư Lý Chỉ đang vịn tay thị nữ thϊếp thân Văn Tâm thong thả đi dạo trong ngự hoa viên, thấy một bóng dáng thướt tha ở trên sân đình phía xa, liền cười khẽ, gọi, “Hình muội muội thật là có hứng đấy.”
Hình Nhược quay đầu lại nhìn rồi đứng dậy đón chào, uể oải cười nói, “Mấy ngày nay thấy người mệt mỏi quá nên ra ngoài hóng gió thôi.”
“Ồ, đúng là trông tiều tụy hơn mấy ngày trước.” Lý Chỉ ra vẻ quan tâm, “Đừng lo lắng, mẫu thân của ta mới gửi cho ít son phấn, để ta đưa một ít tới điện Thừa Hoa, bảo đảm muội muội sẽ xinh đẹp hơn trước.”
“Đa tạ ý tốt của tỷ tỷ.” Hình Nhược thở dài bi thương, “Nhưng bệ hạ không có ở kinh thành, muội trang điểm cho ai nhìn chứ?” Cho dù ở trong thành Trường An thì y cũng chẳng mấy khi để mắt tới các nàng.
Lý Chỉ đồng bệnh nên thông cảm, lòng cũng buồn thảm nhưng cố gượng cười nói: “Muội muội suy nghĩ quá nhiều rồi.”
“Mẫu phi.” Phía sau có tiếng gọi. Một cậu bé chín tuổi mặc trang phục hoàng tử, vạt áo dính mấy vệt bùn, đang lò dò đi từng bước một lên đình, sắc mặt trắng bệch.
“Hoàng Nhi, có chuyện gì vậy?” Hình Nhược sốt ruột, vội vàng chạy ra đón, nổi giận quát nội thị Khúc Ly đi phía sau Lưu Hoành, “Các ngươi chăm sóc Tam hoàng tử thế nào vậy hả?”
“Đừng trách hắn.” Lưu Hoành nói: “Là con muốn tới trường bắn để cưỡi ngựa bắn cung nên mới bị ngã.”
Cậu liếc thấy Lý Chỉ, nhịn đau hành lễ: “Tham kiến Tiệp dư nương nương.”
“Đừng”, Lý Chỉ vội vàng cười nói, “Tam hoàng tử đã bị thương nên không cần đâu.” Nàng nhìn qua rồi nói: “Cũng may là không đáng ngại.”
Hình Nhược đau lòng, dạy dỗ, “Con là hoàng tử, biết cưỡi ngựa là được rồi, cần gì phải quá đam mê để ra nông nỗi này?”
“Dạ.” Lưu Hoành rất nghe lời nghĩa mẫu, thuận theo lời nàng đáp, “Sau này con sẽ không cưỡi nữa đâu.”
“Thật ra thì”, cậu khẽ than, “Có lẽ am hiểu nhất cái gì thì sẽ không đề phòng cái đó. Thường ngày con cưỡi ngựa giỏi nhất, ngay cả Thái tử điện hạ cũng không bằng, vừa rồi là chủ quan nên mới bị ngựa hất ngã.” Lý Chỉ nghe vậy thì ngớ ra, đứng lặng thinh như đang suy nghĩ điều gì.
“Không phải nói nữa. Trở về điện Thừa Hoa để mẫu phi bôi thuốc cho.” Hình Nhược nói xong, quay sang chào, “Lý tỷ tỷ, muội đi trước đây.”
“Cẩn thận một chút.” Lý Chỉ gật đầu, đợi hai mẹ con họ đi xa rồi mới quay sang bảo Văn Tâm; “Tối nay ngươi gọi Xạ Nguyệt tới đây, ta có tin tức bảo cô ta truyền về.”
Những năm này Trần A Kiều độc chiếm ân sủng của Thánh thượng, Thái tử lại vừa có tài vừa có đức. Nàng muốn phá vỡ cục diện bế tắc nhưng nếu không thể đối phó với thái tử Lưu Mạch, thì cần nhằm vào Trần nương nương. Cho dù là hoàng tử nhưng nếu không có thân nương ở trong hậu cung bảo vệ thì sẽ gặp tình cảnh không ổn. Năm xưa khi Vệ hoàng hậu còn tại vị, Lưu Cứ và Lưu Mạch cùng có danh phận hoàng tử, còn hơi có năng lực tranh giành. Vệ hoàng hậu vừa mất thì Vệ gia cũng mất đi chỗ dựa và Lưu Cứ liền bị đẩy ra khỏi triều đình. Mặc dù Lưu Mạch sẽ không tái diễn chuyện xưa của Lưu Cứ nhưng nếu Trần A Kiều không có ở đây thì vị trí thái tử của hắn sẽ không còn ổn định. Người ta thường không đề phòng thứ mình am hiểu nhất.
Lý Chỉ mím môi cười một tiếng, thầm hỏi, Trần nương nương am hiểu nhất là cái gì chứ? Những gì Trần A Kiều học được xuất phát từ Triêu Thiên môn. Triêu Thiên môn được xưng là Y kiếm song tuyệt. A Kiều học y nhiều hơn học võ, y thuật có thể được liệt vào trong số mười danh y nổi danh đương thời. Chỉ tiếc dao sắc không gọt được chuôi, mấy lần bị thương nặng đến mức ngay cả sư phụ của nàng là Tiêu Phương cũng không thể trị tận gốc, còn nói rằng không thể khinh suất mang thai lần nữa, nếu không cả hai mẹ con đều bị tổn thương, rất khó chữa trị. Bệ hạ lo lắng cho Trần A Kiều nên ra lệnh cho Ngự y thự điều chế thuốc ngừa thai, dùng trước khi phu thê ân ái. Trần nương nương uống mấy ngày liền tự viết ra một phương thuốc và ra lệnh Ngự y thự cắt cho mình dùng hàng ngày. Bệ hạ là minh quân đương thời, tài trí tuyệt đỉnh nhưng xử sự vô tình, phi tần hậu cung không dám khinh suất mạo phạm. Tuy bao nhiêu năm qua chỉ sủng ái người trong cung Trường Môn nhưng cũng không ai dám oán trách. Song, không gì là tuyệt đối, có một số chuyện nếu chắc chắn là không để lại dấu vết thì cũng không ngại thử một lần.
Trong thành Trường An, sau khi mấy vị đại phu khám chữa bệnh chính đều đã ra đi thì Tử Dạ y quán dần suy tàn, hôm nay đại phu nổi danh nhất là Ngô Xuân Sinh ở phía nam thành. Tháng Mười mùa đông năm Nguyên Đỉnh thứ tư, thánh giá còn đang trên đường đi tuần thú phương đông trở về, Ngô gia y quán nghênh đón một vị phu nhân quần áo hoa lệ từ trên xe bước xuống, nghiêng người chào Ngô Xuân Sinh rồi đưa ra một toa thuốc. Toa thuốc được viết trên giấy hoa tiên thoảng mùi thơm nhưng Ngô Xuân Sinh lại không rảnh chú ý mà ngạc nhiên hỏi, “Đây là một phương thuốc ngừa thai cực kỳ cao minh, không chỉ ôn hòa mà còn có thể bồi bổ thân thể phụ nữ. Không biết phu nhân đến đây làm gì?”
Cô gái chắp tay, nói: “Phu gia của ta họ Tần. Phu quân cũng học qua y thuật, thương thân thể của ta yếu ớt nên tìm ra phương thuốc này. Ta cảm động tình cảm chân thành của chàng nhưng trong ba tội bất hiếu thì không có con là lớn nhất, dù thế nào cũng phải để lại cho chàng người nối dõi. Nghe nói Ngô tiên sinh y thuật cao minh, có thể chỉ điểm một chút xem thêm vào trong phương thuốc này vài loại dược liệu để đổi công hiệu ngừa thai thành trợ giúp mang thai được hay không?”
Ngô Xuân Sinh trầm ngâm hồi lâu, nói: “Phu nhân có lòng như vậy thật đáng khen nhưng sao không nói rõ với phu quân của người?”
“Ta đã nói nhiều lần rồi”, Tần phu nhân than thở, “nhưng chàng không chịu.”
“Vậy thì khó khăn rồi.” Ngô Xuân Sinh ngần ngừ, “Đừng nói phu quân của người hiểu y thuật, dù không hiểu thì xem bã thuốc cũng có thể phát hiện ra. Huống chi, phương thuốc này tinh xảo, phối hợp phân lượng có thể nói hay tuyệt, đâu dễ thêm bớt để đổi hiệu quả? Dù là có thể thêm vào thì màu sắc, mùi vị chén thuốc đều sẽ thay đổi.”
Tần phu nhân thấy cuối cùng không có cách nào, thở dài rồi cáo từ. Vào đêm đó, Xạ Nguyệt truyền tin tức, nói chuyện không được như ý. Lý Chỉ đem tờ thư đốt trên ngọn nến, trong lòng buồn như đưa đám. Phương pháp bí ẩn như vậy cuối cùng lại không thể dùng sao?
Thuốc có tốt thế nào cũng có lúc sơ suất. Nếu đến lúc đó Trần A Kiều mang thai thì chỉ có thể xem như không may mắn hoặc là do lúc nào đó hưng phấn quá mà quên uống thuốc. Không người nào sẽ nghĩ tới, phương thuốc tránh thai mà Trần nương nương tự mình cắt lại có sai sót. Nói về y thuật, từ sau khi Tiêu Phương rời khỏi cung thì còn ai có thể so được với Trần A Kiều chứ? Ngay cả khi bệ hạ có trừng trị mấy người của Ngự y thự thì vẫn phải đối diện với cái thai trong bụng Trần A Kiều và cũng chỉ có thể lựa chọn là để sinh hay là bỏ đi, mà cách nào cũng có rất nhiều khả năng lấy đi tính mạng Trần A Kiều. Dù cho nàng may mắn sinh nở thuận lợi thì Trần gia đã có hoàng tử rồi, thêm một người nữa cũng không ảnh hưởng quá lớn đến cục diện chính trị, nhưng Trần A Kiều chắc chắn sẽ bị tổn thương nguyên khí nặng nề, mạng như trứng để đầu đẳng[1].
[1]. Trứng để đầu đẳng: Nói tới tình thế hiểm nghèo, bị đe dọa từng giờ từng phút.
“Đáng tiếc”, Lý Chỉ thở dài, vừa nhắc lại câu viết trong bức thư “Phối hợp liều lượng thuốc có thể nói là tuyệt diệu”, thì chợt lóe lên một ý tưởng. Không cách nào tăng thêm thuốc, nhưng giảm bớt đi thì sao? Phối hợp liều lượng thuốc có thể nói tuyệt diệu chẳng phải tương đương với việc ngừa thai sẽ giảm mạnh đi chứ nhỉ?
“Văn Tâm”, nàng cất giọng kêu, “Ngày mai bảo Xạ Nguyệt tới thêm một lần nữa.”
“Tăng thêm hoặc giảm bớt lượng dùng?”, Ngô Xuân Sinh vuốt chòm râu, nói: “Cũng không phải là không thể được, nhưng Tần phu nhân này, người phải hiểu rõ làm như vậy sẽ có hại tới thân thể đấy.”
Vành mắt Tần phu nhân đỏ lên, nói: “Nếu ta có thể để lại cho phu quân một đứa con thì chết cũng không hối tiếc.”
“Được rồi.” Ngô Xuân Sinh thở dài nói, “Ta sẽ cân nhắc, ngày mai phu nhân tới lấy phương thuốc.”
Tần phu nhân gật đầu nói: “Đa tạ Ngô tiên sinh.”
Ra khỏi Ngô gia y quán, sắc mặt của Tần phu nhân nhanh chóng biến thành lạnh băng, thị nữ thấy vậy liền hoảng hốt gọi. “Nhị phu nhân.”
Phu nhân quay đầu lại, ra lệnh, “Đợi lấy được phương thuốc rồi thì chờ thêm một thời gian, trước khi bệ hạ về kinh thì gϊếŧ người kia đi. Không được để cho bất cứ ai nhìn ra một chút dấu vết nào.”
Nghi trượng ngự giá từ Tấn Trung đi dọc theo sông Phần khoảng năm sáu ngày thì cuối cùng cũng tới Lâm Phần.
“Được rồi, Tảo Tảo.” Trần A Kiều trêu chọc Lưu Sơ một lúc lâu thì Lưu Sơ mới tươi cười trở lại. Cô liếc thấy Lưu Triệt đi tới liền hừ lạnh một tiếng, nghiêm mặt lại.
Lưu Triệt thầm buồn cười, biết rõ còn cố hỏi: “Có chuyện gì thế? Ai lại chọc Công chúa Duyệt Trữ nổi giận vậy?”
“Phụ hoàng còn nói nữa à.” Lưu Sơ mắc bẫy nhảy dựng lên, “Ngày đó ai đã bỏ con lại để đi một mình tới gặp mẫu thân?”
Trần A Kiều chỉ cười, quan sát xem Lưu Triệt ứng phó thế nào trước con gái đang tức giận, lại nghe Lưu Triệt âu yếm đáp, “Coi như là phụ hoàng không tốt, nhưng mà ai bảo con không biết cưỡi ngựa. Hơn nữa, nếu Hoàng đế và Công chúa cùng nhau biến mất thì văn võ bá quan chắc chắn sẽ phát hiện ra.”
Lưu Sơ tức đến tối mắt, nghiến răng thề lần này về kinh nhất định phải học cưỡi ngựa. Cô bỗng nhiên tươi tỉnh, ngọt ngào cười nói, “Cho dù là thế thì phụ hoàng cũng không nên bỏ đi tìm mẫu thân mà không hề báo một câu nào.”
“Được rồi.” Lưu Triệt mỉm cười, nói: “Con cần gì phải vòng vèo thế, muốn gì thì cứ nói thẳng ra đi.”
“Được rồi.” Lưu Sơ cũng dứt khoát, giơ một ngón tay thon nhỏ lên quơ quơ trước mặt Lưu Triệt, nói: “Con muốn phụ hoàng hứa rằng nếu sau này con cầu xin phụ hoàng chuyện gì thì phụ hoàng nhất định phải đáp ứng.”
Lưu Triệt không nhịn được quay sang nhìn A Kiều. Năm Nguyên Quang thứ sáu, trên lầu Văn Nhạc, A Kiều đã từng muốn y hứa hẹn một lời. Sau đó nàng dùng lời hứa hẹn này để đổi lấy việc được tự do ra vào cung đình. Y mỉm cười nói, “Sơ Nhi là con gái bảo bối của trẫm, có cầu xin gì, nếu đáp ứng được, trẫm sẽ đáp ứng, còn nếu không thể thì dù lần này có hứa hẹn, trẫm cũng sẽ không đáp ứng. Cần gì phải cầu xin như thế?”
“Lại còn có thể đáp ứng với không thể đáp ứng nữa chứ.” Lưu Sơ vẫn không chịu buông tha, “Ít nhất phụ hoàng cũng phải hứa với con, đến lúc đó sẽ xem xét.”
Lưu Triệt trầm ngâm giây lát, chậm rãi ngắm nhìn Lưu Sơ trước mặt. Thoáng cái mà cô đã mười lăm tuổi, đã đến tuổi có thể lập gia đình rồi. Cô có gương mặt xinh đẹp giống mẫu thân như đúc, tính tình hiền lành ngây thơ, dù khi còn bé lưu lạc giang hồ hay về sau ở cung Vị Ương cũng được phụ mẫu che chở, cơ hồ chưa từng phải chịu gió mưa. Ở trong lòng y, cô vĩnh viễn giống như một đứa trẻ chưa trưởng thành. Song, cuối cùng vẫn đến ngày cô trưởng thành.
“Được rồi”, Lưu Triệt trịnh trọng đáp, trong lòng chợt thắt lại. Trong nhà có con gái sắp trưởng thành, đồng nghĩa với việc người cha dù sinh lực dồi dào đến đâu chăng nữa cũng dần dần bước vào tuổi xế chiều.
Lưu Sơ tức thì hân hoan, “Đa tạ phụ hoàng.”Quyển 4 - Chương 80: Thà để con ngốc mong bình anTháng Mười một mùa đông năm Nguyên Đỉnh thứ tư. Thánh giá trở về đế đô Trường An. Chuyến tuần thú phương đông lần này kéo dài tổng cộng ba tháng.
Thái tử Lưu Mạch dẫn hoàng tộc và bá quan ở lại ra ngoài thành nghênh đón. Hắn cởi dây lụa bạch tháo chiếc mũ thái tử màu vàng xuống rồi ngẩng đầu lên để lộ ra gương mặt ôn hòa trầm ổn nhưng còn rất non trẻ, bái lạy: “Nhi thần cung nghênh phụ hoàng.” Nói xong, hắn hơi liếc nhìn qua hai người con gái bên cạnh Lưu Triệt, nở nụ cười ấm áp.
“Trẫm rất vui.” Lưu Triệt giơ tay bảo Lưu Mạch đứng dậy, mỉm cười nói, “Thái tử giám quốc rất thành công, không phụ ủy thác của trẫm.”
“Đó là nhờ nghiêm khắc tuân thủ những lời phụ hoàng dặn bảo trước khi rời khỏi Trường An đó ạ.” Lưu Mạch nói: “Phụ hoàng và mẫu thân đi đường xe ngựa mệt nhọc, kính xin hãy trở về cung Kiến Chương trước đã.”
Đoàn xe ngựa rục rịch chuyển động. Lưu Mạch thấy hai thiếu nữ trẻ đẹp đi theo phía sau liền mỉm cười, chắp tay nói, “Đa tạ hai vị Thượng Quan tiểu thư đã chiếu cố mẫu thân ta ở Lâm Phần.”
Hai tỷ muội Thượng Quan do ca ca cố ý đưa từ biệt viện nơi khác đến Lâm Phần bầu bạn với Trần nương nương, khi nghi trượng ngự giá đi qua Lâm Phần, liền nhân tiện theo ngự giá về kinh. Các cô cứ tưởng cuộc sống sau khi trở về cũng không có gì khác với trước đây, không ngờ Thái tử điện hạ quả nhiên là chí hiếu với mẫu thân giống như lời đồn, còn tự mình đến tạ ơn, khiến các cô không khỏi luống cuống chân tay. Phải biết rằng vị thái tử điện hạ triều Đại Hán hôm nay tuy trẻ tuổi tuấn tú và không ham sắc nữ nhưng từ tài năng dung mạo của bản thân cho tới tương lai ngày sau, khiến hắn trở thành phu quân lý tưởng nhất của các thiếu nữ thế gia quý tộc Đại Hán. Cho tới tận bây giờ, thiếu nữ có thể được hắn đối xử tử tế vẫn chỉ có mỗi người muội muội ruột thịt cùng mẹ sinh ra, Duyệt Trữ công chúa Lưu Sơ. Thượng Quan Vân rốt cuộc vẫn là người con gái xuất thân thế gia, bình tĩnh lại rất nhanh, hơi đỏ mặt, quỳ gối đáp lễ, “Thái tử quá lời. Đó là bổn phận của thần nữ, thực không dám nhận.” Thượng Quan Linh cũng đáp lễ, chớp mắt suy nghĩ, xem ra ca ca nói quả nhiên không sai, muốn giành được cảm tình của vị thái tử điện hạ này thì biện pháp hữu hiệu nhất chính là bắt đầu từ chỗ Trần nương nương. Gặp mặt mới biết Lưu Mạch ôn nhã trầm ổn khiến mọi người phải sinh lòng hâm mộ còn hơn cả trong lời đồn đại. Cô xoay người định trèo lên xe, liếc thấy tỷ tỷ vẫn dõi theo lưng Lưu Mạch, mắt vẫn còn hiện lên những tia mộng ảo, thầm nghĩ, một cô gái như Thượng Quan Vân có thể gợi mở trái tim Lưu Mạch sao?
Chẳng qua chỉ là mấy câu nói, nhưng vì trong đó có một người là Thái tử Lưu Mạch nên mấy ngày sau thì câu chuyện đã lan truyền rất nhanh trong thành Trường An. Trong khoảnh khắc, hai tiểu thư nhà Lang trung lệnh Thượng Quan Kiệt, nhất là tiểu thư Thượng Quan Vân, đã được mọi người xôn xao bàn tán, danh tiếng nổi lên như diều gặp gió. Có người ao ước, có người ghen tỵ, nhưng ai bảo lão gia nhà mình không đến Lâm Phần, hoặc là không có ca ca làm Lang trung lệnh chứ, ca thán thì cũng được gì.
“Có thể mọi người chưa biết chứ”, đầu đường cuối phố thi thoảng lại có năm ba bà túm tụm buôn chuyện, “Nghe nói có phu nhân thế gia hiếu kỳ vào cung hỏi Trần nương nương về cảm giác đối với hai thiếu nữ nhà Thượng Quan. Trần nương nương nghiêng đầu suy nghĩ một lát, tặng mỗi cô nương lời bình bốn chữ. Thượng Quan gia tiểu thư thì là “Đẹp như trăng rằm”, còn nhị tiểu thư chính là “Thêu hoa dệt gấm.”
“Ồ”, những người vây quanh tán thưởng: “Nói như thế thì Trần nương nương đánh giá Thượng Quan đại tiểu thư rất cao đó. Nói không chừng, Thái tử điện hạ sẽ rước nàng về dinh thật đấy.”
“Biết nói sao đây.” Trong nhã phòng ở lầu Thanh Hoan, Lưu Sơ tức tối giậm chân, “Rõ ràng là mẫu thân cảm thấy nếu nói không tốt thì sẽ phá hủy cả đời cô ta, thế nên mới nói xa xôi về những tâm sự mà bọn họ không giấu được. Cho dù gia sự nhà cô ta như thế nào, nhưng muốn được ca ca ta cưới về thì cứ đợi kiếp sau đi.”
“Muội cần gì phải tức giận vì những chuyện vớ vẩn này chứ?” Lưu Mạch thì trái lại rất bình tĩnh ung dung, châm một chén trà cho muội muội rồi thở dài nói, “Nhắc lại thì huynh không nên đến tạ ơn mới phải. Vô duyên vô cớ lại gây thành chuyện. Đám người kia cũng rỗi hơi, chuyện nhỏ thế mà cũng chộp lấy nói cho được.”
“Đó cũng là vì ca ca là người tốt, lại đến tuổi rồi nên mọi người mới để ý.” Lưu Sơ bỗng không hề tức giận, chỉ nhìn hắn mà che miệng cười.
“Nói bậy bạ gì đó.” Lưu Mạch vừa bực mình vừa buồn cười, hỏi: “Muội rủ ta ra ngoài chỉ để nói những chuyện không đâu này sao?”
“Không phải.” Lưu Sơ chuyển sắc mặt nghiêm túc, trầm giọng nói: “Ca ca, huynh hãy nói thực cho muội biết. Vụ Thượng Lâm Uyển năm xưa cuối cùng do huynh tiếp quản, thật sự con ngựa muội cưỡi đó bị kim của Công Tôn Kính Thanh đâm nên mới phát điên sao?”
Lưu Mạch hơi bất ngờ khi Lưu Sơ khơi lại chuyện năm xưa, song hắn biết cô sẽ không hỏi vô cớ. Muội muội cuối cùng đã lớn rồi, có một số việc không phải cứ giấu giếm là tốt, ngày sau sẽ đến lượt cô một mình chống lại mưa gió nên cũng cần phải biết qua chuyện đời một chút. Hắn liền nói, “Cũng có khả năng là người khác, nhưng bấy giờ phương án đánh đổ Vệ gia chính là lựa chọn tốt nhất của mẫu thân và chúng ta.”
“Huynh có thể dung tha cho người có ý đồ thương tổn mẫu thân và muội sao?” Lưu Sơ cao giọng chất vấn.
“Tảo Tảo.” Lưu Mạch tức giận trách mắng.
Lưu Sơ liền tỉnh táo lại, cúi đầu nói: “Xin lỗi ca ca, muội không nên giận dỗi huynh.”
Lưu Mạch thở dài nói, “Sau vụ việc, huynh có đi điều tra tàu ngựa của Thượng Lâm Uyển nhưng những người có mặt ở đó lúc ấy đều biến mất không thấy tung tích.
Cô bình tĩnh lắng nghe, trong lòng dần trầm xuống. Không phải chuyện như thế đã nói rõ vụ việc năm xưa có huyền cơ khác hay sao. “Người đó đã hại chúng ta lần đầu thì có thể hại chúng ta lần thứ hai.” Cô thản nhiên nói, “Nhưng mới lần đầu mà muội đã mất đi một đệ muội, lần thứ hai thì muội không thể nào tưởng tượng nổi.”
“Yên tâm đi”, Lưu Mạch xoa đầu muội muội trấn an: “Huynh đã nghe Nhật Đan nói về chuyện Mã Thượng Phong. Mặc dù không có chứng cứ nhưng quá nửa là do bà ta. Trong cung có uy thế của phụ hoàng, cung nhân cung Kiến Chương chỉ nghe lời mẫu thân, bà ta sẽ không thể nào có trò gì được. Nếu thật sự có mưu đồ thì chỉ có thể thông qua người nhà. Huynh đã theo dõi sát người nhà của bà ta, không tin bà ta có thể gây ra sóng gió gì.
“Năm xưa huynh còn quá nhỏ tuổi, không cách nào bảo vệ mẫu thân và muội.” Lưu Mạch lộ ánh mắt thâm trầm, nói giọng tin tưởng sâu sắc: “Bây giờ thì huynh đã lớn, sẽ không tha bất cứ kẻ nào dám làm thương tổn hai người nữa.”
Bệ hạ tuần thú phương đông trở về kinh, nghỉ ngơi ba ngày xong liền cử hành đại yến ở cung Kiến Chương. Trên điện Phi Tuyết, Lưu Triệt và Trần A Kiều sóng vai ngồi ở ghế thủ tịch[1] tươi cười nhìn cảnh ăn uống linh đình ở phía dưới. Lưu Triệt nổi hào khí cười sang sảng, uống liền mấy chung rượu Tân Phong. Dần dần, không khí bữa tiệc trở nên sinh động hẳn lên. Lưu Mạch châm rượu rồi đi tới bên cạnh Trần A Kiều, cung kính nói, “Đã mấy tháng Mạch Nhi không được gặp mẫu thân rồi. Xin kính mẫu thân một chén.”
[1] Ghế thủ tịch: Vị trí tôn quý nhất.
A Kiều tất nhiên rất cao hứng, cầm tay Lưu Mạch, mỉm cười hỏi, “Mấy tháng qua Mạch Nhi có mệt lắm không?”
“Con vẫn khỏe.” Nói chuyện với mẫu thân thì tự nhiên không cần phải khách sáo, Lưu Mạch châm rượu cho mẹ rồi nói: “Nhi tử ở Trường An, nghe nói mẫu thân bị bệnh trên đường đi thì lòng như lửa đốt. Nếu không phải phụ hoàng không có ở đây, Mạch Nhi là thái tử không được rời kinh, thì thật đúng là muốn chạy thật nhanh tới thăm thì mới an tâm được.”
Lưu Triệt nghe vậy không khỏi nhìn sang, nửa cười nửa không, “Mạch Nhi hiếu thuận, mẫu thân của con trong lòng hẳn là vui mừng lắm đó.”
“Đa tạ phụ hoàng dạy bảo.” Lưu Mạch mỉm cười đáp, kính rượu, nói thêm mấy câu với A Kiều rồi liền đi xuống mời rượu đám trọng thần. Đối với thần tử, được Thái tử mời rượu là vô cùng vinh quang. Chúng thần không dám chậm trễ, đều đứng dậy nghênh đón. Khi mời đến Trường Tín hầu Liễu Duệ, Lưu Mạch hắng giọng hỏi, “Không biết sức khỏe Nam Cung cô cô dạo này thế nào?”
Liễu Duệ khẽ thở dài một tiếng, lộ vẻ u buồn nói: “Vẫn thế thôi.”
Trời bắt đầu vào thu là Nam Cung trưởng công chúa Lưu Đàm lại nằm bẹp trên giường bệnh. Lưu Mạch trước giờ rất yêu mến cô cô, nhiều lần sai ngự y đến thăm bệnh nhưng vẫn không biến chuyển. Cuối cùng, viên ngự y nhiều tuổi nhất Ngự y thự liền bẩm, “Trưởng công chúa chính là cây liễu khô bên hồ bị bão cát quanh năm của đại mạc thổi khiến cho dần dần khô héo rồi. Bây giờ chỉ có dùng thuốc tốt để điều dưỡng.”
Liễu Duệ không nói gì với Lưu Mạch. Năm Lưu Đàm mới trở về Hán, Tiêu Phương đã chẩn bệnh cho nàng, nói cũng không khác mấy. Vì thế nên những năm qua, chỉ cần tỷ tỷ cầu xin thì không điều gì là Lưu Triệt không đáp ứng. Ngay cả nàng không cầu thì y cũng thường ban thưởng, kính trọng nàng nhất trong kinh thành. Chỉ là đến tình trạng như bây giờ thì Lưu Đàm chỉ còn muốn thường xuyên được gặp người thân mà thôi. Lưu Triệt ngồi ghế trên, ánh mắt chợt ảm đạm, khẽ nói, “Mấy hôm nữa trẫm sẽ đến phủ thăm hoàng tỷ.”
“Vậy Liễu Duệ xin đa tạ ân điển của bệ hạ.” Liễu Duệ thoáng mỉm cười, nói, “Chắc chắn Trưởng công chúa sẽ rất vui.”
Cuối năm Nguyên Đỉnh thứ tư, Lưu Triệt đi cùng Trần A Kiều tới phủ Trường Tín hầu thăm Nam Cung trưởng công chúa Lưu Đàm. So với trước khi đi tuần thú phương đông, Lưu Đàm đã tiều tụy đi rất nhiều, nằm dựa trên giường càng lộ vẻ gầy yếu. Nàng húng hắng ho vài tiếng, gương mặt hồng lên đôi chút, nói yếu ớt, “Triệt Nhi có thể tới thăm khiến ta thấy rất vui.”
“Hoàng tỷ nói gì vậy.” Lưu Triệt nhìn bộ dạng của Lưu Đàm mà lòng đau xót. Từ sau khi Vương thái hậu mất đi, hai người phụ nữ chiếm vị trí quan trọng nhất trong lòng y thì một là A Kiều, hai chính là vị hoàng tỷ đã chịu hy sinh cả tuổi thanh xuân vì y. Trong cuộc chiến Mạc Bắc năm Nguyên Thú thứ hai, Liễu Duệ đón được Nam Cung trưởng công chúa về phương nam. Y tự hứa rằng từ nay về sau sẽ phụng dưỡng thật tốt người tỷ tỷ này để bù đắp cho những đau khổ mà tỷ tỷ từng phải gánh chịu. Nhưng không ngờ Lưu Đàm chỉ hưởng phúc được mấy năm thì đổ bệnh liệt giường, suy nhược trông thấy.
“Ninh Nhi”, Lưu Đàm dịu dàng gọi, một cậu bé chừng sáu, bảy tuổi ngoan ngoãn đi tới trước giường bệnh, khẽ nói, “Mẫu thân, Ninh Nhi ở đây.”
Lưu Đàm mỉm cười, cầm tay Liễu Ninh, nói: “Còn không bái kiến người nhà đi.”
Lưu Triệt thấy cậu bé quay lại, quỳ xuống hành lễ theo đúng quy củ: “Ninh Nhi tham kiến bệ hạ, Trần nương nương.” Y khẽ cười, đang định bảo cậu đứng dậy thì bỗng nghe Lưu Đàm lắc đầu nói, “Sai rồi, Ninh Nhi nên gọi một tiếng cữu cữu, cữu mẫu.”
“Triệt Nhi”, Lưu Đàm nhìn đệ đệ, hơi nghiêm mặt nói, “Hôm nay ta bảo Ninh Nhi hành lễ không phải là quốc lễ mà là gia lễ. Ninh Nhi là con trai ruột của ta.”
Lời nói như có ý tứ ủy thác khiến Lưu Triệt đau nhói, cúi xuống nhìn gương mặt non nớt thanh tú của Liễu Ninh. Y thầm thở dài một hơi, nghiêm mặt nói, “Trẫm nhất định sẽ đối đãi Liễu Ninh như đối đãi Bình Dương hầu.”
Lưu Đàm cười vẻ an tâm nhưng vẫn để Liễu Ninh quỳ bái theo gia lễ. Lưu Triệt không chịu nổi không khí nặng nề trong phòng liền bước ra ngoài. Lưu Đàm thở dài một tiếng trông theo bóng lưng y rồi quay sang nói với A Kiều: “Thật may là có muội ở bên cạnh Triệt Nhi.”
Trần A Kiều đang bế Liễu Ninh, nghe vậy liền mỉm cười nói: “Đàm tỷ quá coi trọng A Kiều rồi.”
“Sao lại nói như vậy?” Lưu Đàm nói đến đây liền thở dốc, nghỉ một lát mới nói tiếp, “Triệt Nhi là đệ đệ của ta, ta biết rõ bản tính nó vốn bạc bẽo đến vô tình nhưng may là có muội ở bên cạnh nên trong lòng nó mới có chút tình cảm. Tuy nói bản thân nó chưa chắc quan tâm những thứ này, nhưng ta làm tỷ tỷ vẫn cảm thấy hiện giờ nó đang hạnh phúc.”
A Kiều chỉ nín lặng chơi đùa với Liễu Ninh, ngẫm nghĩ một lúc mới nói, “Có lẽ là vậy. Muội cứ cảm thấy trong tình thế bình yên hiện giờ như đang cuộn sóng ngầm không biết khi nào sẽ bùng lên và sẽ có cục diện ra sao.”
“Thế à.” Lưu Đàm cũng thở dài, mỉm cười nhìn Liễu Ninh, vẻ mặt hòa ái, “Ninh Nhi mặc dù không được thông minh cơ trí như Mạch Nhi và Sơ Nhi nhưng tỷ thà để nó ngốc đi một chút, chỉ cần tâm tính thiện lương, lại có Triệt Nhi và cha nó bảo vệ thì sẽ không có chuyện gì.”
Liễu Ninh nghe không hiểu lời mẫu thân, ở trong lòng A Kiều quay đầu lại lo lắng gọi, “Mẫu thân.” Lưu Đàm mỉm cười trấn an, “Không có chuyện gì.” Nàng nói tiếp, “Mấy ngày nay ta nằm trên giường bệnh không có việc gì làm. Từ sau khi Mạch Nhi đi sứ Thân Độc về thì Phật giáo cũng dần truyền tới Đại Hán. Duệ ca sợ ta nhàm chán nên dịch một số kinh Phật cho ta. Ta đọc kinh cũng giác ngộ được nhiều đạo lý.”
“Thật không?” A Kiều mỉm cười hỏi. Phật giáo có thể khiến cho người ta tĩnh tâm. Chân tình sâu nặng của Liễu Duệ đối với Lưu Đàm không thể nói hết bằng lời. Lưu Đàm còn có thể tự an ủi bằng kinh Phật, còn những đớn đau trong lòng Liễu Duệ khi nhìn cảnh ái thê của mình ngày một suy yếu thì lấy thứ gì để an ủi đây?
Lần này đến thăm Nam Cung trưởng công chúa, cả Lưu Triệt lẫn Trần A Kiều đều thấy lòng buồn thảm. Lưu Triệt ngồi trong long xa hồi cung, nhìn ra ngoài mành thấy cảnh phố phường Trường An phồn hoa liền bùi ngùi nói, “Hồi còn bé, mỗi khi trẫm gây ra chuyện gì thì phần lớn đều được hoàng tỷ chịu bị mẫu hậu mắng thay. Có một lần… mẫu hậu đánh trẫm, hoàng tỷ thoa thuốc cho trẫm. Khi đó, hoàng tỷ còn nhỏ nên chưa tới Hung Nô kết hôn để cầu hòa….”
Y vừa như cố tình nhắc lại, cũng vừa như ra vẻ thờ ơ. Trần A Kiều hiểu tâm trạng của y, than một tiếng, nói: “Bệ hạ nói vậy thật khiến người ta khó hiểu. Đàm tỷ thương yêu người, chẳng lẽ Bình Dương tỷ và Long Lự tỷ không che chở cho người? Ngay cả A Kiều khi còn bé cũng từng che chở cho người đó thôi.”
Lưu Triệt cười khẽ trong họng, ôm lấy A Kiều, nói: “Hiện giờ đổi lại là trẫm che chở các người.”
Lúc Lưu Triệt và Trần A Kiều đang đến thăm Nam Cung trưởng công chúa thì tại điện Bác Vọng, Thái tử Lưu Mạch đang suy nghĩ cẩn thận về những hành động gần đây của người Lý gia. “Huynh trưởng Lý Phi của Lý tiệp dư gần đây liên tiếp viếng thăm những quan lớn không thuộc bên Trần gia; hôm qua ấu đệ Lý Kỳ đánh lộn với người khác ở lầu Thanh Hoan… Trước đó vài ngày, tiểu thϊếp của Lý Phi hai lần tự mình đi tới Xuân Sinh đường của Ngô gia, còn sai tỳ nữ tới một lần. Tin tức sao như mớ bòng bong vậy. Nhật Đan, ngươi nói…” Hắn nhíu mày, nhìn người bạn tốt đang xuất thần, chắc không nghe thấy mình nói gì, buồn cười hét lên: “Nhật Đan!”
“Ừ?” Kim Nhật Đan hoàn hồn nói: “Ngươi vừa nói gì?”
Lưu Mạch phì cười, hỏi, “Ngươi nghĩ gì thế?”
Kim Nhật Đan hơi lúng túng, nói: “Không có gì.”
Dù sao tạm thời nghĩ cũng không ra điều gì nên Lưu Mạch liền tạm gác lại chuyện này, quay sang hỏi việc riêng của bạn. “Ta nói này, Nhật Đan.” Hắn cười cười, nói ra phỏng đoán mà bản thân mình hoài nghi đã lâu, “Ngươi thành thật nói cho ta biết, có phải ngươi thích Tảo Tảo hay không?” Kim Nhật Đan vặn eo bẻ cổ, vẻ mặt miễn cưỡng, hỏi ngược lại, “Chẳng phải từ trước đến giờ Thái tử vẫn tán tụng muội muội của mình lên mây, có người thích chẳng phải là rất bình thường sao?”
Lưu Mạch ngớ ra, cũng không ngờ rằng Kim Nhật Đan lại thừa nhận thẳng thắn như thế, nghiêm túc hỏi: “Nhật Đan chỉ đơn thuần là thích hay là…?”
“Phải hay không phải thì như thế nào?” Kim Nhật Đan tự giễu, cười một tiếng, trên mặt lộ ra vẻ phẫn nộ đã lâu không thấy: “Đừng nói ta chỉ là một gián đại phu nho nhỏ, chỉ riêng với việc ta là người Hung Nô thì làm sao có thể được Hoàng thượng và Thái tử gả Công chúa Duyệt Trữ sủng ái nhất cho chứ?”
“Thế thì cũng chưa chắc.” Lưu Mạch nói với vẻ suy tư, thấy thần sắc kinh ngạc của Kim Nhật Đan liền giải thích, “Tảo Tảo cũng đến tuổi kết hôn rồi, mặc dù hiện tại còn chưa nhưng áng chừng cũng sẽ rất nhanh phải đề cập tới hôn sự thôi. Đám con cháu thế gia trong thành Trường An xứng đáng với thân phận của nó nếu không phải là thứ ăn chơi lêu lổng thì cũng không có năng lực, trong mắt của ta còn chẳng bằng Nhật Đan. Về phần mẫu thân ta, chắc người chỉ cần Tảo Tảo gật đầu là được. Thật sự khó vượt qua chính là phụ hoàng ta.” Hắn mỉm cười nhìn Kim Nhật Đan, nói: “Kim Nhật Đan, quả thật rất khó để phụ hoàng gật đầu.”
Tuy nói vậy nhưng chuyện này quan hệ tới muội muội yêu thương nhất, nên Lưu Mạch đã nhớ đến thì không sao quên được, ngày hôm sau liền tới thỉnh an A Kiều và nhân tiện nhắc luôn.
“Kim Nhật Đan à?” Trần A Kiều nghiêng đầu suy nghĩ một chút, nói: “Cậu ấy cũng không tệ, nhưng Tảo Tảo có thích không?”
“Tảo Tảo à?”, Lưu Mạch hơi nhụt chí, “Không biết nó đã quên được Hoắc Khứ Bệnh chưa, nhưng cứ cho là nó không thích Nhật Đan thì mẫu thân cũng cần chú ý, đừng để phụ hoàng tùy ý gả cho một kẻ ăn chơi lêu lổng nào đó.”
Trần A Kiều bật cười nói, “Phụ hoàng con sẽ không như vậy đâu.”
Dù sao thì y cũng sủng ái Lưu Sơ nhất, sẽ không tùy tiện quyết định chuyện hôn nhân của con gái mình. “Mẫu thân sẽ nhớ hỏi ý tứ của phụ hoàng”, A Kiều suy nghĩ một chút rồi nói.Quyển 4 - Chương 81: Mượn dao sắc có thể gϊếŧ ngườiLưu Mạch rời khỏi điện Bác Vọng thì sắc trời còn sớm. Những ngày trước Lưu Triệt không có ở Trường An, Lưu Mạch bận rộn công việc đến ngập đầu. Hôm nay Lưu Triệt đã trở về, hắn thoáng cái đã rảnh rỗi hơn rất nhiều nên không muốn về điện Bác Vọng, quay đầu lại bảo: “Thành Liệt, đi lấy một chiếc xe ngựa bình thường. Chúng ta ra ngoài cung chơi một chút.”
Sáng sớm trên đường Trường An rất náo nhiệt, cỗ xe ngựa màu xanh chạy trên phố như một giọt nước thấm vào biển rộng, không người nào chú ý.
“Chủ nhân”, Thành Liệt cười hỏi, “Tới lầu Thanh Hoan chứ?”
“Thôi đi.” Lưu Mạch suy nghĩ một chút, “Chạy vòng quanh phố xá một vòng rồi tính sau.”
“Tuân lệnh.” Thành Liệt đáp một tiếng rồi bảo với phu xe ở ngoài mành. Phu xe giảm tốc độ, cỗ xe chầm chậm lăn bánh trên phố. Thanh âm huyên náo truyền tới tai Lưu Mạch chính là thanh âm của đô thành Trường An phồn hoa nhất Đại Hán, là thanh âm cãi cọ, mua bán, gọi nhau của rất nhiều người sống trong thành. Tương lai sẽ có một ngày, từ thành thị cho tới quốc gia này đều giao vào tay hắn. Hắn có thể vượt qua phụ hoàng của mình, kiến tạo nên một triều đại càng hưng thịnh hay không?
Lưu Mạch nghĩ như vậy, nghe tiếng bánh xe lăn dần tới phía nam thành bỗng nhiên dừng lại, liền vén rèm hỏi, “Có chuyện gì?”
“Điện hạ”, ngoài mành, giọng Thành Liệt vui vẻ, “Gặp người quen rồi.”
“Ồ?” Lưu Mạch nhìn sang, quả nhiên thấy cách đó không xa có một cỗ xe ngựa màu xanh ngọc rộng rãi sang trọng, hiển nhiên không phải của nhà bình thường. Thiếu nữ mặc y phục màu hồng vén rèm xe, nhìn thiếu nữ đứng dưới, mỉm cười hỏi, “Không biết Nhị tiểu thư thông minh lanh lợi có thể tự mình tìm đường về nhà không?”, nói xong liền buông rèm xuống, ra lệnh, “Quay trở về phủ.” Phu xe vâng lệnh, không buồn nhìn đến Thượng Quan Linh mà cứ thế đánh xe đi, để lại Thượng Quan Linh ăn mặc mong manh tròn mắt đứng trong gió nhìn chiếc xe ngựa rời đi.
“Chà”, Thành Liệt tặc lưỡi, thở dài nói, “Vị đại tiểu thư này của Thượng Quan gia thật ác độc, có thể bỏ muội muội của mình đơn độc ở bên ngoài.”
“Điện hạ”, Thành Liệt biết Lưu Mạch không muốn dây dưa quan hệ với tỷ muội Thượng Quan gia, khẽ hỏi, “Chúng ta đi qua chứ?”
Lưu Mạch suy nghĩ một chút, rốt cục thở dài nói, “Một cô nương đơn độc trên phố cũng nguy hiểm. Ta đã nhìn thấy, chẳng lẽ không quản tới?” Huống chi, nghe lời của Thượng Quan Vân vừa nói thì Thượng Quan Linh chịu cơn giận dữ như vậy phần nhiều là có liên quan đến mẫu thân hoặc chính bản thân hắn.
“Thành Liệt.” Lưu Mạch bảo, “Ngươi đi mời Thượng Quan nhị tiểu thư tới đây.”
Thành Liệt lĩnh mệnh bước xuống nói mấy câu với thiếu nữ. Lưu Mạch ở trên xe, trông ra thấy thiếu nữ tỏ vẻ đề phòng, sau khi thấy là hắn thì liền kinh ngạc.
“Thái tử điện hạ”, Thượng Quan Linh bước tới gật đầu chào. Cô biết Lưu Mạch mặc y phục xanh là không muốn bị người khác nhận ra thân phận nên cũng không hành lễ. Dù vừa bị người khác mỉa mai nhưng trên mặt cô vẫn giữ được vẻ tự nhiên. Nếu Thượng Quan Vân biết vừa rồi có Lưu Mạch ở gần thì dù giận dữ gấp trăm lần cũng không lựa chọn bộc lộ tính tình đại tiểu thư của mình.
“Thượng Quan tiểu thư”, Lưu Mạch mỉm cười nói, “Lên xe đi, ta đưa cô trở về phủ Thượng Quan.”
“Không cần.” Thượng Quan Linh dịu dàng từ chối: “Đa tạ Thái tử điện hạ lo lắng, dù vừa rồi tỷ tỷ của thần nóng giận nhưng tính tình cũng không xấu, chắc lát nữa hết giận sẽ quay lại đón thần.”
“Thật không?” Lưu Mạch cười nhạt, nói: “Cũng không biết lúc nào mới hết giận, Thượng Quan tiểu thư cứ lên đây đi.”
Thượng Quan Linh bất đắc dĩ đành nói, “Như vậy thì xin đa tạ thịnh ý của Thái tử.” Vào thời này thì chuyện nam nữ ở chung còn chưa nghiêm trọng, Thượng Quan Linh lên xe, thầm nghĩ tới dụng ý của Lưu Mạch. Cô chỉ gặp một lần chứ không có giao tình gì với Thái tử nên không tin là Lưu Mạch để ý tới mình. Theo lý thì Thái tử không nên cố mời ở nơi đông người như thế này.
“Thượng Quan cô nương”, quả nhiên Lưu Mạch nhìn ra ngoài cửa sổ, hỏi bâng quơ, “Ta nghe nói rằng lúc mẫu thân của ta viết thư trả lời phụ hoàng hôm ở Lâm Phần thì chính cô nương đã đứng bên hầu mài mực. Cô nương có biết mẫu thân ta viết cái gì không?”
Thượng Quan Linh liếc sang, điềm nhiên hỏi lại, “Thái tử điện hạ muốn biết thì sao không tự mình đi hỏi Trần nương nương chứ?”
Lưu Mạch trầm mặc giây lát. Nếu có thể hỏi mẫu thân thì hắn đã không cần ngồi đây hỏi Thượng Quan Linh.
“Nếu Trần nương nương nguyện ý nói cho Thái tử điện hạ, tự nhiên sẽ nói.” Thượng Quan Linh khéo léo chuyển hướng, “Nếu nương nương không muốn, Linh Nhi tuy thấy nhưng cũng không tiện nói.”
Hai người đang nói chuyện thì cỗ xe ngựa màu xanh ngọc ban nãy đã quay trở lại đầu phố. Phu xe nhìn chung quanh một vòng, không thấy Thượng Quan Linh thì ngơ ngác. Thượng Quan Linh nhìn qua cửa sổ xe, thấy vậy bèn mỉm cười, “Ồ, không ngờ tỷ tỷ hết giận nhanh như vậy, đã quay lại đón rồi. Thái tử điện hạ, Linh Nhi cáo từ.”
Lưu Mạch khẽ gật đầu, cảm thấy buồn cười, liền thuận miệng hỏi,” Cô nương cùng lệnh tỷ tới thành Nam để…?”
“Gia tẩu không được khỏe”, Thượng Quan Linh khom người hành lễ, “Mấy hôm trước có tới y quán Xuân Sinh của Ngô gia xin bốc thuốc nên hôm nay chủ tâm tới để cảm ơn. Tỷ tỷ và ta rảnh rỗi chẳng có việc gì nên liền đi theo chị dâu nhưng không ngờ Ngô đại phu đã đột quỵ mất trước đây vài hôm. Tỷ tỷ đang bực bội, Linh Nhi có khả năng nói gì đó đắc tội nên mới như thế, khiến cho Thái tử điện hạ chê cười.”
“Ngô đại phu qua đời rồi ư?”, Lưu Mạch kinh ngạc hỏi.
“Đúng thế.” Thượng Quan Linh hơi ngạc nhiên. Mặc dù Ngô Xuân Sinh là đại phu nổi danh ở thành Trường An nhưng chung quy cũng chỉ là dân thường, sao Thái tử Lưu Mạch lại biết?
Lưu Mạch chợt nhớ lại lời mật báo về chuyện tiểu thϊếp Lý Phi mấy lần viếng thăm Ngô Xuân Sinh. Ngô Xuân Sinh bây giờ mất mạng là sự trùng hợp hay là bị gϊếŧ? Hắn suy nghĩ thật nhanh, nói “Có người đến đón tiểu thư rồi thì ta không quấy quả nữa.” Nói rồi quay lại bảo Thành Liệt, “Mau trở về điện Bác Vọng.”
Thượng Quan Linh gật đầu, thi lễ rồi xuống xe đi về hướng xe ngựa nhà mình ở đằng xa. Bên kia, Thượng Quan Vân không thấy muội muội thì đang lo lắng, bây giờ gặp Thượng Quan Linh mới an lòng, tức giận hỏi, “Muội đi đâu thế?” Thượng Quan Vân nhìn về hướng cô vừa đi tới, thấy một cỗ xe ngựa màu xanh đang quay đầu lại chạy vụt đi, trên ghế trước có một người mặc áo xanh trông rất quen thuộc. Cô suy nghĩ một lát thì nhớ ra đó chính là nội thị của Thái tử Lưu Mạch. Trong phút chốc, sắc mặt chợt xanh mét.
Lưu Mạch cũng không hề biết tất cả những điều này. Hắn nhanh chóng về điện Bác Vọng, gọi Đình úy Trương Thang tới hỏi, “Có điểm gì đáng ngờ trong việc đại phu Ngô Xuân Sinh của Ngô gia ở thành Nam đột nhiên qua đời không?”
Trương Thang chắp tay hành lễ, tỏ vẻ kinh ngạc. “Điện hạ là thái tử, sao lại có hứng thú đối với cái chết của Ngô Xuân Sinh vậy?”
Lưu Mạch nhắm mắt, nói: “Trương đại nhân, mặc dù chuyện này tầm thường nhưng lại có quan hệ không nhỏ đối với ta. Xin đại nhân tường trình sự thật.”
“Xét theo bề ngoài thì không có điểm gì đáng ngờ.” Lưu Mạch đã nói như vậy thì Trương Thang cũng không muốn hỏi nữa, ngẫm nghĩ một lát rồi bẩm, “Cần phải xem qua hồ sơ thì mới có thể hiểu được sự thật.”
Để Thái tử đọc hồ sơ cũng không có gì, nhưng nếu làm công khai sẽ không tránh khỏi khiến bệ hạ ở điện Tuyên Thất biết được. Đương nhiên, bắt đầu từ lúc Lưu Mạch gọi Trương Thang đến thì chuyện này đã không thể không truyền đến tai Lưu Triệt. Ngô Xuân Sinh qua đời hai ngày trước, người nhà báo là bị đột quỵ. Rõ ràng trước mấy ngày lão còn rất khỏe nhưng hôm đó người nhà tới gọi lão dậy thì đã tắt thở.
Lưu Mạch nhíu mày: “Ta thấy cần gặp trực tiếp tiểu đồng của lão một lần.”
Tiểu đồng của Ngô Xuân Sinh tên là Đông Diệp. Sắc mặt của hắn khi bị gọi đến phủ Đình úy dù tái nhợt nhưng cũng khá bình tĩnh. “Đại nhân muốn nghe chuyện ngày đó?” Đông Diệp không biết thân phận của Lưu Mạch nhưng đoán người có thể ngồi ở vị trí chủ tọa trên công đường trong Đình Úy tất không phải bình thường. Hắn suy nghĩ một chút rồi nói: “Có một quý phu nhân tới chơi, nhưng lại bàn chuyện bí mật với tiên sinh nên tiểu nhân không biết họ nói những gì.”
“A, đúng rồi”, hắn bỗng nhiên nhớ ra, “Vị phu nhân đó đi rồi, tiên sinh liền cảm thán một câu rằng vị phu nhân này thật cuồng dại. Lần thứ hai phu nhân đó đến và trao đổi mấy câu, sau đó tiên sinh suy tư mất mấy ngày.”
Tiểu thϊếp Lý Phi cuồng dại? Lưu Mạch cười lạnh, nghe cũng thấy lý do đó thật là hồ đồ vì không thể chứng minh được. Bàn về y thuật thì từ sau khi sư công rời đi, có người nào trong thành Trường An bì kịp mẫu thân? Nếu muốn dùng y học để đối phó với mẫu thân thì chẳng phải là quá múa rìu qua mắt thợ hay sao? Hoặc là, Lý Chỉ thấy hắn hiện giờ ở điện Bác Vọng, mẫu thân không thể luôn để mắt đến như Tảo Tảo nên muốn đối phó? Hắn nghĩ mông lung một hồi, như lạc vào đám mây mù không rõ phương hướng, cảm giác mình đã bỏ qua một điểm gì đó then chốt.
“Khi Ngô tiên sinh còn sống”, hắn gõ tay lên bàn, hỏi, “có hành động gì đặc biệt không?”
“À”, Đông Diệp hồi tưởng lại, nói: “Trước đó vài ngày có Thượng Quan phu nhân tới khám, Ngô tiên sinh đọc tên phương thuốc và bảo bốc cho Thượng Quan phu nhân. Hôm nay Thượng Quan phu nhân dẫn hai vị tiểu thư tới tạ ơn nhưng không ngờ tiên sinh đã mất rồi.”
“Thành Liệt”, Lưu Mạch xoay người dặn bảo, “Đến nhà Thượng Quan Kiệt lấy đơn thuốc về đây.”
Thành Liệt đáp lời rồi đích thân rời đi. Nội thị của Thái tử đến, Thượng Quan phu nhân không dám từ chối, chỉ tỏ vẻ ngượng ngùng lấy đơn thuốc giao cho Thành Liệt. Lưu Mạch trông thấy đơn thuốc thì chấn động. Mặc dù hắn không học y thuật nhưng mẫu thân và sư công đều là danh gia y thuật hiện thời nên hắn cũng miễn cưỡng hiểu đại khái, mơ hồ biết được công hiệu của phương thuốc.
“Lý Chỉ!” Lưu Mạch nghiến răng ken két rít lên cái tên này. Thành Liệt vỡ mật kinh hồn, cảm thấy trong khoảnh khắc đó, toàn thân vị thái tử điện hạ xưa nay vẫn ôn hòa này lộ ra một luồng hàn khí. Lưu Mạch không nói gì, chỉ phất tay áo, chắp tay bỏ đi.
“Thái tử điện hạ”, Thành Liệt đã nghe chính miệng Thượng Quan phu nhân nói phương thuốc mình đưa có tác dụng ngừa thai. Thượng Quan phu nhân đã sinh được ba con trai cho quan Trung lang, năm trước lại sinh một nữ, sức khỏe suy giảm không nên sinh nở thêm nên đến xin Ngô Xuân Sinh kê thuốc.
Thành Liệt thấy bộ dạng Thái tử điện hạ như thế, liên tưởng trước sau thì dần dần hiểu ra, biến sắc nói: “Chúng ta có đưa cho Ngự y thự xem qua hay không?”
Bọn họ biết thời cơ chính là lúc này. Ngự giá về kinh đã gần được nửa tháng. Nửa tháng qua, bệ hạ đều ở chỗ của Trần nương nương. Nếu như…, bây giờ mà không trừng trị được Lý Chỉ thì còn chưa biết đến bao giờ.
“Không.” Ngoài dự tính, Lưu Mạch lại lắc đầu, dần trở nên bình tĩnh. Hắn nhướng mày nói: “Chắc nội thị do phụ hoàng sai tới tuyên triệu ta cũng sắp đến rồi.”
Khi Lưu Mạch theo lời tuyên triệu đến điện Tuyên Thất thì Lưu Triệt vừa mới xử lý công việc xong, ngồi trên điện với vẻ mặt khó đoán nhìn con trai trưởng của mình một lát rồi mới hỏi, “Hôm nay Thái tử cho đòi Trương Thang để làm gì?”
Lưu Mạch là thái tử của một nước nên không thể nào quản chế hậu cung của phụ hoàng, cuối cùng chuyện này vẫn phải giao cho Lưu Triệt quyết định. Lưu Mạch căn bản cũng không có ý định tự điều tra, chuyện ảnh hưởng đến mẫu thân, hắn nghĩ, phụ hoàng sẽ không nương tay. Dù sao thì mẫu thân cũng là người phụ hoàng yêu thích nhất. Còn hắn, mặc dù là con trai, nếu điều tra quá sâu thì trái lại còn có khả năng bị phụ hoàng nghi ngờ. Hoàng thượng và thái tử vốn không thể quá thân mật, điều này chính là nỗi bi ai của hoàng tộc.
“Nhi thần hôm nay ra ngoài tình cờ gặp tỷ muội nhà Thượng Quan và biết được chị dâu nhà bên đó gần đây có được một đơn thuốc từ một vị đại phu, mà vị đại phu kia lại vừa chết cách đây mấy ngày.” Hắn muốn giấu không cho Lưu Triệt biết mình phái người theo sát nhất cử nhất động của người nhà Lý Chỉ nên mượn chuyện gặp tỷ muội Thượng Quan để lấy cớ.
“Nhi thần nhận ra đơn thuốc đó là đơn thuốc mẫu thân tự kê cho mình, không truyền ra ngoài. Nhi thần thấy sự việc bất thường nên mới gọi Trương Thang đến hỏi về vị đại phu kia.”
Lưu Triệt ngẩng lên, chuyện liên quan đến A Kiều thì y nhớ rõ. Phương thuốc duy nhất A Kiều vẫn uống mấy năm này là… Một luồng sát khí hiện lên trên mặt. Y đứng bật dậy, nổi giận quát lên, “Dương Đắc Ý!”
Dương Đắc Ý ở bên vội vàng khom người thưa: “Có nô tài.”
Y thở gấp một hơi, lạnh giọng gằn từng chữ ra lệnh, “Ngươi mau dẫn Kỳ Môn quân niêm phong Ngự y thự, kiểm tra xem thuốc Trần nương nương uống hàng ngày có gì khác thường không.”
Lưu Mạch cúi đầu thầm nghĩ, phụ hoàng thật sự là rất quan tâm đến mẫu thân sao? Nếu không thì sẽ không phản ứng mạnh như thế. Lưu Triệt chắp tay, đi lại vài bước trên điện thì hơi bình tĩnh lại. Y nhìn con trai, bỗng nhiên cười lạnh hỏi, “Mạch Nhi, con tính sẽ thành thân với một trong hai tỷ muội nhà Thượng Quan sao?”
Lưu Mạch lấy làm kinh hãi, hỏi lại: “Phụ hoàng?”
“Thái tử đừng nghĩ đến chuyện gạt trẫm.” Lưu Triệt thản nhiên nói, “Trẫm nghĩ rằng không phải con biết được phương thuốc từ nhà Thượng Quan mà là con phái người theo dõi mọi hoạt động của Lý gia?”
Trán Lưu Mạch lấm tấm mồ hôi, “Phụ hoàng anh minh.”
“Thôi đi.” Lưu Triệt nói chậm rãi, giọng có vẻ thê lương, “Trẫm biết là con không yên lòng về mẫu thân và muội muội của con.”
“Trẫm là đế vương, dĩ nhiên có tai mắt để biết chuyện. Nhưng trẫm chưa từng nghĩ,” Mắt y lộ ra tia âm độc, “hậu cung của trẫm lại có người làm việc như thế.”
Trong hậu cung, gϊếŧ người không thấy máu vốn là chuyện bình thường. Chỉ là Lý Chỉ lần này bắt tay vào làm từ nơi không phòng bị nhất, lại dùng thủ đoạn gϊếŧ người gián tiếp nên mới khiến cả hai cha con bọn họ suýt nữa gặp nạn. Nếu không phải Lý Chỉ quá ác tâm, gϊếŧ người diệt khẩu, thì sợ rằng sẽ không lộ dấu vết nhanh như thế. Ngự y thự bị Kỳ Môn quân vây chặt, các ngự y đều hoảng loạn. Ngự y lệnh mặt tái nhợt, bước lên hỏi Ngự tiền tổng quản Dương Đắc Ý, “Không biết vì sao Dương công công lại tới đây?”
Dương Đắc Ý nghiêm mặt nói: “Ta phụng mệnh bệ hạ tra xét xem thuốc Trần nương nương sử dụng có gì khác thường.”
Hắn vừa nói dứt lời, tất cả mọi người trong Ngự y thự đều biết vị trí của Trần nương nương ở trong lòng bệ hạ nên cùng biến sắc.
“Dương công công”, Ngự y lệnh miễn cưỡng cười nói, “nói gì vậy? Kẻ nào ăn gan chó dám gây bất lợi với Trần nương nương? Huống chi, bản thân Trần nương nương tinh thông y thuật, ai có thể động tay động chân vào thuốc của người?”
“Ít nói nhảm thôi.” Dương Đắc Ý cười lạnh nói, “Bảo ngươi tra xét thì tra xét đi.”
Ngự y lệnh bất đắc dĩ đành ra lệnh, “Mang thuốc nương nương dùng ngày hôm qua ra tra xét.”
Nội thị nhận lệnh, chỉ lát sau đã mang thuốc tới. Mấy viên ngự y cũng kiểm tra xong liền thở dài một hơi, an tâm nói: “Dương công công, kiểm tra thuốc này không có gì sai cả.”
Dương Đắc Ý sửng sốt, nói: “Dám ra tay với thuốc của Trần nương nương thì tất nhiên phải cao tay, cẩn thận kiểm tra hơn nữa.”
“Đúng là không sai gì cả.” Ngự y lệnh bất đắc dĩ chắp tay nói, “Ngày đó nương nương viết phương thuốc có mười hai vị gồm Phục linh, Đỗ hành, Quyết minh tử…, ngay cả thần nhìn lầm thì mấy vị ngự y cũng không thể nhìn lầm được.”
“Như vậy”, Dương Đắc Ý liền chau mày, cảm thấy khó giải quyết, hỏi, “Thuốc nương nương dùng hôm nay đâu?”
“Hôm nay vẫn còn sớm nên chưa bắt đầu sắc.”
“Lấy ra đây!”
Ngự y lệnh bất đắc dĩ nói, “Tuân lệnh.”
Lão đón lấy thuốc do nội thị đưa tới, cười khổ nói, “Dương công công, ngài xem, cũng không…” Sắc mặt lão dần dần thay đổi.
Dương Đắc Ý nhạy cảm hỏi, “Thế nào?”
“Thuốc này”, Ngự y lệnh run như cầy sấy, không nói được nữa. Mấy lão ngự y bên cạnh cũng trắng bệch mặt, thở dài nói, “Thuốc này liều lượng không đúng.” Nếu hôm nay không phải tự mình cầm trong tay xem xét kỹ lưỡng thì dù có là ngự y già đời kinh nghiệm phong phú cũng không phát hiện được ra rằng liều lượng thuốc dùng trong đó hơi khác biệt.
“Thật to gan!” Dương Đắc Ý cười lạnh nói, “Người chịu trách nhiệm lấy thuốc đâu?”
Người phía dưới trắng bệch mặt đáp, “Tô Vân vừa rồi thấy không bình thường, đã bỏ chạy từ lúc Kỳ Môn quân còn chưa phong tỏa cửa trước Ngự y thự rồi.”
Tô Vân hốt hoảng chạy trên hành lang cung Vị Ương, ý đồ muốn đến điện Phi Sương cầu cứu Lý tiệp dư nhưng vì lòng dạ bối rối, không thấy rõ đường phía trước nên đâm sầm vào một người.
“Mắt chó của ngươi mù à.” Giọng một nội thị cũng lanh lảnh như gã quát lên, “Dám xô cả Tam hoàng tử điện hạ?”
Gã sợ rúm người, chẳng kịp nhìn phương hướng, cứ thế quỳ sụp xuống, dập đầu bình tĩnh nói: “Nô tài mạo phạm Tam hoàng tử điện hạ, xin thứ tội.”
Lưu Hoành cười lạnh nói, “Người xô vào ta mà còn muốn sống sao?” “Người đâu”, cậu cao giọng ra lệnh: “Đánh cho tên nô tài này chết đi.” Tam hoàng tử mặc dù không được sủng ái nhưng vẫn có quyền đánh chết một nô tài.
Khúc Ly nghe tiếng kêu la dần yếu đi, rùng mình một cái, khẽ nói, “Điện hạ, gió đã đổi chiều. Bây giờ làm thế này liệu…?”
Lần này thì Lý Chỉ chết chắc rồi.
Đánh chết tên nô tài kia cũng không giúp được cái gì.
“Thế nên ta mới đánh chết gã”, Lưu Hoành mỉm cười nói, “để không thua cháy túi.”
Cậu ngẩng đầu nhìn trời, mặc dù đã sắp tới năm mới rồi nhưng hôm nay vẫn còn có một cơn gió đông hiếm thấy. “Lưu Mạch”, cậu nắm chặt tay, nói: “Vận khí của ngươi thật tốt.”
Tại sao ngươi cứ luôn may mắn như vậy chứ? Từ đầu đến cuối, người cậu muốn đối phó không phải là Trần A Kiều mà là Lưu Mạch và muội muội bảo bối Duyệt Trữ công chúa Lưu Sơ.
“Dù sao, nếu không phải các ngươi gây chuyện thì tại sao mẹ ruột của ta lại phải chết cô độc ở điện Thanh Lương chứ?” Nếu muốn đối phó với Lưu Mạch thì trước hết phải đối phó với Trần A Kiều. Cậu ra tay không hề do dự, không hề gợn lòng.Quyển 4 - Chương 82: Đêm đen sao vẫn dài vô tậnDương Đắc Ý bẩm báo việc Tô Vân bị đánh đến chết khiến Lưu Triệt và Lưu Mạch đang ở trong điện Tuyên Thất đều thấy bất ngờ.
“Trùng hợp thế sao?” Lưu Mạch hỏi vẻ nghi hoặc.
“Thật thế.” Dương Đắc Ý khom người bẩm, “Tô Vân thấy không ổn bèn trốn khỏi Ngự y thự thì lại xô vào Hoành điện hạ. Hoành điện hạ liền sai dùng trượng đập chết hắn nhưng sau đó biết người này có ý đồ hại Trần nương nương thì hiểu rằng mình lỗ mãng, bây giờ đang quỳ ngoài điện Tuyên Thất thỉnh tội.”
“Bỏ qua đi.” Gương mặt Lưu Triệt rất bình tĩnh, không để lộ suy nghĩ của mình. Y thản nhiên nói, “Chẳng qua chỉ là một nô tài, dùng trượng đập chết thì chết. Không phải là không có hắn thì không trị tội được người đàn bà kia.”
Y cực kỳ hận Lý Chỉ muốn hãm hại A Kiều nên dù có hơn hai mươi năm làm vợ chồng nhưng lúc này y chẳng buồn nhắc đến ngay cả tên của nàng, lạnh lùng ban lệnh, “Truyền ý chỉ của trẫm, lệnh cho Đình úy Trương Thang kê biên tài sản của Lý gia, điều tra rõ chân tướng sự việc.”
Trương Thang là một viên quan có năng lực phá án nhất hiện thời, qua hai canh giờ đã tới bẩm, người tiểu thϊếp kia của Lý Phi không chống nổi đã khai ra việc Lý tiệp dư sai huynh trưởng thông qua tăng giảm liều lượng dùng thuốc để hãm hại Trần nương nương. Lưu Triệt giận tím mặt, cười gằn, “Ban thưởng cho điện Phi Sương ba thước lụa trắng, không cần đến gặp trẫm nữa.”
Sự việc bại lộ, kết cục của Lý tiệp dư cũng đã định. Dương Đắc Ý không hề thấy bất ngờ, thấp giọng đáp, “Lĩnh chỉ bệ hạ.” Song lát sau viên nội thị đi ban lệnh chết quay lại bẩm, “Lý tiệp dư không chịu tiếp chỉ, cầu kiến bệ hạ.”
Lưu Triệt hơi bất ngờ, vẻ mặt chán ghét, “Tiện phụ còn có tư cách gì mà đòi gặp trẫm?” Y khoát tay, đang định ra hiệu bảo nội thị không cần để ý, cứ thế mà ban chết nhưng bỗng liếc mắt thấy con trai trưởng của mình đang yên lặng đứng bên cạnh, liền thay đổi chủ ý, bảo: “Thái tử hãy đi một chuyến thay trẫm.”
“Con à?”, Lưu Mạch nhướng mày nhìn phụ thân của mình.
“Đúng vậy.” Lưu Triệt nói đầy thâm ý: “Hãy thay trẫm hỏi một câu, trẫm đối xử với cô ta không bạc, sao cô ta lại làm chuyện bất nghĩa thế này?”
Chẳng qua là vì để được quân vương sủng ái, vì ngôi vị cho con trai, có gì mà hỏi nữa. Lưu Mạch không thể trả lời như vậy, chỉ đành chắp tay nói, “Nhi thần tuân lệnh phụ hoàng.”
Từ sau khi Trần A Kiều chuyển tới điện Trường Môn thì Lưu Mạch không giao thiệp với cung Vị Ương nữa. Bây giờ hắn đi trên hành lang cung Vị Ương, nhìn cảnh phồn hoa đẹp đẽ trong cung, lòng chợt dâng lên cảm giác xa lạ như ngắm hoa trong sương mù.
Điện Phi Sương đã từng là cung điện mà Hoàng đế thường xuyên lui tới nên rất tinh xảo và có khí thế, nhưng hôm nay thì lòng người chỉ thấy bàng hoàng. Cái Trường công chúa Lưu Yên luôn ở bên cạnh mẫu thân, còn Tứ hoàng tử Lưu Đán mặc dù thường ngày vẫn theo học sư phụ ở nơi khác nhưng mẫu thân gây ra chuyện lớn như thế nên đã chạy về từ lâu. Hai tỷ đệ canh giữ ở bên cạnh mẫu thân, cảnh giác nhìn huynh trưởng tiến vào.
“Không ngờ rằng bệ hạ vẫn không tới”, Lý Chỉ khẽ cúi đầu, cười khổ nói, “mà chỉ có Thái tử điện hạ.”
Thời trẻ, bệ hạ đã từng khen nàng mặc áo lụa hồng là xinh đẹp nhất, vì vậy, hôm nay nàng mặc đúng quần áo lụa hồng, tẩy hết phấn son, ăn mặc nghiêm trang, búi kiểu tóc nối phức tạp nhất, dùng trâm ngọc bích có đuôi dài rủ xuống bên mai vô cùng đẹp mắt. Lưu Mạch trông thấy cũng thầm thở dài. Người phụ nữ này cũng có vẻ đẹp riêng của mình.
“Phụ hoàng muốn ta hỏi ngươi”, hắn nhắc lại đúng từng câu từng chữ, “Người đối xử với ngươi không tệ, tại sao ngươi lại làm chuyện phản nghịch như vậy?”
“Đối xử không tệ, ha ha.” Lý Chỉ bỗng bật cười lớn, cười như bị bệnh tâm thần, cười đến nghẹt thở. “Đúng vậy”, nàng căm hận nói: “Bệ hạ đối xử với ta không tệ. Y phong ta từ một cung nữ nho nhỏ thành tiệp dư, đề bạt người nhà của ta quyền thế hiển hách, ban cho ta ở điện Phi Sương phồn hoa lộng lẫy. Thế nhưng y căn bản không để mắt tới ta.” Có trang điểm xinh đẹp thế nào chăng nữa cũng không thể thu hút được một tâm hồn không rung động.
“Mười năm rồi.” Giọng nàng nói như khóc như cười, biết đã hết cơ may. Người ngày xưa gối ấp môi kề chính là người hôm nay hạ lệnh cho mình dùng dải lụa trắng lạnh như băng treo cổ, còn bản thân y không thèm tới gặp mặt, nhưng lại cho con của tình địch tới hỏi, ngươi, vì sao như thế. Cuộc đời đã đến nước này thì còn có gì phải bận tâm nữa đây?
Nàng nhìn đứa trẻ đang đứng trong điện, thấy hắn có những đường nét rất giống người kia, lông mày như lưỡi kiếm rút ra khỏi vỏ, môi mỏng như giấy nhưng lại được kế thừa huyết thống từ người con gái kia mà giảm bớt tính sắc bén của Lưu Triệt, tăng thêm tính ôn hòa.
“Ta đợi ở điện Phi Sương mười năm, suốt mười năm rồi.” Nàng nói lẩm nhẩm tựa như người đang đứng trước mặt chính là y. “Ngươi cứ luôn ở chỗ của nàng ấy, quay lại cũng không trông thấy ta.”
Nàng vẫn cho rằng nàng vì con cái nên mới bày mưu đối phó với Trần A Kiều nhưng không ngờ tâm tư của nàng quá sâu, sâu đến mức che giấu được ngay chính bản thân, đến mức độ phải bị lộ ra thì mới thấy rõ lòng dạ của mình. Chỉ là nàng đã tịch mịch quá rồi, tịch mịch giống như một lưỡi đao khắc cốt ngày qua ngày lại cứa vào linh hồn của mình. Một người đàn bà tịch mịch mười năm trời thì có chuyện gì là không làm được chứ?
“Mẫu phi!” Vẻ mặt ma quỷ của Lý Chỉ khiến ngay cả Lưu Mạch cũng không khỏi lui lại một bước, huống hồ là hai người con trai gái của mình. Lưu Đán nhào tới bên người nàng, khóc lóc, “Người đừng như thế này.”
“Nào, Đán Nhi đừng khóc.” Lý Chỉ thở dài một hơi thật sâu rồi dịu giọng trấn an. “Thái tử điện hạ”, nàng hồi phục tinh thần, khẽ than thở, “Tại sao ngươi và mẫu thân của ngươi phải trở lại chứ?”
Khi Trần A Kiều chưa hồi cung, trong cung Vị Ương có vô số những người đàn bà tịch mịch mà cũng không phải là quá tịch mịch, vừa tỏ vẻ tươi cười với nhau vừa tranh đấu với nhau, ai nấy thỉnh thoảng đều được hưởng ân sủng của vua. Lúc còn trẻ tuổi, nàng chán ghét cái cuộc sống đó nhưng sau khi Trần A Kiều trở lại cung đình thì nàng mới phát hiện cuộc sống đó vẫn là một loại hạnh phúc. Ít nhất, không phải là hoàn toàn tuyệt vọng.
Chuyện đã quá rõ ràng, Lưu Mạch quay đầu ra lệnh: “Hầu hạ Lý tiệp dư lên đường.” Hắn không muốn chứng kiến nên chắp tay đi ra khỏi điện.
“Thái tử ca ca.” Lưu Yên cũng ôm chặt váy Lý Chỉ nhưng cô không giống đệ đệ, khóc không kiềm chế được mà lao theo ra, cắn chặt môi, sắc mặt trắng bệch, quỳ sụp gối dưới chân Lưu Mạch, dập đầu nói: “Muội muội van cầu huynh tha cho mẫu phi được không?”
“Tha ư?” Lưu Mạch cười nhạt, nhìn muội muội có cùng một nửa huyết thống với mình. Trong mười năm qua cô vẫn luôn lặng lẽ. Tựa như mãi cho tới tận bây giờ, hắn mới chính thức thấy rõ hình dáng của cô.
“Tại sao ta phải tha cho bà ta? Muội cũng biết rằng mẫu thân muội đang cố làm hại mẹ ruột của ta mà.” Hắn lắc đầu, trong lòng không có lấy một tia thương tiếc.
Lưu Mạch nghĩ rằng mình đã hiểu ý phụ hoàng khi bảo hắn tới gặp Lý Chỉ. Tâm địa hắn cũng ác độc, trừ mẫu thân và Tảo Tảo thì hắn không chút thương xót đối với những người khác. Nhưng Lưu Triệt cho rằng lòng dạ hắn còn chưa đủ ác độc. Hoàng gia là một nơi quá ô trọc mà người trong hoàng gia lại quá không an phận. Cho dù chỉ là một công chúa mới vừa tròn mười tuổi thì cũng đâu phải là nhân vật đơn giản? Còn Lưu Triệt thì lại muốn hắn là người kế vị Đại Hán thấy được rõ ràng hơn những ô trọc trong chốn hậu cung. Những không cam lòng, ghen tỵ, đố kỵ, sẽ phá hỏng một con người.
Lưu Yên kêu khóc, “Người là mẫu phi của muội mà.”
“Vậy thì sao chứ?” Hắn hờ hững.
Lưu Yên nhòa lệ nhưng lại vô cùng tỉnh táo, “Thái tử ca ca hôm nay làm việc như thế này không sợ về sau sẽ có ngày gặp báo ứng sao?”
Lưu Mạch bật cười, nói: “Ta rất muốn xem đến ngày đó thì muội sẽ làm thế nào đòi báo ứng?”
“Cái Trường”, hắn nói từ tốn: “Dường như muội nghĩ sai rồi. Có thể quyết định tha hay không tha mẫu phi của muội không phải là ta.”
Lưu Yên lặng người, thân hình co rúm quỳ trên hành lang.
“Nể muội dù sao cũng cùng phụ thân với ta, ta có thể cho muội thời gian một khắc, chỉ cần muội có thể đến điện Tuyên Thất cầu xin được phụ hoàng tha thứ cho mẫu thân muội thì ta sẽ không động đến bà ta, thế nào?”
Cô bé nghe vậy thì khẽ nhướng mày nhưng cuối cùng lại chán nản ngồi bệt xuống đất. Lưu Mạch hừ lạnh một tiếng, chắp tay hạ lệnh, “Động thủ đi.”
Nội thị nghe lệnh, lấy ra dải lụa trắng và ném vắt qua xà nhà trong điện Phi Sương.
“Dẫn tam hoàng tử và Cái Trường công chúa đi.” Lưu Mạch lại ra lệnh.
Lý Chỉ khẽ mỉm cười, đứng lên chiếc đôn thấp, bình tĩnh thò đầu qua dải lụa trắng đã thắt thành thòng lọng. Trước lúc đá văng chiếc đôn đi, nàng khẽ thở dài một tiếng, “Đêm đen sao mãi dài vô tận?”
Đêm đen sao mãi dài vô tận?
Mặc dù Lý tiệp dư đã tự sát, Lưu Triệt đã hạ chỉ xử trí cả nhà Lý thị nhưng câu chuyện vẫn chưa kết thúc.
“Tạm thời không để cho Trần nương nương biết chuyện này.” Lưu Triệt căn dặn.
Ngay sau những việc xảy ra ở Ngự y thự và trong cung Vị Ương, Trần A Kiều nhận được tin tức do bồ câu đưa thư chuyển vào điện Trường Môn thì kinh ngạc hỏi lại: “Tên Ninh Triệt đi lòng vòng khắp nơi, cuối cùng mất tung tích ở kinh đô nước Tề sao?”
“Đúng vậy.” Lục Y gật đầu nói: “Trong thư nói như thế.”
A Kiều để chiếc lò sưởi trong lòng xuống, mỉm cười nói, “Xem ra Tề vương Lưu Cứ cũng không đơn giản.”
“Tạm thời không nói đến chuyện này”, Lục Y nhăn mày nói, “Bệ hạ sai người niêm phong Ngự y thự, chúng ta lại không dò xét được tin tức gì, nương nương cảm thấy thế nào?”
“Bệ hạ không muốn cho ta biết thì ta sẽ không cần biết.” Trần A Kiều lại chẳng buồn để ý: “Binh tới tướng ngăn, nước lên đất chặn mà thôi.”
Dù sao thì cũng đã uống thuốc bị động tay động chân mất gần nửa tháng nên Lưu Triệt không cách nào đoán được Trần A Kiều có mang thai hay không.
“Bệ hạ, vì thời gian quá ngắn nên chưa biết được.”
Y định lôi đám ngự y ra luận tội nhưng trước hết còn phải giải quyết một vài vấn đề.
“Thật ra thì cho dù có thụ thai hay không, trước hết hãy uống một thang trợ thai là được.”
Bởi vì đã không thụ thai, uống thuốc cũng không có gì đáng ngại. “Nếu A Kiều thật sự có thai”, Lưu Triệt cười lạnh nói, “Các ngươi có thể bảo đảm thuốc trợ thai sẽ không ảnh hưởng đến sức khỏe chứ?”
“Việc này”, cả đám ngự y đều do dự, có người cố gắng mặt dày hỏi, “Không biết lần nương nương tới kỳ gần nhất là bao giờ?”
Cung Kiến Chương có nữ quan ghi chép những chuyện này, liền đáp, “Ước chừng là mười ngày trước.”
Thế thì vẫn còn có khả năng thụ thai. Rốt cuộc thì vẫn cầu cho sức khỏe của Trần nương nương được ổn thỏa là tốt nhất, tuy nói uống thuốc trợ thai càng sớm thì càng ít tổn hại cơ thể nhưng vạn nhất xảy ra vấn đề thì… Hơn nữa, vẻ mặt đám ngự y dần dần trở nên nghiêm trọng, nếu mà có hoàng tử, bệ hạ thật sự sẽ bỏ qua sao? Lưu Triệt khẽ thở dài một hơi, cuối cùng chán nản nói: “Hãy nghiên cứu lại xem thế nào.”
Đêm xuống, y chắp tay đi tới điện Trường Môn. A Kiều đang chong đèn vẽ cái gì đó, ngẩng lên nhìn thấy y liền khẽ mỉm cười: “Người đã về rồi?”
“Ừ.” Y gật đầu, vừa để nội thị hầu cởϊ áσ khoác vừa hỏi, “Nàng đang vẽ gì đó?”
“Chờ khi nào vẽ xong sẽ cho người xem.” A Kiều nói: “Thϊếp nghe nói hôm nay người ban cho Lý tiệp dư tự sát, cô ta đã gây ra chuyện gì?”
Lưu Triệt nhíu mày, thở dài nói, “Kiều Kiều không nên hỏi nữa.” Y từng hứa sẽ bảo vệ nàng, kết quả là lại để cho người khác làm thương tổn nàng ngay trước mắt mình.
A Kiều nhún vai. Nàng nhớ rằng trong đám phi tần ở cung Vị Ương của Lưu Triệt thì Lý Chỉ là một người thanh nhã an phận, còn khiến cho nàng có cảm tình. Từ sau khi rời cung Cam Tuyền, Lưu Triệt không còn sủng hạnh đám phi tần nữa nên nàng cũng có thể hòa bình với những người đó.
“À”, nàng chợt nhớ ra, “Tảo Tảo đã mười lăm rồi, Triệt Nhi có tính toán gì về hôn sự của con chưa?” Nàng không muốn rào trước đón sau khơi gợi Lưu Triệt hứng thú nên chọn cách hỏi thẳng vào vấn đề.
“Sơ Nhi”, Lưu Triệt ngẩn người ra, “Chọn một người tài mạo song toàn trong số con cháu thế gia là được rồi.”
“Lấy đâu ra người tài mạo song toàn trong số con cháu thế gia.” A Kiều cười lạnh, lại thấy may mắn là mình đã hỏi câu hỏi đó. “Con gái của thϊếp”, nàng nói: “phải được tự quyết định hôn sự.”
Không lấy chồng là con cháu thế gia thì chẳng lẽ gả cho người bình thường sao? Lưu Triệt thấy nóng mặt nhưng hôm nay y rất nhẫn nại, chỉ nói: “Nhưng nó còn nhỏ tuổi, đợi thêm một hai năm nữa rồi nói sau.”
Mười lăm tuổi đã không còn nhỏ nữa, Trần A Kiều mỉm cười, chẳng qua là tình thương của cha mẹ, dù con cái có lớn đến đâu thì vẫn cứ cảm thấy chúng còn nhỏ.
“Được rồi.” Nàng đáp.
Nàng ngủ trong vòng ôm của Lưu Triệt, đến nửa đêm chợt tỉnh giấc thì phát hiện thấy y cũng không ngủ yên, cứ nhìn vào bụng mình, ánh mắt thay đổi liên tục. Nàng liên tưởng lại những dấu hiệu trong ngày hôm nay, chợt hiểu ra, liền giả vờ như vẫn ngủ say. Cho dù nàng có sống thêm bao nhiêu năm, chứng kiến bao nhiêu chuyện kinh tâm động phách thì vẫn không thể thích nghi được việc những người con gái đã từng quan hệ với nhau, vì một lý do không đâu lại quay sang làm hại lẫn nhau. Như chuyện Vu cổ năm đó sao? Cho nên đến bây giờ nàng vẫn không thể nào yêu thích được chốn phồn hoa nhất mà cũng hoang vu nhất thiên hạ này.
Chớp mắt đã đến cuối năm Nguyên Đỉnh thứ tư. Cung Kiến Chương bắt đầu lần quét dọn thứ nhất, trong những tiếng í ới ồn ào náo nhiệt, tiếng chuông năm mới cuối cùng cũng đã điểm.
Ngày mùng Một đầu năm mới chính là ngày Đông Phương Mi đầy một tuổi. Cuộc sống hiện tại khiến Trần A Kiều không thể nào xuất cung, chỉ đành nghe mọi người thuật lại câu chuyện chọn đồ vật đoán tương lai long trọng kia. Đông Phương Sóc vô cùng yêu thương con gái đã nhất nhất chuẩn bị đầy đủ tất cả từ giấy bút mực cầm kỳ thư họa cho đến cả thảo dược, nữ công… đặt ở dưới chân Đông Phương Mi nhưng cô bé lại bất chấp tất cả, bò trên sàn nhà phủ gấm vóc mà túm lấy quần áo của Liễu Ninh rồi không chịu buông tay, đùa nghịch khiến đứa con nhỏ của Tang gia là Tang Duẩn ghen l*иg lên.
Có thể coi như là chọn đồ vật đoán tương lai sao? Trần A Kiều cười ngặt nghẽo một lúc lâu, nới với Lưu Đàm: “Có lẽ là ông trời xe duyên rồi, hai đứa nhỏ này ghép với nhau cũng không tồi.”
“Ta cũng cảm thấy như vậy.” Lưu Đàm tỏ vẻ vô cùng nhu hòa. Có lẽ là năm mới vui vẻ khiến bệnh tình thuyên giảm, sức khỏe của nàng chuyển biến hơn đôi chút, vào ngày thời tiết đẹp thì cũng có thể ra ngồi ngoài trời. Liễu Duệ thì bỏ mặc mọi việc, hàng ngày theo sát bên cạnh nàng. Trong không khí vô cùng an bình chợt xuất hiện một tia buồn bã, dần dà lan tỏa trong lòng mỗi người.
“Chỉ là A Duệ và Phi Nguyệt đều không làm, chuyện này ngày sau hai nhà phải tình nguyện mới được. Đông Phương Sóc thì nhảy dựng lên, từ đó liền coi Ninh Nhi như là kẻ ngày sau muốn trộm con gái của hắn.”
A Kiều đang tươi cười bỗng nhiên cau mày.
“Có chuyện gì?” Lưu Đàm có bệnh nên vô cùng nhạy cảm, quay đầu lại nhìn nàng.
“Không có chuyện gì”, nàng khẽ mỉm cười, đáp lời.
Quả nhiên là đến kỳ rồi. Nàng thở dài, chuyện có thai thì còn phải tùy duyên phận. Đường con cái của nàng và Lưu Triệt coi như đã hết. Tuy thuốc bị động tay động chân nhưng chỉ có công hiệu giảm khả năng ngừa thai chứ không tới mức hỗ trợ mang thai. Thời gian quá ngắn, mặc dù mới là đầu tháng chưa có dấu hiệu gì nhưng bản thân nàng lại mơ hồ có cảm giác rằng mình sẽ không mang thai được, đến bây giờ thì coi như hết mong mỏi. Chỉ buồn cười cho Lý Chỉ, tính toán cơ mưu tường tận mà lại mất mạng, cuối cùng vẫn thua trắng tay.
Chuyện thế này thì chỉ sau một canh giờ là Lưu Triệt đã biết. Trong điện Tuyên Thất, Lưu Triệt thở một hơi dài, tựa như an lòng nhưng lại như thất vọng. Y nhướng mày, nói với nữ quan đến bẩm báo tin tức: “Biết rồi, ngươi lui xuống đi.”
Nữ quan không đoán được ý tứ của Lưu Triệt, đành cúi đầu lui ra.Quyển 4 - Chương 83: Dưới vòm trời đất có hai người thương tâmSau khi chuyện này kết thúc, Lưu Triệt có ý muốn ở bên A Kiều nhiều hơn, nào ngờ cả hai đều bận rộn trong những ngày tiếp theo, không rảnh để nghỉ ngơi.
Năm Nguyên Đỉnh thứ năm, biên cương dấy loạn, Lưu Triệt phái quân đánh dẹp. Về phần A Kiều thì mẫu thân của nàng là Trưởng công chúa Quán Đào Lưu Phiếu cũng tuổi cao bệnh nặng không dậy nổi. Tuy họ Lý bị diệt là do tự mình gieo gió gặt bão nhưng cũng gián tiếp dẫn đến cục diện ngoại thích họ Trần độc bá thành Trường An. Từ sau năm Nguyên Đỉnh thứ năm, người nắm giữ uy quyền lớn nhất, có thể áp chế con cháu của Trần gia là Trưởng công chúa Quản Đào bệnh nặng, không thể quản việc trong nhà. Trần A Kiều thương mẫu thân nhất nên túc trực bên giường hầu hạ thuốc thang, vất vả mệt nhọc. Trần Hi có kiến thức nhưng thân phận lại thấp nên không thể kiềm chế con cháu họ Trần. Lâu ngày liền có con cháu chi thứ của Trần gia ở trong thành Trường An làm càn, ỷ thế hϊếp người, càng lúc càng nghiêm trọng. Quan viên không tiện xử trí nên đành nhắm mắt làm ngơ, cuối cùng thì Lưu Triệt cũng biết chuyện. Thiên tử nổi giận, đích thân ra lệnh lôi đám con cháu làm bậy của Trần gia ra phạt trượng, không hề nể mặt. Một gậy đánh xuống đã dập tắt khí thế coi trời bằng vung của Trần gia, cũng làm cho giới quyền quý trong thành Trường An nhao nhao suy đoán xem rốt cuộc tình cảm thiên tử dành cho thân thích của Trần nương nương nông sâu thế nào. Nếu ân vua còn dày thì sao lại có thể không nể mặt Trần nương nương mà trách phạt con cháu Trần gia nặng như thế. Nếu ân sủng đã cạn thì sao lại không thấy Vua gần gũi những giai nhân khác trong hậu cung?
Chuyện còn chưa rõ đầu đuôi thì đến mùa xuân tháng Ba, bệnh tình Trưởng công chúa Quản Đào lại trầm trọng hơn. Bà thường xuyên hôn mê, thỉnh thoảng mới tỉnh lại, thân thể gầy yếu đến mức trông thấy rõ gân xanh dưới cổ. Trần A Kiều chứng kiến như vậy, trong lòng sầu thảm. Bản thân nàng tinh thông y lý nên không cần ai nói cũng biết rằng mẫu thân không còn sống được bao lâu nữa. Trưởng công chúa Quản Đào Lưu Phiếu không chỉ là mẫu thân của Trần A Kiều mà còn là cô cô kiêm nhạc mẫu của Lưu Triệt. Bệnh đến tình trạng thế này thì Lưu Triệt đương nhiên phải đích thân đến thăm.
Cuối tháng Ba, đích thân bệ hạ đến phủ Đường Ấp hầu. Đường Ấp hầu Trần Việt ra tận cửa quỳ đón, dẫn y vào phòng ngủ của mẫu thân. Cả phòng nồng nặc mùi thuốc. Trần Việt vừa vén rèm lên thì Lưu Triệt liền thấy A Kiều đang hầu hạ bên giường bệnh. Để tiện chăm sóc mẫu thân nên nàng chỉ mặc váy dài bình thường, gương mặt có vẻ tiều tụy. Tiếp đó, y nhìn thấy cô cô Lưu Phiếu nằm trên giường bệnh. Nô tỳ trong phòng đồng loạt quỳ xuống bái chào. A Kiều nhướng mày nhìn y, khẽ gật đầu tỏ ý chào rồi ghé sát vào tai Lưu Phiếu khẽ nói, “Nương nương, bệ hạ tới thăm người.”
Lúc này, Lưu Phiếu rất tỉnh táo, cố gắng mở mắt ra, thều thào “A Kiều, đỡ ta ngồi dậy.”
Lưu Triệt nhìn thấy dấu hiệu tử vong đang đến gần ở trên khuôn mặt cô cô, cũng giống như y đã từng nhìn thấy ở mẫu hậu của mình vào năm đó.
“A Kiều”, Lưu Phiếu khó nhọc nói: “Trong kho của phủ có một cuộn gấm trắng, con mang tới đây giúp mẫu thân.”
“Đã lâu rồi con không về phủ, e là đã quên đường. Việt Nhi, con dẫn đường cho muội muội đi.”
Trần A Kiều biết rằng mẫu thân muốn mấy người nàng ra ngoài chứ nàng làm sao có thể quên được đường trong phủ đệ nhà mình? Nếu nàng quên thật thì cứ bảo thẳng ca ca lấy mang tới là được, cần gì phải bảo cả hai người đi. Chẳng qua mẫu thân có mấy lời muốn nói riêng với Lưu Triệt mà thôi. Nàng thấy lòng chua xót, thấp giọng đáp, “Dạ.”
Ra khỏi phòng mẫu thân, nàng thấy cảnh hoa đào trước đình đã qua kỳ nở rộ, bắt đầu có xu hướng héo tàn, lòng chợt chùng lại, nói: “Ca ca, muội ở đây chờ, ca ca đi lấy giúp muội nhé.”
Trần Việt không muốn làm trái ý nàng, gật đầu, “Được rồi, muội cứ ở đây, ta đi một chút rồi quay lại.”
“Triệt Nhi có biết”, ở trong phòng, Lưu Phiếu mỉm cười hỏi, “thứ quý giá nhất đời cô cô là gì không?”
“Biết.” Đối diện với người phụ nữ bây giờ đã là bậc trưởng bối thân thiết nhất của mình, Lưu Triệt thoáng ngập ngừng, thấp giọng đáp, “Là A Kiều.”
“Đúng vậy, là A Kiều.” Lưu Phiếu cười lanh lảnh, “Khi giao A Kiều cho con, lúc đầu thì rất đắc ý nhưng sau đó lại hối hận. Còn bây giờ, ta đã yên tâm rồi.”
“Tốt cũng được, xấu cũng được nhưng các con đều phải tự mình vượt qua.” Bà khẽ dựa vào thành giường, nhắm mắt giấu đi vẻ mệt mỏi.
“Cô cô yên tâm”, Lưu Triệt mỉm cười nói, “Sau này trẫm tất không bạc đãi A Kiều.”
“Ừ.” Lưu Phiếu lại mở mắt ra nhìn Lưu Triệt nói: “Lần này thì ta tin con.”
“Cô cô còn có gì muốn dặn dò nữa không?”
“Cũng chẳng còn gì nữa đâu”, Lưu Phiếu vẫn có vẻ mệt mỏi, “Trong cuộc đời này, ta đã từng nếm trải lúc tôn quý, khi mất mát, khi đắc ý cũng như lúc đau thương. Bây giờ già rồi thì còn gì để nói nữa đây.”
“Nếu như nói là có”, bà suy nghĩ một chút rồi nói, “Con hãy cho phép Đổng Yến được chôn cùng chỗ với ta.”
Đó cũng không phải là chuyện to tát gì nên Lưu Triệt liền chấp thuận, “Được.”
“Hãy chôn ta ở bên cạnh mộ mẫu hậu.” Bà buồn bã nói: “Còn cả A Kiều nữa. Triệt Nhi, nếu sau này con trăm tuổi mà không thể cho A Kiều ở cùng chung lăng mộ thì hãy để nó ở bên cạnh ta. Để nó ở phi viên[1] thì sẽ khiến nó cô đơn, mà nó lại không bao giờ thích cô đơn tịch mịch.”
[1] Phi viên: Nơi an táng phi tử.
Ấn đường Lưu Triệt bất giác nhướng lên. “Chuyện này trẫm tự biết tính toán”, y mỉm cười cự tuyệt, “không phiền cô cô phải quan tâm.”
“Như vậy cũng tốt.” Lưu Phiếu không nói gì thêm.
Lưu Triệt ra khỏi phòng cô cô thì thấy Trần A Kiều khoanh tay đứng dưới một gốc đào ở bên đình. Nàng quay lưng về phía y, dáng vẻ gầy gò. Một cơn gió nhẹ thổi qua làm vô số cánh hoa đào, cả sắp tàn và chưa tàn, rơi xuống lả tả phủ đầy lên đầu, lên người nàng nhưng lại không hề toát lên sức sống mà nhìn vào chỉ thấy càng thêm lạnh lẽo.
“Kiều Kiều không được ra gió kẻo nhiễm lạnh đấy.” Y từ từ bước đến, phủi đi những cánh hoa đào còn vương trên vai nàng.
“Bệ hạ”, nàng ngoảnh lại, sắc mặt hơi có vẻ ngỡ ngàng.
“Mẫu thân thế nào rồi?” Nàng khẽ hỏi.
“Ngủ rồi.” Y đáp.
“Vậy à.”
Ở hành lang đằng xa, Trần Việt đang ôm một cuộn gấm màu trắng bước nhanh tới, vừa ngẩng đầu lên thì trông thấy khung cảnh bên đình nên liền nhón nhẹ bước chân.
“Gia gia.” Một cô bé khoảng chừng năm sáu tuổi chạy dọc theo hành lang tới, ôm lấy chân Trần Việt rồi ngẩng đầu lên. Cô bé tuy còn rất nhỏ nhưng gương mặt đã cực kỳ xinh đẹp.
“Suỵt”, Trần Việt khẽ nói, nắm lấy tay Trần Mạn rồi từ từ bước lui lại.
“Mạn Nhi, cháu tới đây làm gì?”
“Cháu muốn thăm tổ nãi nãi[2].” Trần Mạn nũng nịu đáp, “Gia gia, hình như cháu vừa nhìn thấy cô nãi nãi[3].”
[2] Tổ nãi nãi: Cụ.
[3] Cô nãi nãi: Bà, là cô của bố hoặc mẹ.
“Ừ”, Trần Việt đáp, “Tổ nãi nãi của cháu ngủ rồi. Cô nãi nãi đang ở cùng với bệ hạ, cháu không được tới quấy rầy bọn họ.”
“Dạ.”
“Phụ thân”, Trần Mạn trông thấy phụ thân ở phía trước liền mừng rỡ chạy đến nhào vào lòng Trần Hi.
“Ừ, Mạn Nhi.” Trần Hi ôm lấy con gái, mỉm cười hỏi phụ thân, “Nãi nãi hôm nay thế nào rồi?”
“Vẫn thế thôi.” Trần Việt khẽ thở dài nói, “Bệ hạ đích thân đến thăm, giờ đang ở cùng nương nương.”
“Vâng.” Trần Hi đáp, nghĩ tới những lời mọi người đang đồn đại thì cảm thấy hơi tức cười. “Vậy là bệ hạ vẫn còn sủng ái cô cô lắm.”
Trần Mạn ở trong lòng hắn bỗng ngẩng đầu lên, tư lự hồi lâu rồi cuối cùng bật hỏi, “Nếu như thế thì tại sao bệ hạ lại hạ lệnh trách phạt mấy thúc thúc bá bá nhà ta?” Dù nó còn bé nhưng cũng nghe được một số điều bên ngoài xì xào.
“Bởi vì”, Trần Hi liếc nhìn phụ thân rồi trả lời nghiêm túc, “Bệ hạ nguyện ý sủng ái là cô cô chứ không phải là Trần gia.”
Trần A Kiều là người của Trần gia nhưng Trần A Kiều không phải là Trần gia. Lưu Triệt có thể ân sủng, có thể yêu thương một mình Trần A Kiều chứ y không nguyện ý thấy lại cảnh ngoại thích Trần gia độc bá. Thế nên y cố tình phá tan khí thế của Trần gia. Người y sủng ái chỉ có A Kiều, nhiều nhất là thêm mẫu thân và các con của A Kiều, vì ít nhất đó cũng là cô cô và con cái của y. Còn những người khác của Trần gia, bao gồm cả Đường Ấp hầu Trần Việt, thì y cũng chẳng muốn bảo vệ, nếu Trần Việt mà phạm tội thì e rằng y cũng trừng phạt không chút lưu tình. Còn cô cô, chỉ cần Trần gia được bình an thì cô cô cũng không để tâm đến việc bệ hạ trách phạt con cháu Trần gia. Có lẽ, trong mắt cô cô, con cháu Trần gia có bị quản thúc thêm một chút thì ngược lại càng có thể có tiền đồ.
Trần A Kiều độc chiếm ân sủng của thánh thượng là cơ duyên nhưng cũng là tổn thương nặng nề đối với Trần gia. Vì có cô cô nên Trần gia nhất định bị mang tiếng là ngoại thích. Hơn nữa, khi không có thế gia ngoại thích khác cạnh tranh thì càng phải cẩn thận từng li từng tí, không thể bước nhầm để người khác hiềm nghi. Hắn cũng phải suy nghĩ rất nhiều năm mới thông suốt những điều này. Cho nên hắn nghĩ rằng việc cuối cùng mà nãi nãi phó thác cho bệ hạ chắc chắn chỉ có cô cô chứ sẽ không có Trần gia. Trần gia quật khởi không phải dựa vào ân sủng của Hoàng phi hay Hoàng hậu mà là dựa vào chính mình. Đến cuối cùng thì phủ Đường Ấp hầu hiển hách suốt trăm năm nhưng chẳng qua cũng chỉ có ba người sáng suốt mà thôi.
Nửa đầu năm Nguyên Đỉnh thứ năm, Lưu Triệt bận việc chính sự, quân sự nên dù nghe nói Trưởng công chúa Quản Đào càng ngày càng yếu nhưng cũng chỉ tới thăm được có một lần. Cuối tháng Tư, ngự y tới bẩm báo rằng bà chỉ còn sống thêm được vài ngày nữa. Bậc trưởng bối năm xưa đang từng bước từng bước đi tới điểm tận cùng của sinh mệnh. Lưu Triệt cảm nhận thấy trong buổi đầu mùa hạ tươi xanh mát mắt bừng bừng sức sống vẫn có một tia bi ai đến tận xương cốt. Song y không rảnh bận tâm đến bi ai của mình vì biết rằng A Kiều lúc này còn đau thương hơn nhiều.
Phủ Đường Ấp hầu vào cung báo tang thì sắc trời đã muộn, y đang vùi đầu xử lý công việc, nghe vậy liền lặng người đi. “Bệ hạ”, Dương Đắc Ý lấy hết can đảm bước lên, khẽ nói, “Trần nương nương còn đang ở Hầu phủ chưa hồi cung.”
Y vội vã xuất cung, tới phủ Đường Ấp hầu thì đã vào đêm. Hầu phủ ngày xưa cẩm tú phồn hoa, hôm nay treo đầy trướng trắng.
“Bệ hạ”, Đường Ấp hầu Trần Việt dập đầu nghênh giá. Ập vào mắt Lưu Triệt là một nhà toàn những người mặc đồ tang.
Người đến người đi trước linh cữu của cô cô, y nhìn thoáng qua một vòng rồi hỏi. “A Kiều đâu?”
Y hỏi như vậy thì Trần Việt cũng không thấy bất ngờ, bình thản đáp. “Nương nương quá đỗi đau thương, thần sợ nương nương bị tổn thương thân thể nên sai tỳ nữ đưa người về lầu Mạt Vân nghỉ ngơi rồi.”
Đi trên hành lang dài dằng dặc dẫn từ phủ Đường Ấp hầu nhìn trở về thì thấy lầu Mạt Vân xa xa hoàn toàn yên ắng, không đèn không nến cứ tựa như chưa từng có một ai ở đó. Thị nữ đứng canh ngoài lầu mang vẻ mặt lo âu, thấy ngự giá đến liền vội vàng quỳ gối. Lục Y thở một hơi thật dài, vội vàng bẩm, “Bệ hạ, nương nương trở về đây rồi thì liền nói rằng muốn ở một mình yên tĩnh, bảo tất chúng nô tỳ ra ngoài.”
Cô đứng bên ngoài gọi rất nhiều lần nhưng không nghe thấy tiếng trả lời. Sự tĩnh mịch bên trong lầu Mạt Vân thật khiến cho lòng người sợ hãi. Lưu Triệt gật đầu tỏ ý bảo đã biết, đón lấy chiếc đèn l*иg Dương Đắc Ý chuyển sang, đẩy cửa bước vào. Ánh đèn chập chờn chiếu lên tường một chiếc bóng âm u. Y gọi khẽ, “Kiều Kiều.”
Y nhìn qua một lượt, thấy trên giường, cạnh án đều không có bóng dáng quen thuộc. Y đảo một vòng quanh phòng mới thấy A Kiều ôm đầu gối, ngồi trong góc. Y thở dài một tiếng, bao nhiêu năm đã qua rồi mà nàng vẫn không bỏ được thói quen này. Năm xưa, tổ mẫu của y cũng là ngoại tổ mẫu của nàng là Đậu thái hoàng thái hậu qua đời. Khi đó nàng còn là hoàng hậu của y, y cũng phải tìm thật lâu khắp trong cung Vị Ương, đến điện Tiêu Phòng không có, đến cung Trường Nhạc cũng không có, cuối cùng phải tìm tới ngọn giả sơn mà hai người gặp nhau hồi nhỏ thì mới thấy.
“Kiều Kiều”, y ôm nàng vào lòng, qua ánh đền l*иg yếu ớt chỉ thấy khuôn mặt nàng trống rỗng. Sau khi nghe y gọi vài lần thì đôi mắt nàng mới có chút linh động, ngẩng đầu nhìn y, một lát sau mới ngập ngừng gọi, “Triệt Nhi?”
“Trẫm ở đây.” Y dịu dàng đáp.
Vào năm Vương thái hậu qua đời, chính nàng đã ở với y suốt cả đêm. Lưu Triệt phải thừa nhận rằng nhờ có nàng ở bên cạnh đêm hôm đó mà y giảm được rất nhiều đau đớn. Vì thế lần này đổi lại là y ở bên nàng.
“Kiều Kiều có muốn biết”, y mỉm cười nói, cố gắng chuyển hướng suy nghĩ của nàng, “ngày hôm đó cô cô đã nói gì với trẫm không?”
“Không muốn.” Nàng hơi nghiêng đầu tựa vào vai y, cảm nhận được sự kinh ngạc của y nên liền nói, “Thϊếp cũng đoán được.”
Chẳng qua cũng là muốn y đối xử với nàng thật tốt mà thôi. Xót thương thay cho tấm lòng cha mẹ trong thiên hạ. Từ xưa vốn đã là như thế. Những năm qua, mẫu thân ở bên cạnh nàng, yêu thương nàng, che chở nàng, làm hậu thuẫn vững chắc cho nàng. Dần dần, nàng có cảm giác rằng bà chính là mẫu thân của mình dù ở kiếp trước hay trong kiếp này. Đều cùng một tình yêu thương, đều cùng sự chở che, đều cùng sự trả giá, đều cùng sự dâng hiến.
“Nói cho cùng thì tất cả những gì mẫu thân muốn đều là hư ảo, chỉ có hạnh phúc của con và Triệt Nhi mới là thật sự.” Phút lâm chung, mẫu thân đã nói như vậy.
Hai ngàn năm sau, khi mẹ qua đời thì nàng còn đang trong buổi huấn luyện tại trường cảnh sát. Nàng đột nhiên cảm thấy có một thứ rất quan trọng đã mất đi, sau đó nghe được tin dữ thì nàng khóc đến khàn cả giọng. Còn hôm nay, nàng cứ đau đáu nhìn mẫu thân gầy đi rồi mất. Nàng đưa tay lên chạm vào má mình mà thấy không hề có một giọt nước mắt. Điều này là do nàng thiếu tình yêu với mẫu thân hay là mấy năm nay đã dần biến thành lạnh lùng?
“Từ nhỏ đến lớn, mẫu thân yêu thương thϊếp nhất.” Nàng hồi tưởng, “Còn yêu thương hơn cả ca ca nữa. Bà ngoại bảo thϊếp ở lại cung Trường Nhạc, mẫu thân thật ra không nỡ nên cứ ba ngày hai bận lui tới cung Trường Nhạc để chào bà ngoại mà cũng là thăm thϊếp.” Nàng có gì tốt mà khiến cho mẫu thân yêu thương đến thế?
“Ừ.” Nàng nghe thấy người bên cạnh trầm giọng, “Khi còn bé, trẫm… ta từng có lúc rất hâm mộ Kiều Kiều. Mẫu hậu cũng rất yêu thương ta nhưng đó lại không chỉ là tình yêu thương đơn thuần.”
“Có một năm thϊếp bị lên sởi mà mẫu thân gọi tất cả ngự y trong cung đến. Rõ ràng là bệnh chẳng phải nặng gì nhưng bà lại lo lắng đến như vậy. Có một năm…”
“Năm thϊếp gả cho người, mẫu thân đưa thϊếp lên xe, trong lòng lưu luyến nhưng lại cười rất vui vẻ… Có một năm, thϊếp thích một con búp bê nhưng mẹ không mua được, thϊếp đã không hiểu lại còn khóc lóc…”
“Kiều Kiều?” Có người lắc nhẹ vai nàng, giọng nói thật kỳ lạ.
Cuối cùng thì con búp bê vẫn xuất hiện trên đầu giường của nàng. Nàng từ từ ngẩng đầu lên, trông thấy ánh mắt của y có vẻ gì đó khá kỳ lạ nhưng ánh nến quá mờ nên nhìn không rõ lắm.
Lưu Triệt than một tiếng, nói: “Nếu Kiều Kiều muốn khóc thì cứ khóc đi.”
Từng giọt, từng giọt nước mắt ứa ra, lăn trên gương mặt rồi rơi xuống. Dần dà lệ nhòa gương mặt tựa như nàng đang đi giữa trời mưa tầm tã. Những người mà nàng gọi là mẹ ở trong vòng trời đất này đều đã mất.
Theo lễ nghi cổ đại, cha mẹ qua đời, con gái đã xuất giá phải thủ hiếu nửa tháng. Trần A Kiều ở miết trong cung Trường Môn suốt nửa tháng, khi trở ra thì gió Nam tháng Năm đã thổi tới mang theo hơi nóng hây hẩy. Tháng Năm, lúc tin quân Hán lần đầu tiên thất trận ở biên cương được báo về đến thành Trường An thì Nam Cung trưởng công chúa đang nằm trong lòng phu quân Liễu Duệ của nàng tươi cười nhắm mắt. Chỉ là lần này đã vĩnh viễn không thể mở ra.
Lưu Triệt nhận được tin, cầm nguyên cây bút ngồi lặng lẽ, nước mực theo thân bút chảy tong tóc xuống trang giấy hoa tiên trắng như tuyết, loang ra nhòe nhoẹt. Dương Đắc Ý nhìn thấy kinh hãi, khuyên nhủ, “Mong bệ hạ nén bi thương.”
“Nén bi thương?” Lưu Triệt chậm rãi nói, “Không, trẫm cũng không bi ai.”
Ít nhất không bi ai như hai lần trước đây. Người vừa mất là tỷ tỷ của y, tỷ tỷ cùng cha cùng mẹ, thuở nhỏ yêu thương y, đến lúc lớn lại vì y mà ôm lấy tủi nhục đi sang Hung Nô kết hôn để cầu hòa. Khi đó, y còn cho là cả đời này sẽ không gặp lại được tỷ tỷ. Nhưng nếu như trời cao đã nguyện ý thành toàn cho tỷ đệ bọn họ đoàn viên, tại sao không ban cho tỷ tỷ thêm ít năm tuổi thọ chứ?
“Ngươi có biết”, y không xoay người lại, hỏi, “Hoàng tỷ của trẫm năm nay bao nhiêu tuổi không?”
Dương Đắc Ý sợ mất mật không dám đáp lời.
“Hoàng tỷ chỉ lớn hơn trẫm có bốn tuổi.”
Tính ra cũng chỉ lớn hơn A Kiều hai tuổi. Sinh mạng còn trẻ như vậy mà lại bị bão cát của đại mạc vùi dập làm cho héo tàn quá sớm. Vậy A Kiều thì sao?
A Kiều cũng đã từng bị vùi dập, A Kiều cũng rất yếu ớt. Bây giờ thân thể nàng lạnh giá, dễ mệt, chỉ cần dính phải một cơn gió lạnh sẽ bị sốt cao không ngừng.
A Kiều yếu ớt như vậy, có khi nào đến một giai đoạn nào đó trong cuộc đời sẽ buông tay ra đi không thể ở bên cạnh y nữa không? Những người mà y coi trọng trong cuộc đời đều lần lượt ra đi, cho tới giờ, bên cạnh cũng chỉ còn có một mình A Kiều. Trong lòng y đột nhiên dâng lên cảm giác nôn nao khó tả, đến khi nhìn thấy bóng dáng giai nhân quen thuộc mới dần trấn tĩnh lại.
Thân thể A Kiều tuy gầy nhưng trông sắc mặt vẫn tốt. Nàng cứ mãi nhìn y qua màn nước mắt lăn dài, nói: “Đàm tỷ đã đi rồi.”
Nam Cung trưởng công chúa Lưu Đàm, con gái của Hiếu Cảnh hoàng đế, chị ruột của Vũ hoàng đế. Khi Vũ Đế còn bé, Thiền vu Quân Thần của Hung Nô xâm phạm biên ải, Hoàng đế bất đắc dĩ phải gả con gái mình là Nam Cung để cầu hòa thì Quân Thần mới bãi binh. Thiền vu Quân Thần chết đi, em trai của hắn là Y Trĩ Tà lên ngôi. Tập tục của Hung Nô là cha chết thì con thừa kế vợ của cha nên Trưởng công chúa phải ngậm đắng đi theo Y Trĩ Tà.
Vũ hoàng đế mấy lần đánh với Hung Nô đều chiến thắng. Tháng Tư năm Nguyên Thú thứ hai, Trường Tín hầu dẫn một vạn kỵ binh luồn sâu ngàn dặm tập kích vương đình ở Mạc Bắc, cứu được Nam Cung trưởng công chúa trở về. Vào tháng Mười hai mùa đông năm Nguyên Thú thứ hai, Trường Tín hầu Liễu Duệ cưới Nam Cung trưởng công chúa Lưu Đàm. Từ đó về sau, vợ chồng ân ái mặn nồng. Năm Nguyên Đỉnh thứ năm, Nam Cung trưởng công chúa qua đời. Hoàng đế đau buồn, cho tiến hành tang lễ trọng thể, chôn cất tỷ tỷ ở Mậu Lăng.
Còn lúc này, y đột nhiên ôm chặt lấy A Kiều, không nói một lời. A Kiều không khỏi kinh ngạc, nghĩ tới y đang đau khổ vì Trưởng công chúa qua đời nên dịu dàng an ủi.
Lưu Triệt còn nhớ, khi hoàng tỷ bệnh nặng nằm liệt trên giường đã từng hỏi y, “Triệt Nhi có yêu A Kiều không?” Lúc ấy y không trả lời, chỉ khẽ gật đầu, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ.
“Vậy cũng tốt.” Lưu Đàm mỉm cười an tâm, biết rằng nếu là đáp án khác thì đệ đệ nhất định sẽ không như thế. Khi đó, dù nàng đã rất suy yếu, nhưng nét mặt vô cùng an tĩnh.
“Vậy thì ta có thể hơi an tâm rồi.”
Nếu như không như thế, nàng sợ rằng một khi ngay cả nàng cũng xuôi tay thì trên thế gian này sẽ không còn ai đối xử với đệ đệ của mình thật lòng nữa để rồi sẽ càng ngày càng thêm cô độc rồi cuối cùng thì dù quyền cao chức trọng nhưng lại tịch mịch đến mức không nhận ra ngay chính bản thân mình.
“Có thể yêu một người cũng là một loại hạnh phúc.” Ít nhất, còn có chỗ để gửi gắm tâm sự. Phật nói, đời người có tám khổ ải lớn, trong đó có nỗi khổ yêu thương mà phải xa nhau. Nhất là yêu thương mà phải vĩnh viễn xa cách, hiện giờ xem như là đau khổ lớn nhất. Nàng có thể yên tâm về đệ đệ nhưng lại không yên tâm về phu quân. Dù không yên tâm thì cũng biết phải làm thế nào chứ? Cuối cùng vẫn phải ra đi.
Năm Nguyên Đỉnh thứ năm không phải là một năm tốt cho cả Lưu Triệt lẫn A Kiều. Trong năm này, bọn họ đều mất đi một người rất quan trọng trong cuộc đời. Cho dù bọn họ đối với bên ngoài vẫn bình thản nhưng đến đêm khuya gặp mặt nhau thì mới cảm nhận được sự đau đớn ở trong lòng.
“A Kiều, muội yêu Triệt Nhi sao?”
“Chẳng phải Đàm tỷ đã hỏi vấn đề này từ hồi năm Nguyên Thú thứ hai rồi sao?”
“Đúng vậy, nhưng hôm nay, ta hỏi lại một lần nữa, hy vọng có thể nghe được đáp án khác.”
Hôm đó, nàng đã suy nghĩ rất lâu rồi mới đáp, “Đúng vậy, muội yêu chàng.”
Nàng nghĩ, dần dần bản thân nàng cũng không rõ tình yêu là gì.Quyển 4 - Chương 84: Núi xuống cùng mây cuối chân trờiNăm Nguyên Đỉnh thứ năm, Tề vương Lưu Cứ rời đất phong tới Trường An. Chuyến đi lần này của hắn là để chịu tang. Vào năm này, triều đình để tang hai vị công chúa, luận thân phận là trưởng bối trực hệ của các hoàng tử, mặc dù không phải là họ gần với Vệ thị nhưng về tình về lý thì hắn cũng phải thăm hỏi.
Khi xe ngựa nước Tề tiến vào Trường An, Lưu Cứ ngồi ở trên xe suy nghĩ mông lung. Tình thế trước mắt không phải là không tốt, Công chúa trưởng Quán Đào là mẹ đẻ của Trần A Kiều, còn Nam Cung trưởng công chúa Lưu Đàm mặc dù là cô cô của cả hắn và Lưu Mạch nhưng lại thiên vị Trần A Kiều hơn. Mặc dù bệ hạ kính trọng cả hai nhưng người đã chết như đèn đã tắt. Tình cảm dù có sâu đậm đến mấy nhưng nếu ở trong hoàng gia vài năm cũng sẽ dần dần phai nhạt. Lần này hai người chết đi ngược lại là một suy yếu mạnh đối với thế lực của Trần thị.
Hắn nhớ lại lúc trước khi tới Trường An, mưu sĩ Ninh Triệt từng nói với hắn rằng trong chuyến đi này, nếu không nắm chắc mười mươi thì nhất định không được châm chọc Thái tử và gia tộc Trần thị. Năm trước Ninh Triệt từ Lâm Phần trở về nước Tề đã từng nói rằng người con gái kia thật sự không phải là nhân vật đơn giản: “Chỉ nhìn một cách đơn thuần thì ta thật sự không thể nào tưởng tượng được rằng Trần nương nương hôm nay và người tính sai ngã thảm trong vụ án Vu cổ năm Nguyên Quang thứ năm lại là một.”
Ninh Triệt bàn tiếp, “Trần gia bây giờ đang thịnh, được bệ hạ coi trọng, chọc tới bọn họ thì người cuối cùng chịu khổ chính là Vương gia. Cơ hội có lợi nhất của chúng ta là thời gian. Bệ hạ đang lúc tráng niên, ở lâu với ai thì rồi cũng sinh chán ghét, khi đó mới là lúc Vương gia hành động.”
Nhưng mà, hắn từ từ siết chặt nắm tay, thật sự phải kính cẩn thận trọng sao? Mặc dù tính tình của hắn luôn kính cẩn thận trọng, nhưng đã bốn năm rồi. Trong bốn năm này, nỗi đau mất mẹ không một ngày nào không gặm nhấm tâm hồn hắn, phải nhẫn nại thế nào mới có thể bình tĩnh, cúi đầu ở trước mặt người phụ nữ kia.
Chỉ tiếc cho Lý Chỉ. Tuy hắn ở nước Tề xa xôi nhưng vẫn có tai mắt. Mấy ngày trước nghe chuyện Lý tiệp dư bị ban cho tự sát, hắn đã thầm thở dài. Thật sự là phụ nữ không thể làm nên việc lớn được sao? Nếu bà ta thành công thì đương nhiên là Lưu Đán được lợi, bản thân hắn ở ngoài xa ngàn dặm làm gì còn có cơ hội? Phàm làm việc quá độc ác thì sẽ bị báo ứng. Lý Chỉ bố trí mọi việc ở trong cung rất kín kẽ nhưng cuối cùng lại để lộ sơ hở ở ngoài cung.
“Cữu cữu”, cô bé ngồi trong lòng hắn hơi khó chịu, cau mày khẽ kêu lên, “Người ôm làm đau cháu.”
Hắn giật mình, lỏng tay hỏi, “Vi Nhi không sao chứ?”
“Không sao.” Cô bé chừng bố năm tuổi nhưng rất hiểu biết, ngẩng đầu lên mỉm cười nói: “Cữu cữu, tại sao cha mẹ không cùng về Trường An gặp ngoại công[1] bệ hạ?”
[1] Ngoại công: Ông ngoại.
Đã không muốn nhớ đến những chuyện thương tâm nữa, thế mà vẫn vướng vào vòng trần ai. Lưu Cứ nghĩ bụng nhưng lại không thể nói như vậy với Lý Vi, chỉ giảng giải, “Bởi vì gia gia cũng bị bệnh nên cha mẹ cháu ở lại chăm sóc. Hai người nghĩ rằng Vi Nhi chưa từng được gặp ngoại công nên mới nhờ cữu cữu dẫn Vi Nhi về kinh.”
“A.” Lý Vi còn ở tuổi chưa hiểu được những phức tạp trong lòng người. Cô bé bừng bừng hưng phấn nhìn qua tấm rèm cửa lay động theo nhịp bánh xe lăn, ngắm nhìn cảnh thành Trường An ngựa xe như nước, áo quần như nêm. “Cữu cữu, Trường An đẹp thật. Tại sao mẫu thân và cữu cữu lại muốn rời Trường An về ở đất Tề chứ?”
Trẻ nhỏ nói không giữ miệng khiến Lưu Cứ nghe mà lòng buồn thảm. Nếu có thể thì hắn chịu tình nguyện rời khỏi Trường An chôn rau cắt rốn sao? Chẳng qua là lúc phải rời đi thì mẫu hậu đã mất, phụ hoàng cũng bỏ rơi tỷ đệ bọn hắn.
“Vi Nhi”, hắn ôm lấy đứa cháu ngoại, mỉm cười nói: “Sau này ta sẽ dẫn mẹ cháu và cháu trở về sống ở thành Trường An có được không?”
“Được chứ.” Lý Vi nửa hiểu nửa không nhưng vẫn gật đầu.
“Nhưng cháu tuyệt đối không được nói cho bất cứ ai biết chuyện này đấy.”
Tề vương Lưu Cứ tiến kinh, trước tiên vào cung bái chào bệ hạ. Cha con gặp nhau một lát ở điện Tuyên Thất rồi Lưu Triệt dẫn Lưu Cứ ra ngoài. Hai người đi trong cung Vị Ương. Trong một sơn đình ở phía đằng xa, Hình Nhược đang ngồi mỉm cười nhìn Tam hoàng tử Lưu Hoành chơi đùa với một cô bé ở phía dưới. Cô bé kia còn rất nhỏ tuổi, mới chỉ cao đến thắt lưng Lưu Hoành, chạy lon ton, bất chợt đứng không vững ngã phịch xuống đất, tuy chưa chắc đã đau nhưng dù sao thì cũng ấm ức nên khóc váng lên.
“Vi Nhi.” Lưu Cứ chợt khẩn trương, vội bước lên phía trước ôm lấy Lý Vi vỗ về an ủi, “Vi Nhi không khóc, cữu cữu đây rồi.”
Lưu Triệt lặng người đi, nhớ lại hồi năm Nguyên Thú nguyên niên, Vệ Trường và phu nhân bị bãi về quê, bọn họ mới sinh một đứa bé gái, hình như đặt tên chỉ có một chữ là Vi.
“Tham kiến bệ hạ.” Mọi người hành lễ. Lưu Hoành lúng túng nói, “Nhị ca, ta thấy Vi Nhi đáng yêu nên mới chơi đùa với nó, không phải cố ý đâu.”
Lưu Cứ khoát tay, tươi cười, nói, “Không sao. Tính ra thì tam đệ cũng là cữu cữu của Vi Nhi đấy.” Hắn cúi xuống bảo Lý Vi: “Vi Nhi, chào tam cữu đi.”
Lý Vi dần dần thôi khóc, thút thít chào tam cữu rồi đưa mắt nhìn Lưu Triệt ở phía xa khẽ hỏi, “Cữu cữu, đó là ngoại công à?”
Lý Vi liền giật giật tay cữu cữu bảo hắn buông mình ra rồi bước lũn cũn tới trước mặt Lưu Triệt. Cô bé còn quá nhỏ lại không lớn lên ở chốn cung đình nên không biết gặp vua thì phải làm theo lễ nghi. Cô bé thấy những người xung quanh làm đại lễ thì trong lòng cũng thấy kính sợ, rón rén sờ vào y phục của Lưu Triệt. Đám thị vệ theo hộ giá căng thẳng nhưng thấy bệ hạ không tỏ vẻ khó chịu nên cũng không tiến lên. Lý Vi ngẩng đầu, thơ ngây hỏi: “Ông ngoại?”
Lưu Triệt cất tiếng đáp nhẹ. Y ngắm nhìn khuôn mặt Lý Vi, thấy quả nhiên cũng dịu dàng giống hệt như Vệ Trường. Năm xưa Vệ Trường đã từng có thuở nhỏ như thế này, cũng bước đi lũn cũn, ngây thơ gọi y là phụ hoàng. Khi đó, y vẫn còn hiếm hoi, mới có một con gái là Vệ Trường nên dù chỉ là công chúa nhưng thực sự yêu quý như châu báu. Những ngày tháng đó đã mãi qua, bây giờ, đến cả con gái của Vệ Trường cũng lớn thế này rồi. Vệ Trường là con gái trưởng, cho tới bây giờ mới có một con gái là Lý Vi. Vì Dương Thạch phản nghịch nên bị tước danh hiệu công chúa, để tang Công Tôn Kính Thanh mất nên đến nay chưa sinh nở tiếp. Chư Ấp xuất giá đã hơn một năm, vài ngày trước báo tin về là mới có mang. Như vậy, cho tới bây giờ, chỉ duy nhất Lý Vi có bối phận hàng cháu của y, và vẫn như cũ là do Vệ thị sinh ra.
Y ngầm cảm thấy thương tâm nhưng vẻ mặt vẫn tỏ vẻ ôn hòa, chỉ hỏi han những chuyện thường nhật. Lý Vi còn nhỏ tuổi, chưa từng chứng kiến tính tàn ác vô tình của y nên dần dần cũng quên bẵng nỗi kính sợ ban đầu, nói cười liến thoắng, đôi lúc cũng rất tinh nghịch. Lưu Cứ đứng bên liền thở phào nhẹ nhõm. Xem ra việc nghe theo kế sách của Ninh Triệt, chọn cách đánh vào tình cảm là chính xác.
“Vì gia gia bị bệnh nặng”, Lý Vi vẫn theo những lời hắn nói mà nhẩn nha kể về chuyện gia đình mình. Trẻ con dù có tinh quái thế nào chăng nữa cũng không thể nói dối che được mắt phụ hoàng của hắn, chỉ có cách để cho chính cô bé tin tưởng những gì mình nói là thật thì mới thể hiện ra như thật.
“Cha mẹ đều ở nhà chăm sóc nên không thể tới Trường An được, đành phải giao Vi Nhi cho cữu cữu. Khi đưa tiễn, mẫu thân đã khóc hết nước mắt.” Lý Vi buồn bã.
“Thật sao?”, Lưu Triệt hỏi bâng quơ, rời mắt khỏi Lý Vi, khẽ liếc về phía Lưu Cứ, Lưu Hoành. Ánh mắt Lưu Triệt lành lạnh đầy ý tứ khiến Lưu Cứ phát sợ nhưng y lại hạ lệnh, “Truyền ý chỉ của trẫm, thăng phò mã Lý Giai lên chức Thủy thành đô úy, tiếp chỉ lập tức đến Trường An nhậm chức. Cứ Nhi, quá lâu con không trở về Trường An, bây giờ tới rồi thì nên ở thêm mấy ngày, dẫn Vi Nhi đi chơi thành Trường An một vòng nhé.”
Cung Kiến Chương chẳng có liên quan gì đến cung Vị Ương nhưng cung nhân chỉ nghe phong thanh là đoán được chiều gió. Trần A Kiều nhanh chóng biết được chuyện này. “Kẻ tìm ra Lý Vi làm điểm đột phá kia thật là thông minh.” Nàng xé bỏ một bản vẽ hỏng, trầm ngâm nói. Nếu Lưu Cứ có thể tự mình nghĩ ra thì đã không phải lãng phí bao năm mới dùng phương pháp này. Người ở xa ngàn dặm có thể suy đoán chuẩn xác những sơ hở trong lòng đế vương thì tất nhiên không phải kẻ tầm thường.
Buổi tối, Lưu Triệt về nghỉ ở điện Trường Môn và nói với nàng: “Kiều Kiều, Mạch Nhi không còn nhỏ nữa, nàng chọn cho nó một người để kết hôn đi. Thái tử thành thân thì những đệ muội của nó mới cưới gả được.”
Trần A Kiều liền bật cười. Y đã nói như vậy thì nàng còn dùng cái cớ “Mạch Nhi còn nhỏ tuổi” thế nào được nữa chứ? Năm Nguyên Đỉnh thứ năm, Thái tử Lưu Mạch mới tròn mười sáu tuổi. Mười sáu tuổi rồi, đó chính là tuổi nàng được gả cho Lưu Triệt. Năm đó y còn trẻ hơn, chỉ mới mười bốn tuổi. Nàng biết rằng lần này không thoái thác được nên liền đồng ý, “Được rồi.”
Bệ hạ đã chính miệng nói ở lại thêm mấy ngày nên tất nhiên Lưu Cứ không dám làm trái. Hơn nữa việc này lại thể hiện ân sủng của Thánh thượng. Trời vào hè, Tề vương Lưu Cứ hẹn với tam tỷ Chư Ấp và dẫn cháu gái ngoại đi dạo quanh các phố phường Trường An. Tất nhiên, bọn họ không đến lầu Thanh Hoan có quan hệ dây mơ rễ má với Trần gia. Những năm qua, thức ăn dùng cách xào nấu đã dần dần thông dụng nên lầu Thanh Hoan cũng dần mất đi địa vị đứng đầu thành Trường An. Lúc này, bọn họ tới lầu Tàng Mai mới mở, ngồi ở bàn gần cửa sổ trên lầu ngắm nhìn cảnh phố xá phồn hoa bên ngoài.
“Tam tỷ sức khỏe an khang”, Lưu Cứ nói giọng vui mừng, “Ta thật an tâm.”
Lý Vi còn là một đứa trẻ, không cưỡng nổi sức hấp dẫn của cảnh náo nhiệt trên đường phố. Lưu Cứ liền căn dặn người hầu đi theo bế nó xuống phố chơi, hầu hạ cẩn thận, chỉ cần Lý Vi thích là mua, không phân biệt giá cả đắt rẻ.
“Tỷ nghĩ rằng năm xưa tỷ đã chọn lựa sai mất rồi.” Lưu Thanh chán nản nói: “Mặc dù Thạch gia đối xử không tệ nhưng tất cả già trẻ lớn bé đều cứng đầu như đá tảng, nói nào danh phận thái tử đã định, thiên hạ đồng lòng, mình làm thần tử thì càng phải trung thành. Tỷ làm mọi cách ngầm khuyên nhủ nhưng ngay cả phu quân của mình cũng không khuyên nổi.”
“Tam tỷ vui vẻ là được rồi.” Lưu Cứ không mấy để ý, chỉ cười, “Bảo vệ được mình là tốt rồi. Không phải quan tâm đến mấy đệ đệ. Lão sư vốn là người như vậy, tuy không thể giúp tỷ nhưng nếu tỷ đắc thế thì ông ấy sẽ trung thành tuyệt đối với tỷ. Tam tỷ không cần phí tâm tư thêm nữa.”
Ánh mắt hắn lóe lên, “Hôm nay chúng ta ở trong tối, bọn họ ở ngoài sáng. Chúng ta tấn công, bọn họ phòng thủ. Một khi Lưu Mạch để cho chúng ta bắt được sai lầm thì lúc đó…”
Miệng hắn vẫn nói nhưng ánh mắt lại chăm chú nhìn đứa cháu gái đang đi trên phố bên trở về lầu. Hắn thấy một cỗ kiệu có mái theo kiểu nhà quan từ từ đi tới rồi dừng lại ở dưới lầu Tàng Mai, một thiếu nữ xinh đẹp mặc quần áo màu hồng có phong độ rất đại gia vén rèm bước ra, Lý Vi còn nhỏ tuổi, tay lại cầm quá nhiều đồ, đứng không vững ngã xuống dưới chân thiếu nữ. Thiếu nữ nhướng mày định nổi xung, nhưng thấy cô bé còn nhỏ quá nên dẫu bực bội mà không phát tiết ra được. Cô gái thấy tên tiểu tử theo hầu lúng túng nói lời xin lỗi thì đành phải nén giận, vùng vằng đáp: “Thôi đi.”
“Đó là đại tiểu thư nhà Thượng Quan đấy mà.” Lưu Thanh cũng liếc mắt nhìn thấy, cười lạnh nói, “Dân chúng thành Trường An đồn đại cô ta là lựa chọn có hy vọng nhất cho vị trí thái tử phi.”
Lưu Cứ nhíu mày, hỏi: “Nhà Thượng Quan nào?”
“Lang trung lệnh Thượng Quan Kiệt.” Lưu Thanh cười mỉa, “Nghe nói, Trần A Kiều tặng cho cô ta lời bình bốn chữ ‘Đẹp như trăng rằm’, nhưng tỷ thấy kiêu căng ngạo mạn mới là đúng.” Cô đã quên bản thân mình năm xưa kiêu căng ngạo mạn chỉ hơn chứ không kém so với Thượng Quan Vân.
“Loại người như Lưu Mạch mà lại để mắt tới cô ta sao?” Lưu Cứ cúi đầu, có vẻ không thể nào hiểu nổi.
“Điều này thì chưa chắc.” Lưu Thanh thản nhiên nói, “Người khác không biết chứ tỷ thì biết được một chút. Đêm trước khi Lý tiệp dư rớt đài, nghe nói viên nội thị thân tín của Lưu Mạch là Thành Liệt đã từng đến phủ Thượng Quan.”
Lưu Cứ trầm ngâm một lúc rồi lần nữa quan sát Thượng Quan Vân ở dưới lầu. Ánh mắt nhìn chằm chặp khiến Thượng Quan Vân có cảm ứng, liếc mắt nhìn lên trên lầu, thấy một khuôn mặt trông khá giống với người kia, liền sững lại. Hắn chợt nhớ, theo mẫu hậu nói, năm xưa trước bị phế truất thì Trần A Kiều cũng có tính cách kiêu căng ngạo mạn như thế này.
“Thượng Quan tiểu thư”, Lưu Cứ chậm rãi bước xuống lầu, bế Lý Vi lên, mỉm cười nói, “Cháu gái của kẻ hèn này còn quá nhỏ, có gì mạo phạm thì kính xin tiểu thư rộng lượng tha thứ cho.”
“Không có gì.” Thượng Quan Vân đáp. Cô nhìn dung mạo Lưu Cứ ở sát gần thì càng cảm thấy nghi hoặc, không nhịn được hỏi, “Ngươi thật ra là ai?”
“Ta là ai”, Lưu Cứ ỡm ờ đáp, “thì mấy hôm nữa tiểu thư tất sẽ biết.”
Hắn bế Lý Vi trở lên lầu, thấy ánh mắt chất vấn của tam tỷ, “Rốt cục là Cứ Nhi định làm gì?”
Lưu Cứ cười một tiếng, không trả lời thẳng, “Tam tỷ có nhớ rằng đệ năm nay cũng đã mười bốn rồi không? Sắp lập vương phi được rồi.”
“Không được.” Lưu Thanh dở khóc dở cười, “Cứ Nhi cần phải tự suy nghĩ cho thật kỹ càng, chớ để giống như tam tỷ, sau này hối hận thì ván cũng đã đóng thuyền rồi.”
“Đệ tự biết suy xét”, Lưu Cứ đáp.
Ngoài Chư Ấp công chúa thì chẳng một ai biết Tề vương Lưu Cứ nổi ý muốn lập phi. Nhưng chuyện Trần nương nương muốn tự mình tuyển chọn thái tử phi cho Thái tử Lưu Mạch là vô cùng chính xác, nhanh chóng lan truyền khắp các gia đình quyền quý trong chốn kinh thành. Danh thϊếp của các tiểu thư bay tới chỗ ở của Trần A Kiều trong điện Trường Môn như hoa tuyết khiến A Kiều trông thấy mà muốn bỏ của chạy lấy người. Chỉ là chuyện không thể tránh được. A Kiều gọi Lưu Mạch đến hỏi, “Mấy năm qua, Mạch Nhi có yêu thích người con gái nào không?”
Lưu Mạch cười khổ, suy nghĩ một lát rồi hỏi ngược lại, “Mẫu thân cảm thấy có nhà nào trong thành Trường An có con gái đẹp vừa mắt không?”
Trần A Kiều im lặng. Nàng ít gặp đám thiếu nữ con nhà thế gia, trong đó tỷ muội nhà Thượng Quan là quen thân hơn đôi chút. Quá nửa trong số bọn họ đều xinh đẹp kiêu căng giống như Thượng Quan Vân, lại quen sống trong nhung lụa, mới chỉ mười ba mười bốn tuổi đầu thì hiểu được bao nhiêu chuyện đời? Dõi mắt nhìn xuống thì những người cảm giác là có tố chất như Đông Phương Mi lại còn đang bi bô học nói, chưa đến tuổi trưởng thành.
Cuối tháng bảy năm Nguyên Đỉnh thứ năm, quân Hán bình xong loạn ở biên cương, quay về Trường An. Cuối tháng Bảy, Tề vương Lưu Cứ muốn trở về nước Tề, đến điện Tuyên Thất từ biệt Lưu Triệt. Lưu Triệt cuối cùng cũng nảy sinh một chút tình cảm cha con quyến luyến, trông thấy Lưu Cứ muốn nói lại thôi, liền ôn tồn hỏi, “Cứ Nhi có điều gì muốn nói hay sao?”
Lưu Cứ nghe vậy đỏ mặt nhưng vẫn nói: “Phụ hoàng, mấy hôm trước con và hoàng tỷ du ngoạn trên đường phố Trường An có gặp được tiểu thư nhà Lang trung lệnh Thượng Quan Kiệt. Thượng Quan tiểu thư có tư chất xuất chúng khiến nhi thần rất ngưỡng mộ. Nhi thần cảm thấy mình cũng đến tuổi trưởng thành rồi, khẩn cầu phụ hoàng hãy ban cho nhi thần cuộc hôn nhân này.”
“Thượng Quan Vân?” Lưu Triệt rất bất ngờ. Trên đường tuần thú phương đông, y đã gặp thoáng qua thiếu nữ này mấy lần. Mặc dù với thân phận của mình, y không mấy chú ý tới phụ nữ trong gia đình các hạ thần, nhưng theo ấn tượng thì đó là một thiếu nữ xinh đẹp và hơi phù phiếm, có chút giống… A Kiều ở thời thiếu nữ.
Y thầm so sánh trong lòng, ngay cả như thế thì thiếu nữ đó vẫn không bằng A Kiều. A Kiều thời thiếu nữ rất kiêu ngạo, đến mức có thể coi thường mọi uy quyền, kể cả là uy quyền đế vương của y, cho dù cuối cùng vì vậy mà tổn thương cũng không thay đổi. Nàng kiêu ngạo, nhưng là một loại kiêu ngạo từ cốt tủy. Cũng bởi tính cách như vậy nên nàng mới có thể như một con phượng hoàng tái sinh chói lọi từ cõi niết bàn. Còn Thượng Quan Vân thì cũng kiêu ngạo, nhưng chỉ là một loại kiêu ngạo dựa theo thân phận của mình. Nếu gặp phải người có thân phận cao quý hơn thì cô ta sẽ phải thu lại tính cách, mặt mũi ảm đạm, cúi đầu phục tùng. Từ góc độ này thì y trái lại coi trọng người muội muội vẫn luôn trầm tĩnh đứng sau cô ta hơn.
“Cứ Nhi sẽ không hối hận chứ?” Lưu Triệt cười nhạt, hỏi đầy ẩn ý.
Lưu Cứ hơi động tâm, nhưng kịp trấn tĩnh, trầm giọng, “Không hối hận.”
“Tốt lắm.” Lưu Triệt cúi đầu xuống không nhìn hắn nữa, nói “Dương Đắc Ý, viết ý chỉ cho trẫm.”
“Có trưởng nữ của Thượng Quan Hoài là Thượng Quan Vân, cung kính lễ phép, tư chất hơn người, ban làm phi của Tề vương Lưu Cứ, đợi Thái tử cử hành đại hôn xong sẽ cho thành hôn.”
Lưu Cứ quỳ lạy ân điển của phụ hoàng, tiếp thánh chỉ rồi lui ra.Quyển 4 - Chương 85: Tỷ muội khai hoa chẳng giống nhauTrên đường trở về đất Tề, tiểu đồng của hắn thấy rất khó hiểu liền hỏi, “Việc Vương gia định kết hôn với Thượng Quan tiểu thư là để tranh hơn thua với Thái tử sao?”
“Đó chỉ là một trong các lý do”, Lưu Cứ thản nhiên đáp. Hắn cũng không tin rằng Lưu Mạch với tính cách khá lạnh lùng lại có thể say đắm Thượng Quan Vân. Nhưng huynh trưởng của Thượng Quan Vân đang giữ chức vị rất quan trọng là Lang trung lệnh quản lý kinh sư, Lưu Mạch vốn đã có địa vị thái tử cao quý, nếu lấy con gái họ Thượng Quan làm vợ thì chẳng khác nào nắm cả kinh sư trong lòng bàn tay, ngoài phụ hoàng ra thì trong thiên hạ đừng ai nghĩ đến việc lay chuyển hắn nửa phần.
Phủ Thượng Quan, thành Trường An.
“Sao lại có thể như thế?” Thượng Quan Vân nghe nội dung đạo ý chỉ kia liền hỏi thất thanh, thần sắc hoảng loạn, “Muội đâu có biết Tề vương, hơn nữa muội cũng đã chuyển danh thϊếp của mình đến Trần nương nương rồi, tại sao bệ hạ lại có thể gả muội cho người khác được chứ?”
“Muội hãy ăn nói cho cẩn thận đấy.” Thượng Quan Kiệt lớn tiếng trách mắng, sau đó dịu giọng, “Ý chỉ đã ban ra rồi thì dĩ nhiên Trần nương nương sẽ loại bỏ danh thϊếp của muội.”
“Nhưng mà”, Thượng Quan Vân mở to mắt, nói giọng ai oán “muội không muốn gả cho Tề vương.”
“Đừng nói là muội không muốn gả,” Thượng Quan Kiệt cười khổ, “Huynh cũng đâu muốn kết thông gia với vị hoàng thân như Tề vương. Tuy Tề vương là vương gia chư hầu có địa vị tôn quý nhưng thiên hạ này sẽ thuộc về Thái tử, sợ rằng ngày sau Tề vương cũng không được yên thân.”
“Đã như thế này”, Thượng Quan Vân rơi lệ, nắm lấy tay Thượng Quan Linh, “Linh Nhi, muội có quan hệ tốt với Trần nương nương, cũng có qua lại với Thái tử, muội hãy nói để bọn họ khuyên bệ hạ thu hồi ý chỉ ban hôn có được không?”
“Tỷ tỷ nói gì thế?” Thượng Quan Linh giãy nãy, “Muội có thể có giao tình gì với Trần nương nương và Thái tử điện hạ được chứ? Muội chỉ là một Linh Nhi hèn mọn, sao có thể nói được bọn họ?” Thượng Quan Kiệt cũng lắc đầu, trách mắng, “Từ xưa vua không nói chơi, ý chỉ ban ra thì hôn sự đã được quyết định rồi.”
“Nhưng Vân Nhi này”, hắn suy nghĩ một chút rồi không nhịn được hỏi, “Có thật là muội chưa từng gặp Tề vương điện hạ không? Huynh nghe nói cuộc hôn nhân này là do Tề vương điện hạ đích thân cầu xin bệ hạ đấy.”
Thượng Quan Vân sững người, một gương mặt khá quen thuộc trên Tàng Mai lâu đột nhiên ùa vào trí nhớ của cô. “Khó trách”, cô lẩm bẩm nói, “Bọn họ vốn là huynh đệ cùng cha, mặt mày có nét giống nhau cũng là phải.”
Trần A Kiều biết được đạo ý chỉ này của Lưu Triệt thì chỉ cười nhạt, bảo Lục Y rút danh thϊếp của Thượng Quan Vân ra khỏi đống danh thϊếp cao như núi kia rồi không để ý đến nữa. Việc tuyển chọn thái tử phi cho Lưu Mạch đã ngày càng cấp bách. Hôm đó, Lưu Mạch vừa từ điện Bác Vọng trở về thì nội thị thϊếp thân Thành Liệt đưa tới một tờ bái thϊếp[1], nói là Nhị tiểu thư Thượng Quan Linh của nhà Thượng Quan cầu kiến.
[1] Bái thϊếp: Thiệp thăm hỏi.
Thượng Quan Linh! Hắn thấy hiện lên trong trí nhớ hình ảnh một thiếu nữ nhu mì điềm tĩnh. Hắn còn thiếu nợ cô một ân tình trong chuyện Lý tiệp dư lần trước nên không nỡ từ chối cô cầu kiến hôm nay.
Lưu Mạch đang thong thả thưởng thức trà trên lầu Thanh Hoan, nhìn qua cửa sổ trông thấy cỗ xe ngựa màu xanh ngọc của nhà Thượng Quan chầm chậm lăn bánh tới, một thiếu nữ mặc y phục màu xanh dương bị ép phải miễn cưỡng xuống xe, đang muốn nói gì đó nhưng thấy khuôn mặt cầu khẩn của thiếu nữ mặc y phục màu hồng trên xe thì lại thôi.
“Thật là xấu hổ, ta làm phiền điện hạ rồi.” Thượng Quan Linh cũng biết tỷ muội nhà mình đường đột, lúng túng đến đỏ ửng cả vành tai.
“Không sao.” Lưu Mạch cười ấm áp, hỏi, “Lệnh tỷ bảo tiểu thư nói gì?”
Hắn hỏi như vậy chứng tỏ vừa rồi đã trông thấy hết cả. Thượng Quan Linh hơi ngượng ngùng, ấp úng nói: “Thật ra thì cũng không có gì.” Cô không biết rào đón thế nào, đành lấy hết can đảm nói luôn: “Tỷ tỷ nói tỷ ấy không muốn gả cho Tề vương, khẩn cầu Trần nương nương và điện hạ can gián để bệ hạ thu hồi mệnh lệnh đã ban ra.”
Cô ngừng lại một chút, trông thấy vẻ mặt cao thâm khó lường của Lưu Mạch thì thở dài nói, “Nói vậy cũng biết là khó, nếu điện hạ cảm thấy buồn cười thì coi như chưa từng nghe qua.”
“Thật ra thì Tề vương điện hạ là hoàng tử được phong làm vương gia chư hầu, tuổi cũng còn trẻ, coi như xứng đôi vừa lứa.” Lưu Mạch mím môi, thản nhiên nói, “Ta không hiểu lệnh tỷ không hài lòng một cuộc hôn nhân như vậy ở chỗ nào?”
“Hay là lệnh tỷ đã có người khác? Cho dù có như thế thì cũng làm sao sánh được với Tề vương điện hạ cơ chứ?”
Thượng Quan Linh trầm tư một lát. Người trong mộng của Thượng Quan Vân chẳng phải chính là vị thái tử điện hạ đương triều này sao? Cho dù thế thì đường đường là thái tử điện hạ cũng đâu để ý tới một thiếu nữ có lòng với hắn chứ?
“Linh Nhi biết ý tứ của Thái tử điện hạ rồi.” Cô mỉm cười đứng dậy, thi lễ muốn cáo lui.
“Thượng Quan tiểu thứ”, Lưu Mạch hơi bất ngờ, hỏi: “Chuyện của lệnh tỷ dặn bảo, cô định cứ thế là xong sao?”
“Những gì tỷ tỷ bảo Linh Nhi nói thì Linh Nhi đã nói. Về phần điện hạ có ý giúp đỡ hay không, Linh Nhi không làm chủ được.” Thượng Quan Linh quay đầu lại, thản nhiên nói.
“Thượng Quan tiểu thư từ trước đến giờ vẫn nhìn thế sự vậy sao?” Hắn khẽ hỏi, nhìn lại thiếu nữ trước mặt, thầm nghĩ dung mạo của Thượng Quan đại nhân trước kia chắc chắn phải đẹp lắm mới để lại hai con gái mỗi người mỗi vẻ thế này. Nếu như nói Thượng Quan Vân là đóa phù dung kiều diễm, thì Thượng Quan Linh chính là đóa hoa sen an tĩnh.
“Cái gì?” Thượng Quan Linh nghe không rõ lắm.
“Không có gì.” Lưu Mạch lắc đầu, cười nói, “Thành Liệt, tiễn Thượng Quan tiểu thư xuống lầu.”
Cuối cùng, người được Thái tử Lưu Mạch chỉ định làm thái tử phi là thứ nữ Thượng Quan Linh của nhà Thượng Quan.
“Thượng Quan Linh?” Trần A Kiều cũng không có ý kiến gì, chỉ nói: “Thật đúng là trùng hợp, người Lưu Cứ lúc trước chỉ định làm vương phi cũng là con gái nhà Thượng Quan.”
“Vậy à.” Lưu Mạch mỉm cười để lộ ra vẻ trẻ con cố chấp hiếm khi thấy, “Nhưng cũng không thể nói hắn chọn trước rồi thì con không thể chọn được nữa.”
A Kiều nhớ tới hai thiếu nữ, một rạng rỡ, một thanh nhã, nói, “Con mắt con tốt hơn Lưu Cứ một chút.”
“Tuy thành Trường An có rất nhiều thiếu nữ nhưng con lại không tìm được người thực sự hợp ý.” Lưu Mạch mỉm cười, “Còn về Thượng Quan Linh thì nàng có thân phận phù hợp, tính tình cũng thông minh, ít nhất con còn có chút cảm tình với nàng.” Trên thế gian đâu có nhiều thiếu nữ tốt như vậy, dù là có thì còn phụ thuộc vào nhân duyên gặp gỡ, cuối cùng cũng chỉ có thể như thế mà thôi.
Mùa thu năm Nguyên Đỉnh thứ năm, bệ hạ truyền ý chỉ xuống cho thứ nữ của Tiên phụng thường Thượng Quan Hoài là Thượng Quan Linh nhân ái bao dung, thông minh xinh đẹp xuất chúng được xuất giá làm thái tử phi, thành hôn vào tết Thượng nguyên năm Nguyên Đỉnh thứ sáu, truy phong Tiên phụng thường Thượng Quan Hoài làm Chất Lăng hầu, mẫu thân của Thái tử phi và Tề vương phi cùng được phong làm Phụng Hoa phu nhân. Bởi vì Thái tử phi và Tề vương phi đều xuất thân từ nhà Thượng Quan gia nên dòng họ Thượng Quan lập tức trở thành niềm ao ước của toàn thiên hạ. Nhưng gia chủ của họ Thượng Quan là Lang trung lệnh Thượng Quan Kiệt đứng trước vinh hạnh đặc biệt này thì lại mặt ủ mày chau, có suy nghĩ khác. Ý chỉ của bệ hạ vừa ban ra, Lang trung lệnh Thượng Quan Kiệt liền dành riêng những căn phòng phía sau hậu viện cho hai muội muội ở.
Thượng Quan Linh cầm sách ngồi trước cửa sổ, gió đầu thu thổi qua, nhẹ nhàng lật ra một tờ. Tâm trạng cô rối bời, chốc chốc lại thở dài thườn thượt, đặt sách qua một bên. Từ sau khi nhận được ý chỉ, cô như ở trong giấc mộng, không hiểu nguyên nhân vì sao mà mình lại được như thế này. Cô chưa từng nghĩ rằng sẽ có một ngày mình được hoàng gia chọn lựa đưa lên ngôi vị cao quý này hoặc trong tương lai sẽ có một ngày trở thành người phụ nữ cao quý nhất thiên hạ.
Cô vẫn cho là mình sẽ sống một cuộc đời bình lặng, nghe hoặc không nghe theo lời ca ca mà được gả cho một người cao quý hoặc không cao quý rồi cứ thế mà sống qua một kiếp người. Do đó, cô vẫn xem mình như một người khách nhìn thành Trường An gió thổi mây trôi, người nào thắng, người nào thua cũng không mấy liên quan tới mình. Nào ngờ vận mệnh đột nhiên làm ra một trò đùa lớn, đẩy cô vào nơi thu hút ánh mắt của mọi người nhất. Kể từ lúc này, cô chính là một luồng gió, một áng mây trong chốn gió mây tụ hội đó, chẳng bao giờ có thể thoát ra được nữa.
Người thiếu niên ở ngôi vị thái tử có nụ cười ấm áp lãng mạn kia dĩ nhiên là rất tốt, nhưng cô chưa từng nghĩ tới sẽ có một ngày như thế này, vẫn chỉ cho hắn là thái tử Đại Hán xa vời vợi, dù tốt đến mấy thì cũng có quan hệ gì tới mình. Nào ngờ bây giờ người có liên quan nhất với hắn trên thế giới này lại chính là cô. Giờ cô nhìn hắn bằng ánh mắt khác, chỉ mới thoáng nghĩ đến, đã đỏ hồng đôi má, nhưng nghĩ thế nào cũng không hiểu được tâm tư của hắn.
Bảy ngày sau khi xác định người được chọn làm thái tử phi, Trần nương nương cho triệu cô đến điện Trường Môn gặp mặt. “Thân phận thái tử phi tôn quý, đến lúc đó dĩ nhiên sẽ có người tới dạy lễ nghi.” Trần nương nương vẫn dáng vẻ hiền hậu, mỉm cười nói, “Chỉ là Linh Nhi phải nhớ kỹ. Lễ nghi là những điều làm cho qua là được, không ai quá nghiêm khắc. Ta hy vọng sau này con làm chuyện gì cũng phải suy nghĩ trước sau thật kỹ xem chuyện đó có phải với phu quân của con không?”
Mẹ chồng tương lai nói chuyện thường sẽ dặn dò mấy câu đại loại như: “Hy vọng các con ngày sau hòa thuận.” Chẳng qua chuyện cần làm thì vẫn phải làm, hai bên đều ngầm hiểu lẫn nhau. Song Trần A Kiều nói rất chân tình, cô ngẩng đầu lên nhìn nàng, chăm chú lắng nghe chứ không phải nghe cho có lệ.
A Kiều cười nhẹ, “Chắc con đang cho là vi nương thương con trai của mình. Mạch Nhi do một tay ta nuôi lớn, ta rất hiểu tính tình của nó. Chỉ cần con không phụ nó thì nó sẽ không dễ dàng phụ con.”
“Vì vậy, con phải tự trân trọng bản thân mình nhiều hơn.”
Lời của Trần nương nương về một số việc ở một mức độ nào đó đã vượt qua quan niệm của thế nhân. Sau khi trở về, cô suy nghĩ mấy ngày vẫn cảm thấy chưa thấu đáo, đúng lúc này có thị nữ tới báo Đại tiểu thư đến chơi, cô không khỏi mỉm cười ý vị. Kết quả như thế thì chắc là tỷ tỷ tức giận lắm. Song ngoài dự liệu của cô, Thượng Quan Vân lại không tức giận mà mang nét mặt ảm đạm hơi có vẻ tiều tụy.
“Linh Nhi, muội nói xem có phải thật sự là không thể phản kháng vận mệnh ư?”, cô hỏi.
Thượng Quan Vân cũng không biết rằng Tề vương Lưu Cứ ở đất Tề xa xôi nhận được tin tức từ Trường An thì ngạc nhiên một hồi lâu.
“Thái tử điện hạ làm việc thật không kiêng kỵ”, Ninh Triệt cười khổ nói.
Con cháu thế gia vốn tuân theo quy củ “Dòng chính, con trưởng, hiền tài”, phụ nữ dù không ở trong đó nhưng trưởng nữ dù sao cũng tôn quý hơn thứ nữ. Lưu Cứ đã cưới Thượng Quan Vân, Lưu Mạch là thái tử lại chọn thứ nữ cùng nhà, quả nhiên không để ý đến miệng lưỡi của người trong thiên hạ.
“Ninh tiên sinh suy nghĩ nhiều làm gì”, Lưu Cứ cười lạnh nói, “Trong thiên hạ có ai tôn quý hơn được hoàng gia đâu. Vị trí Thái tử đã đủ để Lưu Mạch coi thường những tôn ti ngoài cung Vị Ương rồi.”
Nhiều năm trước, Vệ Tử Phu, mẹ của hắn từ một ca cơ đi lên vị trí mẫu nghi thiên hạ, mọi người chỉ có thể ao ước chứ nào có ai dám cười nhạo? Chỉ là, tới bây giờ thì Vệ gia đã thất bại hoàn toàn.
“Nếu như thế thì Thượng Quan Vân chắc chỉ có tác dụng giới hạn mà thôi.” Lưu Cứ trầm ngâm, đoán ra được chọn lựa của Thượng Quan Kiệt, “Ta có nên rút lại cuộc hôn nhân này hay không?”
“Theo tình thế hiện giờ thì cuộc hôn nhân này vừa có lợi mà vừa có hại, thoái thác hay không là tùy thuộc vào Vương gia, còn theo Ninh Triệt nghĩ thì cứ để nguyên cũng được.”
“Ồ, vì sao chứ?”
“Xưa nay đại trượng phu lời hứa ngàn vàng, nếu Vương gia nói một đàng, làm một nẻo, đẩy một thiếu nữ yếu ớt vào tình cảnh khó xử thì e là sẽ bị bệ hạ coi thường.”
Lưu Cứ đắn đo, chợt nhớ tới dung nhan kiều diễm như hoa sen của thiếu nữ dưới lầu Tàng Mai. Thật ra thì ngay cả bản thân phụ hoàng cũng đâu có coi trọng lời hứa như sinh mạng? Nhưng hắn lại không ở ngôi cao như phụ hoàng, trong lòng lại có khao khát nên không thể nào không kiêng kỵ.
“Vậy thì mời tiên sinh chỉ cho ta chỗ lợi.”
“Chính là cái chữ ‘Lợi’ đó,” Ninh Triệt nói vẻ sâu xa: “Người trong thiên hạ đều xu lợi, nếu ngày khác tình thế đảo ngược, những đao kiếm trong nghi trượng của Lưu Mạch sẽ quay lại làm thương tổn chính hắn.”
“Tiên sinh cao kiến”, Lưu Mạch khẽ mỉm cười, mặc dù không phải là hoàn toàn hài lòng nhưng tạm thời cũng chỉ có thể như vậy.
Lúc chuyện trong thành Trường An dần lắng xuống thì đã vào cuối thu. Một ngày kia, Lưu Triệt tới đúng lúc điện Trường Môn khởi động lại địa hỏa. Y nhớ tới sự ấm áp trong điện liền quay đầu nhìn A Kiều còn đang ngái ngủ trên giường, nửa mê nửa tỉnh, có một sự quyến rũ khác lạ. Y khẽ cười nhẹ một tiếng, liếc thấy trong cuốn sách A Kiều thường xem có kẹp mấy tờ giấy, chữ viết trên đó đã lâu lắm rồi, có lẽ do chính A Kiều viết. Y tiện tay mở ra xem, bất giác ồ lên một tiếng. Tuy chữ viết trên giấy rất tùy tiện nhưng lại mô tả một số chuyện nhà nông với cách lý giải vô cùng chuẩn xác.
“Đó là do thϊếp chỉnh lý lại vào năm trước”, A Kiều không biết đã dậy từ lúc nào, khoác áo ngồi bên cạnh y, nói: “Thϊếp vốn định để tới mùa xuân năm nay sẽ đưa người làm thử xem, nào ngờ mẫu thân và Đàm tỷ lần lượt bệnh nặng nên còn để lại đó.”
“Sang năm làm thử cũng được mà.” Lưu Triệt nhướng mày nói, ôm lấy, hôn lên má nàng, vui vẻ cười: “Kiều Kiều đã lâu không làm những chuyện này rồi. Trẫm cũng quên là Kiều Kiều luôn có những suy nghĩ mới mẻ.”
Trần A Kiều vẫn không quen âu yếm khi trời sáng, hơi ngượng nghịu, xẵng giọng, “Đã không còn sớm nữa, bệ hạ không tới điện Tuyên Thất mà định làm hôn quân sao?”
“Văn hoàng đế nói, việc đồng áng là căn bản của thiên hạ”, Lưu Triệt cười lớn, vung vẩy tờ giấy viết thư, nói: “Chẳng phải trẫm đang xử trí chuyện lớn của quốc gia sao?”
Tâm trạng y rất sảng khoái, không phải chỉ vì nông nghiệp phát triển sẽ dẫn đến dân giàu nước mạnh, quốc lực của Đại Hán nhất định sẽ tăng lên, mà còn bởi vì những năm gần đây, A Kiều chủ yếu chỉ để tâm đến việc hỗ trợ Tang Hoằng Dương buôn bán khắp thiên hạ để làm đầy quốc khố, đây là lần đầu tiên nàng chủ động chia sẻ gánh nặng việc nước với y.
Những năm qua y đã sửa chữa và mở rộng cung điện, cộng thêm chinh chiến liên miên khiến sức dân mỏi mệt. Mặc dù Tang Hoằng Dương quản lý tài sản có phương pháp, quốc khố không bị căng thẳng nhưng đã ngầm gặp khó khăn. Nếu nàng có thể bỏ qua phần ngọn là buôn bán, trực tiếp nâng cao gốc rễ của Đại Hán là trình độ nông nghiệp thì dĩ nhiên sẽ giải trừ được mối lo lắng của y. A Kiều chịu làm như thế này cũng là vì có chút thành tâm.
“Lúc đi tuần thú phương đông thấy nông dân ở Lâm Phần canh tác rất cực khổ nên thϊếp định chỉnh lý những thứ này để giúp mọi người một tay.” Nàng mỉm cười nói.
Nàng trở về Trường An vẫn luôn áy náy nhưng những năm gần đây bọn họ bận nhiều chuyện nên quên mất kế hoạch về nông nghiệp. Chuyện này đối với bọn họ cũng chỉ là tiện tay nhưng lại có thể giúp đỡ nông dân rất nhiều. Tuy thế nàng vẫn hơi thấp thỏm, chần chừ hồi lâu mới hỏi, “Bệ hạ không hỏi A Kiều sao tự dưng lại bày ra chuyện nông nghiệp à?”
Dù nàng có thể nói ra trăm ngàn lý do nhưng một người vừa được yêu chiều từ bé như nàng lại có thể làm chuyện này thì với tính tình của mình, Lưu Triệt có thể không nghi vấn được sao?
“Kiều Kiều làm trẫm rất vui”, Lưu Triệt tinh quái nhìn nàng, “Trẫm cứ coi như là ân huệ của trời cao.” Nàng bất giác tức cười.
“Kiều Kiều nói trước hết phải làm chuyện này”, Lưu Triệt mỉm cười nói, “chỉ riêng như vậy đã rất hay, chẳng lẽ Kiều Kiều có ý định khác?”
“Đúng vậy”, nàng suy nghĩ một chút, nói: “Thϊếp muốn thử nghiệm chuyện trị thủy.”
Một số kinh nghiệm và kỹ thuật nông nghiệp được nàng chỉnh lý lại từ trí nhớ nên cũng không khó khăn. Hoàng Hà là họa lớn suốt trăm ngàn năm qua của Trung Quốc vẫn chưa giải quyết được. Nó đem lại rất nhiều lợi ích nhưng cũng gây ra tổn hại cực lớn đối với dân chúng. Nếu có thể bắt đầu việc trị thủy từ thời Đại Hán xa xưa này thì có lẽ ngày sau người dân hai bên bờ Hoàng Hà sẽ bình an hơn rất nhiều.
“Đây có thể là công trình vĩ đại đó.” Lưu Triệt nhận xét.
“Đúng vậy.” A Kiều bật cười, nói: “Nên giải quyết chuyện trước mắt đã.”
“Ngày trước thϊếp đi du lịch các nước chư hầu từng thấy dùng trâu ngựa cày ruộng thì người nông dân đỡ vất vả hơn rất nhiều. Nếu chế ra một nông cụ kiểu mới để cày đất nhuyễn hơn thì sẽ có thể nâng cao sản lượng.”
“Vốn là thế này, thật ra thì địa phương thích hợp nhất cho trồng trọt chính là vùng biên giới phía nam. Dải đất Ba Thục và Giang Nam không bị khô hạn như ở đây.”
“Kiều Kiều nghĩ nhiều rồi”, Lưu Triệt bật cười, “Hiện giờ vùng trung tâm dọc theo Hoàng Hà của Đại Hán còn rất nhiều đất hoang chưa khai khẩn. Trên phương diện này thì phát triển về hướng nam có vẻ không thực tế,”
“Thϊếp biết.” A Kiều khẽ siết chặt nắm tay. Thật đáng tiếc vì đời sau, đó là một vùng phát triển phồn hoa. “Thôi bỏ đi vậy. Thϊếp cũng không rõ chuyện này lắm, chỉ biết đại khái thôi.” Nàng nói tiếp, “Có lẽ nên luân phiên canh tác, tập trung vào các loại hoa màu, tập trung vào tưới tiêu, quản lý thật tốt…”
Nàng mới ngủ dậy nên vẫn còn chưa hết uể oải, trong điện lại rất ấm áp làm đôi má nàng ửng hồng kiều diễm như hoa. Lưu Triệt đứng bên cạnh ngắm nhìn đến say mê, sốt ruột ngắt lời, “Những chuyện này để hôm khác trẫm cho người phụ trách chuyên môn đến nghe nàng giảng giải.” Y là đế vương, mặc dù có hứng thú về nhiều chuyện, kiến thức rộng rãi nhưng lại không quan tâm lắm đến nông nghiệp, cười nói, “Giờ cũng muộn rồi, hôm nay trẫm không tới điện Tuyên Thất nữa, ở lại với Kiều Kiều nhé.”
Nàng giật mình, ngẩng đầu lên thấy cặp mắt sâu thăm thẳm của y lại xuất hiện vẻ lả lơi quen thuộc thì liền đỏ bừng mặt, gắt gỏng: “Chàng điên rồi, giờ đang là giữa ban ngày ban mặt đấy!”
“Ban ngày ban mặt thì sao chứ?” Lưu Triệt vẫn ung dung nói “Có ai quy định vào ban ngày nên làm cái gì, không nên làm cái gì đâu chứ?”
Nô tỳ trong điện cúi đầu, im lặng lui ra, nghe thấy tiếng cười trầm trầm xen lẫn với tiếng mắng khẽ. Qua một lúc, tất cả đều chìm vào an tĩnh.Quyển 4 - Chương 86: Có người dừng chân ngoài vách lắng ngheBuổi trưa, Thái tử Lưu Mạch rời điện Bác Vọng đi thẳng tới điện Trường Môn định thỉnh an mẫu thân, nhưng vừa tới ngoài cửa điện đã bị thị tòng ngăn lại.
“Thái tử điện hạ”, Thành Tục tỏ vẻ lúng túng, bẩm, “Bệ hạ đang ở trong điện, điện hạ không nên vào.”
Hắn nhìn sang thấy cung nhân đứng cả loạt bên ngoài điện, trong đó có cả Đại nữ quan Lục Y thân cận của mẫu thân, mà bên trong điện lại lặng ngắt như tờ thì chợt hiểu. Hắn không khỏi hơi đỏ mặt lên, rồi lại thầm nghi hoặc, lẽ ra lúc này Lưu Triệt phải ở điện Tuyên Thất xử lý chính sự từ lâu, tại sao còn ở trong điện của mẫu thân. “Vậy ta đi đây.” Hắn mỉm cười căn dặn, “Thành Tục nhớ báo cho mẫu thân một tiếng là ta tới thỉnh an nhé.”
Từ khi Lưu Triệt tuần thú phương đông trở về, tuy Lưu Mạch ở ngôi cao thái tử nhưng lại không thể phóng tay làm việc như hồi còn là Hoàng tử trưởng. Hắn ghi nhớ lời mẫu thân dặn bảo, trên là để tránh phu hoàng hiểu lầm, dưới là cho thần dân thuần phục, cần phải hết sức cố gắng duy trì cân bằng, mặc dù bề ngoài có vẻ thanh nhàn ít việc nhưng thật ra thì rất cực khổ. Thành Liệt thấy chủ nhân như thế liền bước tới nói: “Điện hạ đã mấy ngày không ra khỏi cung rồi, chi bằng ra ngoài chơi một chuyến đi.”
“Cũng được.” Lưu Mạch gạt bỏ cảm giác lạnh lẽo mà ngay cả bản thân mình cũng không biết từ đâu xuất hiện ở trong lòng, phấn chấn tinh thần, nói: “Thì đi ra ngoài chơi một chút nào.”
Xe ngựa lăn bánh lọc cọc trên đường phố Trường An, Thành Liệt khẽ cười nói, “Chủ nhân định đến nhà ai bây giờ? Quý phủ của Công chúa trưởng Phi Nguyệt, nhà của Trường Tín hầu hay là Tang đại nhân?”
Lưu Mạch lắc đầu, nhăn nhó đáp: “Ta đã đến nhà của những thúc thúc, bá bá, a di này biết bao nhiêu lần rồi, khó lắm mới ra ngoài được một lần, không muốn nghe giáo huấn nữa.”
Thật ra nói chính xác hơn thì cũng chưa phải là giáo huấn mà chỉ là những lời trêu đùa với ý tốt. Nhất là Tang Hoằng Dương và Lưu Lăng, họ chắc chắn cười bảo: “Mạch Nhi lớn thế này rồi cũng nên lấy vợ đi. Nói không chừng đến sang năm là sẽ có con bế con bồng rồi đấy.” Chỉ cần nghĩ đến đó, hắn đã lạnh run người. Hắn có vẻ giống với mẫu thân, tuy là con trai nhưng da mặt lại rất mỏng trong những chuyện này, vậy nên tất nhiên không chịu tự đưa mình vào tròng.
“Chẳng lẽ lại đến lầu Thanh Hoan?” Thành Liệt nhăn mặt. Mặc dù lầu Thanh Hoan nấu ăn rất ngon nhưng lần nào cũng đến đó thì còn có ý nghĩa gì nữa.
“Ai bảo vậy?” Lưu Mạch chợt nổi tính trẻ con, nhớ tới một người liền nói, “Nơi ta định đi lần này là một chỗ chưa từng đến bao giờ.”
“Thành Liệt”, hắn nghĩ đến liền phì cười, hạ thấp giọng hỏi, “Lần trước ngươi đã đến phủ Thượng Quan, hẳn là còn nhớ phải đi thế nào chứ?”
“Chủ nhân”, Thành Liệt dừng xe lại ở rất xa trước phủ Thượng Quan Kiệt, hỏi, “Người thật sự định đi gặp Thái tử phi tương lai sao?”
“Đã tới”, Lưu Mạch chỉ mỉm cười đáp, “thì đương nhiên phải gặp chứ.”
“Cũng không phải là không thể được.” Thành Liệt có chút khó khăn, “Nhưng chủ nhân và Thái tử phi chỉ là phu thê chưa thành hôn, gặp gỡ thế này cũng hơi kỳ quái.” Mặc dù thời đó chuyện nam nữ gặp nhau chưa phải là nghiêm trọng, nhưng nếu hai người có địa vị cao mà bị đồn đại thì cũng rất phiền phức.
“Ngươi nói cũng đúng.” Lưu Mạch nháy mắt, “Có ai bảo ngươi là ta sẽ đi vào bằng cửa chính đâu.”
Hắn bỏ Thành Liệt lại, đi vòng sang cửa ngách phủ Thượng Quan rồi nhẹ nhàng nhảy lên. Thượng Quan Kiệt vốn là võ tướng, trong nhà lại mới có hai hoàng thân nên tất nhiên là có thủ vệ canh gác ngày đêm. Nhưng Lưu Mạch xuất thân từ Triêu Thiên môn, tuy vì thân phận nên không tập luyện võ nghệ nhiều nhưng khinh công cũng không tồi. Hắn tránh thoát tai mắt thủ vệ một cách dễ dàng, chỉ khó khăn là chưa từng tới phủ Thượng Quan nên không biết Thượng Quan Linh ở tại phòng nào. Đang đứng chần chừ nơi hành lang thì nghe phía sau có người quát giật giọng, “Ai?” Hắn quay đầu nhìn lại thì thấy một gương mặt quen thuộc. Hắn đã từng gặp người này. Đó là một trong số những kỵ binh dưới trướng Kỵ đình úy Tiết Thực ngày xưa đi sứ Thân Độc, mặc dù không nhớ tên nhưng đúng là đã gặp.
“Ngươi được điều từ Phiêu kỵ quân đến Kỳ Môn quân lúc nào?”
Thị vệ thấy là hắn thì rất kinh hãi, ấp úng, “Hoàng tử trưởng… à, không, Thái tử điện hạ!”
“Có gì đó?” Đồng đội của hắn từ phía xa hỏi vọng sang.
“Không, nhìn lầm thôi.” Hắn thấy Lưu Mạch đưa tay ra dấu im lặng liền trả lời lấy lệ.
Lưu Mạch thoáng đỏ mặt, hỏi, “Thượng Quan Linh ở chỗ nào?”
Viên thị vệ há hốc miệng. Nhưng Kỳ Môn quân chỉ phụng mệnh bảo vệ Thái tử phi và Tề vương phi tương lai chứ không có lệnh coi Thái tử là đối tượng trong phạm vi phòng vệ, bởi vậy liền đáp, “Ở trong ngôi lầu mới phía bên tay phải kia.”
Lưu Mạch gật đầu, xoay người rời đi. Viên thị vệ đứng nguyên tại chỗ, suy nghĩ, chẳng lẽ Thái tử điện hạ hâm mộ giai nhân, không nén nổi tương tư nên cố ý tới thăm vị hôn thê chăng. Hắn cười xòa, lắc đầu rời đi. Một đôi tình nhân gặp nhau trong một ngày gió heo may se sắt chẳng phải là chuyện rất thú vị hay sao? Chỉ tiếc cho cô gái Thân Độc với mối chân tình không được đền đáp. Đến giờ hắn vẫn còn nhớ mãi vẻ quyến rũ khi cô cười lúc vừa thức dậy.
Từ phía lầu trúc sát ngay trên có tiếng đàn văng vẳng, thanh âm tinh tế, uyển chuyển du dương. Mẫu thân và muội muội của Lưu Mạch đều tập đàn nhưng tiếc là không có thiên phú nên có vẻ học không đến nơi, do đó Lưu Mạch cũng không được nghe đánh đàn nhiều lắm. Thiếu nữ chơi đàn mang dáng vẻ thanh nhã. Hình bóng thấp thoáng qua tấm mành, đẹp như một cánh hoa vừa rơi, nổi trên mặt nước tĩnh lặng. Lưu Mạch đi vòng qua tầng tầng thủ vệ, tới trước song cửa lầu của Thượng Quan Linh, chờ một đội thị vệ đi tuần tra qua rồi nhẹ nhàng gõ ngoài cửa sổ.
Tiếng đàn hơi ngưng lại nhưng một lúc lại vang lên. Cửa sổ hé mở làm vang mấy tiếng cọt kẹt khe khẽ. Thượng Quan Linh giật mình ngừng chơi đàn, đứng dậy bước ra xem. Cô trông thấy một người mà mình tuyệt đối không nghĩ sẽ xuất hiện ở đây.
“Thái tử điện hạ”, cô khẽ kinh ngạc thốt lên nhưng vội vàng che miệng nhìn chung quanh rồi mới hỏi dồn dập, “Tại sao người lại đến đây?” Cô sợ làm kinh động những người chung quanh nên nén giọng xuống cực thấp.
Hắn ra hiệu bảo cô mở rộng cửa sổ, tung mình nhảy vào, hú hồn nhìn đội thị vệ vừa tuần tra tới, thở phào một hơi, nói: “Muốn tới nên tới thôi.”
“Điện hạ”, Thượng Quan Linh trợn tròn hai mắt, nói: “Người là thái tử của Đại Hán thì phải chú ý tới từng lời nói cử chỉ chứ.”
Ngày trước cô chỉ được đứng xa ngắm nhìn Lưu Mạch, thấy hắn luôn sắm vai một thái tử hoàn mỹ, nụ cười ôn hòa, tựa như đối với ai cũng rất thân thiết nên trong lòng luôn cảm thấy xa cách. Nào ngờ hôm nay cô lại được chứng kiến hắn cũng có dáng vẻ nghịch ngợm như một cậu bé bất kỳ trong lứa tuổi này. Lưu Mạch nhìn cô chằm chằm một hồi rồi chợt cười, nói: “Nếu như thế thì những lời Linh Nhi hôm nay nói với ta có vẻ cũng không hợp quy củ lắm nhỉ?”
Thượng Quan Linh cứng miệng. Tuy cô được chỉ định làm thái tử phi nhưng vẫn chưa thành hôn, bây giờ vẫn chỉ có thể coi là thân quyến nhà quan, dùng giọng như thế nói với thái tử một nước đúng là không hợp quy củ. Chỉ là, cô bỗng nhiên thấy Thái tử đột ngột xuất hiện trong khuê phòng của mình thì làm sao có thể hành động phù hợp với quy củ cho được?
“Tiểu thư?” Thị nữ ở bên ngoài loáng thoáng nghe thấy có tiếng động liền lên tiếng hỏi, “Có việc gì thế?”
Cô vội vàng đáp, “Không có gì. Ngươi lui xuống đi.”
Về lý, người đang ở trong khuê phòng là vị hôn phu của mình, dù thật sự bị trông thấy thì cũng không có gì đáng ngại, tuy thế cô vẫn không nén nổi chột dạ. Lưu Mạch nhìn cô chân tay luống cuống trả lời câu hỏi của thị nữ, cười nhẹ, “Ta ở bên ngoài nghe Linh Nhi chơi đàn thấy rất hay.” Ít nhất là hay hơn so với mẫu thân và muội muội của hắn, bọn họ đàn không khá hơn tiếng bật bông là bao nhiêu, nhưng vì đó là những người hắn yêu thương nên vẫn nguyện ý lắng nghe.
“Sao ta nghe tiếng đàn hơi bối rối.” Hắn để tay lên ngực hỏi.
Thượng Quan Linh trầm ngâm một lát. Bởi vì tiền đồ vẫn còn mờ mịt cho nên tâm hồn cô mới bối rối, nhưng sao có thể nói thành lời? Cô từ từ cúi đầu xuống, cảm giác như mặt đang nóng bừng. Không phải cô chưa từng nói chuyện mặt đối mặt với người thiếu niên này, chỉ là thân phận đã thay đổi nên mới có cảm giác hoàn toàn khác trước. Cô cảm thấy nỗi ngượng ngập đã hoàn toàn lấn át lý trí, vân vê tà áo, chậm rãi nói, “Điện hạ, người…” Khóe mắt cô nhìn thấy khuôn mặt trẻ trung kia cũng hơi ửng đỏ, liền thoáng ngạc nhiên, bất giác buồn cười.
Thì ra không riêng một mình cô có cảm giác như thế? Cô nghĩ thông suốt điểm này liền trấn tĩnh lại, hỏi, “Điện hạ có thể nói cho Linh Nhi biết vì sao điện hạ lựa chọn Linh Nhi được không?” Trong kinh thành có biết bao thiếu nữ tốt hơn, xinh đẹp hơn, cao quý hơn. Hắn là một vị thái tử điện hạ ngồi trên cao, tại sao lại chọn một thiếu nữ không quá nổi bật như cô?
“Bởi vì”, hắn nhìn cô âu yếm, “Linh Nhi biết tôn trọng bản thân mình, hơn nữa tâm hồn lại rất bình lặng.”
“Linh Nhi không hiểu.”
“Biết tôn trọng bản thân sẽ không dễ để mình bị thương tổn, tâm hồn bình lặng sẽ không làm cho người khác chán ghét.” Hắn nói nhẹ, “Linh Nhi rất giống mẫu thân của ta ở hai điểm này.”
Cô thầm thở dài một hơi, đang định lên tiếng thì chợt nghe thấy bên ngoài hành lang có tiếng bước chân khiến cả người cứng đờ.
“Linh muội”, Thượng Quan Kiệt ở ngoài cửa gọi vào, “Muội có ở đó hay không? Ca ca có lời muốn nói với muội.”
Lưu Mạch cũng sững lại. Dù hắn nhất thời nổi lòng tinh nghịch muốn tới gặp vị tiểu hôn thê của mình nhưng không muốn bị bắt gặp, nhất là người ca ca này của Thượng Quan Linh. Thượng Quan Linh mím miệng, chỉ vào tấm bình phong ở trong phòng. Tiếp đó cô ra mở cửa, mỉm cười mời ca ca vào: “Ca ca muốn gặp tiểu muội vì việc gì vậy?”
Thượng Quan Kiệt có điểm khác với thị nữ của Thượng Quan Linh lúc trước là tinh thông võ công. Lưu Mạch nén hơi thở, nghe thấy Thượng Quan Kiệt đi vào rồi bỗng nhiên quỳ xuống, sau đó là tiếng Thượng Quan Linh kinh hãi hô lên, “Ca ca đừng làm thế!”
“Linh Nhi”, Thượng Quan Kiệt mỉm cười nói, “Năm sau muội sẽ là thái tử phi, ca ca quỳ trước mặt muội thế này cũng đúng mà. Những năm qua, mặc dù ta không quá thương muội nhưng cũng chưa bao giờ bạc đãi. Mai này muội được gả cho Thái tử điện hạ, cả họ tộc Thượng Quan nhất định sẽ dồn toàn bộ lực lượng trợ giúp Thái tử điện hạ làm việc. Muội muội cũng cần phải nhớ bảo vệ họ tộc Thượng Quan được bình an.”
“Ồ”, một lát sau Thượng Quan Linh mới ồ lên một tiếng, giọng hơi trào phúng, “Thì ra ca ca muốn nói điều này. Nhưng Thái tử điện hạ bây giờ đã có địa vị vững chắc thì đâu còn cần ca ca ra sức nữa?”
“Linh muội còn cần ca ca phải nói rõ hơn sao?” Thượng Quan Kiệt cười nói, “Mọi việc không sợ nhất vạn, chỉ sợ vạn nhất. Huống chi, cho dù Thái tử điện hạ có địa vị vững chắc thì muội muội sẽ thế nào?”
“Chốn hậu cung xưa nay phi tần tranh đấu, nếu muội muội không có ngoại thích hỗ trợ thì nhất định sẽ phải chịu thua thiệt đấy.”
Nàng lại ồ lên một tiếng rồi hỏi dồn, “Ca ca lựa chọn giúp muội, vậy tỷ tỷ thì sao?”
“Vân Nhi”, Thượng Quan Kiệt hơi lưỡng lự, “Chỉ cần Tề vương an phận thì tự nhiên muội ấy sẽ cả đời vinh hoa.”
Thượng Quan Linh cười lạnh. Hai người đều hiểu rõ trong lòng rằng Tề vương có khả năng an phận được hay sao?
“Được rồi, muội biết.” Cô cúi đầu nói: “Ca ca để cho muội suy nghĩ thêm đã.”
Cô nhìn Thượng Quan Kiệt lui ra ngoài, trong lòng vẫn ngổn ngang suy nghĩ. Không biết qua bao lâu, cô chợt giật mình, nhìn lại trong phòng, đã không thấy bóng dáng Lưu Mạch đâu nữa. Hắn đến lặng lẽ, đi cũng lặng lẽ sao? Cô cảm thấy hơi hụt hẫng, bước ra sau tấm bình phong thì chợt gặp ánh mắt của hắn, giật thót người kinh hãi. Cô quen thấy nét mặt ôn hòa của thiếu niên này mà dần quên mất rằng dù sao đó cũng là con của bệ hạ. Thời khắc ấy, ánh mắt Lưu Mạch lóe lên cũng sắc bén như của bậc đế vương ở trong điện Tuyên Thất kia.
“Điện hạ”, cô gọi mà trong lòng vẫn hơi kinh sợ.
“Ừ?” Hắn đáp khẽ rồi bất chợt cười một tiếng đầy hàm ý, nói: “Thê tử của ta thì ta sẽ tự mình bảo vệ, không phiền Thượng Quan Kiệt phải phí tâm.”
Thượng Quan Linh lặng người, bàn tay đang vén rèm đờ ra khiến tấm rèm từ từ buông xuống. Rời phủ Thượng Quan dễ dàng hơn nhiều so với lúc vào. Lưu Mạch đi chầm chậm trên đường, thầm suy nghĩ việc Thượng Quan Kiệt chọn lúc này để tỏ lòng trung thành với Thượng Quan Linh là tình cờ trùng hợp hay là vì biết mình ở trong phòng Thượng Quan Linh? Người thị vệ hắn gặp ở trong phủ Thượng Quan có báo tin cho Thượng Quan Kiệt hay không?
Hắn lắc đầu thôi không suy nghĩ thêm, nhìn thấy Thành Liệt liền bảo, “Thành Liệt, trở về thôi.”
“Chủ nhân.” Thành Liệt giật mình quay lại, thấy hắn liền thở phào, mặt mày tươi rói hỏi: “Có gặp được Thái tử phi không?”
Lưu Mạch hừ lạnh một tiếng, bước luôn lên xe rồi quay đầu lại ra lệnh, “Cấm không được nói cho ai biết chuyện hôm nay.”
Nếu để cho mẫu thân và Tảo Tảo biết được thì chắc chắn không còn mặt mũi nào gặp ai nữa. Chợt hắn chăm chú nhìn vào một thiếu nữ đang từ đằng xa đi đến trước phủ Thượng Quan, thậm chí không nghe thấy cả tiếng Thành Liệt vâng dạ. Thiếu nữ kia chừng mười bảy mười tám tuổi, vận một bộ y phục màu vàng nhạt, tuy không quá sang trọng nhưng tốt hơn bình thường rất nhiều, dung nhan quyến rũ. Cô nói với đám thủ vệ nhà Thượng Quan: “Ta xin gặp nhị tiểu thư nhà các ngươi có được không?”
Tên thủ vệ dò xét nhìn cô một lượt từ trên xuống dưới, hỏi gắt gỏng: “Ngươi là ai? Nhị tiểu thư nhà chúng ta là thái tử phi tương lai, thân phận cao quý, hà cứ muốn gặp là có thể gặp được hay sao?”
“Là cô ấy!” Lưu Mạch buột miệng thốt lên.
“Chủ nhân biết cô gái này à?” Thành Liệt tò mò hỏi.
Lưu Mạch không đáp lại, ra lệnh, “Ngươi đến dẫn cô ấy tới đây.”
Ở đằng xa, thiếu nữ nghe Thành Liệt hỏi bèn nhìn sang, thấy là hắn, lập tức gọi to, “A Trinh.” Gọi xong, cô liền xốc tà váy chạy qua phố. Cô có dung nhan quyến rũ, hành động lại vô cùng tùy ý nên lập tức khiến không ít người nhìn theo. Lưu Mạch thở dài, nói: “Cô vẫn cứ tùy tiện như vậy, Diễn Na.”
“Chắc ta vĩnh viễn cũng không thay đổi được đâu.” Diễn Na vốn đang cực kỳ vui mừng bỗng buồn như đưa đám, cúi đầu nói: “Ta nghe nói A Trinh muốn kết hôn với nhị tiểu thư nhà này.”
“Đúng vậy.” Lưu Mạch bình thản đáp, “Nàng tên là Thượng Quan Linh.”
“Thượng Quan Linh?” Diễn Na khẽ nhắc lại cái tên này, “Tên rất dễ nghe, cô ấy nhất định là một cô gái rất tốt nhỉ? Chắc ít nhất cũng tốt hơn ta nên ngươi mới bằng lòng cưới cô ấy phải không?”
“Sao nói vậy được chứ”, Lưu Mạch lắc đầu, dường như thấu hiểu tâm sự của cô, “Cả hai đều có điểm tốt.” Thế gian này, nếu như có người khát nước tới ba ngày, nhìn thấy một bình nước trước mắt thì dĩ nhiên phải lựa chọn.
“Cô tới đây là để…?” Hắn mỉm cười hỏi.
“Ta chỉ muốn xem người con gái được A Trinh lựa chọn rốt cuộc thế nào mà thôi.” Diễn Na cười khẽ. Mấy năm sống trong nhà Hán, cuối cùng cũng làm người thiếu nữ Thân Độc vốn không hiểu biết gì về những u sầu trên thế gian này bị lây nhiễm một thoáng bi ai. “Tuy vậy, có thể gặp được A Trinh là niềm vui ngoài ý muốn rồi.” Cô nghĩ tới ý tứ ẩn sau việc Lưu Mạch xuất hiện ở nơi này, thì trong lòng hiện lên một chút chua xót, cuối cùng nhướng mày nói, “A Trinh yên tâm, ngươi đã thành thân rồi thì ta sẽ không nhớ ngươi nữa.”
“Như vậy”, Lưu Mạch lưỡng lự giây lát rồi buông xuôi: “cũng tốt.”
Ngày mười lăm tháng Giêng năm Nguyên Đỉnh thứ sáu, Thái tử Lưu Mạch thành thân với thứ nữ nhà Thượng Quan là Thượng Quan Linh. Lúc này đang là tết Nguyên tiêu, Lưu Mạch là hoàng tử đầu tiên của triều Hán Vũ Đế đón dâu. Thân phận thái tử của hắn cao quý nên hôn lễ vô cùng long trọng, cứ đầu mỗi con phố từ phủ Thượng Quan đến cung Vị Ương là có một điểm bắn pháo bông. Dân chúng thành Trường An nói chuyện say sưa, những người già nhớ lại hồi năm Hoàng thượng còn là thái tử cưới Quận chúa Đường Ấp làm vợ cũng phô trương như vậy.Quyển 4 - Chương 87: Thiên hạ kính trọng điện Trường MônCon trai trưởng thành hôn, Lưu Triệt và Trần A Kiều là cha mẹ nên tất nhiên phải đến dự nhưng không ở lại cuối cùng. Trở lại điện Trường Môn, Lưu Triệt thấy A Kiều tâm trạng không vui liền hỏi, “Kiều Kiều làm sao vậy?”
“Thϊếp thấy phiền muộn.” A Kiều đáp vẻ bất an, “Rõ ràng ngày hôm qua vẫn cảm thấy là Mạch nhi còn nhỏ, chớp mắt một cái, con trai đã thành thân rồi. Cứ thế mà tính thì hóa ra thϊếp đã già rồi sao?”
Đứa con trai mà mình hết lòng yêu thương đã cưới một cô gái xa lạ nên trong lòng nàng rất không nỡ. Có phải mỗi người mẹ đều từng trải qua tâm trạng như vậy không?
Lưu Triệt cười lớn, vén mái tóc đen dày của A Kiều lên, âu yếm hôn nàng rồi nói: “Dung nhan Kiều Kiều vẫn như xưa, đâu thấy già đi chút nào?” Y nói vậy cũng không phải để an ủi nàng. Tính ra thì Trần A Kiều không còn trẻ nữa nhưng nàng lại già đi rất chậm, dung nhan hiện giờ vẫn hết sức rạng rỡ không hề thua kém thời thiếu nữ.
Ngày hôm sau thì Thái tử phi vừa được gả phải vào cung thỉnh an, Thượng Quan Linh vốn là người khéo ăn ở, không hề để xảy ra sai sót về mặt quy củ lễ nghi. Từ nay về sau, bốn mươi tám điện của cung Vị Ương chính là nhà của cô. Chốn phồn hoa gấm vóc này là niềm khao khát nhưng cũng là mồ chôn tuổi thanh xuân của vô vàn thiếu nữ.
“Từ nay về sau, con phải tự mình sống cho tốt.” Trần A Kiều tươi cười căn dặn.
“Linh nhi biết.” Cô ngoan ngoãn đáp rồi quay sang nhìn phu quân mới cười. Trong khoảnh khắc đối mặt, má cả hai đều đỏ bừng.
Lưu Triệt hạ chỉ cho Thái thương lệnh Triệu Quá phụ trách nông nghiệp trong triều áp dụng những phương pháp nông nghiệp mới trên ruộng thí nghiệm ở vùng lân cận kinh thành. Triệu Quá vốn xem thường Trần nương nương là cành vàng lá ngọc thì không hiểu biết gì về nông nghiệp. Sau khi Trần nương nương xuất cung, giảng giải về hai phép quảng canh và thâm canh thì hắn mới thay đổi quan điểm, vô cùng khâm phục nàng.
“Hạ quan cũng từng trông thấy cảnh dùng súc vật cày ruộng, đúng là tiết kiệm được rất nhiều sức lực nhưng lại không mấy thuận tiện. Hơn nữa, tuy là phép quảng canh, thâm canh rất tốt nhưng nếu sức dân có hạn, không thể nào duy trì được cách làm này thì đúng là phụ ý tốt của nương nương mất rồi.”
“Vì thế nên mới cần thử nghiệm trước ở kinh thành một năm.” Trần A Kiều mỉm cười nói, “Hơn nữa, chỉ cần chế tạo nông cụ thích ứng thì dùng trâu cày sẽ rất tiện lợi.”
Đến cuối tháng Hai bắt đầu vào mùa xuân thì cày đôi kiểu dáng mới và máy gieo hạt đã chế tạo xong. Triệu Quá chọn một vùng đất tại khu vực quanh kinh thành để áp dụng phép quảng canh theo cách của Trần A Kiều, đồng thời dùng trâu bò cày ruộng thật nhuyễn, gieo giống tưới nước, quả nhiên tiết kiệm được rất nhiều sức lực. Thượng Quan Linh theo A Kiều đi xem một lần, như có điều suy nghĩ, hỏi A Kiều: “ Có phải năm trước mẫu thân thấy nông dân ở Lâm Phần cực khổ nên nảy ra ý bảo bệ hạ xúc tiến nông nghiệp phải không?”
“Đúng vậy.” A Kiều nhẹ nhàng đáp. Những chuyện nàng có thể làm được cũng chỉ đến thế. Nếu bảo nàng thực sự xắn tay áo xuống ruộng làm việc là chuyện không thể nào. Khi còn bé nàng đọc sách sử rằng các bậc đế vương coi trọng nông nghiệp cũng từng xuống ruộng làm gương cho thiên hạ, nhưng theo như nàng thấy thì Lưu Triệt không bao giờ làm được điều này.
“Con vốn cho rằng làm phụ nữ chỉ cần hầu hạ phu quân cho tốt là được.” Thượng Quan Linh bất giác thở dài nói, “Hôm nay thấy mẫu thân có thể chia sẻ gánh nặng với bệ hạ mới biết, chí hướng của phụ nữ cũng không chỉ giới hạn trong khuê các mà còn lợi ích khắp thiên hạ. Mẫu thân đại tài, nhi thần bái phục!”
Chớp mắt đã đến tháng Ba, cũng sắp tới thời điểm kết hôn của Tề vương Lưu Cứ. Lưu Cứ dù sao cũng là con nối dòng của bệ hạ, là chư hầu một phương, nên quan lại từ đế đô Trường An cho tới đất Tề đều rục rịch đưa tỷ tỷ của Thái tử Phi, em gái lớn của Thượng Quan Kiệt là Thượng Quan Vân tới đất Tề làm lễ cưới. Đến ngày hai mươi ba tháng Ba, đội ngũ rước giá phải rời Trường An lên đường để kịp đến nơi vào thời hạn kết hôn trong tháng Năm. Ngày hôm đó, thị nữ thϊếp thân Trúc Tâm của Thượng Quan Vân từ trong khuê lầu của Thượng Quan Vân hốt hoảng chạy ra tìm Thượng Quan Kiệt, khóc váng lên rồi quỳ sụp xuống bẩm báo: “Thiếu gia, Đại tiểu thư… không thấy đâu nữa.”
Mấy tháng đã qua kể từ khi muội muội gả cho Thái tử điện hạ đương triều mà Thượng Quan Kiệt vẫn chưa hết đắc ý. Tuy hắn cũng hơi lo lắng về chuyện Thượng Quan Vân bị gả cho Tề Vương nhưng xét tạm thời thì cuộc hôn nhân này đối với Thượng Quan gia cũng coi như là dệt hoa trên gấm. Đến cuối cùng, dù cho hoàng tử nào đăng cơ thì hắn cũng là ngoại thích nắm quyền cao nhất, lấn át cả triều đình. Bây giờ lại nghe Trúc Tâm báo như vậy thì bỗng nhiên lạnh toát cả người, giận dữ hỏi, “Ngươi nói gì?”
“Nô tỳ biết Đại tiểu thư vẫn luôn không chịu gả cho Tề Vương điện hạ.” Trúc Tâm khóc lóc kể lể, chuyện đã đến mức này cô còn e ngại gì nữa mà không kể hết ra: “Nhưng nô tỳ lại không thể nào ngờ được là Đại tiểu thư lại có ý đào hôn. Hôm tết Nguyên Tiêu, Đại tiểu thư ngồi lặng trước song cửa sổ cả ngày, một mực khóc ròng, nhưng không cho nô tỳ nói với thiếu gia. Đến bây giờ thì thời gian thành hôn đã tới. Buổi sáng hôm nay, nô tỳ tới hầu tiểu thư rửa mặt, nào ngờ tiểu thư đánh nô tỳ ngất xỉu rồi đổi y phục của nô tỳ trốn ra ngoài. Trong lúc nửa tỉnh nửa mê, nô tỳ có nghe Đại tiểu thư nói là dù chết cũng không chịu gả cho Tề vương, dặn thiếu gia và Thái tử phi điện hạ bảo trọng. Sau đó nô tỳ tỉnh lại thì không thấy tiểu thư đâu nữa nên vội tới bẩm báo cho thiếu gia.”
Thượng Quan Kiệt chết điếng người, vô lực ngã ngồi xuống ghế. Việc không thấy thị vệ canh cửa Vân lâu tới bẩm báo với hắn là Thượng Quan Vân giả dạng thị nữ xuất phủ cho thấy rằng Thượng Quan Vân đã trốn thoát, không cần phải hỏi nữa. Dù sao thì thị vệ cũng chỉ để phòng người ngoài xâm nhập chứ nào ai nghĩ rằng một thiếu nữ sắp trở thành Tề vương phi tôn quý lại muốn chạy trốn chứ? Hân vẫn biết lòng trưởng muội luôn hướng về Thái tử điện hạ nhưng chưa từng nghĩ rằng Thượng Quan Vân lại là một thiếu nữ cương cường, hoặc nói cách khác là đơn thuần đến ngu xuẩn, đến mức dùng phương thức quyết liệt như vậy để cự tuyệt. Hơn nữa cô là một tiểu thư quyền quý mà lưu lạc ở bên ngoài thì sao có thể sống được an toàn?
Chuyện này không thể che giấu nên Thượng Quan Kiệt bảo thê tử vào cung cầu kiến Thái tử phi, bản thân mình thì tới phủ Chiêm sự quỳ xuống nhận tội không dạy được muội muội và xin bị trừng phạt. Thượng Quan Linh biết được chuyện này thì trong lòng cả kinh, tay cầm chén trà run rẩy đánh đổ mất hơn một nửa.
“Ra là vậy.” Cô tự nhủ, “Chẳng lẽ tỷ tỷ cũng yêu Thái tử điện hạ?”
Trong lòng cô vẫn cảm thấy khó hiểu. Cô luôn cho rằng Thượng Quan Vân đối với Lưu Mạch chẳng qua là thiếu nữ hoài xuân gặp thiếu niên anh tuấn nên ôm ấp ảo mộng, nào ngờ vì tình cảm này mà Thượng Quan Vân chịu trả giá nhiều như vậy, vứt bỏ cuộc sống nhung lụa đã quen thuộc từ tấm bé, làm nghịch ý ban hôn của bệ hạ, thậm chí không nề hà cả việc làm liên lụy đến ca ca. Nhưng ngay cả như thế thì cũng có kết quả gì chứ? Không hề nhìn thấy một tia hi vọng nhưng vẫn làm, chứng tỏ tỷ tỷ quyết liệt đến nhường nào.
Bệ hạ biết chuyện này thì nổi giận lôi đình, phạt Thượng Quan Kiệt một trăm trượng, tước tất cả chức vụ. Thượng Quan Linh là Thái tử phi cũng liên lụy, bị quản chế trong điện Bác Vọng.
“Điện hạ”, Thượng Quan Linh sợ mất mật, hỏi Lưu Mạch:”Bệ hạ sẽ xử lý tỷ tỷ như thế nào?”
“Chuyện này sao mà biết được”, Lưu Mạch chau mày nói, “tốt nhất là Thượng Quan Vân đừng để bị tìm thấy.” Nếu không, ngay cả hắn cũng không dám chắc sẽ cứu được Thượng Quan Vân từ trong tay phụ hoàng.
Tất cả mọi người đều cho rằng Thượng Quan Vân quen sống giữa nhung lụa nên chắc sẽ chỉ trốn đi không quá một ngày. Cô lại không hiểu thế sự thì làm sao có thể tránh được sự truy tìm gắt gao của Kỳ Môn quân. Nào ngờ Kỳ Mông quân không ngừng truy tìm trong vòng nửa tháng, lật tung cả thành Trường An nhưng thiếu nữ xinh đẹp đó lại giống như hơi nước biến mất trong không khí. Ba tháng sau, Tề Vương Lưu Cứ cưới một thiếu nữ con nhà thế gia khác làm vợ. Lang trung lệnh Thượng Quan Kiệt nhờ chuyện này mà được phục chức lại, nhưng đó là chuyện của ba năm sau. Cũng từ đó, Thượng Quan Vân trở thành một cái tên bị kiêng kỵ trong thành Trường An. Nhiều năm sau, mọi người mới gặp lại cô, nhưng đó là chuyện còn xa xôi.
Rất lâu sau, những người già trong thành Trường An vẫn còn thổn thức nhắc tới chuyện lập lại Hiếu Vũ Trần hoàng hậu vào năm Nguyên Đỉnh thứ sáu. “Chuyện phế hậu rồi lại lập lại quả thật hiếm thấy trong lịch sử Hoa Hạ.”
Song người phụ nữ là Hiếu Vũ Trần hoàng hậu kia được thế gian xưng là Hiền hậu[1], người phụ nữ tốt như vậy thì cần phải được đối xử tương ứng. Vào năm Nguyên Đỉnh thứ sáu, Hiếu Vũ Trần hoàng hậu được phục vị. Trong suốt hai mươi bốn năm sau đó, Hoàng đế và Hoàng hậu luôn ân ái mặn nồng. Khi triều đại Hán Vũ huy hoàng qua đi, thiên hạ chỉ biết có Hiếu Vũ Trần hoàng hậu mà dần dần quên lãng người phụ nữ họ Vệ cũng đã từng được ca ngợi là truyền thuyết của cung Vị Ương. Người đời chóng quên cũng là lẽ thường.
[1] Hiền hậu: Vị hoàng hậu đức hạnh, tài năng.
Trần hoàng hậu được phục vị nhưng không trở về điện Tiêu Phòng mà ở lại cung Kiến Chương. Nhà Hán truyền ngôi được hơn bốn trăm năm, mấy chục vị hoàng đế đời sau đều tôn điện Trường Môn làm Trung cung. Từ Thượng Quan hoàng hậu trở xuống, Hoàng hậu đời sau nào cũng thích ở điện Trường Môn để nhớ về một đời Hoàng đế và Hoàng hậu ân ái mặn nồng nhưng sống cách nhau cả trăm năm nên cũng chẳng thể biết rõ về tâm tình thật sự của đôi vợ chồng luôn gắn bó với nhau như hình với bóng đó.
Cuối tháng Bảy năm Nguyên Đỉnh thứ sáu thì Lưu Triệt về ở hẳn trong cung Kiến Chương. Mùa thu vừa chớm, một ngày y vô tình bị cảm lạnh. Y xưa nay vẫn khỏe mạnh nên tuy uống mấy thang thuốc để chiều ý A Kiều nhưng bản thân lại không mấy để tâm, song qua mấy ngày vẫn không thấy đỡ. Một hôm, y đang xử lý công việc trong điện Tuyên Thất thì nghe có tiếng bước chân nhẹ nhàng nhưng khẩn trương ở bên ngoài. Trung thư lệnh Chu Kiệt mặt mày tái nhợt đi vào quỳ bẩm, “Bệ hạ, Tây Khương phản rồi!”
Lưu Triệt nhíu mày, gấp mạnh bản tấu chương trong tay, đứng phắt dậy, nghiến răng, cười lạnh nói, “Bọn chúng thật to gan!” Y đang muốn nói tiếp thì lửa giận bốc lên ngùn ngụt, trước mắt tối sầm, cả người đổ vật xuống. Ngự tiền tổng quản Dương Đắc Ý ở một bên thấy thế thì sắc mặt trong phút chốc còn trắng hơn cả giấy, xộc tới nâng dậy, hét lên the thé: “Bệ hạ!”
Chu Kiệt ngớ người ra một lát mới khôi phục thần trí, hét vang “Mau tuyên ngự y!” Cung nhân trong điện bấy giờ mới tỉnh ra, hoảng loạn chạy đi.
Sắc mặt Chu Kiệt trắng bệch. Phải biết rằng tuy Tây Khương làm phản nhưng bọn họ ở biên thùy xa xôi, chẳng qua chỉ là họa nhỏ. Lưu Triệt lại đang là trụ cột của Đại Hán, nếu nằm xuống thì Đại Hán tất yếu sẽ dậy sóng. Từ sau năm Tuyên Quang, Hoàng đế trong điện Tuyên Thất dần dần bộc lộ tài năng, phong cách hành xử luôn sát phạt khốc liệt, quyết đoán tàn ác. Trong lòng mọi người, hình tượng của y cao vời không thể xâm phạm, dù là thần tử hay cung nhân của y đều chưa bao giờ nghĩ tới bệ hạ của họ sẽ có ngày đột nhiên ngã xuống. Song Lưu Triệt đích xác là đã bị bệnh, hơn nữa bệnh tình còn vô cùng trầm trọng. Y ho đến khàn giọng, không thể xử lý công việc nhưng trong lúc ngự y trị liệu vẫn lạnh giọng ra lệnh, “Chỉnh đốn ba quân, mau sớm đạp bằng Tây Khương.”
“Bệ hạ”, trên trán ngự y toát mồ hôi, khom người bẩm, “Bệ hạ bị cảm lạnh lúc trước còn chưa khỏi, lúc này lại lửa giận công tâm nên mới đột nhiên choáng váng.”
“Trẫm không muốn nghe điều này”, Lưu Triết cười lạnh nói, “Ngươi cứ nói thẳng cho trẫm biết bao lâu mới khỏi?”
“Điều này”, ngự y không khỏi chần chừ, trên thực tế, Lưu Triệt lúc còn nhỏ đã tập qua cưỡi ngựa bắn cung, đấu kiếm, sau khi trưởng thành lại thích săn bắn nên cơ thể cường tráng, trước đây rất ít bị bệnh. Nhưng chính vì thế một khi phát bệnh sẽ rất nặng.
“Cũng phải điều dưỡng một thời gian.” Ngự y nói ngắn gọn.
Lưu Triệt nhướng đôi mày lưỡi mác, đang định nổi giận thì vừa lúc Dương Đắc Ý khom người ngoài mành bẩm, “Bệ hạ, Trần nương nương đến.”
Y sững lại, hạ giọng nói với ngự y: “Ngươi lui xuống trước đi.” Ngự y ngầm thở phào, có cảm giác vừa sống sót dạo qua một vòng trước Quỷ Môn quan. Lão vừa quay ra thì đúng lúc Trần nương nương đang vén rèm vào điện.
“Triệt nhi.” A Kiều trông thấy Lưu Triệt mặt xám ngoét nằm trên giường thì không khỏi nhíu mày lo lắng thốt lên. Nàng đưa tay ra định bắt mạch thì nghe thấy tiếng Lưu Triệt mỉm cười trấn an, nói: “Không có chuyện gì đâu.” Y vừa nói xong lại cong người ho sù sụ.
“Mạch mấy ngày trước còn tốt.” Nàng chậm rãi nói. Hôm nay, mạch của y đập yếu mà nhanh, cũng may chứng bệnh rõ ràng, gốc bệnh không sâu.
“Ta kê đơn thuốc này cho bệ hạ.” Nàng thu tay lại, không tin vào mấy ngự y mà lấy giấy bút viết ra phương thuốc.
“Thuốc này…”, ngự y nhìn phương thuốc, chần chừ nói, “có quá mạnh không?”
“Đúng vậy.” Trần A Kiều gật đầu nói: “Thuốc mạnh để trị bệnh, điều dưỡng bằng thức ăn.”
“Bệ hạ?” Nàng hỏi ý Lưu Triệt.
Lưu Triệt gật đầu, nói: “Trẫm tin Kiều Kiều.”
Bệ hạ cũng đã nói vậy thì người của Ngự y thự không còn dị nghị gì nữa. Chén thuốc sắc xong được bưng lên có màu nâu đen, mùi vị đắng ngắt. Lưu Triệt khẽ nhíu mày uống một hơi cạn sạch và chiêu một ngụm nước sạch xúc miệng rồi bảo, “Đưa trà lên.”
Dương Đắc Ý khom người vâng dạ, đang định truyền lệnh xuống tiếp thì thấy Trần A Kiều lắc đầu, nói: “Không được, trà giải dược tính, không thể uống.” Hắn quay sang nhìn Lưu Triệt vẻ dò hỏi.
“Thôi bỏ đi.” Lưu Triệt khẽ mỉm cười, “Dù sao, nói về trà đạo thì có ai tinh thông hơn Kiều Kiều của trẫm chứ?” Y ho khan vài tiếng, nhìn Trần A Kiều, cười ý vị, “Bao nhiêu năm qua trẫm đã thành thói quen uống trà do Kiều Kiều sao, một ngày không uống thì cảm thấy trong người rất khó chịu.”
Nàng nhấm nháp ý tứ trong lời nói của y, duyên dáng cười, nói: “Có thể nói đó là vinh hạnh của thϊếp được không?”
Hoàng đế bệnh nằm trên giường, những hoàng tử công chúa còn ở trong cung đều tới thăm. Sau đó Lưu Triệt về nghỉ ở điện Trường Môn. Cũng không biết vì địa long trong điện Trường Môn ấm áp hay vì dược tính mạnh mẽ mà y cảm thấy mình thϊếp đi, người nóng hầm hập. Y trằn trọc đến nửa đêm thì toàn thân toát mồ hôi, mãi tận gần sáng mới ngủ say. Theo thói quen nhiều năm, lúc y tỉnh dậy thì sắc trời vẫn còn rất sớm, nhưng giai nhân đã không còn bên cạnh. Từ hồi A Kiều quay về Trường Môn vào năm Nguyên Sóc thứ sáu thì y đã biết nàng không quen dậy sớm, sau khi nàng bị thương vào năm Nguyên Thú nguyên niên lại càng như vậy. Song vào ngày hôm nay, nàng lại dậy sớm hơn y. Cung nhân hầu y rửa mặt xong liền mang cháo loãng vào cho y.
“Người vừa khỏi bệnh cần ăn những món ăn thanh đạm.” A Kiều vén rèm đi vào, mỉm cười nói.
Y niếm thử một miếng thấy mùi vị cực ngon thì chợt động tâm, cười hỏi, “Kiều Kiều tự mình nấu phải không?”
Nàng ngạc nhiên, hỏi lại: “Sao bệ hạ lại suy nghĩ như vậy?”
Lưu Triệt khẽ ho vài tiếng, đưa tay vuốt mấy sợi tóc xõa ra thái dương của nàng, âu yếm nói, “Má nàng bị vương khói dầu rồi.”
Khuôn mặt A Kiều thoáng ửng đỏ, ngượng ngùng quay đi không đáp, lại nói, “Hạt ý dĩ tính ôn, nhân hạt thông cũng rất tốt cho cơ thể. Bệ hạ ăn vào một lần sẽ thấy.” Dù như thế nào thì nàng vẫn luôn mong y không xảy ra việc gì. Lưu Triệt cúi đầu cười mấy tiếng, mặc dù thân thể vẫn còn mệt mỏi nhưng tâm trạng đã khá hơn.
Dùng thuốc vào thì quả nhiên đỡ hơn nhưng bệnh vẫn còn dây dưa nên cần phải điều dưỡng dần dần. Một hôm, Lưu Triệt nhìn Trần A Kiều như có điều suy nghĩ, bỗng nhiên nói, “Kiều Kiều, trẫm cho nàng phục vị làm hoàng hậu nhé. Được không?”
Trần A Kiều sửng sốt, nhìn thẳng vào mắt y mà kinh ngạc hỏi, “Sao đột nhiên lại đề cập tới chuyện này?”
Những năm qua, dù nàng chưa từng tiếp nhận bất kỳ danh hiệu hay phong hào nào nhưng ở tại hai cung Kiến Chương, Vị Ương cũng coi như tương đương với hoàng hậu. Hiện giờ thế sự ổn định, nàng lại không có yêu cầu thì không có lý do gì để y chủ động nhắc tới chuyện phục vị hoàng hậu? Dù sao, một khi phục vị hoàng hậu sẽ coi như thừa nhận với thiên hạ rằng việc phế hậu năm xưa là sai. Trần gia ở sau nàng lại một lần nữa có cơ hội phát triển.
Lưu Triệt hơi lúng túng, quay đầu đi, chậm rãi nói, “Hôm đó, lúc ngã xuống ở điện Tuyên Thất, trẫm đã suy nghĩ xem nếu cuộc đời trẫm kết thúc như vậy thì chuyện gì muốn làm mà chưa kịp?”
“Trẫm còn trên đời một ngày thì còn có thể sủng ái nàng, khi trẫm mất đi thì Mạch nhi kế vị cũng có thể tôn nàng làm Thái hậu, nhưng khi nàng trăm tuổi mà chôn cùng trẫm ở Mậu Lăng thì dù gì vẫn không được danh chính ngôn thuận. Kiều Kiều đã bị phế thì không thể nào cùng trẫm vào thái miếu tổ tông được. Khi cô cô dặn dò trước lúc qua đời, trẫm có ý nghĩ này nhưng vẫn e ngại thế cục Trường An nên muốn kéo dài thêm một thời gian. Tuy thế, việc này có thể kéo dài tới bao lâu chứ? Cuối cùng cũng phải đối mặt mà thôi. Nếu khi còn sống có thể được Kiều Kiều bầu bạn bên cạnh thì trẫm không muốn sau khi mất lại phải cô đơn ở dưới lòng đất một mình. Nếu trẫm đột nhiên mất đi thì đó chính là điều tiếc nuối.”
A Kiều kinh ngạc nghe xong, bỗng nhiên cúi đầu mắng một câu, “Ngu ngốc!” Giọng nàng khẽ đến nỗi ngay cả bản thân nàng cũng không nghe rõ, mắng xong, nàng cúi đầu, nước mắt chầm chậm lăn xuống.
Vào năm Nguyên Quang thứ năm đó, người này đã nói với nàng rằng y không cần nàng, quyết ý muốn phế bỏ nàng. Y để nàng ở sau lưng buồn bã gọi tên mình, gọi đến nhòa lệ không thấy bóng lưng của y nhưng vẫn không quay đầu lại. Khi đó, nàng thật sự cảm thấy dù cuộc đời có phồn hoa thế nào chăng nữa thì đối với nàng cũng chỉ là trống rỗng. Nàng đã thất bại tức tưởi trước vận mệnh vì người thương yêu nhất đã cho nàng một nhát đao trí mạng. Cho nên với cuộc ám sát ở cung Trường Môn thì dường như nàng còn mong nó xảy ra. Nếu nàng chết vào lúc ấy, Triệt nhi của nàng hay biết thì có thương tâm một chút nào không? Nàng thật sự không dám nghĩ tới đáp án. Khi đó, nàng oán hận nghĩ rằng một ngày nào đó người sẽ hối hận vì không biết mình đã đánh mất thứ gì. Bởi vì, trên cõi đời này không còn người con gái nào có thể yêu người hơn nàng. Năm tháng như thoi đưa, chớp mắt một cái đã hai mươi năm. Sau hai mươi năm, y nói với nàng, “Kiều Kiều, trẫm cho nàng phục vị làm hoàng hậu nhé. Được không?” Câu nói đó coi như là một loại biến tướng của hối hận sao? Nhưng ngay cả khi y hối hận thì nàng cũng đã không thể yêu thương y như trước được nữa rồi. Còn nàng nói “Ngu ngốc”, rốt cuộc là mắng y hay là mắng chính nàng?
Lưu Triệt nhìn nàng rơi lệ, cặp mắt đen sâu thẳm cũng mờ đi, cuối cùng nói, “Thật xin lỗi.” Giọng y cũng khẽ đến nỗi nay cả bản thân y cũng không nghe thấy.
Tháng Chín năm Nguyên Đỉnh thứ sáu là lúc mùa lúa mì trồng thí nghiệm lần đầu tiên ở vùng gần kinh thành chín. Hiếu Vũ hoàng đế chiêu cáo thiên hạ, Hoàng hậu Trần A Kiều năm xưa có tài có đức nhưng bị bãi truất do kẻ gian mưu hại, nay khôi phục lại ở Trung cung làm mẫu nghi thiên hạ.
Vận mệnh luôn luôn có những khúc ngoặt mà con người không thể tưởng tượng nổi. Lúc xưa Quận chúa Đường Ấp Trần gia danh chấn kinh thành, có ai ngờ một thiếu nữ xinh đẹp như phượng hoàng lại thua trong tay một ca cơ hèn mọn. Còn khi thế gian truyền xướng ca dao “Sinh nam không mừng, sinh nữ không giận, một thân một mình, Vệ Tử Phu hơn cả thiên hạ”, Thì lại không ai ngờ rằng người phụ nữ cuối cùng khiến cho Hiếu Vũ hoàng đế nhớ nhung lại là biểu tỷ A Kiều thuở ban đầu của y?
Năm sau, Hoàng đế hạ lệnh cho đào sáu con kênh, đồng thời ban bố phương pháp quảng canh, thâm canh cho toàn thiên hạ. Vào lúc nông dân vùng Quan Trung sử dụng súc vật cày ruộng, tất cả mọi người đều khen, “Hoàng hậu nương nương thật là một hoàng hậu hiền minh.”
Năm tháng dần xóa nhòa quãng thời gian hai mươi năm giữa hai lần Trần A Kiều làm hoàng hậu. Sau triều Hán Vũ, Thiên hạ coi điện Trường Môn ở cung Kiến Chương là Trung cung, điện Tiêu Phòng ngược lại không được nhắc đến. Sau này khi Tư Mã Thiên viết Sử ký, danh từ Hiếu Vũ hoàng hậu nếu không phải đặc biệt thì chính là chỉ Trần hoàng hậu. Người trong thiên hạ, ngoại trừ bốn con gái mà Vệ hoàng hậu lưu lại ở nhân gian, còn lại dần quên lãng người phụ nữ từng một bước lên trời này.Quyển 4 - Chương 88: Lại nghe Vu cổ kinh hoàng cả đêmCuối năm Nguyên Đỉnh thứ sáu, Lưu Triệt cuối cùng khỏi bệnh, Tây Khương cũng báo tin về là quân Hán đánh trận nào thắng trận ấy, cho thấy rằng có thể nhanh chóng bình định cuộc phản loạn. Thứ sử đất Thục báo lên rằng có vị phương sĩ tên Loan Tử tự xưng là biết thuật trường sinh thăng thiên, Thứ sử thấy người đó đúng là có biết một số môn pháp thuật nên rất bái phục, tiến cử lên Hoàng đế. Lưu Triệt khi còn trẻ thì không tin vào pháp thuật của các phương sĩ, song tuổi tác nhiều lên lại thay đổi quan điểm. Hơn nữa, mấy ngày trước vừa bị bệnh nặng, giờ y nghe nói hai chữ trường sinh thì không khỏi động lòng, liền ra lệnh, “Lệnh Ngũ Bị đi kiểm chứng thần thông của phương sĩ.”
Mấy ngày sau, Ngự sử đại phu Ngũ Bị dâng chỉ, cười nói, “Nhìn bề ngoài thì Loan Tử đúng là có phong thái thế ngoại cao nhân. Thần không biết hắn có thật biết thuật trường sinh hay không, nhưng quả thật là có vài đạo thuật nhỏ, chẳng hạn như ngưng nước thành băng.”
Trần hoàng hậu nghe nói chuyện này thì hơi nhăn mặt, nói: “Thϊếp không tin trên đời này có thuật trường sinh gì cả, quá nửa là lừa người để kiếm miếng ăn.”
Lúc đó Lưu Triệt cũng ở điện Trường Môn, nghe vậy cười nói, “Chẳng phải Kiều Kiều cũng từng nói ‘Trên đời cũng có thể có người có thần thông’ là gì. Dù đúng hay sai thì gặp cho biết cũng chẳng sao cả.”
Trần A Kiều khuyên can không được, dự cảm thấy bất thường. Nàng day day trán, thầm nghĩ không biết Loan Tử có quan hệ gì với Loan Đại trong lịch sử hay không. Sau chuyện Lý Thiếu Ông hồi năm Nguyên Thú, Lưu Triệt không tin tưởng vào phương sĩ như trong lịch sử, cũng không cuồng nhiệt với thuật trường sinh như sử sách ghi chép. Nàng từng cho rằng chuyện này coi như chấm dứt, không ngờ lại còn xảy ra.
Lưu Triệt cho đòi phương sĩ Loan Tử vào cung. Lúc đó là tháng Mười một giữa mùa đông, Trường An rét căm căm. Lưu Triệt mặc áo lông cáo ngồi trong đình có màn lụa quây kín bốn bề ở ngự hoa viên mà còn cảm thấy gió Bắc tràn về lạnh thấu xương, chỉ lướt qua cũng khiến đóng băng da mặt. Loan Tử được nội thị dẫn đường đi tới, tướng mạo thanh khiết, quần áo mỏng manh nhưng không hề cảm thấy lạnh. Lão tới dưới đình, quỳ xuống bái chào: “Phương sĩ Loan Tử, tham kiến Hoàng đế bệ hạ!”
Lưu Triệt trầm ngâm một lát rồi thản nhiên nói, “Đứng dậy đi.”
Loan Tử đứng dậy nhìn lên, chắp tay nói, “Bệ hạ”, còn chưa dứt lời thì đột nhiên giật bắn mình.
Dương Đắc Ý ở bên cạnh Lưu Triệt, thấy y hơi nhíu mày thì biết Hoàng đế không hài lòng, vội vàng quở mắng, “Nô tài ở trước mặt Hoàng thượng mà dám vô lễ!”
“Bệ hạ”, Loan Tử hoàn hồn lại bẩm, “Không phải tiểu đạo không có lý do gì lại dám to gan, chỉ là tiểu đạo tự nhận tu vi của mình hơi có chút thành tựu, có thể nhìn tướng mà biết được một chút thiên mệnh. Trên đỉnh đầu bệ hạ có sắc tía như mây, dày đến mức tiểu đạo quả thật là bình sinh chưa từng được trông thấy. Đó chính là tướng chân mệnh thiên tử.” Lão thấy Lưu Triệt hơi chuyển sắc mặt, lưỡng lự giây lát, lại nói: “Nhưng trên ấn đường của bệ hạ có sắc tối, đó là tướng bị người dùng Vu cổ ám hại.”
Lão nói câu này như trời long đất lở. Tất cả đám cung nhân trong vườn đều biến sắc. Từ thời lập nước Đại Hán tới nay, các vị hoàng đế tiền nhiệm đều giữ chuyện Vu cổ kín như bưng, chỉ riêng triều Hán Vũ Đế đã phế hai hoàng hậu đều với lý do là Vu Cổ. Hai chữ này chính là ác mộng ở cung Vị Ương. Lưu Triệt đột nhiên sầm mặt, cười lạnh nói, “Đạo trưởng ăn nói lung tung, chẳng lẽ cho rằng đao phủ của trẫm chém không đứt được đầu của ngươi?”
“Tiểu đạo không dám.” Loan Tử giọng điệu cung kính nhưng lại tỏ vẻ không một chút hãi sợ, ngang nhiên nói tiếp: “Bệ hạ là thánh quân nên chẳng ngại kẻ gian làm loạn, ý đồ bất chính. Những này gần đây bệ hạ có cảm thấy thân thể khó chịu không?”
Lưu Triệt không thay đổi sắc mặt nhưng lại thoáng động lòng nhớ đến cơn bệnh nặng trước đây mấy ngày nên cũng lấy làm nghi hoặc, hỏi giọng lạnh băng, “Nếu thế thì đạo trưởng có thể chỉ ra ai là người đã làm loạn Vu cổ không?”
“Tiểu đạo không biết ai trong cung Vị Ương cả.” Loan Tử bình tĩnh ung dung đáp: “Nhưng tiểu đạo dám khẳng định người làm loạn tất ở trong cung. Hơn nữa”, Lão ngưng thần nhìn quanh rồi giơ tay chỉ hướng nam, nói vẻ chắc chắn: “Ở vào hướng kia.”
“Mã Hà La!” Lưu Triệt lớn tiếng gọi.
“Dạ.” Mã Hà La tiến ra đáp.
“Ngươi dẫn một đội Kỳ Môn quân lục soát các cung điện phía nam cung Vị Ương, nếu không phát hiện được gì”, Lưu Triệt nhìn Loan Tử bằng vẻ mặt quỷ quyệt, nói giọng lạnh tanh, “Trẫm không muốn gì khác, chỉ cần đầu của cửu tộc nhà ngươi.”
“Tiểu đạo là người tu hành”, Loan Tử chắp tay cười nói, “Cửu tộc nhà thần đều đã mất rồi. Nếu bệ hạ không tin thì cứ lấy cái đầu này là được.’
Mã Hà La đi một lúc lâu rồi chạy theo hành lang từ cung Vị Ương trở về bẩm, “Khởi bẩm bệ hạ, thần lục soát các cung điện ở phía nam, phát hiện vật này dưới nền đất điện Phi Sương nơi ngày xưa Lý Tiệp Dư tự vẫn.”
“Hay, hay lắm.” Lưu Triệt giận đến cực điểm nhưng lại không hề tỏ sắc giận, thản nhiên nói, “Trình lên.”
Cung nhân bưng chiếc khay sợ run cầm cập trình lên trước ngự giá. Lưu Triệt ngưng thần nhìn xem, Thấy trong khay có hai hình nộm nhỏ, một nam một nữ, sau lưng có khắc ngày sinh tháng đẻ, chữ viết còn rất non nớt. Ngày sinh tháng đẻ trên lưng một hình nộm tất nhiên là của y, chủ nhân ngày sinh tháng đẻ còn lại rõ ràng là Trần A Kiều trong điện Trường Môn.
“Nghiệt tử”, Lưu Triệt cười lạnh, Nghiến răng rít lên hai chữ này. “Trẫm vẫn nghĩ tới tình phụ tử nên không đành lòng sát hại. Nó thì tốt rồi, dám tái diễn Vu cổ, gây họa làm loạn cung đình.”
“Truyền lệnh của trẫm”, y buông từng chữ một, “Niêm phong điện Phi Sương, giam Tứ hoàng tử và Công chúa Cái Trường vào đại lao phủ Tông nhân.”
Trong phủ Tề vương, Ninh Triệt mấy ngày liền cầu xin được gặp Tề Vương nhưng Tề vương Lưu Cứ vẫn cự tuyệt không gặp. Mãi đến hôm nay rốt cục mới thấy thị tùng của Tề vương bước ra nói: “ Ninh tiên sinh, Vương gia lệnh mời ngài vào.”
Ninh Triệt đi vào, hỏi ngay: “Vương gia thật sự không nhận ra rằng bây giờ không phải lúc hành động à?”
“Ta biết.” Lưu Cứ nhấp một ngụm trà, chậm rãi nói, “Cho nên mấy ngày qua mới không chịu gặp tiên sinh.” Hắn sợ phải nghe Ninh Triệt phân tích lợi hại khiến mình bỏ cuộc.
“Bây giờ người kia chắc đã gặp phụ hoàng rồi, thế nên tiên sinh có muốn nói gì cũng không cần thiết nữa.”
Ninh Triệt nhắm mắt, chán nản hỏi tiếp: “Kính xin Vương gia giải thích vì sao đã biết rõ việc không ổn mà vẫn khăng khăng chấp nhất hành động?”
“Vì ta là phận con cái.” Lưu Cứ cười nói, “Ta không thể dễ dàng bỏ qua việc phụ thân bố cáo thiên hạ rằng mẫu thân từng mưu hại người phụ nữ khác, sau đó lại cố giúp người đó ngồi lên vị trí của mẫu thân. Cho dù tất cả có thể đều là sự thật.”
Chuyện năm xưa trôi qua đã lâu, người ngoài không còn biết được chân tướng. Thật ra người đã sa lầy trong chốn hoàng gia thì có ai là vô tội. Bệ hạ không thể trách mình cũng không thể chỉ trích người hiện giờ là Phi Nguyệt trưởng công chúa Lưu Lăng được, nên sẽ phải để người đã chết gánh chịu tất cả mọi tội lỗi. Cho dù người đó đã từng có vô số đêm má ấp vai kề bên gối của y. Bệ hạ quả nhiên rất tuyệt tình với người đã ruồng bỏ.
“Ta biết ngươi nghĩ gì.” Lưu Cứ cười nhạt, “Ngươi có thể nghĩ như vậy nhưng ta đứng trên lập trường của mình thì không.”
“Hơn nữa”, hắn sầm mặt, lạnh lùng nói, “Không ai có thể biết rõ hơn ta về việc phụ hoàng là người vô tình đến mức nào, vì vô tình và đa nghi vốn là căn bệnh chung của những người đã lên ngôi cao. Những năm qua, giữa ông ấy và Trần A Kiều không có xung đột cho nên mới có thể bình an vô sự. Thế nhưng một khi có xung đột thì…”
Hắn mím môi: “Ta muốn xem phụ hoàng của ta rốt cuộc có thể vô tình đến mức nào.”
Trần A Kiều nhờ Tang Hoằng Dương đi điều tra về lai lịch của người phương sĩ có tên là Loan Tử, nhưng Tang Hoằng Dương huy động lực lượng cả mấy nhà vẫn không điều tra ra một chút tin tức gì về người này. Lão dường như cũng từ hư không xuất hiện giống bọn họ.
Ngày hôm qua, Trần A Kiều ở điện Trường Môn nghe thấy hai chữ kinh hoàng kia mà ngơ ngẩn, suýt nữa cắn rách môi mình mà không biết. Lại là Vu cổ, cứ mỗi lần nàng cho rằng có thể hoàn toàn thoát khỏi cơn ác mộng hai chữ này gây ra thì vận mệnh lại một lần nữa ập tới khiến nàng không thể quên nơi nàng đang sống là một dạng địa ngục trần gian như thế nào.
Nàng mệt mỏi nhắm mắt lại, nói: “Bệ hạ, người tin Loan Tử hơn là tín nhiệm con của mình sao?”
“Trẫm cũng không tin hắn.” Lưu Triệt điềm nhiên đáp, “Nhưng chẳng qua hắn là một phương sĩ, mà Mã Hà La lại đích thực lục soát được hình nhân bị làm phép Vu cổ trong điện Phi Sương.”
“Vậy cũng có thể là do bị hãm hại”, A Kiều cười mỉa mai nói, “Năm Nguyên Quang thứ năm, chẳng lẽ bệ hạ không biết rõ tại sao hình nhân Vu cổ lại tiến vào điện Tiêu Phòng được ư?”
“Kiều Kiều.” Lưu Triệt chợt cao giọng giận giữ quát lên, nhưng rồi dịu lại: “Nàng phải biết rằng nó không chỉ nguyền rủa trẫm mà còn cả nàng nữa đấy.”
“Thϊếp tuyệt đối không tin vật chứng.” A Kiều lắc đầu, “Nhưng đó là con trai của người chứ không phải con thϊếp. Người không đau lòng thì chẳng lẽ thϊếp lại phải đau lòng?”
“Nhưng mà”, nàng buồn bã nói, “Nếu một ngày có người nói với bệ hạ rằng Mạch Nhi hoặc thϊếp có ý đồ dùng Vu cổ với bệ hạ thì bệ hạ sẽ làm thế nào đây?”
Ngoài A Kiều thì chưa từng có một người phụ nữ nào dám chất vấn y trực tiếp như thế. Lưu Triệt ngắm nhìn dung nhan kiều diễm trước mắt, lòng chùng xuống. Y ôm lấy A Kiều, nói từng chữ một, “Trẫm nhất định không phụ khanh!”
Chuyện Hoàng đế, Hoàng hậu tranh cãi trong điện Trường Môn rất nhanh chóng loan truyền. Loan Tử nghe được thì kín đáo nhíu mày. Ba ngày sau, Loan tử yết kiến vua lần thứ hai, tiếp tục nói ra lời kinh hãi. Mặc dù đã đào được Vu cổ ở điện Phi Sương nhưng sắc u ám trên ấn đường của bệ hạ vẫn không tiêu tán. Trong cung đình còn có người khác dùng Vu cổ.
Lần này, lão chỉ đúng về hướng điện Bác Vọng của Thái tử Lưu Mạch.
Ánh mắt sắc bén của Lưu Triệt nhìn chằm chặp vào lão một lúc lâu. Lão đang còn run sợ thì chợt nghe Lưu Triệt nhếch miệng cười ra lệnh, “Dẫn người tra xét điện Bác Vọng.” Trong khoảnh khắc, cả điện lặng như tờ.
Mã Hà La chưa kịp dẫn Kỳ Môn quân tới điện Bác Vọng thì Trần A Kiều và Lưu Mạch đã hay tin. A Kiều chỉ cười lạnh, ánh mắt trầm tĩnh dần dần ngưng lại như một tầng băng mỏng. Thái tử Lưu Mạch liền tới điện Tuyên Thất, tấu xin được gặp mặt quân vương. Loan Tử đứng ở dưới điện, tâm trạng thấp thỏm khi thấy Lưu Triệt gật đầu: “Cho Thái tử vào.”
Mã Hà La dẫn Kỳ Môn quân vào điện Bác Vọng thì Thái Tử Lưu Mạch không còn ở đó, chỉ có Thái tử phi Thượng Quan Linh đứng bên ngoài điện trong gió Bắc thổi ào ào, dáng vẻ lẻ loi.
“Phụng ý chỉ của bệ hạ”, Mã Hà La chắp tay, nghiêm nghị nói, “lục soát điện Bác Vọng.”
“Nếu không phải ngươi phụng ý chỉ của bệ hạ”, Thượng Quan Linh cười lạnh nói, “ngươi cho rằng ta sẽ cho phép ngươi bước vào điện Bác Vọng sao?”
Mã Hà La chột dạ, nhớ ra thân phận của người trước mắt này là vị thê tử được Thái tử Đại Hán cưới hỏi theo đúng lễ giáo, nếu không có gì bất ngờ thì sau này chắc chắn là mẫu nghi thiên hạ.
Hắn lui lại nửa bước, làm đại lễ, “Tham kiến Thái tử phi điện hạ.”
“Miễn lễ.” Thượng Quan Linh bình thản, “Mã tướng quân, ngươi phụng ý chỉ của bệ hạ, tất nhiên ta không thể ngăn cản ngươi lục soát điện Bác Vọng. Nhưng ngươi phải nhớ kỹ hôm nay ngươi lục soát cung điện của Thái tử Đại Hán. Ta là nữ chủ nhân của điện Bác Vọng, tuy không thể đích thân chứng kiến lục soát nhưng lại có thể phái người hỗ trợ, chỉ điểm cho tướng quân một chút, giúp tướng quân tránh lầm vào nơi trọng yếu mà chẳng may phạm tội. Tướng quân thấy thế nào?”
“Nếu như thế”, Mã Hà La chắp tay nói, “Đa tạ Thái tử phi.”
“Thành Liệt”, Thượng Quan Linh xoay người, điềm nhiên ra lệnh, “Ngươi giúp Mã tướng quân lục soát một chuyến đi.”
Cô bước từng bước vào trong điện. Cô mới làm Thái tử phi nên không có kinh nghiệm đối phó với những tình huống như thế này, nhưng lại không thể không đối phó. Phu quân của cô ở bên ngoài làm những việc cần làm, nếu cô ở nhà mà thất bại thì sẽ khiến cho Lưu Mạch gặp khó khăn mọi bề. Bản thân cô không muốn mình làm liên lụy đến hắn.
Lưu Mạch bước vào điện Tuyên Thất với vẻ mặt trầm tĩnh, nhìn Loan Tử, “Ta nghe nói ngươi rất giỏi thuật trường sinh?”
“Đúng vậy.” Loan Tử trả lời khiêm tốn.
“Như vậy”, Lưu Mạch nhanh như chớp lấy thanh kiếm đeo trên lưng một thị vệ của Hoàng đế đang đứng dưới điện Tuyên Thất, uy nghiêm hỏi, “Nếu ta chém đầu ngươi thì ngươi có thể mọc ra một cái đầu khác không?”
Hắn vung kiếm chém vυ't qua, máu tươi trước tiên nhuốm tràn lưỡi kiếm rồi lập tức chiếu đỏ mắt mọi người. Đầu Loan Tử rụng xuống, lăn mấy vòng trên điện rồi mới dừng lại, cặp mắt còn lộ vẻ kinh hoảng. Đám thị vệ nhao nhao hét lên: “Hộ giá”, rồi vung đao rút kiếm che chắn bên dưới điện, trong lòng đầy nghi hoặc. Người mà bọn họ đang giơ đao chĩa thương vào chính là Thái tử Đại Hán. Lưu Mạch cười lạnh, ném thanh kiếm xuống nền điện tạo nên tiếng kêu loảng xoảng, nhíu mày nhìn vị quân vương bên trên điện.
“Lui ra đi.” LưuTriệt phất tay nói.
“Ngươi thật sự là đứa con trai giống trẫm nhất.” Y nhìn con trai cả đứng bên dưới điện, nói rành rọt, giấu đi ánh mắt tán thưởng.
“Đúng vậy.” Lưu Mạch cười lạnh, “Con là con của người. Mặc dù chưa chắc con đã thích người, nhưng con tôn kính người. Chỉ cần người không động đến mẫu thân con, không động đến muội muội của con”, hắn chần chừ một chút rồi nói tiếp: “không động đến vợ con của con thì con cũng không muốn làm một người nhẫn tâm điên cuồng có ý đồ sát hại phụ thân, hành thích hoàng thượng.”
“Trẫm tin con.” Lưu Triệt nói dứt khoát, xoay người ra lệnh, “Bảo Mã Hà La không cần lục soát nữa.” Y thờ ơ liếc nhìn thủ cấp Loan Tử bên dưới điện, nói giọng chán ghét: “Mang đi, ném ra ngoài bãi tha ma.”
Lưu Mạch cười nhạt, chớp chớp mắt, nhẹ nhàng nhắc nhở, “Lần này người đã thật sự làm tổn thương mẫu thân rồi.”
Tề vương Lưu Cứ sau đó cũng nghe được tin tức từ Trường An truyền về, uống cạn chén rượu, cười lạnh nói, “Đúng thật là phụ tử tình thâm!”
“Thật ra thì”, Ninh Triệt thở dài, “chưa chắc kế này của Vương gia đã không được mà chỉ là không phải lúc. Nếu đợi thêm mấy năm nữa, mâu thuẫn giữa quyền lực của vua và quyền lực của thái tử phát sinh, thì bệ hạ chắc sẽ không nương tay dễ dàng như vậy đâu.”
“Nhưng mà”, Ninh Triệt hỏi thêm, “tại sao Vương gia nhất định phải đối phó với Tứ hoàng tử trước?”
“Có hai nguyên nhân.” Lưu Cứ đáp: “Một là bởi vì hắn có căn cơ yếu kém nên thích hợp để mang ra thử đao, còn thứ hai thì chẳng qua là lấy đạo kỳ nhân để trị kỳ nhân mà thôi.” Không biết Lý Chỉ nằm trong mồ mà thấy tình huống ngày hôm nay thì có hối hận hay không?
Trong điện Tuyên Thất, Lưu Triệt cuối cùng đã chọn lựa tin tưởng con mình. Khi thánh ý truyền tới điện Bác Vọng thì Mã Hà La vẫn chưa lục soát xong. Hắn mỉm cười quỳ tiếp ý chỉ, thầm thở dài nghĩ, “Quả nhiên bệ hạ vẫn coi trọng Trần hoàng hậu và Thái tử điện hạ.”
Kỳ Môn quân rút khỏi điện Bác Vọng. Thượng Quan Linh ngồi sụp xuống ghế, cảm thấy vẫn chưa hết sợ hãi, tay chân bủn rủn. Dù sao, từ ngày nhà Hán hưng thịnh đến nay đã có biết bao nhiêu người bị choàng lên hai chữ “Vu cổ” mà chết không chỗ chôn thây, cô và Lưu Mạch lần này có thể thoát khỏi an toàn chứng tỏ trong lòng bệ hạ vẫn còn ưu ái. Lưu Mạch trở về điện Bác Vọng, trông thấy Thượng Quan Linh như thế, lấy làm thương xót, mỉm cười trấn an: “Không có chuyện gì nữa rồi.”
Thượng Quan Linh vùi đầu vào lòng hắn, phiền muộn hỏi: “Bệ hạ thật sự không còn nghi ngờ chàng nữa chứ?”
“Phụ hoàng”, Lưu Mạch cười một tiếng thê lương, “Người còn đang bận trấn an mẫu thân.”Quyển 4 - Chương 89: Không rõ là đa tình hay vô tìnhLúc Lưu Triệt bước vào điện Trường Môn điện thì A Kiều đang đánh đàn dưới cửa sổ. Nàng nghe tiếng bước chân của y liền bỏ cây đàn xuống, nhìn sang.
“Chuyện hôm nay”, không biết vì sao Lưu Triệt trông thấy ánh mắt trong trẻo của A Kiều lại thoáng chần chừ.
“Bệ hạ không cần nói nữa”, A Kiều khẽ mỉm cười, khóe môi hơi nhếch lên, “Bệ hạ có thể thu hồi lệnh lục soát điện Bác Vọng vào thời điểm quyết định cuối cùng, chừa lại một đường cho thϊếp và Mạch Nhi là thϊếp cảm ơn rồi.”
Lưu Triệt chợt thấy lòng lạnh như băng. Y có thể dự liệu rằng A Kiều sẽ oán trách, sẽ làm toáng lên, sẽ nổi giận nhưng chưa từng nghĩ rằng nàng lại bình tĩnh đến mức lạnh lùng như vậy, thậm chí còn nói trước những gì y định nói. Tuy những lời nàng nói có vẻ như rộng lượng tha thứ nhưng y lại mơ hồ cảm giác thấy khoảng cách rất gần giữa hai người đã bị kéo lùi lại một bước dài. Y cảm giác như đang trông thấy xuân về hoa nở, khắp nơi ấm áp nhưng chỉ trong chớp mắt đã quay ngược lại mùa đông ngập tràn băng giá mà y thì lại không thể làm được gì cả. Cảm giác thất bại như vậy khiến y cực kỳ tức giận, ôm siết nàng vào lòng, nói: “Trẫm đâu có phụ bạc nàng.”
“Thϊếp biết.” Nàng nhắm mắt, đáp.
Nàng biết, với tính cách đa nghi, với sự kiêng kỵ Vu cổ của y mà vẫn chịu dừng tay vào thời khắc quyết định cuối cùng thì thật sự là y vẫn nhớ tới lời hứa với nàng. Nhưng khi hạ lệnh lục soát điện Bác Vọng của Mạch Nhi thì y thật sự không hề nghi ngờ một chút nào hay sao? Nhà đế vương tình cảm nhạt nhẽo, không cần biết lòng nghi ngờ nhiều hay ít, chỉ cần nó tồn tại thì sẽ không xóa đi được nữa.
Nàng cũng muốn coi điện Trường Môn là nhà của nàng, trong ngôi nhà phồn hoa tươi đẹp này có y, có nàng, có Mạch Nhi, có Tảo Tảo. Nếu như trong suốt quãng đời còn lại, cả nhà có thể sống vui vẻ hòa thuận thì coi như là một thứ hạnh phúc nhưng thứ hạnh phúc đó lại nằm trong tay y. Hôm nay y tin nàng thì bọn họ có thể làm người một nhà. Nếu như có ngày y không tin nàng nữa thì có phải ngôi nhà này sẽ sụp đổ trong chớp mắt? Không chỉ tình cảm của bọn họ sụp đổ mà có khi tính mạng của ba mẹ con nàng cũng đi theo. Trong tình cảnh như vậy, sao bọn họ có thể là người một nhà cho được?
Lưu Triệt ôm A Kiều trong lòng, nhạy cảm nhận thấy tâm trạng không vui của giai nhân liền cười lạnh, thô bạo hôn lên đôi môi của nàng. A Kiều kêu “a” một tiếng, bị động tiếp nhận nụ hôn cưỡng bức của y. Những năm qua nàng bị sự sủng ái nhất mực của y che mắt, dần có chút vờ không biết, quên mất người bên gối là hạng người gì.
Chuyện đã vậy thì cứ để mặc nó xảy ra. Nàng bỗng nhiên ôm lấy bờ vai Lưu Triệt, chủ động hôn trả lại. Bất kể như thế nào, hiện tại nàng yêu người đàn ông này. Bất kể như thế nào, hiện tại y vẫn còn tin nàng. Như vậy, ít nhất ở hiện tại nàng nên học theo câu nói “Sống ngày nào vui ngày ấy” của cổ nhân. Ngày mai dù có trời nghiêng, đất lở, núi đổ, sông rời, tình yêu mất đi cũng là chuyện của ngày mai. Đến ngày mai, bọn họ sẽ bình tĩnh đối phó, còn hôm nay tạm thời cứ thế này đi. Lưu Lăng vẫn bảo nàng cần phải luôn tỉnh táo nhìn thế sự, không được học cách sống phóng túng. Thật ra thì phóng túng cũng có cái hay của phóng túng. Thế nên sáng nay, nàng bỗng nhiên rất muốn phóng túng một trận với người đàn ông này.
Lưu Triệt thấy A Kiều đột nhiên nóng bỏng như vậy thì khá ngạc nhiên, nhưng như thế cũng tốt. Y cởi bỏ y phục của A Kiều, đôi mắt nóng rực nhìn xoáy sâu vào mắt nàng. Dù thế nào, trẫm không thể dung thứ cho bất kỳ kẻ nào dám tổn thương nàng. Y thầm hứa trong lòng.
Vào cuối năm Nguyên Đỉnh thứ sáu, Hoàng đế truyền xuống ý chỉ, phế tước hiệu Quảng Lăng Vương của Tam hoàng tử Lưu Hoành, cấm cố ở Bắc cung, cả đời không được ra khỏi Trường An. Ý chỉ ban ra đột ngột, chấn động cả hai cung Vị Ương và Kiến Chương. Hình Khinh Nga khóc đến chết đi sống lại, tuyệt vọng hỏi, “Hoành Nhi chưa hề làm chuyện gì sai, sao bệ hạ lại trừng phạt nghiêm khắc như thế?” Một hoàng tử bị cấm cố trong cung cả đời thì coi như là hắn đã chết.
Lưu Hoành nhận thánh chỉ rất bình tĩnh, thản nhiên hỏi, “Ta có thể cầu kiến phụ hoàng được không?”
Giọng hắn rất hờ hững. Người trong cung Vị Ương ai nấy đều chứng kiến sự vô tình của bệ hạ. Vương tiệp dư, Vệ hoàng hậu, Lý tiệp dư trước khi chết đều từng cầu kiến bệ hạ nhưng bệ hạ chưa từng mảy may niệm tình chăn gối. Bản thân hắn là một hoàng tử chưa từng được sủng ái, không hề dám ôm hy vọng. Vì vậy, khi thấy Lưu Triệt xuất hiện ở Bắc cung thì hắn sửng sốt một lúc lâu mới dám tin rằng không phải mình đang nằm mơ.
“Bởi vì con là con của trẫm”, Lưu Triệt nhìn hắn, “Cho nên trẫm mới tới gặp con lần này với hy vọng giải thích cho con hết nghi hoặc.”
Hắn trầm mặc chốc lát, hỏi, “Loan Tử đã bị Lưu Mạch gϊếŧ chết rồi thì làm sao phụ hoàng phát hiện được sơ hở của con?”
“Trẫm không phát hiện ra điều gì.” Lưu Triệt lắc đầu, nói, “Nhưng trẫm cảm thấy nếu Đán Nhi muốn làm chuyện Vu cổ thì sao lại để cho tên phương sĩ đó biết được chứ? Trẫm không tin Kiều Kiều của trẫm lại làm chuyện này. Thế nên trong cung Vị Ương chỉ còn có con và mẫu phi con là đáng bị hiềm nghi.”
Năm Nguyên Đỉnh thứ tư, khi Tam hoàng tử ra mặt, dùng trượng đập chết tên tiểu nội thị đã động tay vào thuốc của Trần A Kiều thì Lưu Triệt liền giật mình nhận ra đứa con trai thứ ba đã bị y lãng quên nhiều năm cũng đã tới tuổi có suy nghĩ của riêng mình. Ngay sau đó y đã cài tai mắt của mình ở bên cạnh Lưu Hoành.
“Trẫm chỉ lệnh cho Trương Thang lôi tất cả nô tỳ thϊếp thân của con ra dùng trượng tra khảo, chưa đầy mười trượng thì bọn chúng đã khai hết.”
“Thật ra thì con cháu hoàng gia mưu hại lẫn nhau là chuyện thường. Khi còn trẻ trẫm cũng từng ép huynh trưởng không còn đường lùi. Trẫm hiếm con, chỉ có được bốn đứa, trong đó có ba đứa thành tài đã rất vui mừng rồi.”
“Tuy nhiên”, Lưu Triệt nhìn Lưu Hoành, nghiêm nghị nói, “con làm việc rất có tài năng nhưng khí độ quá nhỏ nhen chỉ nghĩ đến thù riêng, không phải là người nên chọn cho nghiệp lớn. Bởi vậy, Trẫm không thể không vứt bỏ con.”
Lưu Hoành lặng người đi, tiếp đó điên cuồng cười to, “Tốt, tốt!”
Hắn nghiến răng nói, “Người ta nói phụ hoàng làm việc anh minh quả quyết, nhi thần đã quan sát nhiều năm trong cung Vị Ương này nhưng cảm thấy phụ hoàng chỉ mê đắm nữ sắc của Trần hoàng hậu chứ không phải tài giỏi gì lắm. Đến hôm nay mới biết, phụ hoàng dù sao cũng là phụ hoàng, luôn nhìn xa hơn đám con cái chúng nhi thần.”
“Chỉ là”, hắn cười vô cùng thống khoái, “phụ hoàng có nghĩ tới chuyện mặc dù có thể bố trí hạ Vu cổ trong điện Phi Sương nhưng nhi thần đang ở trong cung Vị Ương thì làm thế nào để tìm kẻ đồng mưu Loan Tử hay không?”
Hắn thở hổn hển, nghĩ cuộc đời mình đã rơi vào tình cảnh này thì coi như cũng xong rồi, đã vậy thì phải kéo Lưu Cứ xuống nước. Lời vừa thốt ra khỏi miệng, hắn lại lập tức hối hận vì Lưu Cứ còn tồn tại sẽ giống như một con rắn độc lúc nào cũng có thể cắn Lưu Mạch một miếng. Nếu cả Lưu Cứ cũng ngã xuống thì trên đời này thật sự không còn ai có thể uy hϊếp được Lưu Mạch nữa rồi. Song ngoài dự liệu của hắn, Lưu Triệt cười khan một tiếng rồi quay đầu đi, hờ hững nói: “Trẫm biết. Trẫm biết đứa con thứ của trẫm vẫn luôn hận con trưởng. Trẫm biết rằng Cứ Nhi có một Ninh Triệt ở bên cạnh với ý đồ bất chính. Nhưng như thế thì thế nào?”
“Thái tử đã là thái tử rồi mà còn đấu không lại Cứ Nhi thì chính bản thân nó không có năng lực. Đến cuối cùng người ngồi được lên ghế rồng chẳng phải vẫn mang dòng máu họ Lưu của ta?”
Lưu Hoành run sợ hồi lâu mới chậm chạp cúi đầu xuống, nở nụ cười còn khó coi hơn cả khóc, “Con vốn cho rằng mình đã nhìn thấu sự vô tình của phụ hoàng. Cho tới bây giờ thì con đã biết, phụ hoàng còn vô tình ngoài sức tưởng tượng của con.”
“Con muốn hỏi thêm”, hắn lại nhếch môi, nét mặt quỷ dị, “phụ hoàng có thể bàng quan xem hai con trai tranh đấu nhưng có thật sự, phụ hoàng không làm vì người đàn bà trong điện Trường Môn kia?”
Lần đầu tiên kể từ khi Lưu Triệt bước vào điện Thanh Trữ, Lưu Hoành rốt cuộc cũng nhìn thấy y hơi biến sắc mặt, nhưng trong nháy mắt đã khôi phục bình tĩnh.
“Là bậc đế vương”, Lưu Triệt thản nhiên nói, “giang sơn và tình cảm vốn là hai thứ khác biệt.”
Lưu Hoành quỳ trên mặt đất nhìn theo phụ thân của hắn bước thẳng ra khỏi điện Thanh Trữ. Trong khoảnh khắc, nước mắt loang nhòa khuôn mặt khiến hắn không nhìn được rõ mọi vật. Hắn bất chấp hậu quả, la lớn: “Phụ hoàng, người còn nhớ nương thân Vương tiệp dư của con trong điện Thanh Lương chờ người tới chết không? Người còn nhớ dưỡng mẫu Hình Khinh Nga của con đợi người nhiều năm như vậy không?”
Nước mắt đàn ông không dễ rơi xuống. Sao không dễ rơi? Chỉ vì chưa tới lúc thương tâm. Nếu như người đàn ông có thể rơi nước mắt, chứng tỏ người đó cực kỳ thương tâm. Nước mắt nhòa gương mặt khiến hắn không thể nhìn rõ khi Lưu Triệt nghe hắn nói có dừng lại một bước nào hay vẫn một mực bỏ đi.
Sau khi Lưu Hoành bị giam lỏng ở Bắc cung, bệ hạ hạ chỉ rằng chuyện Tứ hoàng tử và Cái Trường công chúa liên quan đến Vu cổ trước kia là do Tam hoàng tử Lưu Hoành mưu hại, nay đã điều tra sáng tỏ nên vô tội phóng thích. Tứ hoàng tử Lưu Đán năm xưa được phong là Yến vương, nay đã lớn phải lập tức lên đường tới đất phong. Cái Trường công chúa Lưu Yên quay về điện Phi Sương.
Trải qua một phen hãi hùng ở phủ Tông nhân, lòng dạ Yến vương đã nguội lạnh. Sau khi thấy lại ánh mặt trời và được phụ hoàng an ủi hắn rơi lệ tại chỗ. Trước đêm đi tới đất phong, Lưu Đán đến điện Phi Sương nói với tỷ tỷ Lưu Yên: “Ngày mai đệ đi tới đất phong, kình xin tỷ tỷ tự bảo trọng. Cung Vị Ương hôm nay danh chính ngôn thuận đã là thiên hạ của Hoàng hậu nương nương. Trần hoàng hậu đã độc chiếm ân sủng của Thánh thượng, tỷ tỷ nên an phận, chớ để cho đệ đệ ở bên ngoài lo lắng.”
Lưu Yên cả giận nhướng mày, “Đệ quên mẫu phi chết như thế nào rồi sao?”
Cô buồn bã nói, “Mẫu phi tự vẫn bỏ mạng ở chỗ này. Đệ thân là con trai độc nhất của mẫu phi, sao lòng nhiệt thành lại không bằng một thiếu nữ như ta?”
“Chỉ dựa vào nhiệt thành liệu có được không?” Lưu Đán bất đắc dĩ nói: “Chúng ta ra vào phủ Tông nhân chuyến này, chẳng lẽ tỷ tỷ còn chưa hiểu được sao? Hoàng tử công chúa cái gì chứ, ở trong mắt phụ hoàng đều không đáng nhắc tới.”
“Hơn nữa”, ánh mắt hắn vụt trở nên xa xăm, “Mẫu phi bỏ mình, rốt cuộc chúng ta nên oán trách ai đây?”
Lưu Yên im lặng. Cô nghĩ tới Duyệt Trữ công chúa Lưu Sơ hôm nay theo mẹ mình sống ở Trường Môn điện với muôn vàn sủng ái, thầm nén ai oán trong lòng. Sao bọn họ rõ ràng đều là con gái của phụ hoàng nhưng người lại đối xử cách biệt như trời với đất vậy chứ?
Sóng gió năm Nguyên Đỉnh thứ sáu dần trôi qua. Cuối năm dẹp xong loạn Tây Khương, Lưu Triệt thiết lập chức vụ Hộ Khương giáo úy nắm chắc Tây Khương trong tay, từ đó về sau hơn trăm năm không còn xảy ra biến cố gì. Dù việc nước trôi chảy nhưng Dương Đắc Ý lại cảm thấy gần đây tính tình đế vương trong điện Tuyên Thất ngày càng cáu kỉnh. Hắn mơ hồ biết rằng tâm trạng này của đế vương có liên quan với Hoàng hậu nương nương trong điện Trường Môn. Từ sau chuyện Vu cổ năm Nguyên Đỉnh thứ sáu, Lưu Triệt và Trần A Kiều đã dần lại đối xử với nhau “tương kính như tân”[1], dù bề ngoài luôn giữ hòa khí nhưng ẩn sâu trong xương cốt là một tầng băng cứng. Có là hoàng đế thì cũng chẳng thể làm được gì trong chuyện này nên càng thêm tức giận. Còn hắn, Dương Đắc Ý, nhìn thấy hết thảy nhưng không giúp được gì. Thế nên khi Công chúa Duyệt Trữ đến điện Tuyên Thất cầu kiến bệ hạ, hắn thậm chí còn vui mừng đón cô. Trong bốn người con trai, sáu người con gái, bệ hạ coi trọng nhất là Thái tử Lưu Mạch, sủng ái nhất là Duyệt Trữ công chúa Lưu Sơ. Vì vậy, lúc này mà gặp công chúa thì chắc bệ hạ sẽ vui vẻ. Dù sao thì Lưu Sơ cũng là con gái của Trần hoàng hậu. Dương Đắc Ý nhẹ bước vào điện, bẩm, “Bệ hạ, Công chúa Duyệt Trữ ở bên ngoài.”
[1] Tương kính như tân: Vợ chồng kính nhau như khách.
Lưu Triệt hơi bất ngờ, chậm rãi hỏi, “Sơ Nhi?” Y buông cây bút lông sói trong tay, ra lệnh: “Để nó vào đi.”
Lưu Sơ vén rèm đi vào, nhướng mày gọi lớn, “Phụ hoàng.” Trong chốc lát, cặp mắt trong trẻo của cô như chiếu sáng cả căn phòng u ám nơi điện Tuyên Thất. Y không nhịn được cười khẽ, nhìn đứa con gái giống hệt A Kiều, dịu mặt hỏi, “Sơ nhi có việc gì vậy?”
Duyệt Trữ công chúa Lưu Sơ là em song sinh với con trai trưởng Lưu Mạch, đến năm Nguyên Đỉnh thứ sáu thì cũng đã mười bảy tuổi rồi. A Kiều và y đã từng trải qua một tuổi thanh xuân đẹp như giấc mộng chẳng thể nào níu kéo trở lại được nữa. Lúc này thấy Lưu Sơ, y mới giật mình. Cả năm nay y bận quá nhiều chuyện nên không để ý rằng con gái mình đã là một thiếu nữ xinh đẹp không hề thua kém A Kiều năm xưa. Không biết con cái nhà ai có vinh hạnh nắm giữ được viên minh châu này của y.
Trong phút chốc, Lưu Sơ tỏ vẻ mặt vừa giận dữ vừa thẹn thùng, cuối cùng quay đầu đi, vùng vằng hỏi, “Phụ hoàng sai Mã Hà La đến tra xét điện Bác Vọng của ca ca, chẳng lẽ thật sự cảm thấy ca ca đã làm chuyện gì bất hiếu sao?”
Từ khi trở về cung từ hồi năm Nguyên Sóc thứ sáu tới nay, cô càng thêm được sủng ái. Mặc dù theo các cung nhân lén lút nói với nhau thì đương kim Hoàng thượng là người rất vô tình nhưng lại chưa bao giờ làm gì bất lợi với cô, vì vậy cô cũng không kinh sợ Lưu Triệt như những hoàng tử công chúa khác, có gì không vừa lòng thì liền hỏi thẳng. Cô hoàn toàn không nhìn thấy Dương Đắc Ý chợt biến sắc, liên tục nháy mắt với mình. Lưu Triệt không nổi giận, cười nhẹ một tiếng, cho Dương Đắc Ý lui, ôn tồn nói, “Trẫm bảo Mã Hà La đi lục soát điện Bác Vọng, có mấy dụng ý.”
“Một trong số đó là muốn xem Mạch Nhi ứng đối ra sao.”
Lưu Sơ sáng mắt, mỉm cười nói, “Ca ca giỏi quá.”
“Đúng vậy”, Lưu Triệt khẽ mím môi, “Biểu hiện của Mạch Nhi quả thực không khiến trẫm thất vọng.”
Vậy những dụng ý khác của phụ hoàng thì sao? Lưu Sơ thoáng nghĩ. Cô há miệng định hỏi tiếp nhưng cuối cùng lại im lặng vì mơ hồ cảm thấy không hỏi thì tốt hơn. Có một số chuyện nên để cho thời gian xóa nhòa đi, như vậy ít nhất bọn họ còn có thể giữ được vẻ hòa thuận bên ngoài. Một nỗi bi thương cuộn lên trong lòng cô. Cô có thể giả bộ ngu ngốc không hỏi tới nhưng mẫu thân có thể sao? Dù sao, người sống cả đời với phụ hoàng là mẫu thân. Mấy ngày nay, không phải cô không thấy sóng gió ngầm nổi lên giữa mẫu thân và phụ hoàng nhưng cô là con gái thì có thể làm gì đây?
“Sơ Nhi hôm nay cố ý tới gặp trẫm là vì chuyện này sao?” Lưu Triệt hỏi.
“À? Không phải”, Lưu Sơ phục hồi tinh thần, duỗi ngón tay, nghiêm túc nói, “Phụ hoàng còn nhớ ngày đó khi đi tuần thú phương đông ở Lâm Phần, phụ hoàng còn nợ con một yêu cầu không?”
“À?” Lưu Triệt hỏi vẻ ẩn ý, “Sơ Nhi đã nghĩ ra là muốn điều gì rồi sao?”
Lưu Sơ không đáp, cúi đầu, chậm rãi nói, “Danh sách con cháu thế gia chỗ mẫu thân đã chất thành một chồng cao, còn kinh khủng hơn cả năm đó ca ca chọn phi.”
“Đúng vậy.” Lưu Triệt bật cười nói, “Sơ Nhi cũng không còn nhỏ nữa, đúng là nên gả chồng rồi.” Tề vương Lưu Cứ nhỏ tuổi hơn cô mà đã kết hôn, y chẳng thể nào giữ mãi đứa con gái mình thương yêu nhất ở bên cạnh.
“Con không cần,” Lưu Sơ cao giọng, kéo tay áo rộng của Lưu Triệt, nhõng nhẽo: “Phụ hoàng, người cho con kéo dài thêm mấy năm nữa nhé, con chưa muốn bị gả chồng.”
“Ít nhất là con không muốn bị gả cho đám con nhà quyền quý đó.” Cô khẽ giọng lẩm bẩm.
“Sao Sơ Nhi không nói chuyện đó với mẫu thân?”
“Mẫu thân?” Lưu Sơ thở dài, “Con có nói nhưng mẫu thân bảo người không thể làm chủ, nói con phải tự tới tìm phụ hoàng nên con mới tới đây.”
Cô ra vẻ vô tội, Lưu Triệt nghe xong thấy lòng trầm xuống. Y xưa nay thương yêu Duyệt Trữ, chuyện như vậy chỉ cần A Kiều muốn thì y sao có thể không đồng ý. Chẳng lẽ ngay cả khi ở chung vào buổi tối mà A Kiều cũng không muốn nói với y một câu? Y đầu tiên cảm thấy hơi giận nhưng sau đó lại dần buồn bã. Sớm biết như thế này, sớm biết như thế này thì ngày đó y thà không cho Loan Tử vào gặp, đám con trai của y muốn làm loạn thế nào cũng mặc. Nếu chúng quá đáng thì cần phạt cứ phạt, cần cấm cung cứ cấm cung, mọi chuyện nếu cứ thế trôi qua thì làm gì đến mức này? Suy nghĩ ấy cứ lởn vởn trong đầu khiến Lưu Triệt đột nhiên sợ hãi, thì ra vị trí A Kiều trong lòng y quan trọng như vậy sao? Y xưa nay làm việc không quay đầu, nhưng bây giờ lại bởi vì A Kiều mà mơ hồ cảm thấy hối hận.Quyển 4 - Chương 90: Non nước ẩn tình thu“Phụ hoàng, phụ hoàng.” Lưu Sơ thấy sắc mặt y biến đổi liên tục bèn lên tiếng gọi hai lần liền.
Lưu Triệt choàng tỉnh, liếc mắt nhìn Lưu Sơ hỏi: “Lưu Sơ thích người nào chưa?”
Lưu Sơ vừa xấu hổ vừa có chút mơ màng, bĩu môi nói: “Con chỉ thích Hoắc ca ca thôi.”
“Khứ Bệnh?” Y hồi tưởng lại người thiếu niên chí khí hiên ngang, còn trẻ mà tính tình cao ngạo bất kham, hùng quang vạn trượng nhưng đáng tiếc là mất đi quá sớm.
“Sơ Nhi”, y nhắc nhở: “Con phải nhớ là Khứ Bệnh qua đời đã sáu năm.”
Nếu người thiếu niên đó còn sống, với hùng quang vạn trượng như thế thì tất nhiên là xứng đôi với con gái bảo bối của y nhưng cũng sẽ làm y phải nhức đầu vì hai người phân chia về hai nhà Trần Vệ, cho dù có được người đời coi là Kim Đồng Ngọc Nữ thì cũng làm sao có thể lấy nhau. Nhưng Hoắc Khứ Bệnh đã chết. Cho dù y có yêu thích người thiếu niên kia đến mấy cũng không muốn đứa con gái bảo bối mà y nâng niu trên tay lại phải trói buộc cả cuộc đời mình với một người anh hùng đã khuất.
“Đúng vậy.” Lưu Sơ ảm đạm cúi đầu, khẽ nói, “Hoắc ca ca đã qua đời lâu rồi.”
Lưu Triệt nhìn vẻ mặt con gái, hiểu rằng quá nửa là trong lòng con gái mình đã có người mới, nếu không thì cô bé đã bị kích động hơn nhiều. Lưu Sơ, ít nhất về mặt tính tình, rất giống tính cách yêu hận rõ ràng như mẹ mình. Cô lúc yên lặng suy tư, lúc lại do dự, cuối cùng mới hỏi, “Phụ hoàng, người có yêu mẫu thân không?”
Y không biết nên khóc hay nên cười. Thật sự là chưa từng có ai ngoài hoàng tỷ Lưu Đàm hỏi y về vấn đề này, ngay cả A Kiều cũng không, nào ngờ người tiếp theo hỏi y lại là con gái. Y cho việc mình làm đã rất rõ ràng, tất nhiên nếu không yêu thì y hà tất phải giữ A Kiều ở bên cạnh suốt bao nhiêu năm như vậy? Thế gian có hàng nghìn hàng vạn mỹ nhân, sao y phải nâng niu mỗi một mình A Kiều?
“Con đã hỏi mẫu thân về vấn đề này hồi năm Hoắc ca ca qua đời, hôm nay trước khi tới đây con lại hỏi mẫu thân một lần nữa. Mẫu thân trả lời hai lần với hai đáp án không giống nhau. Con cũng đã hỏi ca ca rằng có yêu tẩu tẩu hay không, ca ca lại cho một đáp án khác. Bây giờ thì con muốn hỏi phụ hoàng câu này.”
Tình yêu rốt cuộc là gì?
Cô thấy hàm ý trong mắt Lưu Triệt thì nín cười lắc đầu nói, “Không được, không được. Con không thể bán đứng mẫu thân, nhưng mà”, cô nghịch ngợm nói thêm: “Con sẽ lén nói cho phụ hoàng biết ca ca trả lời thế nào.”
“Trẫm không có hứng thú đối với đời sống tình cảm của con cái.” Y nhướng mày, trả lời thản nhiên. Còn A Kiều thì sao? A Kiều vào năm được gả cho y còn nhỏ hơn Duyệt Trữ bây giờ một tuổi. Năm đó, y cưỡi ngựa đi dọc suốt đường phố Trường An thật dài đến phủ Đường Ấp hầu cưới A Kiều về cung. Năm đó, dung nhan A Kiều xinh đẹp hơn cả hoa sen. Y vén khăn ráng trùm đầu nàng lên, lòng tràn đầy vui mừng.
Đúng vậy, niềm vui mừng rất trọng đại, nhưng cũng chỉ là vui mừng, thế thôi. Sau đó y đăng cơ trở thành hoàng đế Đại Hán. Sau nữa thì gặp Vệ Tử Phu. Niềm vui mừng đó dần nhòa theo thời gian rồi biến mất không thấy tăm tích.
Xưa là đóa phù dung, nay thành cỏ đoạn trường. Đến năm Nguyên Quang thứ năm, y phế truất nàng không chút lưu tình. Sau đó A Kiều biến mất trong cuộc sống của y. Đến khi gặp lại nhau thì đã qua bảy năm đằng đẵng. Y biết rằng A Kiều của bảy năm sau luôn canh cánh khắc sâu trong xương cốt nỗi đau năm nào, muốn quên đi cũng chẳng thể. Bọn họ không quay về được quá khứ, có cố gắng hết sức cũng vô vọng. Bởi vì A Kiều đã không thể nào toàn tâm toàn ý yêu thương y như thuở còn niên thiếu. Rất nhiều chuyện nếu cân nhắc kỹ thì đều có thể tìm ra nguyên nhân. A Kiều thanh khiết kiêu ngạo, yêu thương y mà không giữ lại chút nào nhưng y lại cứa một nhát đao vào tim của nàng, gieo một hạt giống nghi ngờ tron niềm tin yêu của nàng, tới bây giờ thì hạt giống đó đã nảy nở, lớn lên thành một cây đại thụ che trời, như vậy thật ra thì y không có lý do gì để trách cứ nàng.
Thế nhưng tại sao cứ muốn trở về quá khứ chứ? Bình tâm mà nói, trong quá khứ y chưa từng yêu nàng như hiện tại. Thế thì có trở lại quá khứ cũng chẳng thể hạnh phúc. Tương lai sẽ có một ngày, những tổn thương y gây ra cho nàng trong quá khứ sẽ là chướng ngại giữa hai người. Y ở trên ngôi chí tôn thiên hạ nên không thích làm cái loại chuyện khóc sầu thu này, cũng chẳng quay nhìn những gì đã qua. Y chỉ muốn sẽ chung sống với A Kiều trong những ngày còn lại. Năm tháng lâu dài sẽ làm chứng, có một ngày nào đó A Kiều sẽ thật sự tin rằng y rất yêu nàng.
Y từ tốn mỉm cười, nhìn con gái rồi trầm trọng, “Trẫm nghĩ là đúng vậy.”
Trẫm yêu nàng!
Vẻ mặt Lưu Sơ khác lạ, nghĩ ngợi một lúc rồi cáo lui. Lưu Triệt nhìn theo bóng lưng Lưu Sơ khuất dần ngoài cửa điện, ra lệnh, “Dương Đắc Ý. Hãy điều tra thêm cho trẫm xem Công chúa Duyệt Trữ đã làm những gì, gặp những ai trong mấy tháng vừa qua.” Y muốn xem người trẻ tuổi kia có đủ tư cách đón Duyệt Trữ từ trong tay của y hay không.
Tháng Chín năm Nguyên Đỉnh thứ sáu, Duyệt Trữ công chúa Lưu Sơ được bệ hạ ân sủng nhất bước vào tuổi mười bảy trăng tròn đẹp nhất. Thị nữ nhìn khuôn mặt Lưu Sơ tươi đẹp giống hệt Hoàng hậu nương nương ở trong gương đồng, nhẹ nhàng chải chuốt mái tóc đen nhánh của cô, cười nói, “Bây giờ Công chúa đã đến tuổi thành hôn, không biết Hoàng thượng và Hoàng hậu nương nương chọn trong ngàn vạn người có tuyển được thiếu niên nào xứng đôi với Công chúa không đây?”
Cô vốn định nói đùa mấy câu để lấy lòng Công chúa Duyệt Trữ, không ngờ Lưu Sơ lập tức sa sầm mặt, mắng: “Đoán mò cái gì, lui xuống.”
Lưu Sơ đuổi thị nữ đi nhưng trong lòng đã bị khuấy động. Cô biết rằng tuổi mình một ngày một lớn thêm, cuối cùng cũng đến lúc quyết định. Cô được coi là một công chúa Đại Hán rất may mắn vì có phụ hoàng sủng ái, mẫu thân yêu thương, nhưng mẫu thân mới khôi phục ngôi vị hoàng hậu, địa vị thừa kế của ca ca rất chắc chắn nên không cần người muội muội như cô phải hạ thấp bản thân để lôi kéo đám quyền quý. Cho dù tình thế không sáng sủa như vậy thì cô vẫn tự tin rằng mẫu thân mình không phải là Vệ Tử Phu, sẽ không vì những thứ quyền lực địa vị tầm thường của thế nhân mà hy sinh con gái của mình. Mẫu thân coi trọng nhất không phải là những hư danh bề ngoài mà là hạnh phúc của cô và ca ca. Cho nên, năm ngoái ca ca chọn phi chỉ suy xét đến bản thân những cô gái kia chứ không phải là ý nghĩa đại diện đằng sau bọn họ. Dù tốt đẹp đến thế nhưng cô vẫn mê muội không hiểu tại sao con gái nhất định phải được cưới gả, nếu có thể được cô tình nguyện cả đời ở vậy bầu bạn với mẫu thân. Bởi vì người mà cô muốn gả đã qua đời rồi.
“Hoắc ca ca”, cô trằn trọc suy nghĩ đến cặp mắt này, đôi mắt người thiếu niên kia vẫn mang bóng dáng của Hoắc Khứ Bệnh khi cưỡi tuấn mã quay đầu nhìn lại với nụ cười sáng rực rỡ như mặt trời. Cô bất chợt giật mình. Đến ngày mười tám này là Hoắc Khứ Bệnh đã rời bỏ thế gian được sáu năm tròn. Sau năm rồi, nếu không dọn dẹp thì cỏ xanh trên mộ hắn đã cao bằng đầu người rồi chứ chẳng sai.
Ngày mười tám tháng Chín, Lưu Sơ giấu mẫu thân, lén dẫn người đi tới Mậu Lăng. Lưu Triệt cực kỳ coi trọng những lễ tiết hậu sự hoành tráng, vì vậy y đích thân lựa chọn Mậu Lăng, vừa lên ngôi liền bắt đầu cho xây dựng, cho đến tận hôm nay vẫn chưa hoàn thành. Nơi đây vốn không cho phép ai vào, song Lưu Sơ có thân phận công chúa nên không hề để tâm tới điều này mà cứ thế đi thẳng đến mộ Quan Quân hầu. Mộ của Quan Quan hầu nằm ở khu mộ bồi táng Hoàng đế sau này nên xây dựng cực kỳ hoành tráng, mộ phần trắng toát chịu sáu năm mưa gió phong sương mà vẫn còn nguy nga tráng lệ. Hình dáng ngôi mộ hùng vĩ như dãy núi Kỳ Liên mai táng người anh hùng thiếu niên chói sáng nhất triều Tây Hán.
“Hoắc ca ca.” Lưu Sơ tế lạy Hoắc Khứ Bệnh xong thì thầm, “Huynh là anh hùng, nếu sống lại được thì chắc chắn sẽ giữ lời hứa. Muội đã đầy mười sáu tuổi. Nếu phụ hoàng chấp nhận thì muội chắc đã được gả cho huynh rồi chứ không còn phiền não như thế này nữa.”
“Không đúng”, cô chợt nghĩ ra, cười khổ, “Nếu huynh biết rằng bà dì hoàng hậu của huynh vì Trần gia mà mất địa vị phải tự vẫn thì e rằng sẽ hận chết muội, mà có không hận thì e là cũng không chịu thực hiện lời hứa nữa.”
Ngay từ thời điểm ban đầu, bọn họ đã bị chủ định sẽ không có kết cục tốt. Như vậy, ít nhất việc Hoắc ca ca mất đi quá sớm cũng lưu giữ được hình tượng tốt đẹp của mỗi người trong lòng nhau, cuối cùng không tới mức trở mặt thành thù.
“Hoắc ca ca”, cô khẽ nghiêng đầu, hỏi như có điều trăn trở, “Huynh ở trên trời nhiều năm như vậy có nhận thấy con trai nhà nào tốt, đáng giá để Duyệt Trữ gửi gắm cả đời không?”
“Công chúa”, Oanh Tâm đứng ở bên mộ chua xót định khuyên nhủ mấy câu, nhưng vừa lên tiếng thì lại không biết phải nói gì. Cô thoáng liếc thấy có bóng người từ đường núi phía xa hướng tới bên này liền vội nói, “Công chúa, có người đến.”
Lưu Sơ ngơ ngẩn đứng dậy nhìn sang, thấy trên đường núi có một thiếu niên mặc áo quần xanh thẫm đang dắt tay một cậu bé chừng năm sáu tuổi đi lên. Người thiếu niên kia chính là Hoắc Quang, chắc cậu bé đang nói gì đó nên hắn nghiêng đầu lắng nghe, không ngẩng đầu lên nhìn hai người. Đó chắc là Hoắc Thiện, con trai độc nhất của Hoắc Khứ Bệnh để lại trên thế gian, mới chớp mắt mà đã lớn như vậy. Lưu Sơ không muốn gặp lại hai người này để gợi lại nỗi đau, hạ giọng nói, “Oanh Tâm, đi theo ta”, nói xong cô luồn ra sau mộ.
Một lúc sau thì nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng dừng bước ở trước mộ, rồi giọng Hoắc Quang vang lên buồn bã, “Thiện Nhi, quỳ xuống. Người trong mộ chính là cha của cháu.”
“A.” Hoắc Thiện không hiểu lắm, hỏi lại: “Thúc thúc, cháu nghe người ta nói rằng cha cháu là một đại anh hùng có phải không?”
Đúng vậy, là một đại anh hùng. Lưu Sơ thầm khẳng định, những năm qua cô luôn nhớ tới Hoắc ca ca nhưng lại quên mất hắn đã là cha của một đứa trẻ. Nhưng dù hắn còn sống, mọi thứ đều tốt đẹp thì hai người bọn họ cũng không thể thành đôi. Trong lòng cô đột nhiên rưng rưng. Khi Hoắc Khứ Bệnh mất đi, cô từng quật cường nói: “Trừ khi trên cõi đời này có người con trai nào tốt hơn Hoắc ca ca, còn không thì ta sẽ không gả cho ai.” Thiên hạ này rộng lớn nhưng cô lại không tìm được một người con trai nào tốt như hắn nữa.
“Đúng vậy, là một đại anh hùng.” Hoắc Quang nhắc lại. Hoắc Thiện nghe vậy rất vui mừng, ngoan ngoãn khấu đầu. Cậu khấu đầu xong liền ngẩng lên nhìn thúc thúc, hơi lấy làm lạ khi thấy trên mặt vị thúc thúc từ trước đến giờ luôn ôn hòa lại có những nét khác lạ.
“Đại ca, huynh ở dưới đó cứ yên tâm đi.” Vẻ mặt Hoắc Quang thoáng gợi nét kính nể lẫn u buồn, “Dù Vệ hoàng hậu mất rồi nhưng Trường Bình công chúa không bị liên lụy. Nhị hoàng tử đi làm Tề vương đến nay vẫn được bình an, năm nay còn thành hôn, có lẽ đến sang năm huynh sẽ thêm một đứa cháu họ nữa.”
“Thiện Nhi rất tốt. Nó lớn dần lên, rất ngoan ngoãn, rất thông minh. Hoán Liên cũng khỏe, đệ coi như cũng ổn.”
“Về phần cô bé kia cũng rất tốt. Ừ, cô ấy đã bước sang tuổi mười bảy, vẫn rất được ân sủng. Năm ngoái đệ đã gặp mặt ở Tấn Trung, thấy cô ấy càng ngày xinh đẹp hơn, vẫn còn rất nhớ đại ca. Chỉ tiếc là đệ không khí phách như ca ca nên không lọt vào mắt xanh của cô ấy.”
“Thúc thúc”, Hoắc Thiện cắn ngón tay, nghe thấy như vậy thì rất tò mò, đảo mắt hỏi, “Thúc cuối cùng nhắc tới ai vậy?”
“Là một a di mà Thiện Nhi chưa gặp bao giờ.” Hoắc Quang cười buồn bã. “Cô ấy là một công chúa, được phụ thân cháu đối xử rất tốt khi người còn sống.”
Lưu Sơ đứng ở sau mộ, lúc đầu nghe chuyện còn xấu hổ, lúc sau lại xuất thần đến mức Hoắc Quang dẫn Hoắc Thiện rời đi từ khi nào cũng không phát hiện ra. Oanh Tâm đứng ở bên cạnh Lưu Sơ, nghe chuyện cũng đỏ mắt lên, lén che miệng cười trộm, rất lâu sau mới nói: “Công chúa, nô tỳ nghe ra vị Hoắc đại nhân này chắc là rất thích Công chúa đấy.”
Lưu Sơ chợt bừng tỉnh, lườm Oanh Tâm một cái, cả giận quát, “Nói loạn gì đấy?” Oanh Tâm theo cô đã nhiều năm, rất hiểu tính chủ nhân nên không một chút sợ hãi, ánh mắt còn tinh quái hơn. Lưu Sơ bị cô cười trêu nên không ngẩng đầu lên, vừa chạy ra liền sững lại. Tuy Hoắc Quang đã rời đi nhưng có một người khác. Cô nấp ở sau mộ, đang lúc bối rối nên không biết hắn đến.
“A”, Oanh Tâm đứng ở sau Lưu Sơ, trông thấy Kim Nhật Đan thì rất kinh ngạc, quỳ gối nói: “Oanh Tâm tham kiến Kim đại nhân.”
Kim Nhật Đan nhìn Lưu Sơ, cười vui vẻ, “Công chúa điện hạ cũng tới bái tế Quan Quân hầu, Hầu gia ở dưới biết được chắc chắn sẽ mừng lắm.”
Cô không rõ Kim Nhật Đan đã nghe được bao nhiêu nên lúng túng, miễn cưỡng hỏi, “Tại sao ngươi lại tới đây?”
“Nhật Đan đã nói”, Kim Nhật Đan chỉ cười, không để ý lắm tới câu hỏi: “một trong hai người Hán mà Kim Nhật Đan bình sinh bội phục nhất chính là Quan Quân hầu. Hôm nay ngày giỗ của Quan Quân hầu, Nhật Đan tới bái tế một lần thì có gì là không được?”
“Tất nhiên là được chứ .” Lưu Sơ gật đầu, “Ngươi cứ bái tế đi, ta phải hồi cung rồi.”
“Công chúa Duyệt Trữ”, Kim Nhật Đan gọi giật lại, “Trời thu trong xanh mát mẻ, Công chúa đã không dễ xuất cung mà lại định trở về như thế này sao?”
Lưu Sơ nghe vậy bực mình, xoay người hỏi, “Theo như Kim đại nhân thì Duyệt Trữ phải như thế nào đây?”
“Này”, Kim Nhật Đan nhoẻn miệng hỏi Oanh Tâm: “Ngươi tên là gì?”
Hắn hỏi khá bất ngờ, Oanh Tâm ngẩn người một lát rồi mới đáp, “Nô tỳ tên là Oanh Tâm.”
Kim Nhật Đan bỗng giơ tay túm lấy Lưu Sơ, nói: “Ta dẫn công chúa của ngươi đi chơi. Ngươi cứ chờ ở cửa Tư Mã phía tây, trước lúc mặt trời lặn ta sẽ đưa cô ấy về.” Hắn mặc Oanh Tâm ngơ ngác, nhất thời không biết phải thế nào.
Lưu Sơ bất thình lình bị hắn lôi đi, thẹn quá hóa giận, giãy giụa định tránh ra nhưng từ thuở nhỏ đã không khỏe, làm sao có thể chống lại được Kim Nhật Đan nên vẫn bị hắn kéo thẳng xuống núi, cả giận quát, “Kim Nhật Đan, ngươi thật to gan!”
“Lá gan của ta đúng thật là không nhỏ.” Kim Nhật Đan không thèm để ý, huýt gió một tiếng. Từ trong bóng râm, một con tuấn mã cao lớn uy mãnh, phong thái hùng dũng phi đến, không phải là loại tuấn mã thuần phục hiền lành như Lưu Sơ đã gặp ở Tấn Trung. Lưu Sơ tức thì tái nhợt mặt, lui lại một bước.
“Sao vậy?” Kim Nhật Đan nhảy lên ngựa, từ trên cao mỉm cười nhìn xuống để lộ hàm răng trắng bóng, “Công chúa vẫn còn sợ ngựa sao?” Hắn nắm tay kéo cô lên ngựa, cười lớn nói, “Ta chở cô chạy một đoạn nhé.” Hắn hét lớn một tiếng, con tuấn mã hí vang rồi phi nhanh như điện chớp, nháy mắt đã ra khỏi Mậu Lăng. Lưu Sơ ở trong lòng Kim Nhật Đan, nghe tiếng gió vù vù bên tai, biết giờ có nói cũng vô dụng nên đành mím môi yên lặng.Quyển 4 - Chương 91: Ba năm nguyện trồng xanh ngô đồng[1][1] Xuất phát từ tích “Phượng đậu ngô đồng.” Phượng ở đây chỉ người con gái, cây ngô đồng ám chỉ người con trai cứng cỏi, là chỗ dựa vững chắc để người con gái dựa vào.
Chạy được một lát thì Kim Nhật Đan hô một tiếng, ghìm ngựa lại rồi nhảy xuống, mỉm cười nói: “Đến rồi.” Lưu Sơ ngồi trên lưng ngựa, nhìn chung quanh thấy hoàn toàn lạ lẫm.
“Cưỡng ép công chúa đương triều”, cô lạnh lùng nói, “Kim Nhật Đan, rốt cuộc ngươi nghĩ mình có mấy cái đầu? Hơn nữa ngươi cho là ngươi so với một muội muội ruột thịt như ta thì đại ca sẽ bảo vệ ai?”
“Oan uổng quá.” Kim Nhật Đan cười vang, dang rộng hai tay, “Ta chỉ cảm thấy Công chúa đã phiền muộn ở cung Kiến Chương quá lâu nên dẫn ra ngoài hóng mát một chút. Xuống đây đi.”
“Hóng mát cũng phải cần ta đồng ý mới được.” Lưu Sơ cười lạnh nói, “Nếu ngươi không đưa ta trở về thì ta không xuống.”
“Vậy à?” Kim Nhật Đan nhíu mày, ôm quyền nói, “Công chúa không xuống thật sao? Ta sẽ bảo Hắc Phong của ta mang cô đi vậy.” Hắn làm bộ muốn huýt sáo. Lưu Sơ nhìn khoảng cách từ lưng con ngựa ô tới mặt đất, không rét mà run, vội vàng nói, “Được rồi, được rồi, ta xuống là được chứ gì.” Cô vịn tay Kim Nhật Đan xuống ngựa, vẫn chưa hết giận, oán hận nói, “Ngươi coi thường ta sợ ngựa đúng không? Ngươi không sợ khi trở về ta sẽ tố cáo tội trạng của ngươi với phụ hoàng hay sao?”
Người thiếu niên dìu tay cô, khuôn mặt thoáng hiện ý cười, cố tình cao giọng: “Công chúa Duyệt Trữ cảm thấy ỷ vào Hoàng Thượng và Thái tử điện hạ vinh dự lắm sao?”
“Ngươi!” Lưu Sơ tức giận đến mức giậm chân, biết rõ là hắn khích tướng nhưng vẫn không nhịn được nói, “Ngươi thì có gì đặc biệt hơn người chứ.”
Tháng Chín ở thành Trường An đã là cuối mùa thu. Lưu Sơ nhìn bốn phía, bất giác thán phục Kim Nhật Đan đã lựa chọn được một chỗ rất đẹp. Tuy cây cỏ dần úa vàng nhưng chính vì thế mà trời đất mới hiện ra vẻ yên tĩnh mênh mang. Cô quay đầu lại nhìn ra xa, cây phong trên Mậu Lăng ánh lên sắc hồng, rạng ngời như mây gấm.
“Ồ Kim Nhật Đan.” Cô không nhịn được, quay đầu lại hỏi: “Ngươi kéo ta đến đây rốt cuộc là muốn làm gì?”
“Con người làm chuyện gì cũng phải có dụng ý sao?” Kim Nhật Đan nhàn nhã nằm trên mặt đất, miệng ngậm một cọng cỏ khô, nụ cười trong sáng. “Thỉnh thoảng dừng lại nghỉ ngơi một chút, ngắm nhìn trời xanh, mây trắng, cỏ vàng chẳng phải cũng tốt sao?”
“Thật không?” Lưu Sơ khẽ cười lạnh, “Nếu chỉ là thế thì ta ngắm nhìn ở điện Trường Môn cũng được, cần gì phải đến chỗ này?”
“Công chúa Duyệt Trữ”, Kim Nhật Đan bỗng nhiên quay đầu nhìn cô, “Còn nhớ những điều ta nói với cô ở Tấn Trung không? Làm người chẳng thể nhìn mãi về quá khứ.”
“Nhìn về con đường phía trước còn rất nhiều phong cảnh mỹ lệ.”
Lưu Sơ chợt cảnh giác, nhìn hắn vẻ đề phòng, nhẫn nại nói: “Rốt cuộc ngươi muốn nói điều gì?”
“Không có gì.” Kim Nhật Đan bỗng nhiên lại cười ha hả, “Chỉ muốn để cho Công chúa đừng như một đứa trẻ, mãi không thể xa rời phụ thân, mẫu thân và ca ca?”
“Kim Nhật Đan!” Lưu Sơ nghiến răng nghiến lợi, lại nghe Kim Nhật Đan nói tiếp, “Thật không ngờ, lúc Công chúa Duyệt Trữ nổi giận lại là lúc có sức sống nhất, xinh đẹp mê người.”
Cô hơi sửng sốt. Kim Nhật Đan quay sang chỗ khác, nhớ lại, “Lúc phụ thân ta còn sống, ta ở trong bộ lạc Hưu Đồ đã được nghe tên của cô, người biết chuyện nhà Hán kể rằng hoàng đế nhà Hán sinh được bốn người con trai, sáu người con gái.”
Sau đó thì hắn chỉ chú ý tới tên hiệu của các hoàng tử, còn về phần những công chúa đẹp như hoa như gấm thì chỉ nghe qua loa về danh hiệu và biết người được hoàng đế nhà Hán sủng ái nhất là Công chúa Duyệt Trữ.
Duyệt Trữ! Duyệt Trữ! Cái tên này quả nhiên rất đẹp, không giống như danh hào của các công chúa khác. Khi đó hắn còn chưa biết rằng cái tên này sau đó chiếm một vị trí quan trọng như thế nào trong cuộc đời mình. Biến cố Hà Tây xảy ra, phụ thân hắn bị Lâu Phiền vương gϊếŧ chết. Hắn và mẫu thân, đệ đệ đều bị bắt vào cung nhà Hán làm nô ɭệ. Số phận chỉ qua một đêm đã đổi khác, nếu nói là hận thì hắn càng hận đám người cùng tộc đã tàn hại lẫn nhau. Thời gian ở trong cung nhà Hán, hắn đã nghe được rất nhiều chuyện, bao gồm từ chuyện thiên tử nhà Hán dốc sức vì nước, thấy Trần nương nương từng bị phế hậu lại được sủng hạnh, thiếu niên anh hùng Quan Quân hầu Hoắc Khứ Bệnh, cho tới đôi huynh muội lưu lạc bên ngoài thời niên thiếu rồi cuối cùng trở về với hoàng gia. Hắn đã được gặp Hoắc Khứ Bệnh. Đó đúng là một hán tử thật sự, có tính cách hào hùng, dũng mãnh, không giống đám binh sĩ nhà Hán mà ngược lại giống những người thảo nguyên lớn lên trên lưng ngựa hơn. Người đời thường nói Hoắc Khứ Bệnh chết đi vào những năm tháng anh hùng nhất của đời mình và người con gái trong lòng hắn chính là Công chúa Duyệt Trữ Lưu Sơ mà bệ hạ sủng ái nhất.
Chuyện tình này thật sự đáng để ngẫm nghĩ. Lúc đó hắn đang ở vị trí hèn mọn nhất trong cung nhà Hán mấy năm, dần hiểu được sự tranh đấu khốc liệt trong chốn phồn hoa đẹp đẽ nhất của thế gian này. Hai người rõ ràng thuộc về hai gia tộc của hai hậu – phi tranh đấu một mất một còn mà tại sao lại có thể có tình cảm như vậy chứ?”
Hắn không đoán được sự sâu xa trong đó, cũng không muốn tốn quá nhiều thời gian vào những chuyện tiểu tiết như vậy. Hắn cũng có dã tâm của mình, không cam lòng cả đời ở mãi vị trí hèn mọn, cho dù bản thân mình đang ở nước khác cũng phải tìm ra được một con đường riêng. Sau khi mẫu thân hắn lâm bệnh qua đời trong cung nhà Hán, hắn hao tổn hết tâm tư, cuối cùng cũng thoát được ra ngoài cung Hán.
Trên đường đi sứ Thân Độc, hắn tình cờ được gặp Hoàng tử trưởng Lưu Mạch, đó quả thật là chuyện bất ngờ nhất trong cuộc đời hắn. Thời niên thiếu, vị tiên sinh biết chuyện nhà Hán đã kể với hắn rằng hoàng đế nhà Hán sinh hạ được bốn người con trai, tài năng nhất chắc chỉ có Hoàng tử trưởng Lưu Mạch và người về sau trở thành Tề vương Lưu Cứ. Hắn đã từng nhìn thấy Lưu Mạch ở trong cung, người thiếu niên này nhỏ hơn hắn hai tuổi, là con trai trưởng của hoàng đế trị vì đế quốc mạnh nhất thế gian, rất được coi trọng. Bản thân Lưu Mạch cũng không phụ sự coi trọng này, ẩn dưới khuôn mặt ôn hòa là tâm trí nhạy cảm kiên nghị. Song Lưu Mạch lại lựa chọn mai danh ẩn tích đi sứ vào thời điểm có khả năng nhất để thừa kế vị trí thái tử Đại Hán. Quyết định hoang đường như vậy khiến ngay cả một kẻ “man di” của nước khác như hắn vừa nghe thấy cũng phải há mồm trợn mắt nghĩ rằng Lưu Mạch quả thực là điên rồ. Nhưng sao khi thực sự quen biết cậu thì hắn mới hiểu rằng dưới bề ngoài ôn hòa chững chạc thì người thiếu niên này vẫn là một người trẻ tuổi, vẫn có khát vọng như những thiếu niên cùng trang lứa khác là được đi qua hết thảy núi sông trong thiên hạ. Cho dù cung Vị Ương có lộng lẫy phồn hoa, vị trí đó có tối cao cũng không thể che khuất được khát vọng đó.
Trên đời có rất nhiều người ấp ủ khát vọng nhưng lại rất ít người chịu nỗ lực biến những khát vọng đó thành hiện thực. Hai người bọn họ vừa khéo lại ở trong số ít đó. Sau khi thực sự hiểu Lưu Mạch, hắn đã nghĩ rằng người thiếu niên này ngày sau sẽ là một hoàng đế Đại Hán rất tốt. Lưu Mạch bản chất là một người cực kỳ vô tình. Hắn không hề nghi ngờ nếu có một ngày mình cản đường Lưu Mạch thì đối phương sẽ không mảy may niệm tình đồng trang lứa mà cứ thế lạnh lùng gϊếŧ hắn. Chỉ có mẫu thân và muội muội mới có thể làm nhạt đi tính vô tình của Lưu Mạch. Lưu Mạch nói rằng mẫu thân của mình là người phụ nữ tốt nhất thiên hạ. Lúc nghe Lưu Mạch nói vậy, hắn còn bật cười. Hắn luôn nghĩ rằng chắc là Lưu Mạch rất yêu, rất yêu mẫu thân của mình nên mới thấy phụ nữ trong khắp thiên hạ đều kém hơn. Song Trần A Kiều tốt hay không tốt đều là chuyện của hoàng đế nhà Hán, không can hệ tới hắn.
Tại chợ của người Thân Độc, Lưu Mạch có mua một thanh dao găm cong cong. “Đây là thứ mà ta định tặng cho muội muội”, Lưu Mạch mỉm cười nói, trong niềm vui toát ra tình yêu thương kín đáo, “Tảo Tảo sẽ thích.” Hắn sửng sốt hồi lâu mới liên hệ được cái tên này với Công chúa Duyệt Trữ được sủng ái.
Mãi sau này, hắn nghe nói rằng cái tên Tảo Tảo là ngày xưa Trần nương nương đã đặt, lấy ý tứ trong câu thơ “Đời người nếu mãi như vừa gặp.” Ngay đến một người Hung Nô không hiểu thơ phú là hắn đây cũng thích nghe câu thơ đẹp đẽ như vậy.
Lần đầu tiên hắn gặp cô là ngày sứ đoàn từ Thân Độc trở về Trường An. Thiếu nữ vừa chớm tròn mười bốn nâng váy vui mừng chạy ào tới chỗ ca ca của mình trông thật duyên dáng. Trong ký ức của mình, hắn chưa từng thấy một thiếu nữ nào đẹp bằng một nửa cô. Chỉ tiếc là cô quá mảnh mai. Nghe nói, thân thể Công chúa Duyệt Trữ từ nhỏ đã yếu ớt. Trên đời này vốn không có chuyện hoàn mỹ, cô được sủng ái nhiều như vậy nên ông trời phải lấy đi chút gì đó cho công bằng. Hắn cũng dần hiểu được tại sao có nhiều người bất phàm lại không ngăn nổi lòng sủng ái đối với cô bé này. Tính cách của Duyệt Trữ công chúa Lưu Sơ thông minh mà không hấp tấp, được sủng ái nhưng không kiêu ngạo. Nếu ai coi trọng cô thì chắc chắn cô sẽ đối xử lại với người ấy như thế. Trong suốt quá trình trưởng thành, cô đã được quá nhiều người che mưa che gió, bảo hộ cho mình. Bản thân hắn cũng muốn trở thành một người như vậy.
Lưu Sơ hơi lúng túng, “Ngươi ở cung Vị Ương đã mấy năm nhưng sao ta chưa từng thấy bao giờ?”
“Công chúa là cành vàng lá ngọc”, hắn mỉm cười nói, “Tất nhiên không để ý tới một cung nhân thấp hèn.”
Một con thỏ trắng như tuyết bỗng nhiên nhảy ra khỏi ổ trong vùng đất khô vàng, xù lông dõi cặp mắt đen nhánh cảnh giác nhìn hai người, con ngươi xoe tròn trông rất linh động. Lưu Sơ hoan hỉ kêu lớn, “Con thỏ kìa!” Con thỏ kinh hoảng, lập tức chạy xa hơn nhưng vì chưa bao giờ trông thấy con người nên lại tiếp tục cảnh giác quan sát.
“Công chúa thích sao?” Kim Nhật Đan khẽ mỉm cười, quay lại chỗ con ngựa lấy cung, lắp tên định bắn. Lưu Sơ hoảng hồn, vội hỏi, “Ngươi làm gì vậy?” Cô nhào tới đẩy một cái, dù không mạnh nhưng vẫn có thể làm ảnh hưởng tới sự chính xác của Kim Nhật Đan. Mũi tên bắn ra cắm trước người con thỏ chừng một tầm tên khiến nó hoảng sợ chạy biến đi như một làn khói.
“Duyệt Trữ”, Kim Nhật Đan bất đắc dĩ nói, “Cô làm gì vậy?”
“Ngươi mới làm gì đấy?” Lưu Sơ ngẩng đầu lên, không chú ý tới Kim Nhật Đan đã thay đổi cách xưng hô. “Ta chỉ thích con thỏ nhảy nhót, nếu nó chết rồi thì còn thích nó làm gì?”
Hắn im bặt, lúc này mới nhớ lại chuyện Lưu Mạch đã từng đề cập tới, rằng muội muội này của hắn rất không thích gϊếŧ chóc.
“Dù sao cũng phải bắn.” Hắn nói khẽ, quay lại buộc cung tên vào yên ngựa. Người Hung Nô giỏi săn thú nhưng không giỏi bắt sống một con thỏ vẫn còn nhảy nhót để lấy lòng người yêu. Sinh mạng của một con thỏ quá yếu ớt khiến hắn có bắn hạ nó cũng cảm thấy rất ấm ức. Nếu bảo phải ôm một con thỏ còn sống trên tay thì hắn sợ rằng mình sẽ quá tay bóp chết nó.
“Cái gì gọi là nhất định phải bắn?” Lưu Sơ nghe mà không hiểu.
“Người Hung Nô từ xưa có một tập tục là tự tay lột da con thú mình săn được để tặng cho người trong trái tim mình. Trước khi tới đất Hán, ta đã đánh mất bộ da con thú săn được ở Hung Nô nên dù gì cũng phải săn lại.”
Gương mặt Lưu Sơ dưới ánh nắng mùa thu ửng hồng. Hắn nhìn đến mê muội, nghĩ bản thân mình chỉ là một người dị tộc thì có được mấy phần cơ hội lấy được viên ngọc minh châu được sủng ái nhất trong lòng bệ hạ? Vì hai huynh muội này, hắn nguyện ý từ bỏ thân phận người Hung Nô của mình, coi bản thân như một người Hán, tôn thiên tử Đại Hán là bệ hạ của mình.
“Cứ cách mấy năm là phụ hoàng của ta lại đến Thượng Lân Uyển săn thú.” Lưu Sơ kể, “Trong Thượng Lâm Uyển có cả sư tử và báo, nếu ngươi được đi theo thì biết đâu có thể săn được.”
“Vậy à?” Kim Nhật Đan cười dài, “Duyệt Trữ thích nhất loài gì?”
“Ta ư?” Lưu Sơ suy nghĩ một chút, nói: “Ta cũng giống mẫu thân, thích nhất là cáo tuyết.”
“Cáo tuyết?” Kim Nhật Đan nhíu mày, “Loài này rất hiếm thấy. Ta ở Hung Nô nhiều năm nhưng chưa từng thấy bao giờ. Nghe nói chỉ riêng vùng Đường Cổ Lạp Sơn quanh năm tuyết phủ mới có. Tại sao cô thích nó?”
“Bởi vì nó rất đẹp.” Lưu Sơ cười nói, “Khi còn bé, Quách sư thúc bế ta đứng ở xa nhìn thấy một con, màu sắc trắng như tuyết, cặp mắt cực kỳ linh hoạt cứ như là biết nói chuyện. Chỉ tiếc”, cô siết chặt nắm tay nói: “nó ở quá xa, chúng ta vừa cử động thì nó đã bỏ chạy mất tăm rồi.”
“Ngươi đừng mơ tưởng nữa.” Lưu Sơ cười khanh khách, “Phụ hoàng ta sai người tìm kiếm bao năm vẫn chưa từng thấy một con.”
‘Chẳng qua…”, cô suy nghĩ một chút, lại cắn môi, nói: “Nếu ngươi thật có săn được hổ hay báo gì đó thì đừng làm hỏng bộ da mà cứ đưa đến phường may Tạp Môn, báo danh hiệu của ta là Hạ a di sẽ biết nên làm như thế nào.”
Vào cuối năm Nguyên Đỉnh thứ sáu, Lưu Triệt tuyên Kim Nhật Đan vào cung Kiến Chương gặp mặt. Lúc đó, khí trời thành Trường An đã tương đối lạnh. Kim Nhật Đan quỳ hồi lâu trên mặt tuyết mới nghe thấy Hoàng đế thủng thẳng nói, “Nghe nói gần đây ngươi và Công chúa Duyệt Trữ lui tới rất thân thiết.”
“Đúng vậy.” Cho dù là đối mặt với bậc đế vương có uy quyền nhất trên thế gian, Kim Nhật Đan vẫn không hề sợ hãi, ‘Vi thần thích Công chúa, dĩ nhiên hy vọng có thể tiếp cận gần hơn với nàng.”
“Thật to gan.” Nét mặt Lưu Triệt nhìn không ra vui hay giận, “Công chúa Duyệt Trữ là viên ngọc minh châu mà trẫm và Hoàng hậu nâng niu, một kẻ hàng thần Hung Nô như ngươi có tư cách gì dám nói loạn là thích Công chúa chứ?”
“Vi thần tự biết thân phận thấp kém, ngay cả không phải là người Hung Nô thì cũng không xứng với Công chúa.” Kim Nhật Đan hiên ngang nói: “Vi thần chỉ thích Công chúa mà thôi. Bệ hạ trị vì bốn biển, trong đó cũng có con dân Hung Nô. Bệ hạ muốn giáo hóa để dân chúng thuận theo nhưng lại không xem trọng bọn họ thì làm sao khiến bọn họ phục tùng bệ hạ?”
“Mồm miệng thật sắc sảo.” Lưu Triệt cười lạnh một tiếng, từ trên cao nhìn xuống, “Không trách Hoàng hậu và Thái tử đều nói giúp cho ngươi.”
Lời nói của bậc đế vương khiến Kim Nhật Đan giật mình, song hắn còn chưa kịp nghĩ được gì thì Lưu Triệt đã thong thả bước đến bên cạnh hắn. “Ngươi nghe đây”, y nghiêm nghị nói, “Con gái của trẫm không phải dễ lấy như vậy. Nể mặt Hoàng hậu, trẫm cho ngươi một cơ hội. Trẫm cho ngươi ba năm, trong ba năm này ngươi phải gắng sức làm việc cho triều đình để trẫm nhìn xem rốt cuộc ngươi có tư cách mang Duyệt Trữ của trẫm đi được hay không. Còn nếu ngươi khiến cho trẫm có nửa phần không hài lòng…”
Y lãnh đạm nói, “Trẫm sẽ lập tức chọn một người trong đám con cháu tôn thất và cho Duyệt Trữ xuất giá.”
Yêu cầu của Hoàng đế rất khó nhưng đây là hy vọng duy nhất. Kim Nhật Đan vui mừng khấu đầu, “Thần tạ ân điển của bệ hạ!”
Lưu Triệt lạnh lùng nhìn Kim Nhật Đan lui ra rồi quay đầu lại hỏi: “Như thế Kiều Kiều đã hài lòng chưa?”
Trần A Kiều cầm một chiếc lò sưởi nhỏ từ sau đình bước ra, nhướng mày nói: “Tại sao lại là thϊếp hài lòng? Chẳng phải Tảo Tảo cũng là con gái của bệ hạ sao?”
“Hay là bệ hạ còn có ý khác?”
Lưu Triệt hừ lạnh một tiếng, nắm tay A Kiều, chau mày nói,”Nơi này gió lớn quá. Chúng ta nên trở về điện Trường Môn thôi.”
A Kiều cười duyên dáng, vẻ mặt dịu xuống, nhẹ nhàng đáp, “Cũng được.”
Y cho Kim Nhật Đan cơ hội lần này dĩ nhiên là vì A Kiều giữ vẻ lạnh lùng liên tiếp mấy ngày liền khiến y phát mệt mỏi, không thể không làm theo ý nàng. Ngay cả chuyện khác đi, y nghĩ, nếu Duyệt Trữ kiên quyết thì cuối cùng y cũng đồng ý, bởi vì y không nỡ để Duyệt Trữ phải buồn.
Duyệt Trữ ở trong lòng y chính là một A Kiều chưa từng bị thương tổn. Y từng đích thân gây thương tổn cho A Kiều nên hy vọng Duyệt Trữ không phải đi qua con đường này. Y che chở cho Duyệt Trữ cũng tựa như năm đó che chở cho A Kiều, thế nên y căn bản không thể nào lại chính tay gây tổn thương cho Duyệt Trữ một lần nữa. Chỉ là nỗi lòng kín đáo này lại ẩn sâu dưới lớp tuyết rơi dày ở cung Kiến Chương, chẳng bao giờ thấy tung tích.Quyển 4 - Chương 92: Vợ chồng kết tóc chớ hồ nghiSau buổi trưa ngày cuối cùng của năm Nguyên Đỉnh, tuyết đầu mùa rơi lất phất nhưng chỉ lát sau đã đổ xuống trắng trời. Từ trong cung Kiến Chương nhìn ra ngoài, khắp nơi chỉ là một màu trắng xóa. Song tuyết rơi có lớn hơn nữa cũng không ngăn được không khí lễ hội mừng năm mới. Cung nhân cung Kiến Chương từ trên xuống dưới đã trang trí cung điện rực rỡ hẳn lên như mới, treo những đèn l*иg đỏ thắm trên hành lang khiến cho đêm đông lạnh lùng vắng lặng trở nên ấm áp hơn. Lưu Triệt nghĩ đến thân thể yếu ớt của A Kiều, không muốn nàng phải đi xa nên quyết định tổ chức gia yến ở Phi Tuyết các trong cung Kiến Chương.
Khi trời sẩm tối, Trần A Kiều bước lên long xa, ra lệnh, “Đi đến Phi Tuyết các.”
Nàng ngồi ở trên long xa vẫn nghe thấy tiếng gió Bắc thổi soàn soạt hất tung tấm rèm xe, nhìn thấy những bông tuyết rơi xuống thành từng dải trông giống như cành liễu đung đưa trước gió. Nàng không nhịn được thò tay ra đón lấy một bông, cảm giác trên tay hơi lạnh, nhìn xuống thấy bông tuyết đã nhanh chóng tan đi, chỉ để lại một vệt nước đọng.
Nàng chợt nhớ lại chuyện năm xưa đã rút một quẻ thẻ ở chùa Viên Giác, trên đó có đề một bài thơ thất ngôn:
“Cháu con Cao Tổ thuộc chi đầu,
Tâm hồn đạm bạc lòng thanh cao.
Kiến Chương trùng điệp ba nghìn dặm,
Đãi sạch cát đi thấy được vàng.”
“Đãi sạch cát đi thấy được vàng.”
“Đãi sạch cát đi thấy được vàng.”
Đến giờ thì nàng đã hiểu được ý tứ của ba câu đầu nhưng suy nghĩ mãi vẫn không ra câu cuối cùng này. Nàng vẫn có cảm giác rằng một khi hiểu thấu đáo được nó thì tất cả sẽ đi đến điểm cuối cùng, có một kết cục tốt đẹp.
Năm Nguyên Quang thứ năm, Trần A Kiều bị phế.
Năm Nguyên Quang thứ sáu, nàng sinh được Mạch Nhi và Tảo Tảo.
Năm Nguyên Sóc thứ sáu, Lưu Triệt biết được sự tồn tại của nàng, cuối năm đó, nàng trở về cung Hán.
Cho tới bây giờ thì những năm Nguyên Đỉnh cũng sắp kết thúc. Bấm tay khẽ đếm, bao nhiêu năm đã êm đềm trôi qua. Bọn họ được số phận đưa đẩy quấn quít lấy nhau, cùng nhau trải qua suốt bấy nhiêu năm, cũng chẳng còn trẻ nữa. Nếu bảo “Dùng hết cát xong mới đến tiền” thì rốt cục là nhằm nói đến một kết cục như thế nào?
Năm Nguyên Đỉnh thứ sáu là một năm đầy biến động dữ dội, bình định Tây Nam, điều binh trấn áp quân phản loạn. Những hành động này vừa đồng thời mở rộng biên giới vừa nâng cao vị thế đất nước khiến bậc đế vương ở điện Tuyên Thất bừng bừng chí khí, văn thành võ đức đều đạt tới đỉnh cao không ai sánh bằng. Còn đối với nàng thì năm Nguyên Đỉnh thứ sáu cũng được coi là năm tốt.
Từ rất xa, nàng nhìn thấy Phi Tuyết các đèn đuốc sáng trưng, trang hoàng ấm áp như cả điện đã vào xuân. Lưu Sơ đứng trên hành lang, gọi to, “Mẫu thân.” Sắc mặt cô rạng ngời, mặc bộ áo gấm lót lông cừu trắng tinh như hòa tan trong tuyết ở bên ngoài điện, mái tóc buông xõa lên đôi gò má đỏ hồng đẹp như ngọc.
“Khoan đã.” Nàng mỉm cười bước xuống xe, cầm tay Lưu Sơ mà hỏi, “Tảo Tảo có lạnh không?”
“Không lạnh.” Lưu Sơ cười khúc khích, tay cô quả nhiên ấm áp. “Mẫu thân hôm nay thật xinh đẹp, phụ hoàng trông thấy nhất định là thích lắm.” Cô thỏa mãn thở phào một hơi, nũng nịu dựa vào người A Kiều, “Thoạt nhìn thì mẫu thân còn rất trẻ, người không biết mà trông thấy thì nhất định sẽ không cho rằng chúng ta là hai mẹ con mà ngược lại cho là hai chị em đấy.”
“Dẻo miệng.” Nàng không nhịn được, cười phá lên, gõ gõ vào trán Lưu Sơ, chế giễu, “Con thỏa mãn rồi chứ? Đúng là nhà ta có con gái sắp trưởng thành mà.” Hình ảnh cô bé ở Đường Cổ Lạp Sơn ngây thơ ngước mắt gọi mẫu thân còn rõ mồn một trước mắt, thế mà chỉ thoáng qua đã đến tuổi có thể lập gia đình.
“Mẫu thân.” Lưu Sơ tức thì mặt đỏ ửng, yêu kiều nói: “Còn ba năm nữa, ai biết sẽ thay đổi thế nào?” Ánh mắt cô lấp lánh, nói: “Phụ hoàng lần này hiểu rất rõ lòng con. Con lại có thể từ chối để được ở bên cạnh mẫu thân thêm ba năm nữa, thật là hay biết mấy.”
“Lại từ chối nữa sẽ thành lão cô nương đấy.” Nàng mắng yêu, ngẩng đầu lên thì liền trông thấy long xa ngự giá đang đi đến từ hướng điện Tuyên Thất. Trên long xa chính là người mà nàng đã chung sống suốt nửa cuộc đời. Nàng từng cho rằng tên của y đối với nàng cũng giống như tên tuổi của biết bao danh nhân trong lịch sử, chỉ là một dãy ký tự lạnh băng trên giấy, thế nhưng số mệnh đùa cợt đã bất đắc dĩ hợp nhất cả hai làm một. Để đến nỗi bây giờ dù nhắm mắt, nàng vẫn có thể hình dung ra từng nét nhỏ nhất trên khuôn mặt y, quen thuộc với hơi thở của y như những đường chỉ trong lòng bàn tay.
Số mệnh thật kỳ diệu. Nàng bị nhấn chìm trong vòng xoáy số mệnh xoay vần nhưng đến cuối cùng đành chịu tin rằng có nhiều việc sẽ trở nên nhạt nhòa quên lãng theo dòng thời gian trôi qua. Phảng phất như một người đi trên con đường cái lớn bỗng nhiên ngoặt vào một ngã rẽ, đi trên ngã rẽ này hồi lâu thì dần dần quên mất con đường đang đi dưới chân bây giờ vốn không phải là con đường lúc ban đầu.
Long xa đi trên mặt đất phủ tuyết làm vang lên những tiếng lạo xạo, để lại hai đường rãnh thật sâu, dừng lại ở trước Phi Tuyết các. Cung nhân đi theo xe vén rèm lên cho Lưu Triệt mặc bộ y phục bằng gấm đen bước xuống. Y trông thấy nàng đứng ở hành lang thì ánh mắt dịu đi, hàm chứa vẻ ấm áp. Dường như y nhớ lại rất nhiều chuyện, từ rất nhiều năm trước đây. Khi đó hai người còn là đôi vợ chồng trẻ, mỗi lần y từ Tuyên Thất trở về Tiêu Phòng, nàng đều ra đứng trước điện chờ đón, lòng ngập tràn vui sướиɠ. Khi đó y luôn tỏ vẻ bất đắc dĩ, “Kiều Kiều, nàng không phải luôn ra đón thế này.”
“Thϊếp biết rồi.” Khi đó nàng cười thật thoải mái. “Thϊếp chỉ muốn được gặp chàng sớm hơn một chút.”
“Kiều Kiều”, Lưu Triệt mỉm cười bước tới, kéo tay nàng với vẻ rất tự nhiên mà nói: “Vào nhà đi thôi.”
“Được rồi.” Nàng cúi đầu, đáp khẽ, liếc thấy hình như con gái đang che miệng cười. Lúc bắt đầu, bên cạnh nàng là y. Đến cuối cùng thì bên cạnh nàng cũng vẫn là y.
Đây là lần đầu tiên kể từ khi Trần hoàng hậu phục vị, Hoàng đế và Hoàng hậu chính thức cùng nhau xuất hiện tham dự gia yến của hoàng cung. Những ngọn nến đỏ to bằng cổ tay được xếp thành hai hàng khiến Phi Tuyết các cũng nhuộm một sắc đỏ hồng nhạt tràn ngập ý mừng vui, rực rỡ như ban ngày. Mọi người trong điện đều quỳ bái, cung kính nói, “Tham kiến Hoàng thượng, Hoàng hậu nương nương.”
“Tất cả đứng lên đi.” Lưu Triệt dường như đang vui, ôn hòa nói.
A Kiều theo y bước lên ngồi lên trên ghế chủ tọa, từ trên cao nhìn xuống các phi tần và con cái Hoàng đế đang ngồi bên dưới mà khẽ thở dài, uống cạn chén rượu nhỏ. Hết năm này qua năm khác, Trần hoàng hậu độc chiếm ân sủng khiến hậu cung trở nên điêu linh. Sau khi Doãn Giai La vào Dịch đình, Vương Thẩm Hinh, Vệ Tử Phu, Lý Chỉ lần lượt chết đi, trong số các phi tần chỉ có mỗi mình Hình Nhược là nàng còn quen mặt. Nhưng nét mặt Hình Nhược cũng đã trở nên ảm đạm, quá đau buồn nên già đi rất nhiều. Ngoài việc không được vua ân sủng, đứa con nuôi Lưu Hoành cuối cùng cũng có kết quả thê lương. Thâm cung tịch mịch, sống với nhau lâu thì dù là con không do mình sinh ra cũng vẫn có thể phát sinh tình cảm, huống chi Lưu Hoành xưa nay luôn biểu hiện vui vẻ lại chịu hẩm hiu cũng là một đả kích khá lớn.
Cung nữ mang Bích Nhưỡng Xuân lên cung kính châm rượu cho nàng. “Mẫu thân.” Lưu Mạch dẫn Thượng Quan Linh tiến lên bái chào, tươi cười nói. “Nhi tử kính chúc mẫu thân năm mới an khang, phúc thọ an khang.”
“Hay lắm.” Nàng cũng mỉm cười đáp lời, uống cạn chén rượu nhỏ.
Lưu Triệt nhìn sang, nhíu mày nói: “Kiều Kiều không nên uống quá nhiều. Uống rượu nhiều sẽ làm tổn hại sức khỏe.”
“Thϊếp đang vui mà.” Nàng xoay đầu lại, cười khúc khích, men rượu dâng trào khiến hai gò má thoáng đỏ hồng lên, đôi mắt lấp lánh như ánh sao. “Sắp sang năm mới rồi, bệ hạ không thấy vui sao?” Suốt bao năm qua nàng chưa bao giờ có nét mặt thanh thoát vui vẻ như vậy. Y không nói gì thêm nữa.
Nhạc công nắn phím tấu lên những cung đàn sâu lắng. Mặc dù Tư Mã Tương Như và Lý Diên Niên lần lượt rời đi được mấy năm rồi nhưng Nhạc phủ vẫn tiếp tục vận hành, sưu tập được không ít ca dao dân ca và sáng tác những ca khúc mới. Phong cách ca vũ nhạc cung đình cũng được thay đổi làm nổi bật vẻ thanh tân dễ thương nhưng dù ca vũ có hay đến đâu chăng nữa thì xem mãi cũng trở nên tẻ nhạt. Yến hội hoàng gia tuy là gia yến nhưng nào có ai dám thật sự cởi mở tâm hồn? Dạ yến tiến hành đến gần khuya thì Lưu Triệt cũng cảm thấy nhàm chán, nói: “Tất cả giải tán thôi.” Y xoay người nhìn lại, thấy A Kiều đã có vẻ ngà ngà say liền bật cười, bảo, “Hoàng hậu và trẫm sẽ cùng nhau đi xe trở về, các ngươi cũng tự mình về đi.” Lục Y không dám nói gì, chỉ khuỵu gối chào rồi lặng lẽ lui ra.
Nàng như say mà không say, bước lên ngự xa, vén rèm nhìn ra ngoài, bỗng nhiên thốt lên, “Tuyết ngừng rơi rồi.” Đúng là tuyết đã ngừng rơi khi dạ yến đang diễn ra.
Y nghe thấy tiếng thở dài than tiếc hận của nàng, từ đằng sau ôm nàng vào lòng, “Kiều Kiều thích tuyết lắm sao?”
Vòng eo nàng nhỏ như chưa đầy một chét tay. Y đã từng vui thích khi được ôm vòng eo thon thả này, nhưng tới bây giờ thì lại mơ hồ lo lắng thế này có phải là sức khỏe không tốt hay không. Nàng nghiêng đầu suy tư, mấy sợi tóc đen xòa lên mặt y thật mềm mại đáng yêu. Nàng bảo: “Thϊếp chỉ thích tiết trời không lạnh.”
Nàng yêu thích những bông tuyết trong suốt lóng lánh nhưng lại sợ cái lạnh thấu xương của nó nên không dám tới gần. Cảm giác say sưa làm tan đi những lãnh đạm thường này của nàng, làm nàng dần dần buông lơi tính cách nghiêm nghị, hơi có chút phóng túng. Lưu Triệt nhìn đến say mê, thầm nghĩ rằng nếu thế này thì thi thoảng say rượu một chút cũng không có gì xấu.
Điện Trường Môn êm đềm ấm áp, bài trí xa hoa hơn cả điện Tiêu phòng năm xưa, vừa vén rèm lên liền cảm thấy một luồng hơi ấm phả vào mặt. Năm trước, Gián đại phu đã kiện lên rằng Đại tư nông Tang Hoằng Dương quản lý tài chính của Đại Hán nhưng bản thân mình lại kinh doanh kiếm lời vào túi riêng, thu nhập hàng năm hơn mười vạn. Lưu Triệt chỉ cười xòa bỏ qua. Y biết rõ tiền tài trong tay Tang Hoằng Dương sẽ đi đến nơi nào. Tất cả cũng chỉ dồn vào cho điện Trường Môn, phủ Công chúa trưởng, Liễu Duệ và chính bản thân y mà thôi. Tang Hoằng Dương hết lòng tin tưởng rằng tiền tài sống không tiêu được thì chết cũng không thể mang đi, sống ngày nào biết ngày ấy nên hễ có một quan tiền dư mà không tiêu sài hết được thì không cam lòng. Nhưng hắn thì chỉ cam tâm tình nguyện tiêu xài cho người nhà, ngoài ra chỉ có Liễu Duệ, A Kiều, và Lưu Lăng.
Cho tới bây giờ y chẳng buồn tính xem có bao nhiêu thứ trong số những kỳ trân dị bảo vô cùng đẹp mắt ở trong điện Trường Môn là do y ban thưởng, bao nhiêu thứ là do Tang Hoằng Dương đưa tới. Có điều y là đế vương, tuy không cần vui mừng thừa nhận ân tình nhưng cũng không phải hoài nghi cách chức Tang Hoằng Dương vì những hành động như vậy. A Kiều là người con gái xứng đáng được hưởng cung vàng gác tía. Cho nên nếu người kia không thể hậu đãi nàng thì hắn sẽ xây lầu vàng cho nàng. Đó chính là tâm tư của Tang Hoằng Dương mà Lưu Triệt không biết được.
Tấm thảm nhung dày trải dài dưới ánh nến chan hòa tạo nên không khí ấm áp vui vẻ. A Kiều bước đi trên đó, lòng cảm thấy thư thái, cởi bỏ mũ miện hoàng hậu cho tóc buông xõa ra, rửa mặt, thay y phục bình thường rồi soi gương chải tóc. Trong gương hiện lên một khuôn mặt xinh đẹp chẳng thua kém thời còn trẻ là bao. Nàng kinh ngạc ngắm nhìn rồi chợt nói, “Triệt Nhi, nếu có một ngày thϊếp già và xấu đi thì chàng còn tìm đến Trường Môn nữa không?”
Lưu Triệt kinh ngạc, phất tay bảo cung nhân lui ra rồi hỏi, “Tại sao Kiều Kiều lại đột nhiên hỏi như thế?”
Hồng nhan dù có xinh đẹp như thế nào thì cuối cùng vẫn có một ngày sẽ trở thành nắm xương tàn, có phá trời vỡ đất cũng không tìm về được nữa. Nếu y vẫn đối xử lạnh lùng với nàng, quay lưng bỏ đi thì nàng sẽ không thèm nhỏ dù là mọt giọt nước mắt. Nhưng nếu đã trải qua nhiều năm tình nồng thắm thiết như vậy mà vẫn có kết cục đó thì nàng không thể tin rằng mình sẽ không động lòng. Lưu Triệt mỉm cười, cúi đầu hôn lên mái tóc đen của nàng, “Kiều Kiều đẹp như thế này, chỉ sợ ngay cả khi trẫm đã già rồi thì Kiều Kiều vẫn chưa già.”
Y bế nàng lên giường, “Tục ngữ có câu ‘vợ chồng kết tóc xe tơ’, nếu Kiều Kiều không tin vào tâm ý của trẫm thì trẫm xin kết tóc một lần với nàng vậy.”
Lời thề là cái gì đó không đáng tin nhất, nếu tâm hồn đã nhạt phai thì nó cũng tan tành theo mây khói. A Kiều thầm giễu cợt trong lòng, thuở còn niên thiếu thì hai người cũng từng là vợ chồng nhưng sau đó vẫn chia ly, vậy có thể thấy là điều đó hoàn toàn không có nghĩa lý gì. Nhưng nàng không muốn làm y cụt hứng nên liền lấy của mỗi người một đoạn tóc, nhẹ nhàng tết thành một búi. Đầu mày khóe mắt nàng đều hiện rõ ý cười làm mềm đi sự lạnh lùng tàn khốc của y, “Như thế này có được không?”
Nàng gật đầu, chăm chú ngắm nhìn, bỗng nhiên có tâm trạng tựa như bị nước lạnh như băng tuyết tràn qua, lạnh đến cực điểm. Trong số tóc được tết lại thành búi kia rõ ràng có một sợi đã bạc trắng.
Lưu Triệt quyết định lấy chữ “Phong” đặt tên cho kỷ nguyên mới. Sang năm chính là năm Nguyên Phong đầu tiên. Những người thuộc thế hệ bọn họ đều đã dần dần già đi, đám trẻ thuộc thế hệ tiếp theo đang lớn lên với chí tiến thủ mạnh mẽ. Nhân dịp năm mới, Trần A Kiều đến chơi bốn phủ trong kinh thành, ngắm nhìn Trần Mạn, Tang Duẫn, Liễu Ninh đang lớn dần lên, chơi đùa với nhau, nụ cười trong sáng giống như những dòng suối mát. Mi Nhi nhỏ nhất cũng được ba tuổi, miệng bi ba bi bô nói còn chưa sõi nhưng quả nhiên luôn bám chặt lấy Liễu Ninh đúng như những điều đã thể hiện trong lần chọn đồ vật đoán tương lai năm xưa, khiến cho cha nó là Đông Phương Sóc tức uất. Sự giao hòa ấm áp này đã thể hiện rõ ý nghĩa của những nỗ lực trong bao năm qua của bọn họ, dường như tính thân mật đầm ấm được di truyền theo huyết thống rồi cứ mãi di truyền tiếp xuống.
Một hôm, Trần A Kiều tới chỗ Công chúa trưởng Phi Nguyệt để cùng Lưu Lăng ôn lại kỷ niệm xưa. Thị nữ cung kính vén rèm, cung kính chào đón, “Cung nghênh Hoàng hậu nương nương.” Lưu Lăng ở trong nhà, xoay người tươi cười nhìn sang, bên tay phải nàng có một thiếu nữ khoảng chừng mười ba mười bốn tuổi, xinh đẹp tuyệt trần, cúi đầu quỳ gối, bái chào theo đúng quy củ: “Tế Quân tham kiến Hoàng hậu nương nương.”
“Tế Quân đã lớn thế này rồi à.” Trần A Kiều không khỏi bất ngờ nhưng sau đó lập tức hiểu ra. Lưu Tế Quân vốn chỉ nhỏ hơn Lưu Sơ khoảng chừng hai, ba tuổi.
“Thưa vâng.” Lưu Tế Quân ngẩng đầu lên, dịu dàng đáp: “Hôm nay là ngày đầu năm mới, Tế Quân tới bái chào cô cô, may mắn gặp đúng dịp Hoàng hậu nương nương cũng tới.”
Chiếu theo vai vế của gia đình mình thì thực ra Lưu Tế Quân thấp hơn Lưu Lăng hai ngôi, nhưng sau được bái Lưu Thiên làm cha nuôi nên theo vai vế mới của Phủ Mạt Lăng hầu mà chuyển sang gọi Lưu Lăng là cô cô. Những năm qua, Trần A Kiều và Lưu Lăng đều rất yêu thích vị Tế Quân quận chúa thanh lịch đa tài, nghĩa khí hào hùng nhưng số phận truân chuyên trong lịch sử này nên luôn quan tâm chăm sóc cho cô. Tuy có những tính cách do chính con người tạo nên, nhưng Đan Dương hầu phu nhân nhiều năm sủng ái cũng không làm thay đổi được bản tính thanh lịch đa cảm của cô nên không đáng ngại nữa.
“Hoàng hậu nương nương đã tới, Tế Quân nghĩ rằng Hoàng hậu nương nương lâu rồi không gặp cô cô nên nhất định có nhiều chuyện muốn nói, Tế Quân xin cáo lui trước.”
Trần A Kiều gật đầu, nhìn thân hình mảnh mai của Lưu Tế Quân khuất dần sau tấm mành che, ngẫm nghĩ thấy như thế này cũng tốt. Nếu cưng chiều khiến cho Lưu Tế Quân trở nên kiêu căng ngạo mạn như mình năm xưa thì Lưu Tế Quân còn là Lưu Tế Quân nữa sao.
“Òa! A Kiều tỷ đang nghĩ gì thế?” Nàng đang lơ đãng thì Lưu Lăng đi tới phía sau, bất chợt ú òa khiến nàng giật nảy mình rồi mới cười hỏi.
A Kiều lườm Lưu Lăng một cái, lên tiếng trách: “Đã lớn cả rồi mà còn chơi trò này.”
“Tỷ đang suy nghĩ”, nàng cúi đầu, nói như có điều phải suy tư: “Lịch sử đã có những thay đổi, vậy thì Lưu Tế Quân có cần phải lặp lại cuộc đời vĩ đại nhưng tuyệt đối không có hạnh phúc của cô ấy nữa hay không?”
Dù bọn họ không dựa vào những kiến thức lịch sử của mình nhưng cũng đã vô tình làm thay đổi dòng lịch sử. Từ đó chính bọn họ đang bị lịch sử biến đổi đó làm cho mơ hồ, không thể nào dùng những kiến thức của mình để suy xét thế giới này được nữa. Rốt cuộc đây là loại nghịch lý gì?
Lưu Lăng thản nhiên nói, “Con cháu có phúc của con cháu, cứ để cho bọn chúng tự mình làm. Nhưng theo suy luận thì Tế Quân đã không còn là một nữ cô nhi không ai bảo trợ như trong lịch sử, tôn thất có biết bao con gái, bệ hạ chưa chắc đã chọn Tế Quân.”
“Cũng không đơn giản như vậy đâu.” Trần A Kiều cau mày nói, “Người được tuyển chọn để gánh vác nhiệm vụ kết hôn cầu hòa mà điêu ngoa tùy hứng, chẳng phân biệt được đúng sai, thì chẳng phải sẽ làm hỏng quan hệ ngoại giao giữa hai nước hay sao?”
“A Kiều.” Lưu Lăng cười khanh khách, “Có phải tỷ làm hoàng hậu quá lâu rồi nên đầu óc không còn sáng suốt nữa không vậy? Tỷ có nhớ mục đích Đại Hán kết hôn cầu hòa với Ô Tôn là gì hay không?”
Nàng suy nghĩ một lát rồi bật cười. Đại Hán kết hôn cầu hòa với Ô Tôn là để ước hẹn cùng nhau chống lại Hung Nô, bây giờ Hung Nô đã suy tàn, còn cần thiết có cuộc hôn nhân này nữa sao. Nàng bị lịch sử trong đầu trói buộc nên có suy nghĩ hồ đồ. Nàng lại chợt nảy ra một ý nghĩ, nếu lịch sử đã bị thay đổi toàn bộ từ thời điểm bọn họ đến đây thì có phải việc nàng dùng những ấn tượng trong lịch sử để suy xét những con người hiện thực bây giờ sẽ tạo ra sai lầm hay không? Đây không còn là một trang lịch sử lạnh lùng nữa. Hiện tại, những người ở bên cạnh nàng đều đang sống. Bọn họ biết khóc, biết cười, biết yêu, biết hận, ngay cả Tư Mã Thiên cũng bắt đầu viết “Sử ký” mới rồi, việc nàng vẫn cố chấp với lịch sử ghi trong trí nhớ liệu có còn phù hợp? Nàng có thể tin hoặc không tin, Lưu Triệt lạnh lẽo vô tình được nàng tới bên cũng dần hiểu được tình yêu chân thành, thật sự có lòng đồng hành với nàng đến già, cho dù năm tháng đổi thay cũng không phai nhạt.
Lưu Lăng nhìn thấy sắc mặt nàng liên tục biến hóa bèn tò mò hỏi, “Tỷ đang suy nghĩ gì thế?”
“Không có gì.” Nàng đáp khẽ.Quyển 4 - Chương 93: Ô Tôn sai sứ tới từ phía TâyLịch sử quả nhiên phát sinh biến hóa theo cách riêng của nó. Vào tháng Hai năm Nguyên Phong đầu tiên, nước Ô Tôn ngưỡng mộ uy thế của Đại Hán nên cử sứ thần tới Trường An muốn đặt quan hệ hôn nhân. Ô Tôn chính là một trong những quốc gia mạnh mẽ nhất ở vùng Tây Vực của Đại Hán. Quốc gia này sinh sống bằng phương thức du mục ở phía bắc dãy Thiên Sơn theo một dải từ bờ sông Hồ Nam cho tới lưu vực sông Liệt Hà, thủ đô là thành Xích Cốc nằm ở bờ sông Hồ Nam. Phía nam Ô Tôn giáp với các thành quách của các nước láng giềng nằm ở phía nam của dãy Thiên Sơn, phía Tây là Đại Uyển, Tây Bắc là Khang Cư, đông giáp với Xa Sư, vùng Đông Bắc tiếp giáp với Hung Nô. Vào năm Nguyên Thú thứ hai và năm thứ tư của cuộc chiến Mạc Nam Mạc Bắc giữa Đại Hán và Hung Nô, vì sự có mặt của Trường Tín hầu Liễu Duệ nên sự đả kích đối với Hung Nô ác liệt vượt xa những gì trong sách sử ghi lại. Lũng Tây, Mạc Nam, Hung Nô, đều bị tiêu diệt nên thế lực Ô Tôn thừa dịp phát triển, trở lại đất cũ Đôn Hoàng Kỳ Liên, dần giáp giới với Đại Hán. Từ năm Nguyên Thú thứ tư, dưới sự thống trị của Lưu Triệt và sự đồng tâm hiệp lực của A Kiều lẫn Tang Hoằng Dương, Đại Hán mở rộng biên giới ra ngoài, đời sống dân chúng trong nước cũng không thấy điêu linh, quốc lực cường thịnh áp chế các nước chung quanh. Trong hoàn cảnh đó, quốc vương Ô Tôn tự sai sứ tới Hán triều bái phỏng cũng là chuyện hợp lý.
Trong lịch sử nhà Hán, kết hôn cầu hòa là kế sách kém cỏi. Lưu Triệt vì tỷ tỷ của mình là Trưởng công chúa Nam Cung Lưu Đàm chịu khổ cả đời mà phản cảm với chuyện này. Hơn nữa, tính cách của y vốn trời sinh đã cao ngạo, cũng không muốn đem áp lực nặng nề của chuyện hưng thịnh, ổn định của quốc gia lên người một cô gái yếu ớt.
Vào năm Nguyên Đỉnh thứ hai, sứ giả Ô Tôn lần đầu tiên vào đất Hán đã bị lóa mắt bởi sự phồn hoa của kinh đô Trường An, sau khi về nước liền ra sức ca ngợi Đại Hán rộng lớn, giàu có và đông đúc. Vào năm Nguyên Phong đầu tiên, Ô Tôn Vương Côn Mạc chọn trong đám con cháu rồi phái cháu trai Quân Tu Mỹ dẫn theo cháu gái A Mạc Đề tới nhà Hán để hiến ngựa tốt của Ô Tôn và kết hôn cầu hòa. Lịch sử lại xoay vòng theo một phương thức kỳ diệu.
Lưu Triệt trọng thị sứ giả lần này của Ô Tôn, tiếp kiến ở điện Tuyên Thất. Tối đến trở về điện Trường Môn, Trần A Kiều hỏi Lưu Triệt, “Chuyện Ô Tôn kết hôn cầu hòa, bệ hạ có tính toán gì không. Dù thế nào thì cũng phải có một người chịu khổ sao?”
“Đại Hán có lợi trong việc bang giao hòa thuận với Ô Tôn nên không thể từ chối.” Lưu Triệt thở dài, “Chỉ là chọn người khá khó khăn.”
“Vậy à.” Trần A Kiều nhẹ nhàng, “Ô Tôn đưa thiếu nữ tới kết hôn cầu hòa nhưng cũng không thể khuất phục được thân phận cháu gái quốc vương của nàng ta. Khổ nỗi các hoàng tử của bệ hạ nếu không phải đã lập gia đình rồi thì còn chưa tới tuổi. Đứa duy nhất dường như có thể được thì lại bị người cầm cố trong Bắc cung.”
Lưu Triệt khẽ nhíu mày, nói: “Tuy là cháu gái của Ô Tôn vương, nhưng dù sao…”
Y còn chưa nói hết lời nhưng lòng A Kiều đã lạnh ngắt. Thân phận cơ bản nhất của Lưu Triệt vẫn như cũ là một vị đế vương. Y vì sự liên hiệp với nước khác mà có thể đem con cháu tôn thất gả đến Ô Tôn nhưng trong thâm tâm vẫn còn xem thường thiếu nữ man di. Kim Nhật Đan mà Tảo Tảo nhìn trúng cũng là người man di không hơn không kém.
“Thật ra thì còn có một biện pháp.” Lưu Triệt thấy nàng có vẻ ưu phiền, đột nhiên sinh lòng muốn đùa giỡn, “Mục đích ban đầu của Ô Tôn vương là tính gả cháu gái của ông ta vào…” Y dừng lại, ánh mắt dần trở nên âm trầm. Ngoài A Kiều ra thì các thiếu nữ khác dù có đẹp đến mấy đối với y cũng không quan trọng. Nếu y thực sự nhận lời lấy A Mạc Đề thì coi như vô duyên vô cớ tự hạ thấp vai vế xuống hai bậc so với lão nhân kia.
Trần A Kiều nghe một lúc mới hiểu. Ô Tôn ở vùng Tây Vực xa xăm nên không biết hoàng đế nhà Hán chỉ sủng ái một mình nàng, thế nên mới đầu đưa A Mạc Đề tới là để dâng cho Lưu Triệt làm phi tần. Nàng cứ một mực xét chuyện theo ý của mình, ngay cả dấu hiệu rõ ràng như vậy cũng sơ suất bỏ qua.
“Lưu Triệt!” Nàng trừng mắt, tức giận hô lên.
Lưu Triệt cười lớn, ôm lấy nàng, nói: “Trẫm thật sự đã lâu không được trông thấy Kiều Kiều tức giận rồi đấy.”
Trong lòng nàng ngầm cảnh tỉnh, chỉ mong mấy ngày nàng đã liên tiếp phạm hai sai lầm, phải chăng điều này chứng tỏ rằng nàng thật sự hy vọng có thể nắm tay y tới lúc bạc đầu? Dần dần, nàng đã tin vào tâm ý của y, tin rằng y yêu mình, coi trọng mình, sẽ không bao giờ lại làm tổn thương mình được nữa. Hoặc là ít nhất hy vọng rằng mình có thể tin tưởng được như vậy?
Tháng Ba năm nguyên Phong đầu tiên, Lưu Triệt cho bày đại yến ở cung Vị Ương chiêu đãi cháu trai và cháu gái của Ô Tôn vương, đồng thời mời con cháu tôn thất tới dự. Trần A Kiều là nữ chủ nhân của Đại Hán, ngồi bên cạnh đế vương, vẻ mặt lạnh nhạt. Cháu trai của Ô Tôn vương là Quân Tu Mỹ cư xử rất có chừng mực, là một nhân vật không đơn giản. A Mạc Đề mũi cao mắt sáng trông cực kỳ xinh đẹp, có phong thái hào sảng dám yêu dám hận của người tái ngoại. Cô không hề nhìn đến đám tôn thất ngồi đối diện mà lại thỉnh thoảng liếc nhìn Lưu Triệt ngồi trên ghế chủ tọa ở bên trên. Ánh mắt đó khiến Trần A Kiều có cảm giác rất không thoải mái nhưng lại không thể bộc lộ ra.
Sau khi yến hội, A Mạc Đề ra khỏi cung vẫn còn luyến tiếc nhìn mãi về cung Vị Ương tráng lệ huy hoàng rồi lại hưng phấn nhìn phố xá Trường An phồn hoa thịnh vượng. Quân Tu Mỹ thấy vậy cau mày, kéo nàng trở về dịch trạm, nói luôn “A Mạc Đề, muội thích ai trong số đám con cháu quý tộc nhà Hán có mặt hôm nay thì nói cho ca ca biết. Chắc là hoàng đế nhà Hán sẽ thành toàn, còn những chủ ý khác thì muội hãy quên ngay đi.”
“Muội không thích ai.” A Mạc Đề dẩu môi: “Muội chỉ thích hoàng đế nhà Hán của bọn họ. Con gái Ô Tôn nếu phải gả thì chỉ gả cho bậc anh hùng. Trong mắt của muội, y chính là anh hùng lớn nhất. Lúc trước chẳng phải ca ca và gia gia đều nói sẽ gả muội cho y, sao bây giờ lại thay đổi chứ?”
“Muội còn chưa nhận ra sao?” Quân Tu Mỹ nhẫn nại nói: “Hôm nay y sắp xếp như thế có nghĩa là căn bản không có ý muốn kết hôn với muội. Người trong thành Trường An đều nói rằng hoàng đế nhà Hán chỉ sủng ái mỗi hoàng hậu của mình. A Mạc Đề, muội không thể tùy hứng như vậy.”
“Có thể…” A Mạc Đề cười khanh khách một hồi nhưng tròng mắt lại đỏ hoe, “Muội biết, muội biết mình có trách nhiệm với Ô Tôn nên phải chú ý đại cục, không thể tùy hứng. Nhưng thật sự là muội không thể tùy hứng một chút sao?”
Huynh muội bọn họ dùng tiếng Ô Tôn nói chuyện với nhau nên dù giọng khá lớn nhưng đám người Hán theo hầu vẫn không hiểu được câu nào. Quân Tu Mỹ bị cô hỏi như vậy thì nín lặng hồi lâu rồi mới thở dài, ánh mắt có vẻ thương hại, nói: “Sau khi tới thành Trường An, ta nghe người Hán có một câu nói, ‘Vô tình nhất chính là nhà đế vương’, muội là công chúa Ô Tôn nên không thể không gánh vác trách nhiệm. Ca ca thay mặt cho ngàn vạn con dân Ô Tôn tạ ơn muội muội.”
Những lúc rảnh rỗi, Quân Tu Mỹ cũng rất yêu thích thành Trường An phồn hoa nên ăn mặc theo kiểu người Hán, dẫn theo tùy tùng đi dạo ở chợ phía đông Trường An. Chợ phía đông tấp nập, bách tính an cư lạc nghiệp, nét mặt tươi cười vui vẻ.
“Chỉ nhìn như vậy cũng biết hoàng đế Đại Hán đúng là một người rất giỏi.” Quân Tu Mỹ nói trong lòng.
Chuyện kết hôn cầu hòa lần này bắt buộc phải hoàn thành để tránh cho ngày sau Ô Tôn xung đột với Đại Hán. Hắn nghĩ tới A Mạc Đề đang hờn dỗi ở dịch trạm thì khẽ nhíu mày. Luận về thân phận và tuổi tác, A Mạc Đề chính là lựa chọn tốt nhất để kết hôn cầu hòa với nhà Hán. Cô cũng không phải là người không hiểu biết nhưng lại mang tâm tư thiếu nữ nên vẫn không phân biệt được sự khác nhau giữa ảo ảnh và thực tế, nhất quyết không chịu chấp nhận ấm ức.
“Vị công tử này!” Dù hắn mặc trang phục bình thường nhưng chất vải sang trọng, khí độ lại bất phàm, tiểu thương Trường An đều là kẻ thành tinh nên sao có thể bỏ qua, nhiệt tình mời mọc, “Công tử tới xem đồ của chúng tôi, toàn là đồ tốt cả đó. Công tử mua về tặng cho phu nhân nhé.” Hắn cười lắc đầu ý bảo không cần. Hắn vừa tham quan những hàng hóa rực rỡ muôn màu bày đầy trên đường phố vừa thả bước đi tiếp, bỗng nhiên thấy một hai lưu dân co rúm trong một góc chợ ít được người chú ý. Giờ đang là tháng Tư, Trường An mới vào xuân nên buổi sáng vẫn khá lạnh. Hai người mặc áo quần rách nát nhưng những người qua đường vẫn thản nhiên đi qua cứ như là đã quá quen với cảnh này.
“Xem ra nhà Hán cũng không phải nơi nơi đều thái bình.” Đám tùy tùng thấy hắn chú ý tới hai lưu dân kia liền tiến lại gần, khẽ nói.
Hắn cười nhạt, nước quá trong sẽ không có cá. Dù cho thiên tử nhà Hán anh minh thế nào đi nữa thì cũng không thể bảo đảm tất cả con dân bên dưới đều vui vẻ an khang. Đúng lúc hắn vừa xoay người định bước đi thì trông thấy một cỗ kiệu nữ màu xanh dừng ở bên đường, một thiếu nữ quý tộc nhà Hán chừng mười ba mười bốn tuổi vén rèm lên, giơ bàn tay trắng nõn mềm mại đưa nửa xâu tiền ra, nhẹ nhàng bảo, “Miên Trữ, đem cái này cho hai người kia.”
Miên Trữ đáp một tiếng, nhận lấy tiền, đi tới trước mặt hai lưu dân, nói, “Các ngươi quả thật may mắn mới gặp được Quận chúa nhà ta. Quận chúa thiện tâm nên thưởng cho các ngươi.” Hắn ném nửa xâu tiền kêu xủng xẻng trước mặt hai người rồi quay trở về. Chớp mắt, cỗ kiệu lại đi tiếp về phía trước.
Người trong chợ phía đông không quan tâm tới hai lưu dân nhưng lại rất hứng thú với cô quận chúa xinh đẹp vừa xuất hiện, bàn tán: “Người mới vừa rồi chính là Giang Đô quận chúa Tế Quân rất hay làm phúc đó.”
Cô vốn là cô nhi của tội thần nhưng bỗng nhiên đổi vận, được vợ chồng Đan Dương hầu thu nhận làm con nuôi, vô cùng ưu ái, không ai còn dám coi thường. Ai có thể nói cô có phúc phận không tốt. Đại nương bán vải bỗng nhiên quay đầu lại, lớn tiếng nói, “Tế Quân quận chúa đẹp người đẹp nết. Ở hiền gặp lành, có phúc phận tốt như vậy là đúng. Ngươi không thấy sao, có biết bao con cháu thế gia quý tộc đi chơi chợ Đông nhưng có mấy người bố thí tiền tài như Tế Quân quận chúa chứ?”
Bà nói đúng sự thật nên mọi người tức thì không còn biết bàn tán gì nữa, sau đó dần yên lặng. Tùy tùng phía sau Quân Tu Mỹ xuýt xoa một hồi rồi nói: “Các cô gái nhà Hán thật xinh đẹp nhưng đáng tiếc là quá yếu ớt. Tỷ như cô quận chúa vừa rồi mà đến Ô Tôn thì e rằng không sống qua nổi một mùa đông.” Quân Tu Mỹ quay lại lườm một cái khiến hắn im bặt.
Quân Tu Mỹ thiên tính thông minh, trước lúc đi sứ đã theo người có hiểu biết về nhà Hán, học được một chút tiếng Hán nên lúc này đứng trên phố Trường An có thể nghe hiểu đại khái. Nếu điều gì hắn không thể nói thì đưa mắt nhìn tùy tùng. Tên tùy tùng là người rất cơ trí, bước tới trước cửa hàng của vị đại nương vừa lên tiếng bảo vệ Lưu Tế Quân mà hỏi, “Đại nương, vải của bà bán thế nào?”
Đại nương nhìn thấy Quân Tu Mỹ đứng phía sau liền mỉm cười nói, “Nửa xâu tiền một súc.” Bà sợ bị chê đắt nên vội vàng giải thích, “Vải này được nhuộm theo cách mới của Tang Tư nông, ngài nhìn xem, màu sắc tươi tắn, chất vải trơn mềm đến mức nào.”
Quân Tu Mỹ đưa tay sờ qua, bất giác “ồ” lên một tiếng. Chất vải quả nhiên mềm mại vô cùng. Ngay cả vải vóc bình thường bán trên phố cũng đã tốt như thế, xem ra nhà Hán không chỉ lớn mạnh mà các kỹ nghệ khác đều vượt qua Ô Tôn. Tùy tùng không biết biến hóa trong suy nghĩ của Quân Tu Mỹ, hỏi tiếp, “Đại nương, vị quận chúa vừa rồi là người nhà vương hầu nào hay sao?”
Đại nương nhìn hắn hồi lâu rồi mới cười nói, “Hai vị là người từ nước ngoài tới rồi.”
“Người trong thành Trường An có ai không biết Quận chúa Tế Quân.” Đại nương thở dài nói, “Số phận nàng ấy rất long đong. Nàng vốn là con gái của Giang Đô vương. Sau khi Giang Đô vương mưu phản bị gϊếŧ thì được Đan Dương hầu thu nhận. Nàng rất sáng dạ, đồng thời theo học cả Trần hoàng hậu và tài nữ đất Thục là Trác Văn Quân. Ngươi nên biết rằng Trần hoàng hậu, Phi Nguyệt trưởng công chúa và Trác Văn Quân được xưng là ba đại tài nữ của Đại Hán chúng ta. Nàng đồng thời theo học hai người, nghe nói rằng tài gảy đàn tỳ bà của nàng còn vượt qua cả sư phụ, thật sự gần như là tiên nữ trong chốn nhân gian.”
Những điều cần hỏi thì đã hỏi xong, viên tùy tùng cảm thấy cũng đáng mua giúp một súc vải. Hắn nhìn các cuộn vải đủ màu sắc mà lúng túng không biết lựa chọn thế nào, liền quay đầu lại nhìn Quân Tu Mỹ. Quân Tu Mỹ mỉm cười, nhớ lại người thiếu nữ ban nãy vén rèm để lộ ống tay áo màu vàng nhạt nhưng lại có một đôi mắt thanh tú dịu dàng. Hắn chợt nghĩ hợp nhất với nàng là y phục màu hoa đào vừa bừng bừng sức sống lại điểm thêm chút cởi mở, cộng với vẻ yên bình thì càng thêm quyến rũ.
Quân Tu Mỹ trả nửa xâu tiền và nhận súc vải màu hoa đào. Hắn chợt cảm thấy tức cười về hành động của mình. Hắn là cháu trai quốc vương nước ngoài đi sứ, nàng là quận chúa của Đại Hán, hai người chưa chắc đã có duyên gặp mặt thì mua vải thế này để làm gì? Hắn quẳng súc vải cho tùy tùng, chán nản nói: “Trở về dịch trạm thôi.”
Trở lại dịch trạm, thị nữ của A Mạc Đề đến bẩm báo rằng tối hôm qua A Mạc Đề cảm thấy không khỏe, chắc là do nhiễm phong hàn. Hắn không lo lắng mà ngược lại giận giữ, cười lạnh nói, “Tiết trời Ô Tôn lạnh như vậy mà còn không bị phong hàn, sao đến Đại Hán thì lại bị. A Mạc Đề, muội thật khiến người ta thất vọng.”
A Mạc Đề rơi lệ vì lời nói của ca ca song một khi đã nhiễm phong hàn cũng không cách nào dễ dàng khỏi hẳn. Mấy ngày sau, cung Hán truyền xuống ý chỉ gả cháu gái của Ô Tôn vương cho con thứ Lưu Bồi. A Mạc Đề lặng lẽ nghe tuyên chỉ, vẫn rất bình thản chứ không hề làm ầm lên. Quân Tu Mỹ quan sát thấy thế thì hơi bất an nhưng lại không thể làm gì. Một hôm, hắn hỏi thăm người trong dịch trạm và biết được chỗ của lầu Thanh Hoan nổi danh nhất thành Trường An, liền dẫn người đi.
Những năm trước đây, người Hán vẫn nói tới thành Trường An mà chưa tới lầu Thanh Hoan thì coi như chưa tới Trường An. Những năm này dù danh tiếng có suy giảm nhưng vẫn hơn xa các tửu lâu bình thường. Hắn vừa tới lầu Thanh Hoan liền thấy xe ngựa nườm nượp, toàn là hạng người phú quý. Trên một cỗ xe có một cậu bé con nhà quyền quý chừng mười tuổi sốt ruột không chịu chờ người tới đỡ xuống mà cứ cố gắng bước ra, vô ý lao vào con tuấn mã kéo xe làm nó giật mình chồm hai chân lên khiến cậu bé ngã lọt xuống dưới vó ngựa sắp đạp lên người cậu bé thì bỗng có một thanh niên ở bên cạnh lao vọt đến ôm lấy cậu bé lăn ra ngoài.
Một phụ nữ quý tộc ngồi trên chiếc xe ngựa đầu tiên, lúc này mới hoàn hồn, kêu lớn, “Sách Nhi.” Nàng ta chạy đến ôm được cậu bé đang sợ đến ngây người vào lòng thì mới yên tâm trở lại. Quân Tu Mỹ khẽ mỉm cười, đang định rời đi thì đột nhiên sững lại. Một người phụ nữ mặc y phục màu xanh trông trẻ hơn phu nhân phía trước, khí độ cao quý vén rèm bước xuống xe, theo bên cạnh là một thiếu nữ mặc y phục màu ngọc bích. Đó là Lưu Lăng, trông thấy Lưu Sách bình yên vô sự ở trong lòng Kim Nga thì mới an tâm, khẽ mỉm cười nói: “Đa tạ công tử cứu giúp cháu ta.”
Hắn lúng túng không cất nên lời, chỉ chú ý đến thiếu nữ có cặp mắt thanh tú dịu dàng phía sau, hồi lâu mới lên tiếng đáp: “Phu nhân nói quá lời rồi.” Ngữ điệu của hắn cứng ngắc, không hề giống với người Hán. Lưu Lăng cùng Tế Quân đều ngạc nhiên, hỏi, “Công tử quý tính đại danh là gì để phủ Đan Dương hầu nói lời cảm tạ.”
“Đúng vậy.” Kim Nga phục hồi lại tinh thần, cảm kích nói. Phải biết rằng, Lưu Sách là con độc nhất của nàng ta, cháu đích tôn của phủ Mạt Lăng hầu, ngoài thân phận cao quý còn là cốt nhục của nàng ta. Nếu cậu bé xảy ra chuyện gì thì quả thật nàng ta không thể chịu nổi.
Quân Tu Mỹ cười nhẹ, “Ta là sứ giả tới từ Ô Tôn.”
Kim Nga khẽ “a” một tiếng. Các nàng dĩ nhiên đã nghe nói về việc Ô Tôn sai sứ tới đây. Lưu Tế Quân mỉm cười, nói: “Chả trách trên người công tử đích thực là có khí khái anh hùng của đấng nam nhi vùng đại mạc.”
Lúc này Lưu Sách cũng đã hoàn hồn, rất có cảm tình với Quân Tu Mỹ, nói: “Mẫu thân, vị đại ca này có công phu thật giỏi, người nhất định phải đa tạ huynh ấy thay con.”
Quân Tu Mỹ hơi nheo mắt, dù nhà Đan Dương hầu có cao quý nhưng hắn cũng chưa chắc đã coi vào đâu. Chỉ là, hắn không nỡ rời xa người thiếu nữ kia nên mới không định cứ thế bỏ đi.
“Dĩ nhiên rồi.” Kim Nga vỗ về trấn an con trai, quay đầu lại nghiêm túc nói: “Công tử vừa cứu con ta, nếu ở trong thành Trường An có gặp khó khăn gì xin cứ tìm đến phủ Mạt Lăng hầu.”
Lưu Lăng lại khẽ mỉm cười, hỏi, “Quý tính đại danh của công tử là gì?”
“Ta họ Tôn”, Quân Tu Mỹ suy nghĩ một chút nói, “Tên gọi Quân Tu.”
Kim Nga và Lưu Tế Quân cùng “a” một tiếng, sắc mặt cũng không có gì khác thường. Lưu Lăng khẽ cúi đầu, thầm nghĩ, xét theo khí độ nhân phẩm thì người này tất không phải kẻ tầm thường. Không lẽ hắn chính là cháu của Ô Tôn vương? Nhìn vẻ mặt và ánh mắt của hắn thì chắc là thích Tế Quân. Chẳng lẽ đây là mối nhân duyên trời định không thể chia cắt được hay sao? A Kiều mà biết thì chắc chắn sẽ không vui, nhưng cứ để mọi việc thuận theo tự nhiên mới tốt.Quyển 4 - Chương 94: Ngựa sang xứ tuyết, hoa đào sau lưngQuân Tu Mỹ vừa gõ cửa ngách phía đông phủ Mạt Lăng hầu liền có thị nữ ra mở cửa, che miệng cười nói, “Tôn công tử, tiểu thiếu gia nhà ta đợi người đã lâu.”
Hắn còn chưa quen với tác phong ăn nói lanh lợi, tươi tắn quyến rũ của con gái nhà Hán nên chỉ cúi đầu nói: “Xin hãy dẫn đường cho.”
Thị nữ đã quen nghe cách nói tiếng Hán cứng nhắc của hắn nên liền gật đầu, tươi cười đi trước dẫn đường, ngoặt trái rẽ phải bảy tám bận thì đến một ngôi đình trên mặt nước. Lưu Sách ở trên đình, trông thấy từ xa liền vui mừng nhảy xuống gọi: “Tôn đại ca.”
“Khoan đã.” Quân Tu Mỹ mỉm cười ôm lấy cậu, hỏi: “Đệ không sợ té ngã sao?”
“Tôn đại ca võ nghệ cao cường đến mức có thể cứu được đệ từ dưới vó con ngựa điên”, Lưu Sách nháy mắt tinh nghịch, nói: “nên đệ mới không sợ chứ.”
Thiếu nữ mặc bộ y phục màu xanh nhạt mím môi cười, nét mặt thanh nhã, nhướng mày đối lại với ánh mắt cháy bỏng của người thanh niên. Cô bỗng hơi lặng đi, cúi đầu xuống, khuôn mặt hơi ửng hồng.
“Tỷ tỷ.” Lưu Sách bỗng quay đầu hỏi: “Tỷ nói võ nghệ của Tôn đại ca so với Thái tử ca ca thì thế nào?”
“Thái tử?” Quân Tu Mỹ ngẩn người hỏi lại.
“Vâng.” Lưu Sách hào hứng nói; “Chắc là Tôn đại ca không biết chứ Thái tử ca ca của chúng ta mặc dù là thái tử nhưng cũng rất giỏi võ nghệ, lợi hại vô cùng.” Cậu có vẻ hơi buồn phiền, “Nói thật ra thì Thái tử ca ca rất bận rộn nên đệ chẳng mấy khi gặp, nhưng tỷ tỷ hay cùng Duyệt Trữ tỷ tỷ đọc sách nên thường xuyên gặp hơn.”
Quân Tu Mỹ liền nhìn sang Lưu Tế Quân. Cô gật đầu, thầm cảm thấy không hài lòng. Cháu đích tôn của Mạt Lăng hầu giao tiếp với người nào thì mẫu thân sẽ cho điều tra thân phận của người đó. Cô biết hắn là sứ giả Ô Tôn và sẽ kế thừa ngôi vương của Côn Mạc nhưng không nói cho Sách Nhi vì cảm thấy giao tiếp với nhau không phải vì tên tuổi hay thân phận, do đó vẫn xưng hô với hắn bằng tên giả. Nhưng việc đã liên quan đến Thái tử Đại Hán thì cần phải cẩn thận hơn nhiều.
Quân Tu Mỹ cười sảng khoái, nói: “Không ngờ thái tử điện hạ của Đại Hán sống ở trong thâm cung mà lại có võ nghệ cao cường, thật là hiếm có.”
“Không phải là Mạch ca ca chỉ sống ở trong thâm cung đâu.” Lưu Sách vội nhảy dựng lên nói: “Đệ nghe mẹ kể rằng khi Mạch ca ca còn bé…”
“Sách Nhi.” Lưu Tế Quân nhíu mày quát lên.
Quân Tu Mỹ liền nên dừng lại ở đây, mỉm cười hỏi, “Không biết thường ngày Tế Quân quận chúa yêu thích điều gì?”
Lưu Tế Quân đứng ngồi không yên, vội vàng nói; “Ta về phòng trước đây. Sách Nhi, đệ không nên quấy rầy nhiều làm mất thời gian của Tôn công tử.”
Lưu Sách đảo mắt nhìn theo bóng tỷ tỷ đi khuất hẳn rồi mới láu lỉnh vỗ vào người, hỏi Quân Tu Mỹ: “Tôn đại ca, huynh thích tỷ tỷ của đệ à?”
Hắn thu ánh nhìn hút theo Lưu Tế Quân, cúi xuống trả lời cậu bé: “Đúng vậy.” Đàn ông Ô Tôn lòng dạ ngay thẳng, không hề làm bộ ngượng ngùng.
Hắn trả lời dứt khoát như thế trái lại làm cho Lưu Sách hơi bất ngờ, lặng đi một lúc mới thở dài sườn sượt thốt lên, “Khó lắm đấy.”
Cậu làm bộ trầm ngâm một lúc nhưng thấy Quân Tu Mỹ không mắc mưu mà chỉ khoanh tay yên lặng, thì lại không nhịn được nói tiếp: “Mặc dù tỷ tỷ không phải là con ruột của cha mẹ đệ nhưng huynh đừng tưởng rằng tỷ ấy phải ăn nhờ ở đậu, hoàn cảnh đáng thương. Có đôi khi đệ còn cảm thấy mẫu thân chiều chuộng tỷ ấy hơn cả đệ. Hơn nữa, Hoàng hậu nương nương và Phi Nguyệt cô cô đều rất thích tỷ tỷ.”
“Mặc dù đệ thấy Tôn đại ca”, cậu nhìn từ trên xuống dưới đánh giá hồi lâu rồi nói: “Có phong thái không phải người bình thường nhưng lại không phải người Hán. Vì điều này, huynh muốn kết hôn với quận chúa Đại Hán là rất khó.”
Quả nhiên không có ai là đèn cạn dầu. Quân Tu Mỹ than thầm, chỉ là một cậu bé chưa tới mười tuổi mà đã có thể nhận biết được nhiều như vậy. Tuy nhiên, hắn nheo mắt, thành bại còn do người làm, nếu không làm thì không biết thế nào cả?
Tháng Ba, Hán đế đến Thượng Lâm Uyển săn thú mùa xuân, mời cả cháu trai và cháu gái của quốc vương Ô Tôn đi cùng. Người Ô Tôn sống du mục săn bắn trên thảo nguyên nên dù nam hay nữ đều cưỡi ngựa bắn tên rất giỏi. A Mạc Đề bị cảm lạnh mới khỏi, trong lòng lại đang buồn bực về chuyện kết thân cầu hòa nên tự mình cưỡi ngựa ra roi phóng vụt đi. Thượng Lâm Uyển có diện tích rất rộng, cô phi ngựa một lát, gió tạt vào người thì bình tĩnh lại, nhìn bốn phía chẳng còn nhận biết phương hướng thế nào, bất đắc dĩ đành xuống dắt ngựa từ từ bước đi.
“Mặc dù con gái man di nhưng xem ra cũng rất có phong độ.”
Câu nói khinh mạt vang lên phía sau khiến A Mạc Đề giật mình quay đầu nhìn lại, thấy một người Hán cưỡi ngựa từ trong rừng phi ra. Hắn có khuôn mặt khá dễ coi nhưng dáng điệu quý phái, không thể giấu được vẻ kiêu ngao.
“Hu!” Hắn ruổi ngựa đến bên cạnh A Mạc Đề thì ghìm cương lại, nói: “Ngươi có biết rằng ta chính là vị hôn phu đích thân bệ hạ ban hôn cho ngươi, con thứ của Đông Lâm hầu, tên là Lưu Bồi?”
Hắn là hoàng thân mà lại phải kết hôn với một người con gái tộc Hồ nên rất không cam lòng nhưng lại không dám phản ứng lại bệ hạ, vì vậy mới trút hết oán giận lên người cháu gái của Ô Tôn vương. Hắn ngồi trên lưng ngựa khom mình nhìn xuống, cười vẻ càn rỡ, “Hãy cho ta xem con gái Ô Tôn có gì khác với con gái người Hán?”
A Mạc Đề không giỏi tiếng Hán như ca ca nhưng vẫn miễn cưỡng hiểu được mấy chữ, biết thân phận của người trước mặt thì tức giận nhướng mày. Cô cũng là kiều nữ của một nước, chưa từng bị đối xử tệ như thế nên rất không hài lòng với người này. Không biết tự bao giờ cô đã rút cây cung sau lưng ra, chém thẳng vào Lưu Bồi. Lưu Bồi nhanh tay lẹ mắt tránh được nhưng cung vẫn bổ trúng thân ngựa khiến nó kinh sợ hất tung hắn xuống đất.
Lưu Bồi loạng choạng đứng dậy, cả giận nói, “Man di, hãy xem ta thu phục ngươi như thế nào.”
“Vương tôn.” Đám tùy tùng Ô Tôn đứng cùng Quân Tu Mỹ ở chỗ khuất trong rừng trông thấy tình cảnh này, vội vàng nói, “Nếu chúng ta không xông ra thì tiểu thư A Mạc Đề sẽ phải chịu thiệt thòi.”
Mặc dù A Mạc Đề là cô gái lớn lên trên thảo nguyên còn Lưu Bồi là con cháu quý tộc ở thành Trường An nhưng nam nữ trời sinh đã có những khác biệt mà con người không thể nào vượt qua được.
Quân Tu Mỹ nhíu mày, trầm giọng nói, “Hãy chờ một chút đã.”
Hắn âm thầm siết chặt nắm tay, làm như vậy có phải là tốt không? Hắn muốn cưới về một cô nương nhà Hán nhưng thấy người này không xứng với A Mạc Đề. Ngoài kia, A Mạc Đề đã trúng một tát, khuôn mặt lập tức đỏ ửng, tóc tai tán loạn. Cái tát ngược lại chỉ kí©ɧ ŧɧí©ɧ cô bộc phát tính cách ngang ngạnh, dùng hết sức lực đá ra một cước trúng chân trái Lưu Bồi. Lưu Bồi thẹn quá hóa giận, đang định tiếp tục động thủ thì chợt nghe thấy giọng trầm thấp nói tiếng Hán cứng ngắc: “Ngươi làm gì muội muội của ta vậy?”
“Ca ca”, A Mạc Đề bị ấm ức òa lên một tiếng rồi vùi đầu vào lòng Quân Tu Mỹ khóc tức tưởi.
Quân Tu Mỹ giơ tay trấn an cô, ánh mắt sắc bén nhìn chằm chằm vào Lưu Bồi, lạnh lùng nói, “Ta là sứ giả Ô Tôn đi sứ Đại Hán với ước nguyện kết thành đồng minh vĩnh viễn với Đại Hán. Người Đại Hán lại đối xử với cháu gái của Ô Tôn vương chúng ta như thế này sao?”
Lưu Bồi tỉnh táo lại, mồ hôi toát đầm đìa. Hắn hiểu rằng nếu đối phương bẩm báo với bệ hạ việc này thì cuộc đời hắn coi như là hết, vội vàng cười nói, “Đây chỉ là đùa chơi mà thôi. Ta đến chỉ để coi mặt vị hôn thê của mình. Đại ca giơ cao đánh khẽ, chúng ta đều là người một nhà mà.”
A Mạc Đề đang ở trong lòng Quân Tu Mỹ liền ngẩng đầu lên, định nhận phần thua thiệt thay cho ca ca. Dù sao thì việc cô phải chịu ấm ức cũng chỉ là chuyện nhỏ, quan hệ hai nước mới là chuyện lớn. Nhưng cô không ngờ Quân Tu Mỹ lại lãnh đạm nói như đinh đóng cột, “Không được. Không cho phép ai đối xử tệ với công chúa Ô Tôn của chúng ta.”
“Ca ca.” A Mạc Đề không nhịn được thốt lên.
“Gì thế?” Quân Tu Mỹ cúi xuống hỏi cô.
“Không có gì.” A Mạc Đề đành nín khóc, mỉm cười, “Muội thấy là ca ca rất thương muội.”
Quân Tu Mỹ siết chặt nắm tay. Thế muội có thể thương ta một chút được không? A Mạc Đề, muội cho rằng ca ca quá tốt, nhưng nếu không phải ca ca cũng có việc phải cầu xin thì chắc chắn vừa rồi đã chấp thuận đề nghị của Lưu Bồi.
Tin này truyền tới tai Hán đế. Lưu Triệt rất tức giận, ngay lập tức phạt Lưu Bồi ba trăm lạng vàng nhưng việc kết thân cầu hòa giữa hai nước thì lại lâm vào tình cảnh khó khăn. Cháu gái của Ô Tôn vương nhất định không chịu kết hôn với người đã từng làm nhục mình. Người Hán dù sao cũng đuối lý nên Lưu Triệt không thể cưỡng ép được. Lưu Triệt triệu cháu trai của Ô Tôn vương đến, nói: “Hai nước chúng ta kết thân cầu hòa…” Y vừa mới mào đầu thì Quân Tu Mỹ đã liền quỳ xuống nói, “chuyện đã đến mức này, ta có một thỉnh cầu quá đáng.”
“Hai nước kết thân cầu hòa quan trọng là minh ước chứ không liên quan đến chuyện cưới gả. Lần này A Mạc Đề bị tổn thương, ta là ca ca cũng không muốn làm khó muội ấy nữa. Nhưng ta lại rất yêu thích một cô nương kiều diễm ở kinh đô Trường An nhà Hán, khẩn cầu Hán đế ân chuẩn gả người con gái dòng dõi tôn thất đó cho ta. Ta xin hứa sẽ coi nàng là công chúa nhà Hán, đời này kiếp này nhất định không phụ bạc.”
Lưu Triệt lặng yên một lát, bỗng nhiên cười lạnh nói: “Quân Tu Mỹ, việc của ngươi cũng chưa hẳn là không thể được. Trẫm biết người ngươi yêu thích là ai. Nhưng Lưu Tế Quân là cháu gái trẫm, cũng là người mà Hoàng hậu và cháu gái của trẫm rất yêu thích. Trẫm không thể gả cô bé đến Ô Tôn xa xôi.”
“Hoàng đế nhà Hán.” Quân Tu Mỹ chắp tay hành lễ, vội vàng nói, “Người Ô Tôn chúng ta đã yêu quý ai thì sẽ yêu quý suốt đời. Quân Tu Mỹ lần này hết sức thành tâm, kính xin được chấp thuận. Hơn nữa”, hắn lưỡng lự một lát, nói: “Nếu Hán đế chấp thuận cho, ta nguyện sẽ…”
Lưu Triệt nhìn hắn hồi lâu, cuối cùng nói: “Thế này đi, nếu Lưu Tế Quân tình nguyện, Hoàng hậu và Đan Dương hầu phu nhân cũng đồng ý thì thật sự trẫm sẽ không áy náy nữa.”
“Tất nhiên là ta không đồng ý.” Đan Dương hầu phu nhân nghe được tin này thì phản ứng luôn. “Tế Quân còn nhỏ như thế, yếu ớt như thế thì làm sao mà chịu được gió sương ở Ô Tôn chứ?”
“Mẫu thân.” Lưu Tế Quân đứng xuất thần một lúc rồi nói: “Nữ nhi lại xin nguyện ý.”
“Tế Quân, con…” Kim Nga ngẩn người nhìn con gái nuôi, nói: “Con nghĩ sao thế? Ô Tôn quá xa xôi.”
“Nữ nhi không làm sao.” Cô cười lảng đi, nhớ tới nét mặt như điêu khắc, ánh mắt cháy bỏng của người thanh niên, gò má bất giác nóng rực.
“Mẫu thân”, cô nghiêm túc nói, “Nữ nhi muốn học theo Hoàng hậu nương nương không giới hạn chí hướng trong khuê các. Không có bệ hạ thì có thể Tế Quân đã chết rồi, huống chi”, cô tỏ vẻ đau thương, “Mẫu thân có thương con đến đâu thì cuối cùng con vẫn có thân phận nữ tội thần, cao không tới, thấp không xong thì ngày sau biết sẽ như thế nào đây.”
“Mẫu thân đã gặp cháu của Ô Tôn vương rồi. Tế Quân nghĩ hắn sẽ đối xử tốt với con.” Huống chi cô gả sang đó sẽ có thân phận là đại biểu chính thức của Đại Hán, ai có can đảm đối xử không tốt chứ?
Kim Nga kinh ngạc lắng nghe, rốt cục đỏ hoe mắt, “Mẫu thân không thuyết phục được con. Con tự mình làm chủ, không phải hối hận là được rồi.”
Trần hoàng hậu đang ở Thượng Lâm Uyển hay tin này cũng lặng người đi một lúc rồi khẽ thở dài, “Rốt cục cũng không cưỡng lại lịch sử được sao?” Nhưng đây là lịch sử đã biến chuyển, là Lưu Tế Quân dùng lý trí của mình tự do lựa chọn, là sự kết hợp của một đôi nam nữ có tình cảm với nhau. Nàng cho rằng Lưu Tế Quân chắc sẽ hạnh phúc hơn so với trong lịch sử.
Cuối tháng Ba năm Nguyên Phong đầu tiên, Lưu Triệt phong Giang Đô quận chúa Lưu Tế Quân làm công chúa nhà Hán. Quân Tu Mỹ và Lưu Tế Quân cử hành hôn lễ trọng thể ở kinh đô Trường An. Ngoài bộ lễ phục cao quý do Lưu Triệt ban thưởng còn có lễ vật do Đan Dương hầu phu nhân và Hoàng hậu ban tặng, vinh sủng nhất chốn kinh thành.
Quân Tu Mỹ dẫn tân nương và muội muội rời thành Trường An, đến biên giới giữa nhà Hán và Ô Tôn thì đã là tháng Tư. Thời tiết Tây Vực lạnh lẽo, đến tận lúc này, đào mới trổ hoa. Quân Tu Mỹ sợ Tế Quân bị rét, vừa cưỡi ngựa vừa quay đầu lại hỏi: “Nàng có lạnh không? Mặc thêm y phục nhé?”
Lưu Tê Quân lắc đầu, sắc mặt đỏ bừng không phải bởi vì lạnh mà vì cảm thấy ấm lòng. Cô ôm đàn tỳ bà, nói: “Đi thôi.”
Ngồi trên lưng ngựa nhìn về phía trước sẽ thấy những dãy núi Ô Tôn trùng trùng điệp điệp, đỉnh núi phủ đầy băng tuyết, còn đằng sau là cực tây lãnh thổ Đại Hán cố hương. Cô khó nhọc quay đầu nhìn lại mấy lần, cuối cùng gạt lệ quyết tâm quay đi. Sau dấu chân ngựa là những vùng hoa đào nở rộ, nhưng cưỡi trên lưng ngựa vẫn có thể cảm nhận thấy cái lạnh của băng tuyết. Một cuộc sống hoàn toàn mới dần dần hiện ra ở dưới vó ngựa. Cô có thể chịu đựng thời tiết khắc nghiệt ở chốn xa xôi kia hay không, điều này còn chưa thể biết.Quyển 4 - Chương 95: Đại lễ Phong Thiện vui lòng thiên hạĐắp một đài bằng đất trên ngọn núi Thái Sơn làm đàn tế thiên để báo công với trời nên gọi là Phong. Quét đất lập đàn trên một ngọn núi nhỏ dưới chân Thái Sơn để báo công với đất nên gọi là Thiện.
(Sử ký – Phong Thiện sách)
Lễ Phong Thiện có từ thời xưa, là nghi thức tế trời nguyên thuỷ nhất của các bộ lạc hoặc thị tộc sùng bái tự nhiên sống chung quanh Thái Sơn vào thời viễn cổ. “Có lẽ xa thì khoảng mấy nghìn năm trước gần thì mấy trăm năm trước, nghi thức đắp đất tế lễ kia đã thất truyền nên không thể biết được để ghi chép tỉ mỉ lại”. Nhà Tần thống nhất sáu nước, vị hoàng đế đầu tiên tự cho là công cao cái thế bèn xưng là Thủy Hoàng. Năm thứ hai mươi tám, Tần Thủy Hoàng đi tuần các quận huyện phía đông, mượn các nghi lễ của nhà Tần để tế tự những bậc đế vương ở Ung Châu[1] thuở trước để làm lễ Phong ở Thái Sơn, Thiện ở Lương Phụ, khắc chữ lên vách đá ca tụng công đức nhà Tần.
[1] Ung châu cũng chính là Thiểm Tây, nơi phát tích của nhà Tần.
Nhà Hán lưu truyền được năm đời, hưng thịnh nhất vào năm Kiến Nguyên, đánh bại kẻ địch bên ngoài, chỉnh đốn pháp luật bên trong, sự nghiệp hiển hách. Vào năm Nguyên Đỉnh đầu tiên lấy được bảo đỉnh ở sông Phần, coi là điềm lành nên các bề tôi dâng thư thỉnh cầu Hoàng đế Lưu Triệt tới Thái Sơn làm lễ Phong Thiện báo cáo công tích với trời xanh, loan báo đức chính cho dân chúng. Lưu Triệt cũng động lòng, hạ lệnh cho quần thần tham khảo phép tắc thời xưa tập luyện nghi thức, xây phủ đệ, lập minh đường[2]. Đến năm Nguyên Phong đầu tiên, y định niên hiệu có chữ “Phong” cũng là đã quyết định trong lòng, sau đó phân công các bề tôi chuẩn bị tất cả cho đại lễ Phong Thiện. Tháng Ba năm Nguyên Phong đầu tiên, sau khi xong chuyện kết hôn cầu hoà với Ô Tôn, Lưu Triệt dẫn bá quan văn võ tháp tùng nghi trượng đi tuần thú phương đông, hơn một vạn người đi theo, xe Phong Thiện nối dài mấy trăm dặm, để Thái tử Lưu Mạch ở lại giám quốc.
[2] Minh đường: Khoảnh sân dành cho việc tế tự hay thờ cúng.
Trong xe ngự tráng lệ được nghi trượng trùng điệp vây quanh, Lưu Triệt nhàn nhã ngồi trên giường đánh cờ với Trần A Kiều. Y nhìn dung nhan đẹp đẽ của A Kiều, nói vẻ quan tâm, “Kiều Kiều nên cẩn thận giữ gìn sức khoẻ, chớ để như lần trước ở Lâm Phần”. Một khi lâm bệnh thì nàng sẽ không thể đi tiếp cùng với y.
“Được rồi.” A Kiều bật cười, “Thiếp đâu đến nỗi yếu ớt như vậy. Lần trước là bị lạnh ngoài ý muốn mà thôi”. Khuôn mặt nàng hơi đỏ lên, nói: “Huống chi lễ Phong Thiện ở Thái Sơn là một việc hiếm có, thiếp cũng không muốn bỏ qua.”
Nàng thư thả hạ một quân cờ, hỏi, “Bệ hạ có biết nghi lễ Phong Thiện có từ đâu không?”
Nàng bỏ rất nhiều công sức ra nghiên cứu cờ vây nên rất tiến bộ, quân cờ này hạ xuống cực kì tinh diệu, khiến Lưu Triệt cũng buộc phải trì hoãn, cẩn thận nghĩ nước kế tiếp.
“Trước đây thì không thể biết.” Y đăm chiêu nói, cũng hạ xuống một quân cờ, “Tương truyền từ cổ có bảy mươi hai vị vua đã từng làm lễ Phong Thiện nhưng đến nay thì chỉ biết đích xác mỗi Doanh Chính của triều Tần.”
“Ừ.” Nàng gật đầu, nhìn sắc mặt của y, nói: “Nho sinh hai nước Tề, Lỗ cho rằng Phong Thiện chính là nghi lễ để đế vương nhận lệnh của trời, giao tiếp với trời. Từ xưa tới nay, nếu như không phải là đế vương của thời kì thiên hạ thái bình, quốc gia hưng thịnh thì không thể tiến hành hành nghi lễ này. Từ khi bệ hạ kế vị tới nay, bên ngoài thì dẹp được nạn Hung Nô xâm phạm biên giới hơn bảy mươi năm, bên trong thì giúp dân chúng sinh sống an bình, thật đúng là là có tư cách.”
“Vậy à?” Lưu Triệt kéo nàng qua, mỉm cười nói, “Thật khó được Kiều Kiều khen ngay trước mặt như thế này.” Y khẽ gõ vào trán nàng, tư thế thân mật. A Kiều nhất thời lúng túng, gắt gỏng: “Có cung nhân ở đây đấy.” Nàng liếc sang thấy cung nhân bên cạnh đã sớm cúi đầu cười trộm.
Nàng dứt khoát tự đầu vào ngực y, thầm nghĩ chuyện Phong Thiện dù thoạt nhìn long trọng láo nhiệt, là vinh hạnh đặc biệt khó được nhưng một lần cũng đã đủ rồi. Nế thật sự để y cứ hai ba năm lại tới Thái Sơn một chuyến, trong hơn hai mươi năm tiến hành Phong Thiện tới tám lần như trong sử sách ghi lại thì quá hao tài tốn của. Vì thế nên nếu cần phải nói thì nàng nhất định phải tìm cách tẩy não y khỏi ý muốn tới Thái Sơn, đả thông quan điểm thần thánh hoá Phong Thiện để đề phòng y coi đây thành chuyện tế tự trong nhà, thỉnh thoảng nhớ tới lại tới đây một chuyến.
Đến chân núi Tung Sơn, Lưu Triệt hạ lệnh cho xe ngựa nghi trượng tạm thời dừng trú mấy ngày, bản thân mình dẫn A Kiều, Lưu Sơ và mấy vị cận thần đi từ Nam Lộc lên Tung Sơn vừa du ngoạn vừa tế tự. Lúc này mới chỉ đầu mùa xuân, hoa cỏ trên núi còn chưa mọc, chỉ có mấy cây tùng bách xanh tốt quanh năm. Ngoài ra ở đây còn có thư viện Tung Dương, trước mặt là hai khe suối, lưng dựa vào núi cao ngất, phía tây dựa vào Thiếu Thất Sơn, phía đông có thể thấy Vạn Tuế Sơn, núi lượn vòng quanh, suối chảy róc rách, phong cảnh u nhã động lòng người.
Lưu Triệt nắm tay A Kiều bước vào thư viện Tung Dương. Y thấy trong viện có cây bách cao lớn, tán cây xanh ngắt rộng như mái đình, cành lá rậm rạp, chắc đã sống qua ngàn năm. Y ngẩng đầu nhìn hồi lâu mới nói: “Cây bách này cao lớn kì vĩ như tướng quân thống lĩnh vạn quân, hay là phong nó làm Bách tướng quân?”
“Không được”, A Kiều phì cười, nói: “Thế gian này có ngàn vạn cây bách, cớ sao bệ hạ lại biết cây này đứng đầu? Nếu có những cây bách khác cao hơn thì chẳng phải là bất công ư? Theo A Kiều thì phong làm Tam tướng quân là đủ rồi.”
Nàng nhớ lại điển tích Bách tướng quân của Tung Sơn nên nén cười, ánh mắt lấp lánh. Lưu Triệt vô tình quay đầu lại nhìn thấy, im lặng hồi lâu mới nói, “Nếu như thế thì làm theo lời của Kiều Kiều đi. Tuy nhiên”, y quay hẳn lại, mỉm cười nói: “nếu cây bách này muốn trách vì được phong danh hiệu thấp thì hãy tìm Kiều Kiều nhé.”
Quan viên đi theo tán tụng, “Bệ hạ thánh ân rộng khắp, Hoàng hậu nương nương rất mực khiêm tốn, nếu cây bách này có biết thì cũng chỉ cảm kích chứ sao dám sinh lòng hờn giận chứ?”
Lưu Triệt cười lớn, dẫn A Kiều xuyên qua viện Nhị Tiến, nhìn quanh liền sững lại. Trong viện lại có một gốc cây bách cao chừng mười trượng, đường kính chừng một vòng tay ôm, cao lớn hơn cây bách vừa rồi, dù vỏ cây đã bị tróc ra, thân cây sần sùi nhưng vẫn tràn đầy sức sống. Quan viên, thị tùng đi theo nhìn nhau vừa âm thầm kêu khổ vừa suy đoán tâm tư của đế vương. Bệ hạ vốn vui giận thất thường, nếu thẹn quá thành giận thì… Một lúc lâu, Lưu Triệt mới tủm tỉm cười, liếc nhìn A Kiều mà hỏi như có điều thắc mắc: “Kiều Kiều đã tới nơi này rồi sao?”
“Đúng vậy.” Trần A Kiều đáp như không có chuyện gì: “Vào năm Nguyên Sóc thứ sáu, đúng là thiếp đã đến Tung Sơn trước khi tới Tức Mặc gặp Lăng Nhi.”
Lưu Triệt chợt nhớ tới cuộc chia lìa cách đây nhiều năm thì chợt nhói đau trong lòng nên thôi không nổi giận, nói: “Cây này cao lớn hơn Tam tướng quân, vậy phong làm Nhị tướng quân đi.”
Dưới cây bách có một cái hốc hình vòm người có thể đi lọt nối thông hai hướng nam bắc trông giống như cổng đình khá là kỳ thú. Đi vượt lên phía trước, A Kiều quay đầu lại thấy hai rễ cây lớn nổi lên mặt đất của Nhị tướng quân uốn cong như cặp cánh, vừa như hùng ưng giương cánh, lại tựa như kim kê muốn bay lên. Đi thêm một lát nữa, quả nhiên thấy một cây bách còn cao lớn hơn hai cây vừa rồi, Lưu Triệt đứng dưới hàng cây thở dài nói, “Kỳ công tạo hoá thật không lừa người!” Y liền phong cây bách là Bách đại tướng quân, lại sai người lập bia bên cạnh, trên bia có khắc dòng chữ “Bia vua Hán phong cây bách làm tướng quân.” Sau đó y cảm thấy đã mãn nguyện, bèn dẫn mọi người xuống núi. Một cơn gió nhẹ thổi qua đỉnh núi làm cho cành lá của Bách đại tướng quân nhẹ nhàng đung đưa giống như gật đầu thăm hỏi.
Xe ngựa tiếp tục đi về hướng đông them mấy ngày thì đến Thái Sơn. Lưu Triệt sai người lên đỉnh khắc chữ lên vách đá, bản thân mình thì dẫn cả đoàn đi du Đông Hải. Tháng Tư, ngự giá trở về Thái Sơn, hơn vạn người đi theo phủ kín cả Thái Sơn tạo nên một cảnh tượng hết sức hùng tráng.
Hoàng đế theo lễ nghi đã định ra, đến lễ ở đền thờ thần Địa chủ ở núi Lương Phụ, sau đó cử hành lễ Phong, xây đàn Phong cao chín thước ở dưới chân núi hướng đông, bên dưới chôn sách Ngọc điệp[3]. Sau khi kết thúc lễ Phong thì sai phu dịch tu sửa đường núi cho phu xe chở đá hộc lên xếp thành đài Phong. Hoàng đế ở dưới chân núi trai giới bảy ngày rồi dẫn Trần A Kiều và các bề tôi lên lên Thái Sơn tiến hành lễ Phong long trọng nhất và cũng là trang nghiêm nhất trong lễ Phong Thiện. Ở miếu lớn trên đỉnh núi, Trần A Kiều thay y phục cho Lưu Triệt. Lưu Triệt buộc xong dải mũ, nhìn A Kiều, giọng bùi ngùi, “Kiều Kiều, nàng còn nhớ, trẫm từng hứa với nàng trong ngày tân hôn rằng trẫm sẽ làm một minh quân kiến tạo nên một mảng giang sơn gấm vóc để truyền lại cho con cái của chúng ta không?”
[3] Sách Ngọc điệp: Thời cổ, gia phả của hoàng tộc Trung Quốc được gọi là Ngọc điệp.
Nàng ngẩng đầu nhìn lên liền sững sờ trước ánh mắt đen nhánh sắc bén của y, hồi lâu sau mới nhớ lại. Điều này y đã từng nói với nàng vào đêm tân hôn của hai người, đã từng vứt bỏ, giờ lại nhặt lên. Nàng buông lỏng tay, tâm trạng quay cuồng, ngoảnh đi, khẽ nhắc, “Giờ lành đã tới rồi, bệ hạ ra ngoài đi.”
Y liếc nàng một cái, ánh mắt thoáng có vẻ thương tiếc lẫn bất đắc dĩ, song chỉ trong nháy mắt y xoay người đi, ánh mắt này đã bị thay thế bằng vẻ tự tin và khí phách.
Đúng vậy, ngập tràn khí phách. Từ trước đến nay, Phong Thiện là vinh dự cao nhất của đế vương. Đối với một đế vương mà nói, lễ Phong Thiện còn long trọng hơn cả đại lễ đăng cơ, bởi vì mỗi đế vương đều có đại lễ đăng cơ của mình nhưng không phải đế vương nào cũng có tư cách lên Thái Sơn làm lễ Phong Thiện.
Từ khi y đăng cơ đến nay thoáng chốc đã ba mươi năm. Trong ba mươi năm này, y đánh bại mấy thiền vu Hung Nô mà các triều đời Hán vẫn xem là đại hoạ tâm phúc, bình loạn ngoài biên giới, thu nạp nước Điền, khuất phục Triều Tiên, kết hôn cầu hoà với Ô Tôn, kiến lập nên lãnh thổ Đại Hán hoà bình rộng lớn chưa từng có. Thần dân trong lãnh thổ đều tôn y làm quân chủ, an cư lạc nghiệp, đời sống bình an, pháp luật nghiêm cẩn. Công lao như vậy nhìn lên có thể báo với Trời, cúi xuống có thể thưa với Đất, người người thần phục nên mới có lễ Phong Thiện ở Thái Sơn ngày hôm nay.
Lễ phong là nghi thức vô cùng trang trọng, lễ phục trên người Lưu Triệt nửa trên màu vàng để biểu thị thân cận với trời, nửa dưới màu đen để biểu thị kính trọng với đất. Y nghiêm trang đi lên đài Phong, mười hai vòng hạt châu màu đen từ mũ miện rủ xuống biểu lộ thân phận đế vương trong chốn nhân gian. Đế vương thông qua lễ Đăng Phong là để thông cáo với trời, bày ra quân quyền thần thụ, quyền uy quân chủ, được trời cao đồng ý.
Trần A Kiều đứng dưới nhìn Lưu Triệt làm lễ ở trên đài Phong. Dù nàng cũng không tin vào chuyện dùng lễ Phong Thiện có thể thông cáo tới trời cao nhưng mỗi thời đại cần một loại tín ngưỡng. Nàng là hoàng hậu của đế quốc thì nhất thiết phải duy trì được tín ngưỡng này. Lưu Triệt đứng cạnh tấm bia đá trắng muốt không khắc chữ trên đỉnh. Tấm bia cao mấy trượng, trên dưới đều bằng nhau, đỉnh hình chóp mũ, cao vυ't vững chãi.
“Trẫm thấy những đế vương thời trước đều cho dựng bia khắc ghi công tích”, sau khi xuống đài, Lưu Triệt nói với A Kiều, “trẫm không cần vậy. Trẫm công đức cái thế, không phải một tấm bia đá nhỏ có thể ghi hết.”
A Kiều nghe xong cười một hồi, nam nhân này vẫn luôn có bộ dạng tự đại độc tôn như vậy. Nhưng y có tư cách ấy. Thời đại Hán Vũ Đế là thời thịnh trị chưa từng có trong lịch sử Trung Quốc, nhân tài xuất hiện lớp lớp, công lao sự nghiệp kỳ vĩ, để lại cho các triều đại sau một bức bản đồ rõ ràng. Sau triều đại của y thì đến triều Đường mới lại hưng thịnh huy hoàng tương tự.
Bọn họ ở lại trên đỉnh núi một đêm. Lưu Triệt đã tạo lập công đức muôn đời, lại có giai nhân trong lòng nên cực kỳ hưng phấn, sai người mang tới một loại cây để đích thân trồng.
“Hay cứ chọn cây bách đi.” A Kiều nói. “Cây bách sống được ngàn năm. Ngàn năm sau, mọi người lêи đỉиɦ Thái Sơn còn có thể chiêm ngưỡng cây do bệ hạ đích thân trồng, giống như những cây bách tướng quân bệ hạ thấy trên Tung Sơn.”
“Hay.” Lưu Triệt luôn không muốn làm A Kiều cụt hứng, gật đầu nói,”Vậy chọn bách đi.”
Tùy tùng rất nhanh tìm tới mấy cây bách non. Tuy nói là Hoàng đế đích thân trông nhưng thật ra đều do tùy tùng đào hố, tưới nước, Lưu Triệt chẳng qua chỉ cẩn thận đặt cây giống vào cái hố mà họ đã đào sẵn.
“Kiều Kiều tới đây giúp trẫm một tay.” Lưu Triệt gọi.
“Được rồi.” Nàng gật đầu đáp rồi đi qua nhẹ nhàng giữ cây giống cho Lưu Triệt xúc đất đổ vào hố.
Nàng có thể nghĩ đến cảnh cành lá sum sê, dáng cứng cáp cao vυ't của sáu cây bách thời Hán này vào ngàn năm sau nhưng không biết cuối cùng là cây nào bị “Xích Mi chém một nhát, thấy chảy máu nên dừng tay”[4].
[4] Trong sân bách của đại miếu trên núi Thái sơn, có một cây bách lớn, cây đã hơn hai nghìn tuổi mà vẫn tươi tốt sum suê. Bên dưới của cây có một vết chém màu đỏ, đây chính là vết tích của quân Xích Mi để lại trên cây bách cổ.
Vào cuối thời Tây Hán, phía đông Sơn Đông và phía Bắc Giang Tô xảy ra thiên tai, lại thêm sự phẫn nộ của nhân dân đối với triều đình, quân khởi nghĩa Xích Mi nổi dậy, họ vẽ lông mi đỏ để phân biệt với quân triều đình. Quân khởi nghĩa từng hạ trại trên núi Thái Sơn, không biết là do lòng thù hận đối với nhà Hán hay là vì thiếu củi, mà quân Xích Mi đã đi vào miếu, ra tay chặt cây bách do chính tay Hán Vũ Đế Lưu Triệt trồng. Nhưng rất lạ, chưa chặt được mấy nhát thì thân cây bách bỗng nhiên chảy ra chất lỏng màu đỏ. Quân Xích Mi thấy vậy vô cùng hoảng sợ, không dám chặt nữa. Vết chém đó vẫn còn lưu lại trên thân cây bách, hơn nữa màu đỏ kia vẫn không hề phai nhạt so với lúc ban đầu, nay đã trở thành một kỳ quan.
“Mình nghĩ quá xa rồi”, Trần A Kiều thấy buồn cười, sáu cây bách thời Hán lúc này chẳng qua chỉ là những cây giống nhỏ bé còn chưa biết bao lâu nữa mới trưởng thành. Huống chi, hai mươi năm lịch sử đã vô tình thay đổi trong tay bọn họ, còn chưa biết ngày sau có quân Xích Mi hay không nữa. Trồng xong cây, chuyện tiếp theo giao cho thị tòng lo liệu, bọn họ tới miếu lớn thay y phục.
Vào ban đêm có thể thấy lờ mờ hình dáng Thái Sơn cao ngất, mênh mang sâu thẳm, khí thế bàng bạc, trùng điệp không ngừng. Tới ngày hôm sau, mặt trời từ phương đông mọc lên trông hết sức huy hoàng tráng lệ. Bảy mươi hai ngọn núi của dãy Thái Sơn dưới ráng mây che phủ trông u nhã hiểm trở, mỹ lệ mênh mang, thế núi lô xô, đẹp không sao tả xiết. Đứng trên đỉnh núi dõi mắt trông về phía xa, thu hết thảy mọi vật vào trong tầm mắt.
“Thái Sơn trùng điệp,
Lỗ mãng vọng trông.
Ngầm như báo mộng,
Toại nguyện phương đông.”[5]
[5] Trong sách Lỗ Tụng – Kinh thi.
Lưu Triệt cất tiếng ngâm rồi quay sang hỏi A Kiều, “Người đời vẫn nói Kiều Kiều là tài nữ một thời, thấy cảnh hùng tráng thế này thì có thơ phú để tán thưởng không?”
Nàng nhìn y một lát, ngân nga:
“Đông nhạc núi cao vυ't,
Đẹp như là cõi tiên.
Gói không gian trống vắng,
Tĩnh mịch đến u huyền.
Chẳng ai đem bút vẽ,
Mây tỏa sắc tự nhiên.
Đất trời như vẫy gọi,
Ta sống thú điền viên.
Xin gửi thân nơi ấy,
Trọn cuộc đời bình yên,”[6]
[6] Thái sơn Ngâm của Tạ Đạo Uẩn.
Không khí trong phòng tĩnh mịch rất hợp với tính cách của A Kiều, nhưng câu cuối cùng khiến tâm trạng Lưu Triệt trầm xuống. Sao y có thể để cho A Kiều rời khỏi mình mà ở lại Thái Sơn dù chỉ một ngày cơ chứ? Mọi người xuống núi Thái Sơn đi cùng Lưu Triệt dựa theo nghi lễ tế Hậu Thổ làm lễ Thiện dưới chân núi Túc Nhiên ở hướng đông bắc Thái Sơn.
Tương truyền minh đường thời Hoàng Đế[7] ở dưới chân núi Thái Sơn cực kỳ đơn sơ, “Xung quanh không vách, mái lợp có tranh, bốn bề ngập nước, vào cửa Tây Nam, tên là lầu Côn Luân.” Nhưng đến thời Hán thì đã không còn nữa. Lưu Triệt ra lệnh trước hết cứ dựa theo phép cũ thời Hoàng Đế mà xây dựng một ngôi minh đường, lại ban bố chính lệnh triệu kiến đại thần cùng tế tự thần linh tổ tiên. Sau khi lễ Phong Thiện kết thúc, Lưu Triệt từ lầu Côn Luân vào minh đường, tiếp nhận lời chúc tụng của quần thần, cắt lấy hai huyện phía trước để thờ phụng Thái Sơn, đặt tên là huyện Phụng Cao.
[7] Hoàng Đế, còn gọi là Hiên Viên Hoàng Đế, là một vị vua huyền thoại và anh hùng văn hóa Trung Quốc, được coi là thủy tổ của mọi người Hán.
Ngự sử viết chiếu rằng: “Trẫm lấy thân hèn kế thừa ngôi vị chí tôn, nơm nớp lo sợ không dám nhậm chức. Trẫm đức còn đơn bạc, không rõ lễ nhạc, nếu xây từ đường thái miếu chỉ giống hình thức thì hy vọng có bùa chú để trấn áp quái vật. Trẫm bỏ du͙© vọиɠ, đăng phong Thái Sơn, rồi đến Lương Phụ, sau đó thiền định nghiêm túc, ăn năn hối lỗi. Trẫm cùng các kẻ sĩ và thường dân làm lại từ đầu, ban thưởng trăm hộ dân một con trâu mười vò rượu, tặng thêm những cô quả trên tám mươi tuổi hai súc vải vóc, miễn tô thuế năm nay cho các vùng Phục Bác, Phụng Cao, Xà Khâu, Lịch Thành. Đại xá thiên hạ giống như lệnh năm Ất Mão là có làm thì phải chịu nhưng nếu đã xảy ra trên hai năm thì đều không tính nữa.”
Lễ Phong Thiện ở Thái Sơn kết thúc thì thiên tai lũ lụt không hề xảy ra khiến uy vọng của Lưu Triệt nhất thời đạt đến đỉnh cao, đi đến đâu dân chúng cũng hết lời tán tụng. Nghi trượng tiếp tục đi về hướng bắc tới Kiệt Thạch rồi lại đi tuần từ Liêu Tây sang phía bắc tới Cửu Nguyên. Trần hoàng hậu đều đi theo suốt chặng đường, Hoàng đế và Hoàng hậu ở với nhau rất hòa hợp.
Từ sau lễ Phong Thiện, Lưu Triệt hăng hái, không muốn lập tức trở về đế đô Trường An mà nhân tiện lên đường tuần thú. Từ Cửu Nguyên tới biên giới phía bắc, thanh thế lên cao thì y mới cảm thấy mãn ý, hạ lệnh quay lại, vượt qua Hoàng Hà trở về Trường An.
Trần A Kiều theo Lưu Triệt suốt chặng đường, cảm thấy ra khỏi thành Trường An thì bầu trời rộng mở, tâm tình thanh thản, ngàn vạn ưu phiền lo nghĩ đã có người bên cạnh xử lý ổn thỏa, bản thân mình yên lòng thỏa sức ngắm nhìn núi sông Đại Hán tươi đẹp. Trong đời nàng đã mấy lần đi xa, dù người bên cạnh khác nhau nhưng lần nào cũng đều cảm thấy vui vẻ. Lưu Triệt tuy là một người khi trở mặt sẽ lạnh lùng nhưng nếu y còn có tình cảm với ai thì có những lúc sẽ là một tình nhân tốt nhất. Nàng cảm giác mình đang đùa với lửa. Dù bây giờ ngọn lửa chỉ phát ra ánh sáng bập bùng mỹ lệ trong lòng bàn tay nhưng chỉ sợ nếu không cẩn thận thì có một ngày sẽ đốt cháy cả bản thân mình.
“Sợ cái gì?” Lưu Lăng cười khanh khách nói: “Bàn về đùa với lửa tới mức thành thục thì có ai thắng được tỷ.”
“Tỷ không phải sợ”, nàng ngẩng đầy lười biếng nhìn Lưu Lăng, “Nhưng mà…” Nàng muốn nói lại thôi, ngày trước nàng đã giác ngộ được rằng, được thì tốt, không được cũng chẳng sao, chỉ cần cố gắng hết sức là được. Cho tới bây giờ, nàng lại mơ hồ hy vọng có thể sống ổn định đến lúc bạc đầu. Bạc đầu ư? Nàng ngửa đầu lên trào phúng, nếu bạc đầu, dung nhan không còn tươi đẹp như xưa nữa thì chẳng phải người kia sẽ quay lưng bỏ đi không chút do dự hay sao?
Vợ chồng Lưu Lăng cũng ở trong đoàn tùy tùng lần này. Thỉnh thoảng khi Lưu Triệt không ở bên cạnh nàng thì Lưu Lăng lại tới tâm sự. Nàng kéo tay Lưu Lăng nói: “Lăng Nhi đã từng đến Hoàng Hà rồi sao?”
“Xem kìa.” Lưu Lăng mỉm cười nói, “A Kiều tỷ chưa từng nghe rằng một dải bờ nam sông Hoàng Hà nổi tiếng nhờ hoa đào, được xưng ‘Mười dặm hoa đào đỏ ráng trời’, muội từng mộ danh đến xem, quả nhiên cảnh sắc thật là rực rỡ.”
“Muội thích hoa đào”, Trần A Kiều thở dài nói, “Thật không biết muội có phải là yêu hoa đào kiếp trước đầu thai hay không.”
“Nói vậy cũng không sai.” Lưu Lăng cười tinh nghịch: “Chẳng phải A Kiều tỷ cũng thích nhất hoa cúc?”
“Ta không yêu cuồng si như muội đâu.” Nàng liếc Lưu Lăng, vén rèm xe lên nhìn ra dải đất vàng mênh mông bên ngoài. Ngự giá dù đã gia cố nhưng vẫn cảm giác hơi xóc, nàng nhìn ra ngoài xa chỉ thấy ruộng vườn bát ngát một màu xanh tươi.Quyển 4 - Chương 96: Một khúc tình ca trọn kiếp ngườiNgày thứ hai, thuyền vượt qua Hoàng Hà tiếp tục xuôi nam. Ở trên thuyền nghe tiếng sóng Hoàng Hà xô rào rạt chấn động lòng người. Thuyền tiếp tục đi về phía trước, quả nhiên thấy những cánh rừng đào trùng điệp mấy dặm liền, tiếc rằng đã hết mùa, hoa đào đã tàn tạ chỉ còn lại cành lá xanh biếc thoang thoảng hương thơm.
“Thật đáng tiếc.” Trần A Kiều liền buông tay thả rèm xuống, “Nếu còn hoa đào nở thì nhất định là rất đẹp.”
Lưu Triệt ôm lấy nàng dỗ dành, “Nếu Kiều Kiều muốn thì đầu xuân sang năm lại đến xem cũng được mà.”
“Bệ hạ”, A Kiều đưa mắt nhìn y, “Người cho rằng người đi tuần một chuyến là rất dễ dàng có phải không? Người không biết ngân khố phải chi bao nhiêu tiền hay sao mà sang năm lại đi nữa? Người tỉnh lại đi. Thϊếp sợ Tang tư nông lấy đao chém thϊếp đó.”
Lưu Triệt cười lạnh một tiếng, nói: “Hắn dám.” Ánh mắt của y có chút thâm trầm. Nàng thầm than đã lỡ lời, đang định nói mấy câu vớt vát thì bỗng nghe thấy phía ngoài có tiếng người thốt lên, “Mười dặm sông dài hoa đào ngút trời! Quả nhiên là danh bất hư truyền!” Cả đoàn nghi trượng xôn xao, ngay cả xe ngự cũng từ từ dừng lại. Tất cả mọi người đều ngạc nhiên, giờ đã là đầu mùa hè thì lấy đâu ra hoa đào? Song cảnh tượng khi vén rèm lên lại khiến mọi người sững sờ. Những quầng mây lớn đỏ rực tựa như hoa đào hiện lên rõ ràng trên bầu trời cao trông như một dòng suối mây đang từ từ chuyển động, đẹp không thể tả xiết.
Lưu Triệt ngồi sau nàng cũng nhìn thấy, khẽ ồ lên một tiếng, “Xem ra trời xanh cũng không muốn để cho Kiều Kiều qua sông này phải tay trắng mà về, dù không thể khiến hoa đào nở nhưng lại sinh ra dòng sông mây để cho Kiểu Kiều chiêm ngưỡng.”
Câu nói vô cùng ngọt ngào nhưng A Kiều lại không cảm thấy vui sướиɠ. Nỗi lòng nàng cứ chìm dần, chìm dần xuống, cuối cùng lại mỉm cười. Điều gì phải đến thì sẽ đến, chẳng phải vậy sao? Nàng luôn biết rằng ở nơi này có một người con gái sẽ xuất hiện trước mặt Lưu Triệt rồi giành được sủng ái, cuối cùng sinh ra một người con trai trở thành hoàng đế Đại Hán kế nhiệm. Nhưng đó không phải là bây giờ mà là sáu năm sau.
Sáu năm sau thì nàng đã già rồi. Liệu Lưu Triệt có tách khỏi nàng để bước theo con đường lịch sử vốn có, xóa sạch tất cả mọi dấu tích về bọn họ? Nàng không biết. Nàng chỉ nghĩ rằng lịch sử đã bị bọn họ làm biến đổi đến hình thái như ngày hôm nay thì liệu người con gái kia có thể cũng biến mất ở trong buổi hồng hoang của lịch sử? Nhưng cô ta vẫn xuất hiện trong tầm mắt của bọn họ, có điều là sớm hơn sáu năm. Quả nhiên, có thuật sĩ chạy đến trước xe ngự, dập đầu nói: “Chúc mừng bệ hạ. Chúc mừng bệ hạ. Suối mây lành may mắn này là phúc tướng trời sinh, báo hiệu Đại Hán ta muôn đời hưng thịnh.”
“Hơn nữa”, lão hơi ngẩng đầu lên liếc nhìn Trần hoàng hậu ở bên cạnh Hoàng đế, hơi do dự một chút rồi nói: “Bần đạo thấy điềm mây này có nghĩa là nơi đây tất có kỳ nữ hiện thế.”
“Ồ”, Lưu Triệt nửa cười nửa không nói, “Bàn về kỳ nữ, chẳng lẽ còn có cô gái nào đặc sắc hơn cả hoàng hậu của trẫm sao?”
“Hoàng hậu nương nương tất nhiên là một kỳ nữ thế gian hiếm có”, phương sĩ không dám ngẩng đầu nhưng vẫn nói: “Nhưng vì sao mây lành không xuất hiện ở nơi khác mà lại xuất hiện đúng lúc Hoàng đế qua sông Hoàng Hà chứ? Có thể thấy rằng kỳ nữ này khác hẳn những người khác.”
“Nếu như thế”, Lưu Triệt quyết định, “thì hôm nay nghỉ lại nơi này. Cho người đi tìm kỳ nữ đó đến.”
Trần A Kiều không nhịn được quay đầu lại nhìn Lưu Triệt. Nàng không tin vào lời nói mây lành phúc tướng gì đó. Nàng chỉ từ ghi chép trong lịch sử mà cảm thấy Triệu Câu Qua thật sự là một người con gái có dã tâm, giỏi cơ mưu, biết quyền biến, thế nhưng cô ta không hiểu rõ về lòng dạ sắt đá tuyệt tình của Lưu Triệt, cho dù có thành công cũng chẳng còn tính mạng để hưởng thụ. Nhưng một người con gái dám liều mạng đánh cuộc lớn và nguy hiểm như vậy thì điều cô ta muốn chắc không phải là hưởng thụ mà chỉ là thành công mà thôi, để cuối cùng bánh xe lịch sử sẽ chuyển động theo ý chí của mình. Đó sẽ là một thành tựu vô cùng lớn lao. Lưu Triệt sẽ tin là thật? Hay y chỉ cho đây là câu chuyện cười do một người tự diễn?
Lưu Triệt cảm nhận được ánh mắt của nàng, cười một tiếng trấn an: “Chẳng có việc gì thì cứ để xem thế nào.”
Nàng chợt thấy lạnh toát trong lòng. Lần trước lúc gặp thuật sĩ Loan Tử thì y cũng nói như thế, kết quả là gây ra sóng gió rung trời. Sau khi vào hành cung, phương sĩ lại tới khấu đầu nói: “Bần đạo xem điềm mây thì cô gái này phải ở Hà Gian phía đông nam sông Hoàng Hà, chỉ là nơi đó rất đông người, trong thời gian ngắn chắc không tìm được….”
Dương Đắc Ý thấy Lưu Triệt tỏ vẻ lãnh đạm thì vội vàng trách, “Vậy thì sai người cố gắng tìm đi. Bệ hạ là hoàng đế Đại Hán cho dù cô ta là ai cũng không có thể để cho bệ hạ phải đi về hướng đông nam tìm gặp được.” Phương sĩ toát mồ hôi đầm đìa, vâng dạ lui ra. Ngày thứ hai thì bên dưới báo lên rằng quả nhiên tìm được ở Hà Gian một người con gái họ Triệu vô cùng diễm lệ, nghe nói thuở nhỏ hai tay bị tật luôn nắm chặt không thể mở ra.
Lưu Lăng đang đánh cờ với Trần A Kiều ở trong điện của hành cung. Nàng hạ một nước cờ, oán hận nói, “Đáng tiếc là không ngờ cô gái họ Triệu lại xuất hiện sớm những sáu năm nên chưa thu xếp thỏa đáng được. Bây giờ thì không thể động thủ vì sẽ để lại quá nhiều dấu vết.”
Đã đến nước này thì Trần A Kiều trái lại rất bình thản, chỉ nói: “Hãy thuận theo tự nhiên đi.”
“Thật ra”, Lưu Lăng hạ cờ cực nhanh, nói giọng đầy suy tư “giữa Lý Nghiên và Triệu Câu Qua thì muội thích Lý Nghiên hơn một chút. Mặc dù cả hai đều có thủ đoạn nhưng Lý Nghiên không bố trí và có dã tâm lớn như vậy.”
Trần A Kiều bật cười, nghe Lục Y vén rèm bẩm, ‘Nương nương, bệ hạ đã tuyên cô gái họ Triệu lên điện rồi.” Nàng chỉ khẽ ồ lên một tiếng.
“Nương nương”, Lục Y nói gấp gáp, “Tại sao người lại không lo lắng một chút nào vậy?”
Nhìn vào thế trận này, chỉ cần cô gái họ Triệu đủ xinh đẹp khiến cho Lưu Triệt thấy yêu thích thì rất có thể sẽ được nhận vào hậu cung. Dù sao thì có hoàng đế nào kháng cự nổi một kỳ nữ được trời cao mách bảo? Hơn nữa bệ hạ lại rất kính ngưỡng quỷ thần.
“Lo lắng thì có tác dụng sao?” Nàng không ngẩng đầu lên mà chỉ hỏi lại khiến cho Lục Y im bặt.
Những năm qua nàng vẫn âm thầm quan sát thân thể trải qua mấy lần đại nạn nhưng lại già đi rất chậm. Tính ra thì thời gian ước chừng hai năm đối với người khác chỉ bằng nàng trải qua một năm. Nàng không hỏi được ai, chỉ có thể thầm suy tính do trong cơ thể mình có hai linh hồn. Cho tới bây giờ cơ thể của nàng cũng khoảng ba mươi ba tuổi. Mặc dù ba mươi ba chưa thể coi là già, tóc nàng vẫn đen nhánh có thể soi gương nhưng dù sao cũng đã qua thời đẹp nhất của người con gái. Nàng muốn được ở bên cạnh y cho đến lúc bạc đầu, nhưng nếu đến lúc bạc đầu thật rồi lại bị ruồng bỏ thì nàng làm sao chịu đựng nổi? Thế nên nếu muốn đoạn tuyệt thì nên làm luôn khi còn trẻ cho xong. Lúc này, nếu như y sinh lòng đứng núi nay trông núi nọ thì nàng còn có thể dùng lý trí đào thải y ra khỏi trái tim, biết tự trân trọng mình. Chỉ là rất khó vượt qua đau thương mà thôi.
Lưu Lăng trông thấy ánh mắt của nàng, thầm than một tiếng. Nàng đứng trước cửa sổ, nhìn theo cô gái đang cúi đầu theo viên nội thị đi xuyên qua hành lang vào gặp mặt vua. Mặc dù cô gái cúi đầu nhưng vẻ thùy mị của cô vốn không phải ở dung nhan, chỉ nhìn dáng người cũng thấy nét thanh xuân phơi phới. Còn nàng và A Kiều thì đều đã sắp già rồi. Hồng nhan dù có xinh đẹp nhưng với thời gian thì cũng dần hóa thành xương khô. Tay của Triệu Doanh Mi[1] nắm thật chặt. Nàng từ xa nhìn lại mà dường như vẫn có thể trông thấy trên bàn tay mảnh dẻ hiện lên những làn gân xanh chằng chịt. Buồn tẻ và nhạt nhẽo!
[1] Doanh Mi là tên tự của Câu Qua.
Triệu Doanh Mi vào trong điện liền ngửi thấy một mùi thơm thoang thoảng mát dịu. Dưới tấm màn lụa nhiều tầng có một lư hương hình Thao Thiết[2] bằng đồng xanh đang tỏa ra những làn khói xanh nhàn nhạt lững lờ bay lên trông rất đẹp mắt. Người ngồi trên điện chính là vị hoàng đế tôn quý nhất của đế quốc. Cô hơi thả lỏng tay, khầu đầu, “Dân nữ Triệu Doanh Mi khấu kiến bệ hạ.”
[2] Thần thú Thao Thiết cổ xưa theo truyền thuyết là một trong chín đứa con của rồng, một linh vật có đôi mắt to, miệng rộng, dáng vẻ kỳ lạ. Đặc điểm nổi bật của Thao Thiết là tham ăn vô độ, gặp gì ăn nấy, cuối cùng cũng chết vì ăn.
Ở trên điện, Hoàng đế khẽ ồ một tiếng, lệnh xuống: “Ngẩng đầu lên xem.” Y nói bằng giọng hơi trầm, có vẻ thờ ơ.
Lưu Triệt liền thấy cô gái bên dưới điện từ từ ngẩng đầu, hàng mi lá liễu, đôi môi đỏ mọng, da trắng như tuyết lại tựa như được tráng một lớp men sứ trông nõn nà bóng mượt. Y ngắm kỹ một lúc mới hỏi, “Trẫm nghe nói rằng từ nhỏ ngươi đã không thể xòe hai bàn tay ra được phải không?”
Triệu Doanh Mi thấy bậc đế vương ngồi trên ghế ngự đã không còn trẻ, khuôn mặt sắc sảo, đôi môi rất mỏng, vô tình đến mức hấp dẫn thì im lặng một hồi rồi cúi đầu đáp: “Không dám dối lừa bệ hạ, đúng là như vậy.”
Lưu Triệt liền ra ý bảo nội thị ở phía sau tiến đến bên cạnh Triệu Doanh Mi. Triệu Doanh Mi dịu dàng đưa tay ra, nội thị thử gỡ các ngón tay một lát rồi quay lại bẩm, “Bệ hạ, quả nhiên không duỗi ra được.”
“Ồ.” Lưu Triệt cảm thấy phấn khích bèn đích thân đi xuống. Y vừa trông thấy đôi tay mềm mại như không có xương cốt kia thì không hiểu tại sao lại thấy cặp mắt của A Kiều như hiện lên trước mặt, vừa có vẻ độ lượng, vừa có chút giận hờn, chợt lóe rồi biến mất. Y đích thân dùng tay duỗi ngón tay cô ra, da thịt nóng hổi vừa chạm vào nhau thì gương mặt Triệu Doanh Mi liền đỏ bừng lên từng mảng. Y tựa như không phải dùng chút sức lực nào mà bàn tay cô vẫn tự nhiên xòe ra, trong lòng bàn tay có một viên ngọc trong suốt, dưới ánh nến phát ra ánh sáng lóng lánh.
Trần A Kiều đang chơi cờ vây với Lưu Lăng ở điện Tây, mặc dù nét mặt vẫn tỏ ra hững hờ nhưng trong lòng lại có vẻ thấp thỏm. Lưu Lăng khoát tay một cái xóa ván cờ đi rồi thở dài nói, “A Kiều, nếu thấy không yên tâm thì hãy đến đó xem thế nào. Thế còn tốt hơn là người một nơi mà hồn một nẻo.”
Nàng ngơ ngác một lúc rồi cười khổ nói, “Rốt cuộc là tỷ vẫn còn lưu luyến.” Nàng vứt quân cờ xuống, tâm tư rối loạn ưu phiền. Nàng không muốn đến xem hai người đang làm gì ở đó, cũng không muốn ngồi ở đây thở ngắn than dài, bỗng nhiên đứng bật dậy nói, “Lăng Nhi, đi cưỡi ngựa với tỷ đi,” Lưu Lăng biết nàng không thoải mái, lắc đầu nói, “Thôi, tỷ đi một mình ra ngoài hít thở không khí trong lành cũng tốt.”
Nàng đến chuồng ngựa, cưỡi lên một con rồi phi ra ngoài hành cung. Cung nhân không dám ngăn cản vội vàng chạy đến chính điện thông báo cho Hoàng đế. Dương Đắc Ý nghe vậy thì không dám chậm trễ, vội vàng vén rèm bước vào ghé sát tai Lưu Triệt nói khẽ, “Bệ hạ, Trần hoàng hậu cưỡi ngựa xuất cung rồi.”
Lưu Triệt lập tức buông tay Triệu Doanh Mi ra. Triệu Doanh Mi quỳ ngay sát gần Hoàng đế, gần đến mức có thể nhìn thấy những đường chỉ đen tỉ mỉ trên áo bào của Hoàng đế. Cô loáng thoáng nghe thấy người nọ đến gần nói thầm vào tai Hoàng đế những câu gì đó, trong đó có chữ hoàng hậu. Bệ hạ khẽ “ồ” một tiếng, hơi nhếch miệng cười nhạt, nếu cô không nhìn lầm thì nụ cười đó lại có phần mang vẻ hân hoan.
Lòng cô bỗng nhiên trầm xuống. Phụ thân của cô từng là quan thủ vệ cửa Hoàng môn của cung Vị Ương. Sau khi mẫu thân sinh được cô thì phụ thân không biết vì lý do gì mà lại cung hình, nhậm chức Trung hoàng môn, cuối cùng thì mắc tội, bị xử tử ở kinh đô Trường An. Đó là thành Trường An phồn hoa mà mẫu thân thường nói ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Khi còn bé, cô thường nghe mẫu thân kể chuyện rằng cho dù nơi đẹp đẽ trang nghiêm nhất trên thế gian này cũng không thể sánh bằng cung Vị Ương ở thành Trường An xa xôi đó. Phấn son mà các phi tần hàng ngày tẩy rửa đi có thể nhuộm nước sông Vị Thủy thành màu hồng tựa như cánh hoa đào. Phụ thân năm xưa đã nói với mẫu thân như vậy. Mẫu thân là một người kiên cường, phu quân mất rồi thì đem nhưng điều phu quân đã nói khi còn sống kể lại cho con gái nghe để con gái có thể có thêm nhiều ấn tượng về phụ thân của mình.
Cô mỗi ngày một lớn lên, dung nhan như hoa như ngọc, trong cả trăm dặm xung quanh không ai sánh bằng. Tâm cơ của cô cũng sâu sắc tương đồng với sắc đẹp. Cô nhắm tới tòa cung điện mà phụ thân đã nhắc tới, chỉ khác là cô muốn vào đó nhưng không phải bằng thân phận nô tài như phụ thân mình mà muốn làm chủ nhân tòa cung điện đó. Một dung nhan như hoa như ngọc mà bảo cô phải cam tâm chết già ở chôn quê mùa thì thật quá khó khăn.
Một người mẹ có thể nuôi dưỡng được con gái như vậy thì sao có thể là một người phụ nữ đơn giản? Trước khi cô đi, mẫu thân đã vuốt ve gương mặt của cô, sắc mặt lạnh tanh. “Ta không tin” bà nghiến răng nói, “Trần hoàng hậu đã lớn tuổi như vậy lại có thể hơn được Doanh Mi của ta.”
Đúng thế, cô vừa qua tuần cập kê, sức sống của tuổi trẻ giúp vẻ đẹp của cô hiện rõ trên từng tấc da thớ thịt. Mà nghe nói Trần hoàng hậu còn lớn hơn bệ hạ tới hai tuổi. Một người con gái dù có xinh đẹp đến đâu khi đến tuổi này thì dung nhan cũng phải héo tàn. Cô chưa từng nghĩ rằng bệ hạ sẽ không vừa ý về mình. Để tiến vào tòa cung điện cho bệ hạ ngắm nhìn dung nhan kiều diễm của cô, mẹ con cô đã đánh cuộc bằng cả tính mạng của mình. Lập ra những thủ đoạn lớn như vậy, đánh cược bằng cái giá lớn như vậy, nếu không có kết quả gì thì điều gì sẽ đợi chờ hai người?
Ánh sáng từ cửa điện hắt vào, chiếu lên khuôn mặt nghiêng nghiêng của bệ hạ để lại một cái bóng mờ với đường cong ưu nhã nhưng vô tình. Y cười nhạt nói: “Nếu như thế thì Đắc Ý hãy theo trẫm đi tìm Hoàng hậu.” Y chắp tay đi ra ngoài cửa. Dương Đắc Ý ngạc nhiên gọi hỏi, “Bệ hạ, xử trí cô gái họ Triệu này như thế nào?”
Triệu Doanh Mi lúng túng quỳ gối trên điện. Hoàng đế hờ hững quay đầu lại nhìn cô, đôi mắt đen nhánh như một hố sâu không nhìn thấy đáy. Y lạnh lùng nói: “Cô ta có ý phạm tội khi quân. Lệnh cho Kỳ Môn quân dẫn đi, ban cho được chết.” Triệu Doanh Mi quá sợ hãi, ngã xoài ra trên mặt đất, nước mắt đầm đìa, giọng nói thê lương, “Bệ hạ, dân nữ đâu dám làm như thế?” sắc mặt cô trắng bệch, khóc sướt mướt như hoa lê dưới mưa rất đáng thương. Tiếc rằng Lưu Triệt lại không mảy may động lòng, chỉ cười lạnh nói, “Sao vậy? Nếu ngươi không dám thì sao dám thăm dò ý trẫm.”
Từ lúc chưa gặp cô, trong lòng Lưu Triệt đã nổi sát ý. Một dân nữ huy động được lực lượng như thế thì có thể thấy là tâm tư tuyệt đối không đơn giản. Y đã không thể nào thu nạp thì nhất định phải nhổ cỏ tận gốc, nếu không thì dù Đại Hán dưới sự cai trị của y lúc này đang vững vàng như núi Thái Sơn nhưng nếu có kẻ lợi dụng danh tiếng kỳ nữ trời sinh của cô gái này thì chưa hẳn sẽ không gây ra chuyện. Y là đế vương, vẫn luôn thà gϊếŧ lầm vạn người chứ không thể bỏ sót một người. “Hơn nữa”, Lưu Triệt trầm ngâm nói, “Bành Thông nói năng bậy bạ, cũng ban cho được chết.” Y nói dăm ba câu xử trí hai mạng người xong thì không nói gì nữa mà cứ thế bỏ đi.
Trần A Kiều cưỡi tuấn mã phi thẳng một mạch về hướng sông Hoàng Hà. Nàng giục ngựa điên cuồng, không cần biết đến những thị vệ đi theo phía sau, cảm giác thấy gió sương phương bắc mát lạnh quất vào mặt khiến tinh thần sảng khoái, tất cả những sức mạnh sinh lực vốn bị thương bệnh đoạt đi đã trở về cùng với lần phi ngựa sảng khoái này. Chỉ chốc lát sau, nàng vừa nghe thấy tiếng sóng sông Hoàng Hà rào rạt vang lên bên tai thì cũng liền thấy nước Hoàng Hà chảy cuồn cuộn trước mắt. Nàng kéo cương thắng ngựa dừng lại, bỗng nhiên bật cười vang.
Cần gì phải đa sầu đa cảm như vậy? Cứ để cho nước Hoàng Hà cuốn trôi đi tất cả những buồn bực phiền muộn ở trong lòng. Thế gian nay còn có rất nhiều cảnh đẹp hoành tráng, chỉ vì lòng nàng còn quá câu nệ nên chưa được thấy mà thôi. Thời đại này còn rất sớm, sông Hoàng Hà chưa bị đυ.c như đời sau. Nước sông trong đυ.c lẫn lộn, gầm thét chảy về phía trước.
Sóng nước Hoàng Hà chảy ầm ầm khiến nàng không nghe thấy tiếng vó ngựa lộp cộp phía sau nhưng nàng bỗng như có linh tính quay đầu nhìn lại, thấy có một đoàn người ngựa từ phương xa chạy tới, Con tuấn mã chạy trước tiên có màu đen nhánh như một con thần mã. Nàng nhìn người cưỡi ngựa thì trái tim đập rộn ràng. Ngoài y ra, còn người nào xuất hành mà lại dẫn theo nhiều tùy tùng như vậy? Nàng vừa mới nói cần phải thả lỏng tâm hồn nhưng lúc này lại không nhịn được, khóe mắt bờ môi đều nhiễm vẻ hân hoan. Một nụ cười đẹp như tranh khiến Lưu Triệt nhìn đến cơ hồ mê mẩn.
Đoàn thị vệ tháp tùng đến cách khoảng ba mươi thước thì đồng loạt ghìm cương lại, riêng một mình Lưu Triệt giục ngựa tiến về phía trước đến bên cạnh nàng. “Kiều Kiều”, y mỉm cười nói, “Trẫm thật sự rất vui, rốt cục trong lòng nàng vẫn còn có trẫm.”
Giọng nói của y không nhỏ nhưng ở gần sông Hoàng Hà chỉ trong gang tấc nên bị tiếng sóng át đi. A Kiều không nghe thấy rõ nhưng nhìn ánh mắt và nụ cười của y thì cũng đoán được rõ ràng. Mười ba năm rồi. Từ khi gặp lại hồi năm Nguyên Sóc thứ sáu đến lần đi tuần thú năm Nguyên Phong nguyên niên, đã đủ mười ba năm tròn. Trong mười ba năm đó, nàng cứ ơ hờ nhìn y đến rồi đi, không màng được thua, không buồn không vui. Rốt cục phải trải qua mười ba năm ròng nàng mới để tâm trở lại, tuy rằng còn xa mới cực kỳ chấp nhất như thời niên thiếu nhưng cả hai người đều hiểu rõ ràng ý nghĩa của nó. Tất nhiên, nếu nàng không mang lòng yêu thương đối với người đàn ông trước mắt này thì tại sao lại để tâm như vậy?
Nàng im lặng hồi lâu rồi chợt hỏi, “Người đem…?”
Nàng đột nhiên im bặt, bỏ lửng câu hỏi. Tất nhiên, y đã xuất hiện ở nơi này thì còn cần gì phải hỏi nữa. Lưu Triệt như hiểu được ý của nàng thản nhiên nói, “Kiều Kiều sẽ không gặp lại cô ta nữa.” Ánh mắt y thoáng hiện lên một tia tàn khốc. A Kiều một lúc sau mới hiểu, ngạc nhiên nói: “Cần phải vậy sao?” Cô gái kia tuy có dã tâm quá lớn nhưng cũng không đáng tội chết.
Nhưng nàng không phải là người quá lương thiện, huống chi nghĩ ra thì cũng hiểu cho ý tứ của Lưu Triệt. Lưu Triệt là bậc đế vương tôn nghiêm, y không thể dung tha cho kẻ dưới to gan dám tính kế với mình, huống chi kẻ đó lại không đơn thuần chỉ là một cô gái muốn được ân sủng.
Sóng nước Hoàng Hà ầm ào mãnh liệt, đám thị vệ ở ngoài xa không nghe thấy bọn họ nói gì. Chính bản thân hai người cũng phải nói lớn mới có thể nghe được tiếng của nhau. Lưu Triệt giục ngựa tới gần, vươn một tay ra bế nàng sang ngồi trước người mình. Con ngựa ô bọn họ đang cưỡi hí vang lên, quất đuôi tựa như bất mãn về việc tăng thêm trọng lượng trên lưng mình. Song đối với Lưu Triệt, A Kiều lại rất nhẹ, nhẹ đến mức y cảm thấy vươn tay ra bế nàng cứ nhẹ tênh tênh chẳng tốn chút sức lực nào.
“Lưu Triệt”, A Kiều ngồi yên trong lòng Lưu Triệt, khẽ gọi. Hai người ở sát bên nhau nên Lưu Triệt nghe tiếng nàng nói: “Người nhìn xem, thế nước sông Hoàng Hà mãnh liệt, một khi tràn bờ thì mấy ngàn dặm ruộng vườn đều sẽ bị phá hủy mất. Tai họa do con người gây ra còn tránh được chứ thiên tai thì biết tránh đi đâu. Ở trước mặt thiên nhiên, sức người thật là nhỏ bé.”
Lưu Triệt trầm ngâm giây lát rồi nói: “Trẫm lại tin tưởng mọi việc đều có cách giải quyết. Việc trị thủy, cho dù trẫm không thể nào hoàn thành nhưng còn có con cháu muôn đời sau nữa. Trẫm tin tưởng, giang sơn Đại Hán sẽ được con cháu của trẫm và Kiều Kiều kế tục, cuối cùng sẽ có một ngày giải quyết được việc này.”
Nàng ở trong lòng y, mỉm cười tươi tắn. Nàng biết rõ việc trị thủy là đại nghiệp muôn đời, cho dù ngàn năm sau vẫn không thể giải quyết thích đáng. Nhưng người này lại tự tin đến như vậy, một sự tự tin mãnh liệt mà những người khác khó có thể sánh được. Lưu Triệt, nàng nhủ thầm trong lòng, lúc này người đã đến bên ta vậy thì ta cũng nên nhường nhịn người một chút. Từ nay về sau, ta sẽ thật lòng coi người là chồng, là vua của ta. Kính trọng người, yêu thương người, tin tưởng người. Ta mong rằng sẽ đợi được đến khi chúng ta bạc đầu để hồi tưởng lại những chuyện trong cuộc đời này một lần xem điều gì là vĩnh viễn không quên? Là những tổn thương thuở còn niên thiếu hay là những cơn gió không ngừng trên bờ sông Hoàng Hà hôm nay? Tới lúc đó thì có lẽ ngay cả những tổn thương cũng có thể mỉm cười nhớ tới. Chỉ cần người không phụ ta thì ta vĩnh viễn không phụ người. Những tổn thương đã từng có sẽ tồn tại không cách nào xóa đi được. Ta cũng không có khả năng xóa chúng đi, chỉ là từ nay về sau ta sẽ chôn chặt chúng vào ký ức, chỉ cần người không khơi ra thì ta sẽ không đυ.ng tới. Hãy để chúng ta nhìn xem thời gian có thể vùi chôn được ký ức hay không? Chúng ta đều sắp già rồi.
Con ngựa hai người đang cưỡi rong ruổi dọc theo bờ sông Hoàng Hà. Vô số thị vệ đi theo cách chừng mười trượng phía sau bảo vệ Hoàng đế và Hoàng hậu của đế quốc Đại Hán. Đúng vậy, Hoàng đế và Hoàng hậu.
Nàng thả lỏng người, khẽ tựa vào ngực Lưu Triệt. L*иg ngực Lưu Triệt rất rộng khiến nàng tin tưởng rằng nếu có sóng gió thế nào thì y vẫn có thể che chở cho nàng. Thật là kỳ quái, tất cả những phong ba bão táp của nàng đều phát sinh từ người đàn ông này nhưng trong một khoảnh khắc, nàng lại không khỏi cảm thấy y sẽ ngăn gió che mưa cho nàng. Nàng chợt nhớ tới một câu thơ đã đọc trong sách cổ từ thuở nhỏ, “Núi có cây và cây có cành.”
“Triệt Nhi”, nàng bỗng động tâm, ngoảnh lại nói: “Thϊếp sẽ hát một khúc nhé. Người có muốn nghe không?”
Y hơi cúi đầu xuống, nhìn vào lúm đồng tiền của nàng, âu yếm nói, “Nàng hát đi.”
Gió Hoàng Hà ào ào thổi qua làm cho búi tóc của nàng xô ra, hơi xốc xếch nhưng nhìn rất nữ tính. Nàng suy nghĩ một chút rồi xướng lên giai điệu kia, giọng hát thánh thót.
“Mặt nước xanh sóng gợn
Vua cứ hoài ưu tư
Lòng có bao phiền muộn
Để mặc gió cuốn đi”
Trong cuộc đời mình, nàng đã nghe rất nhiều bản tình ca nhưng đến giờ cuối cùng thì nàng lại chọn một bài theo phong cách cổ. Năm xưa khi xuyên qua ngàn năm đi tới triều đại cổ xưa này, nàng có bao giờ ngờ được mình sẽ có kết cục như vậy?
“Giở lại trang sách sử
Ba năm lại ba thu
Gió Bắc gieo giá lạnh
Miên man kể nỗi sầu
Chung sống đến đầu bạc
Tử sinh đáng gì đâu
Ngàn năm đã qua hết
Tỉnh mộng lại u sầu”
Đứng trên bờ Hoàng Hà nhìn ra thấy bốn phía là một vùng đồng đất mênh mông. Đang đầu mùa hè, khắp nơi đều là màu xanh mơn mởn, bừng bừng sức sống. Nàng dần tin rằng nhân duyên do số mệnh sắp đặt.
“Thuyền Bách Chu rời bến
Theo sóng gió phiêu lưu
Trải qua bao con nước
Quên mất cả Ngũ Châu”
Nàng đã từng không chịu phục khi bị cuốn vào trong vòng xoáy vận mệnh. Dựa vào cái gì mà vận mệnh lại chọn đúng nàng trong thế giới có hàng ngàn vạn con người chứ? Vào những thời điểm then chốt, phải lựa chọn như thế nào thì nàng cũng không có gì để đối chiếu. Cuộc đời ẩn chứa quá nhiều biến số, nàng lại chỉ lựa chọn dựa theo tâm ý, sau đó cẩn thận làm theo lựa chọn của mình còn kết quả ra sao thì không quá để ý.
“Xin ở cùng với thϊếp
Đến răng long bạc đầu
Gió vẫn không ngừng thổi
Cuốn bay hết ưu sầu
Nghe câu chuyện ngày trước
Ngỡ là giấc chiêm bao
Thương người ở trước mắt
Chẳng nỡ rời tay đâu”
Nàng vẫn hy vọng là sẽ có một kết cục tốt đẹp, có thể bạc đầu răng long, có thể quên hết ưu sầu, có thể… vĩnh viễn chẳng phân ly. Hy vọng như vậy có phải là quá tham lam không?
Nhưng có câu rằng phải có niềm tin thì mới có thể tồn tại. Nàng ở trong một chỗ bình yên ấm áp ngẩng đầu lên, dọc theo sông Hoàng Hà ở phía trước rất xa hình như có mục đồng đang thổi sáo, một khúc tình quê êm đềm nhưng tràn đầy vui sướиɠ. Nếu tin tưởng và vui vẻ thì sẽ gặp nhiều hạnh phúc. Và câu chuyện tình đẹp nhất triều Hán Vũ Đế đã kết thúc trong bài hát êm đềm này.
Mặt nước xanh sóng gợn
Vua cứ hoài ưu tư
Lòng có bao phiền muộn
Để mặc gió cuốn đi
Xin ở cùng với thϊếp
Đến răng long bạc đầu
Gió vẫn không ngừng thổi
Cuốn bay hết ưu sầu
Nghe câu chuyện ngày trước
Ngỡ là giấc chiêm bao
Thương người ở trước mắt
Chẳng nỡ rời tay đâu
Núi lưng trời cao vυ't
Thôn quê suối xanh màu
Tiếc chuyện không tên cũ
Đến nay lại quay đầu
Ánh trăng sáng vằng vặc
Soi bóng thành ba người
Ngàn năm đã qua hết
Tỉnh mộng thấy u sầu
Thuyền Bách Chu rời bến
Theo sóng gió phiêu lưu
Trải qua bao con nước
Quên mất cả Ngũ Châu
Xin ở cùng với thϊếp
Đến răng long bạc đầu
Gió vẫn không ngừng thổi
Cuốn bay hết ưu sầu
Nghe câu chuyện ngày trước
Ngỡ là giấc chiêm bao
Thương người ở trước mắt
Chẳng nỡ rời tay đâu
Tham khảo trang sách sử
Ba năm lại ba thu
Gió Bắc gieo giá lạnh
Miên man kể nỗi sầu
Chung sống đến đầu bạc
Tử sinh đáng gì đâu
Ngàn năm đã qua hết
Tỉnh mộng lại u sầu.
(Nỗi nhớ không tên – Kinh thi)Quyển 4 - Chương 97: Vĩ thanh: Đời người bước đến lúc tận cùngCuộc đời nàng cứ xuôi theo cảnh mặt trời lặn, mặt trời lặn trên thành Trường An, hoa nở hoa tàn trong cung Kiên Chương cho đến ngày nhắm mắt.
Năm Nguyên Phong đầu tiên, ngự giá trở về đến Trường An đã là tháng Bảy. Lúc xe ngự tráng lệ được Kỳ Môn quân bảo vệ xung quanh tiến vào Trường An từ cửa thành phía tây, Trần A Kiều nhìn qua rèm thấy mái ngói lưu ly của cung Kiến Chương thì thở một hơi thật dài. Ao sen trước điện Trường Môn ngày nào còn xanh um giờ đã nở rộ.
Cuối tháng Chín, Lưu Triệt di chuyển lưu dân tới Giang Hoài, bắt đầu khai phá lưu vực sông Trường Giang ngày sau còn phồn hoa hơn cả Quan Trung. Tháng Mười, y dẫn mười tám vạn kỵ binh đi tuần thú biên cương, Trần A Kiều không đi theo. Hành trình đi từ phía bắc Vân Dương qua Thượng Quận, Tây Hà, Ngũ Nguyên rồi vượt Trường Thành lên bắc đứng trên đài của thiền vu nhìn về hướng Bắc Hà quan sát Hung Nô. Trước uy thế quân Hán, dân Hung Nô còn lại đều chạy trốn thật xa. Cuối năm Nguyên Phong, Hoàng Hà lại dâng nước gây lũ lụt. Nước Lương, nước Sở trước đây Hoàng đế và Hoàng hậu có đi tuần thú qua đều gặp tai họa, dân chúng lầm than. Lưu Triệt rốt cục hạ quyết tâm dồn sức sửa trị Hoàng Hà.
“Năm xưa Cấp Ảm, Trịnh Đương bịt đê vỡ nhưng vết vỡ quá sâu nên không đủ vật liệu.” Trong điện Trường Môn, Trần A Kiều chỉ vào sa bàn sông Hoàng Hà nói giọng đều đều, “Sau đó bệ hạ lại bỏ đắp đê nên mới để cho lũ lụt hoành hành hơn hai mươi năm.” Năm đó nàng còn là hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ trang nghiêm ở điện Tiêu Phòng, chỉ chăm chăm chờ đợi, vui mừng khi phu quân trở về bên cạnh, nào nghĩ đến sự sống chết của vô số lưu dân ngàn dặm bên ngoài.
“Khi đó cuộc chiến Hán Hung đang hồi cấp bách, hơn nữa vùng Quan Trung mới là căn bản của Đại Hán ta. Đất Quan Trung chiếm một phần ba thiên hạ mà dân chúng chỉ chiếm một phần mười ba, đất đai trù phú mà mới khai khẩn được sáu phần mười.” Lưu Triệt liếc nhìn nàng. A Kiều khẽ thở dài, y là đế vương nên phải tính đến toàn cục chứ không phải ở tiểu tiết. Quyết định như vậy đối với dân chúng mà nói quả thật tàn nhẫn nhưng không thể nói năm đó Lưu Triệt quyết định không đúng.
Sau khi văn võ bá quan trong điện Tuyên Thất hiểu được ý của bệ hạ thì cả triều đều im lặng. Chuyện trị thủy đã không dám nói chắc, lại khá gian khổ, cuối cùng giao cho Thái trung đại phu Kim Nhật Đan. Trần A Kiều biết rằng đây cũng là khảo nghiệm của Lưu Triệt đối với Kim Nhât Đan. Từ sau khi diện kiến bệ hạ ở cung Kiến Chương hồi cuối năm Nguyên Đỉnh thứ năm, Kim Nhật Đan dần thu bớt tính tình cuồng ngạo, hành xử trong triều ngày càng cẩn thận. A Kiều quan sát thấy hết thảy, trong lòng thầm cảm thán. Người thiếu niên Hung Nô nay có thể hy sinh vì Tảo Tảo như vậy thì chắc phải rất yêu con nàng. Nàng vì dân chúng thiên hạ nên bảo Mạch Nhi nhắc nhở Kim Nhật Đan hai điều. Thứ nhất, chuyện trị thủy chú trọng về phần khai thông mà không phải là đơn thuần ngăn chặn. Thứ hai, để ý vấn đề vật liệu đắp đê.
Năm Nguyên Phong thứ hai, Hoàng đế phái Thiệp Hà tới thuộc quốc Triều Tiên ban dụ lệnh cho quốc vương Triều Tiên là Vệ Hữu Cừ vào bái kiến. Quốc Vương Triều Tiên không nhận dụ lệnh. Tháng Tư, từ Hoàng Hà báo tin về rằng Kim Nhật Đan chỉ huy Quách Xương[1] và mấy vạn dân công, lấy trúc và đá cắm xuống đáy sông chắn ngang chỗ đê vỡ, mới đầu thì thưa, sau đó dày lên khiến thế nước chảy qua chỗ vỡ chậm lại, tiếp đó dùng cỏ khô trộn với đất cát bịt kín, cuối cùng đổ đất và đá vào, chặn được dòng nước, khôi phục dòng chảy sông Hoàng Hà trở lại như trước. Vì công trạng này, Kim Nhật Đan được thăng trung lang tướng, bổng lộc hai ngàn thạch.
[1] Theo sử là người vùng Vân Trung dùng thân phận giáo úy đi theo Vệ Thanh tấn công Hung Nô.
Tháng bảy, Triều Tiên mượn một cớ nhỏ để phát binh tấn công Liêu Đông, gϊếŧ chết Thiệp Hà. Trong mùa thu, Lưu Triệt ra lệnh chiêu mộ tử tù, chia làm hai đường đánh dẹp Triều Tiên. Tháng Giêng năm Nguyên Phong thứ ba, quân Hán bắt được Lâu Lan vương, khống chế con đường tơ lụa. Vào mùa hè, quân Hán bình định Triều Tiên ở phía đông, thiết lập bốn quận Chân Phiên, Huyền Thố, Lâm Truân, Nhạc Lăng.
Đến mùa thu, Công chúa Duyệt Trữ vốn được Hoàng đế sủng ái nhất vừa tròn hai mươi tuổi, cuối cùng cũng chuẩn bị xuất giá trong sự ngỡ ngàng của mọi người. Vị hôn phu mà bệ hạ lựa chọn cho cô lại là một người Hung Nô. Tuy Kim Nhật Đan dần bộc lộ tài năng trong triều đình, tác phong cẩn thận vững vàng, có tài kinh bang tế thế, được sự tán thưởng của cả Hoàng thượng và Thái tử, nhưng làm sao có thể chiếm lấy viên minh châu được cưng chiều nhất trên tay Hoàng đế và Hoàng hậu chứ? Cả giới quý tộc lẫn dân chúng Trường An còn đang ra sức đoán già đoán non thì lễ nghi xuất giá của Công chúa Duyệt Trữ đã được cử hành long trọng. Đại tư nông Tang Hoằng Dương trông coi tiền bạc và lương thảo quốc gia, nói về thân phận em kết nghĩa của mẫu thân Công chúa Duyệt Trữ, lần đầu tiên không ngầm dị nghị về sự lãng phí của đế vương, vui vẻ quyết toán tiền bạc chuẩn bị cho hôn lễ.
Trên điện Trường Môn, Lưu Sơ ngồi yên lặng trước gương để A Kiều trang điểm tỉ mỉ cho cô theo kiểu thiếu nữ đợi xuất giá. Cặp lông mày, đôi má lúm dần hiện ra tinh tế, đẹp đẽ dưới phấn son trang điểm. Thiếu nữ trong gương bất giác đã đến tuổi hai mươi hoa gấm. Ở cái tuổi rực rỡ như vậy, từ nay về sau sẽ thuộc về một người khác, buồn vui, vinh nhục cùng hắn…
“Mẫu thân”, Lưu Sơ bật gọi một tiếng rồi khóc òa lên. Đã bao nhiêu năm qua kể từ khi A Kiều về ở Trường Môn, khôi phục lại vị trí hoàng hậu, nhưng cô vẫn không chịu đổi cách xưng hô thành mẫu hậu mà cảm thấy gọi mẫu thân mới là thân thương nhất.
“Tảo Tảo ngốc nào”, Trần A Kiều mỉm cười an ủi, giấu đi nỗi nghẹn ngào. “Có phải là không về nữa đâu. Nếu con muốn, lúc nào cũng có thể vào cung thăm mẫu thân và phụ hoàng. Đừng khóc nữa, kẻo phí công trang điểm.”
Lưu Sơ nín khóc, mỉm cười gật đầu. Cô đứng dậy quay ra thì thấy ca ca đang chờ ở ngoài rèm. Cô rảo bước tới bên cạnh Lưu Mạch, đưa tay cho hắn đỡ, nghiêng đầu hỏi, “Ca ca, Tảo Tảo có đẹp không?”
Lưu Mạch đã ở vị trí thái tử được mấy năm, tâm trí ngày càng sâu sắc, nhưng nhìn muội muội sống nương tựa lẫn nhau từ thuở nhỏ cho tới lúc trưởng thành vừa mới trang điểm xong thì cặp mắt đen sâu thẳm vẫn ánh lên vẻ dịu dàng. “Đẹp lắm!”, hắn chân thành khen.
Lúc đó Kim Nhật Đan đang ở ngoài cửa đông cung Kiến Chương chờ đợi người thiếu nữ chiếm vị trí quan trọng trong cuộc đời mình. Lưu Sơ mặc bộ lễ phục tân nương nhìn như một áng mây hồng, dung nhan như hoa sen nổi trên mặt nước, tỏa hương thơm ngát. Từ nay về sau hắn sẽ có thể danh chính ngôn thuận nắm tay cô.
Vợ chồng Công chúa tới điện Tuyên Đức khấu đầu tạ ơn công lao nuôi dưỡng của Hoàng hậu và Hoàng đế. Trên điện, Lưu Triệt cùng Trần A Kiều đều mặc lễ phục trang trọng của Hoàng đế và Hoàng hậu, nét mặt rất nhu hòa.
Món hồi môn cực lớn của Công chúa Duyệt Trữ khiến cho dân chúng Trường An trợn mắt líu lưỡi. Khi cỗ xe chở lễ đầu tiên đã vào khuất trong phủ Công chúa thì cỗ xe lễ cuối cùng còn chưa lên đường rời khỏi cửa cung.
Vào mùa thu năm Nguyên Phong thứ ba, Trần A Kiều gả chồng cho đứa con gái yêu quý nhất trong cuộc đời mình, mặc dù sau này vẫn có thể thường xuyên gặp mặt nhưng đã không còn là đứa con gái bé bỏng có thể tùy ý làm nũng với nàng nữa. Lòng nàng vui buồn lẫn lộn.
Tháng Mười hai năm Nguyên Phong thứ ba, quân Hán đánh bại nước Xa Sư.
Vào lễ đầu năm mới của năm Nguyên Phong thứ tư, Công chúa Duyệt Trữ vào cung thăm phụ hoàng và mẫu thân. Cô nắm tay A Kiều, líu ríu nói mấy chuyện riêng của phụ nữ. Trần A Kiều nhìn vào mắt con thấy vẫn trong veo thì trong lòng cũng được an ủi. Là người mẹ, nàng luôn lo lắng cho hạnh phúc của con gái.
Cuối năm Nguyên Phong thứ tư, Thái tử phi Thượng Quan Linh bỗng nhiên ngất xỉu ở điện Bác Vọng, ngự y thăm khám xong liền bẩm: “Chúc mừng Hoàng hậu nương nương, chúc mừng Thái tử điện hạ, Thái tử phi điện hạ có thai. Hoàng gia đã có người nối dõi, thật là chuyện vui lớn.” Trần A Kiều và Lưu Mạch nghe xong đều vui mừng.
Vào mùa xuân năm Nguyên Phong thứ năm, Thượng Quan Linh sinh đứa cháu gái trưởng của hoàng gia sớm mấy ngày. Đứa bé nhỏ đến nỗi A Kiều bế chiếc áo gấm mềm mại bọc thân hình bé nhỏ của nó trên tay rồi mà còn hoài nghi liệu nó có biến mất hay không. Thời gian thấm thoắt, mới năm nào nàng ôm hai đứa con song sinh quyết tâm sống tốt cuộc đời này, chớp mắt một cái, nàng đã không còn nhớ được cảm giác khi bế một đứa trẻ mới sinh trên tay thế nào nữa. Lưu Triệt ban cho đứa cháu gái đầu của y cái tên là Yêu.
“Hoa đào yêu kiều,
Sắc màu rực rỡ.
Rồi sẽ vu quy,
Yên bề gia thất”[2]
[2] Bài Đào yêu 1 của Khổng Tử được ghi chép trong Kinh Thi.
A Kiều cho rằng cái tên này hàm chứa những kỳ vọng của y đối với hạnh phúc của đứa bé mới sinh.
Tháng Tư, Hoàng đế thiết lập thứ sử ở mười ba châu, dùng sáu điều hỏi chuyện[3].
[3] Đây là một loại chuẩn tắc được đặt ra để giám sát quan viên, bắt đầu từ thời Hán Vũ Đế. Hán Vũ Đế chia đất nước thành mười ba châu, mỗi một châu cử tới một thứ sử, mỗi năm trong đợt tuần hành vào mùa thu, sẽ dùng sáu câu hỏi để nắm được tình hình quận quốc, giám sát viên khu vực.
Tháng Chín, danh tướng một đời Vệ Thanh lâm bệnh mất ở phủ Trường Bình hầu, còn chưa đến tuổi biết mệnh trời[4]. Đêm khuya hôm đó, Lưu Triệt và A Kiều đã thay thường phục, đang xem sách nói chuyện vui vẻ trong điện Trường Môn thì nghe nội thị bẩm báo việc này. Lưu Triệt thấy lòng sầu thảm. Người vừa đi mất chính là tri kỷ của y thời niên thiếu, chinh chiến vì chí hướng của y nhưng sau này lớn lên lại bị chính trị làm cho xa cách. Chỉ là nghe tin hắn qua đời trong một đêm thu như thế này, y lại nhớ tới quãng thời gian trong sáng vui vẻ cùng nhau đi săn thú trong Thượng Lâm Uyển thuở còn niên thiếu. Lưu Triệt càng nghĩ càng cảm thấy già nua. Vệ Thanh cùng thế hệ với y cũng đã ra đi, vậy bọn họ còn bao nhiêu thời gian trên thế gian này.
[4] Tuổi biết mệnh trời tức tuổi năm mươi. Theo câu “Ngũ thập nhi tri thiên mệnh” trong Luận ngữ, có nghĩa là khi người ta tới năm mươi tuổi mới có thể thông suốt chân lý của tạo hóa, hiểu được mệnh trời.
Lưu Triệt xưa nay hùng tâm vạn trượng, trong lòng bỗng nhiên cảm thấy sợ hãi. Y ôm chặt lấy A Kiều, trầm mặc một lát rồi nhẹ giọng hỏi, “Sao Kiều Kiều lại không hề tức giận một chút nào thế?”
“Cái gì?” Trần A Kiều giật mình, một lúc sau mới có phản ứng, hỏi ngược lại, “Sao thϊếp lại phải tức giận?”
Mặc dù Vệ Thanh là người họ Vệ nhưng nàng vẫn thừa nhận hắn là anh hùng. Còn nguyên nhân hắn không còn được Lưu Triệt tin dùng, truy đến cùng, có một phần do tính toán của nàng. Gian nan là nợ anh hùng phải vay.
“Thϊếp biết.” Nàng mỉm cười nói, “Vệ Thanh là một người quan trọng trong cuộc đời bệ hạ, không có gì đáng ngạc nhiên. Giống như A Kiều là thê tử của bệ hạ nhưng A Kiều vẫn có sư phụ, Mạch Nhi, Tảo Tảo, sư huynh.” Bọn họ đều là những người không thể thay thế trong cuộc đời.
Lưu Triệt hừ lạnh một tiếng. Nghe A Kiều nhắc tới Tiêu Phương, y không khỏi nhớ lại cảnh trong Thượng Lâm Uyển năm Nguyên Đỉnh nguyên niên, người đàn ông đẹp như ngọc kia bởi vì A Kiều đau đớn mà bộc phát ra một phần tâm tư vẫn luôn giấu kín. Cho tới bây giờ, cả linh hồn lẫn thể xác A Kiều đều đã thuộc về y nhưng y vẫn không thể nào xóa đi sự kính trọng của nàng với Tiêu Phương. Y nồng nàn hôn lên khuôn mặt kiều diễm ở trong lòng, khiến nàng ngây ngất. Tất cả những ý nghĩ vẩn vơ đều tạm thời ném lên tận chín tầng mây.
Vào năm Nguyên Phong thứ sáu, Ích Châu, Côn Minh làm phản. Lưu Triệt sai Tiết Thực xuất quân bình định. Vào năm sau nhà Hán đổi niên hiệu thành Thái Sơ. Tháng Năm năm Thái Sơ đầu tiên, triều đình ban chiếu dùng “Thái Sơ lịch”, lấy tháng Giêng là tháng đầu năm chọn màu vàng làm chính, tính theo ngũ hành, quy định các chức quan, âm luật và lễ nghi của tông miếu, của bá quan thành chuẩn mực cho đời sau.
Tháng Tám năm Thái Sơ thứ hai, Lưu Triệt phái sứ giả đem vàng đến Đại Uyển đổi lấy Hãn huyết bảo mã. Đại Uyển vương khâm phục uy thế của Đại Hán nên dâng tặng bảo mã. Trần A Kiều nghe danh Hãn huyết bảo mã đã lâu, đợi sau khi sứ giả từ ngàn dặm xa xôi đem bảo mã trở về vườn ngự uyển ở Trường An, không nén nổi tò mò, kéo Lưu Triệt đi xem. Con ngựa toàn thân đỏ rực, cao lớn nhanh nhẹn, ánh mắt ngạo nghễ, danh bất hư truyền. A Kiều nóng lòng muốn thử, Lưu Triệt lo lắng cho thân thể của nàng, nói: “Chờ để thuần phục đã.”
Hãn huyết bảo mã cực kỳ cao ngạo, liên tục hất ngã mấy người thuần ngựa, sắc mặt Lưu Triệt trầm xuống, “Đại Hán được xưng anh tài xuất hiện lớp lớp, sao ngay cả một con tuấn mã cũng không thể thuần phục nổi?”
“Phụ hoàng”, Lưu Mạch đứng bên cạnh, thấy đúng là bảo mã, lại muốn mẫu thân hân hoan, chắp tay nói, “Xin để nhi thần thử một lần.”
“Thái tử?” Lưu Triệt do dự, vẫn nói con của thiên tử làm gì cũng phải cẩn thận. Thái tử là người kế vị một nước, có thân phận cao quý, thuần phục ngựa lại là một công việc nguy hiểm, chẳng may té ngã thì ắt là không hay, vì dù không làm sao thì riêng việc không thuần phục được ngựa cũng đã mất thể diện rồi. Nhưng thời niên thiếu của y cũng từng mạo hiểm như vậy, lúc đạp trên đầu sóng ngọn gió, đã bao giờ biết sợ hãi?
“Mạch Nhi”, A Kiều thì lại tin tưởng con mình, thay y sửa sang lại cổ áo cho con trai rồi dặn dò: “Cẩn thận đấy.”
“Dạ.” Lưu Mạch giao mũ qua cho Thành Liệt, buộc lại tóc, vào trường ngựa, bước tới trước con Hãn huyết bảo mã. Con tuấn mã liên tục hất văng mấy người nên cũng có phần mệt mỏi, hơi chồm vó trước lên, thở phì phì. Lưu Mạch nhìn thấy ánh mắt nó lấp lánh, cực kỳ kiêu hãnh. Hắn thình lình phóng lên ngồi vững vàng trên lưng ngựa. Hãn huyết bảo mã sửng sốt một lúc rồi tung vó phóng như điên, nhảy lên chồm chồm, định hất người trên lưng xuống. Song trên lưng nó là người kế thừa công phu của Triêu Thiên Môn mà những người thuần ngựa bình thường không thể sánh kịp. Lưu Mạch bình tĩnh ngồi trên lưng ngựa, cảm giác như đang ở trên một con thuyền nhỏ giữa đại dương, sóng gió mạnh hơn nữa vẫn vững tựa Thái Sơn. Cũng không biết trải qua bao lâu, con tuấn mã bên dưới rốt cục nhụt chí, dần ổn định lại, cả người lẫn ngựa đều đầm đìa mồ hôi.
“Hay!!!” Tiếng reo hò chung quanh vang lên như sấm. Có cung nhân cơ trí khen, “Thái tử điện hạ quả nhiên dũng mãnh phi thường, hàng phục được bảo mã.” Lưu Mạch coi như không nghe thấy, ngồi yên trên lưng ngựa, cười tươi tắn. Ánh mặt trời mùa thu chiếu nhàn nhạt trên trường ngựa. Nhiều năm về sau, đám cung nhân vẫn còn nhớ mãi nụ cười trong sáng của Chiêu hoàng đế có thể so sánh với ánh mặt trời mùa thu ấm áp lúc ấy. Chiêu hoàng đế không giống với Vũ hoàng đế vì miệng của hắn luôn có nếp nhăn khi cười, nhưng nó chỉ ôn hòa chứ không nồng ấm. Vì ngày đó có Hiếu Vũ Trần hoàng hậu đứng ở bên ngoài nhìn, cho nên hắn mới có thể cười thật lòng.
Mở đầu truyện của Ban Siêu đời sau về Hiếu Chiêu hoàng đế có viết: Hiếu Chiêu hoàng đế chí hiếu với mẫu thân.
Lưu Mạch nhảy xuống ngựa, sai thị tòng làm một bộ yên cương hợp với ngựa, quay lại nhìn mẫu thân đang bước tới, mỉm cười nói, “Giờ mẫu thân có thể cưỡi được rồi.”
Hãn huyết bảo mã lấy hết ngạo khí còn sót lại gõ gõ chân, liền bị Lưu Mạch trừng mắt. Nó dường như hiểu sự quan trọng của người phụ nữ này đối với chủ nhân nên yên tĩnh trở lại. Truyền thuyết quả nhiên là thật, mồ hôi của Hãn huyết bảo mã đỏ như máu, nhuộm hồng cả thân nó, cũng nhuộm hồng phần dưới y phục của Lưu Mạch. A Kiều nhìn thấy cau mày, mất hứng nói: “Nhuộm thành như vậy, coi như y phục bỏ đi một nửa.”
Lưu Mạch không ngờ mẫu thân lại đáp lại như thế, cất tiếng cười lớn. Hãn huyết bảo mã nghe tiếng cười, cảm giác mình bị sỉ nhục, quay đầu nhìn hai mẹ con trước mặt vẻ tò mò.
“Vậy thì xin mẫu thân ban cho nó một cái tên”, Lưu Mạch nói.
“Con ngựa này là lương câu[5] của thiên hạ, lông đỏ như máu, mồ hôi cũng đỏ như máu”, A Kiều suy nghĩ một chút nói, “Vậy đặt tên là Chu Ly đi.”
[5] Lương câu: Ngựa tốt.
Bởi vì Lưu Mạch thuần phục được Chu Ly nên Lưu Triệt ban nó cho Lưu Mạch. Khi Lưu Mạch trở lại điện Bác Vọng, Thượng Quan Linh đã nghe nói chuyện ở trường ngựa. Cho dù mắt thấy Lưu Mạch không hề bị tổn thương nhưng nghĩ lại vẫn kinh tâm động phách, bước ra đón, lo lắng hỏi: “Điện hạ có chuyện gì không?”
“Không sao.” Lưu Mạch thay y phục, vẫn còn hăng hái: “Linh Nhi, ta tập võ từ thuở nhỏ, chẳng qua là một con ngựa mà thôi, sao làm khó được ta.”
Lưu Yêu đã ba tuổi, có thể nói được mấy từ, bi bô gọi, “Phụ thân.” Gương mặt cô bé không giống cha mẹ mấy, nhưng lại giống hệt A Kiều thậm chí còn giống hơn cả cô cô Lưu Sơ. Vì vậy, cô bé được phụ thân Lưu Mạch và tổ phụ Lưu Triệt vô cùng yêu thích. Đối với Lưu Triệt, nói là yêu thích cũng không hoàn toàn chính xác. Lúc gặp Lưu Yêu thì vẻ mặt y hòa ái, ban thưởng rất nhiều nhưng y lại không muốn Thượng Quan Linh thường xuyên đưa Lưu Yêu đến điện Trường Môn chơi, càng không thích thấy Lưu Mạch yêu thương con gái. Lưu Mạch loáng thoáng phát hiện ra điều này nên cũng ít khi dẫn con gái xuất hiện trước mặt phụ hoàng.
Năm Thái Sơ thứ tư, Ô Tôn sai vợ chồng Quân Tu Mỹ đưa cống phẩm tới hiến tặng cho hoàng đế Đại Hán, ngoài mấy hòm nhân sâm và da chồn, còn có một thứ nhìn rất bắt mắt. Đó là một con cáo tuyết chưa đến nửa tuổi được sứ giả Ô Tôn cẩn thận đem tới. Con cáo tuyết rất khôn ngoan, không hề có mùi hồ ly khó ngửi trên người, lại được huấn luyện qua nên không sợ người, đôi mắt đen nhánh linh động không ngừng đảo tròn.
“Vương tôn đại nhân của chúng tôi sai người tốn rất nhiều công sức mới bắt được con cáo tuyết này. Ô Tôn khí trời rét lạnh, có nhiều động vật tuyết nhưng cáo tuyết là động vật vô cùng cảnh giác, cũng không thể thuần phục. Con cáo tuyết này là do thợ săn Ô Tôn trải qua ngàn vạn gian khổ tìm kiếm ở núi cao mới tìm được huyệt động của cáo tuyết, lúc vừa mới chào đời đã bị bắt về. Vương tôn sợ cáo tuyết không thích nghi được khí hậu ngoài Tuyết Sơn nên đặc biệt đeo cho nó một khối băng ngọc ở trước ngực.”
Lưu Triệt chỉ nhìn thoáng qua con cáo tuyết. Dù cáo tuyết đẹp đẽ nhưng bản tính y lại không thích nhũng thứ quá mức tinh xảo đẹp đẽ. Là đế vương điều tối kỵ nhất chính là mê muội mất đi cả ý chí. “Đưa con cáo tuyết đến điện Trường Môn”, y quyết định.
Bởi vì có con cáo tuyết nên vật phẩm theo lệ cách một năm một lần ban tặng cho Quận chúa Tế Quân kết hôn cầu hòa với Ô Tôn năm nay càng thêm phong phú. Lúc ôm con cáo tuyết, Trần A Kiều hơi kinh ngạc. Nàng chưa từng nghĩ rằng năm đó chẳng qua thuận miệng nhắc tới mà Lưu Triệt lại thật sự tìm kiếm suốt bao năm qua cho nàng như vậy. Tuy không phải là tìm kiếm tận trên trời hay dưới địa ngục nhưng chỉ cần làm thì sẽ có người phát hiện ra. Đến cuối cùng thì Lưu Mạch, Lưu Sơ đều biết, duy chỉ có nàng là bị giấu giếm.
“Chúc mừng Hoàng hậu nương nương.” Lục Y che miệng len lén cười không nhịn được, yêu thích nhìn con vật khả ái, nói: “Nương nương đặt tên cho nó nhé, nếu không chúng ta biết gọi nó thế nào đây?”
“Lại đặt tên à?” Trần A Kiều khẽ nhíu mày, nói: “Nó là cáo tuyết đến từ Ô Tôn, vậy thì gọi là Tuyết Ô đi.” Tuyết Ô rúc vào lòng A Kiều ấm áp, ngẩng đầu lên kêu chít chít mấy tiếng, cảm giác được sự an ổn toát ra từ người phụ nữ này.
Vào năm Lưu Yêu lên năm tuổi, đã có thể bước đi lũn cũn. Nó rất thích Tuyết Ô được A Kiều nuôi trên điện, nhõng nhẽo với A Kiều, “Hoàng tổ mẫu, để cho Tuyết Ô đi theo Yêu Yêu về điện Bác Vọng ở vài ngày có được không?”
A Kiều nhìn Lưu Yêu, trong lòng thầm nghĩ, nếu nàng dám đồng ý thì không biết vẻ mặt Lưu Triệt sẽ thế nào? Nàng không thể làm gì khác hơn là dỗ dành Lưu Yêu, “Nếu Yêu Yêu thích Tuyết Ô thì đến Trường Môn ở vài ngày là được rồi.”
Ngày hôm đó, Lưu Sơ hồi cung thăm mẫu thân, ôm Tuyết Ô, nghe kể chuyện của Lưu Yêu thì cười khanh khách, “Yêu Yêu muốn có được Tuyết Ô”, cô bày cách: “trước hết cháu phải đi xin hoàng gia gia đã.”
Lưu Yêu dù luôn được Lưu Triệt cưng chiều nhưng thỉnh thoảng nhìn thấy vẻ mặt lạnh lùng của Lưu Triệt đối với người khác thì trong lòng vẫn thấy sợ hãi, rùng mình một cái, nói: “Thôi ạ, coi như cháu không cần nữa là được.”
A Kiều nghe nói Quách Giải trở lại Trường An, cuộc sống khá tốt. Xa cách quá lâu, nàng cũng không có ý rời cung đến thăm, biết hắn mạnh khỏe là an tâm rồi. Vào một năm khác, Thượng Quan Linh cùng Lưu Sơ đều có thai, đều sinh một bé trai vào năm Thiên Hán đầu tiên.
Cái tên Thiên Hán cũng rất có thâm ý. Bởi vì hàng năm đều bị hạn hán nên Lưu Triệt cải niên hiệu thành Thiên Hán. Từ đó về sau, niên hiệu triều Hán Vũ được sửa từ sáu năm một vòng thành bốn năm một vòng. Năm Thiên Hán đầu tiên, con trai trưởng của Tang Hoằng Dương là Tang Duẫn đầy mười sáu tuổi, lấy vợ là cháu gái đầu của phủ Mạt Lăng hầu, muội muội của Lưu Sách là Lưu Hiệt.
Năm Thiên Hán thứ ba, trưởng nữ Đông Phương Mi của Trưởng công chúa Phi Nguyệt đầy tuổi mười lăm, rốt cục thuyết phục được phụ thân Đông Phương Sóc gả cho nghĩa tử Liễu Ninh của Trường Tín hầu vẫn gắn bó với cô từ thuở nhỏ. Có lẽ, trên đời này thật sự tồn tại duyên phận. Nếu không, tại sao khôn khéo như Đông Phương Mi lại một mực thích Liễu Ninh chất phác. Duyên phận nếu có chắc cũng khởi nguồn từ lần chọn đồ vật đoán tương lai hồi năm Nguyên Đỉnh thứ năm. Trần A Kiều nhớ tới lần chọn đồ vật đoán tương lai hoang đường đó liền không nhịn được cười.
Các con trai con gái đều kết hôn cả rồi, chẳng phải bọn họ đã già thật rồi sao? Đúng vậy, thời gian chẳng buồn để ý xem ngươi là quân vương hay hắn là tên ăn mày. Theo thời gian, khuôn mặt người đàn ông bên cạnh nàng cũng đã in dấu gió sương. Chỉ là, tinh thần của y không hề thua kém thời tuổi trẻ, đôi mắt sắc bén càng trở nên thâm trầm, dáng người ngồi trên điện Tuyên Thất vẫn thẳng tắp. Một hôm ở điện Trường Môn, trước khi đi ngủ, Lưu Triệt vuốt ve mái tóc đen nhánh của A Kiều như có điều suy nghĩ, “Chẳng lẽ Kiều Kiều là người trời hay sao mà mãi không thấy già đi chút nào cả?”
A Kiều cười thảng thốt, “Đâu có?”
Trên đời này nào có ai không già chứ? Mái tóc đen dày của nàng dù không thấy sợi bạc nhưng cũng dần không còn mềm mượt như thời thiếu nữ. Thỉnh thoảng nàng soi vào chiếc gương đồng cũng thấy vài nếp nhăn như có như không ở khóe mắt. Có ai kéo được thời gian, nhưng nếu như người thương yêu cứ già đi thì mình trường sinh bất lão để làm gì? Thế nên nếu phải già đi thì cứ già đi thôi.
Năm Thiên Hán thứ tư, Lưu Yêu đầy chín tuổi. Con gái Hoàng gia dù không cần trị quốc an bang nhưng vẫn phải học hành. Cô bé học Kinh thi, ngâm nga mấy câu: “Quan quan thư cưu, tại hà chi châu. Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu”, thấy tình yêu cũng đẹp như mùa xuân tươi thắm.
“Phụ thân.” Cô bé quấn lấy Lưu Mạch làm nũng, “Con nghe cung nhân nói rằng phụ thân không phải sinh ra ở cung Vị Ương mà khi mấy tuổi rồi mới được hoàng tổ mẫu mang về hoàng cung. Tại sao vậy chứ?”
Lúc đó Trần hoàng hậu độc chiếm ân sủng của thánh thượng, phục hồi ngôi vị làm mẫu nghi thiên hạ đã được rất nhiều năm. Người trong cung đã thôi không bàn tán về những việc xảy ra trước kia, chẳng còn ai nhắc tới chuyện vì sao Trần hoàng hậu lại rời xa bệ hạ, hay chuyện nàng đã làm những gì lúc ở ngoài cung. Lưu Yêu lần đầu thấy sắc mặt lạnh lẽo của phụ thân luôn thương yêu mình. “Trẻ con không được nghe ngóng lung tung”, hắn trách mắng.
Lưu Yêu cảm thấy rất ấm ức, cô bé là cháu gái trưởng của hoàng gia, được cưng chiều nhất ở cả hai cung Kiến Chương và Vị Ương, ngay cả đệ đệ ruột đôi khi cũng không được hoàng gia gia và hoàng tổ mẫu yêu thương bằng.
“Yêu Yêu”, mẫu thân kéo cô bé, nói: “Cha con xưa nay kính trọng hoàng nãi nãi nhất. Quãng thời gian đó”, Thượng Quan Linh chần chừ chốc lát, nói xa xôi: “Cha con vẫn cảm thấy hoàng gia gia có lỗi với hoàng nãi nãi. Cho nên, sau này con đừng nhắc tới.”
Lưu Yêu gật đầu cho có lệ, sao lại có thể như vậy chứ? Cô bé ngầm cảm thấy nghi hoặc, hoàng gia gia yêu thương hoàng tổ mẫu đến mức cô bé cũng cảm thấy ngưỡng mộ, thì sao lại có lỗi với hoàng tổ mẫu. Mặc dù không dám nhắc, nhưng nỗi nghi ngờ trong lòng Lưu Yêu lại tựa như một hạt giống đã bén rễ đâm chồi, nếu không được ai giải tỏa thì có thể lớn dần lên thành đại thụ chọc trời.
Mùa xuân năm Thái Thủy đầu tiên, mộ các hào kiệt của đất nước được di dời vào Mậu Lăng. Đến mùa hè, Công chúa Duyệt Trữ sinh hạ một bé gái trông khá giống với cô năm xưa. Lưu Triệt cực kỳ thương đứa bé, ban cho danh hiệu là Thuận Hoa ngay từ khi còn nằm trong tã lót, ý nghĩa là cả một đời hòa thuận vinh hoa.
Tháng Ba năm Thái Thủy thứ hai, đổi đúc tiền vàng, mở Bạch Cừ[6], phát triển thủy lợi.
[6] Bạch cừ: Công trình thủy lợi nổi tiếng thời cổ đại ở Quan Trung, Thiểm Tây, Trung Quốc.
Tháng Giêng năm Thái Thủy thứ ba có sứ giả từ nước khác tới. Lưu Triệt mở đại yến chiêu đãi ở cung Cam Tuyền. Mấy sứ thần đều luôn miệng ca tụng Trường An là đô thành phồn hoa nhất thế giới thời bấy giờ.
“Thế nhưng”, bọn họ khẽ giọng, “Chúng ta nghe nói hoàng đế Đại Hán bỏ mặc ba nghìn phi tần ở hậu cung, chỉ sủng ái một mình hoàng hậu, điều này là thật sao?”
“Đúng vậy.” Người hầu dâng rượu thản nhiên đáp.
“Sao lại như vậy chứ?” Nhũng người này thốt lên “Làm gì có chuyện quân vương của một quốc gia lớn như thế này lại chỉ thích duy nhất một người phụ nữ. Ngay đến những quốc gia như của chúng tôi cũng chẳng có vị quốc vương nào là không nuôi mấy người thϊếp đẹp.”
“Có thể là do Hoàng hậu nương nương của chúng tôi rất đẹp, rất thông minh, rất ôn hòa.” Người hầu vẫn không đổi giọng.
Đám khách ngoại quốc lắc đầu, “Có điều”, bọn họ ngưỡng mộ nói: “đó thật đúng là câu chuyện tình đẹp. Có ba ngàn mỹ nhân mà chỉ yêu duy nhất một người. Ha ha!”
Năm Thái Thủy thứ tư, Thái tử phi Thượng Quan Linh sinh được người con trai thứ hai là Lưu Việt. Đây cũng là đứa con út của nàng.
Chớp mắt đã đến năm Chinh Hòa đầu tiên. Vào năm đó, Hoàng trưởng tôn Lưu Việt đã tám tuổi. Con cháu hoàng tộc luyện tập cưỡi ngựa bắn cung từ thuở nhỏ. Tổ phụ lẫn phụ thân của cậu đều rất am hiểu những thứ này. Bản thân cậu cũng tỏ ra rất có thiên phú, chưa tới nửa năm đã đòi lấy luôn con ngựa Chu Ly trong chuồng ngựa của phụ thân.
Theo truyền thuyết, Chu Ly là Hãn huyết bảo mã đệ nhất thiên hạ, phi nhanh như gió, ngày đi ngàn dặm, mồ hôi như máu, bình sinh chỉ nhận một mình Lưu Mạch làm chủ nhân. Trong điện Bác Vọng, Lưu Mạch nhìn đứa con trai của mình, lắc đẩu: “Con còn quá nhỏ.” Ở tuổi như cậu mà cưỡi con ngựa mạnh mẽ như Chu Ly, thật quá nguy hiểm.
“Nhưng”, Lưu Việt không phục nói: “chẳng phải lúc phụ thân tám tuổi cũng đã làm vậy rồi sao?”
Lưu Mạch nhớ lại hồi mình tám tuổi. Hắn làm thái tử ở điện Bác Vọng đã quá nhiều năm nên dần quên đi quãng thời gian niên thiếu tài hoa. Ở tuổi nhỏ hơn Lưu Việt hiện giờ, hắn còn chưa biết phụ thân mình là ai trên cõi đời này, sống nương tựa với mẫu thân và muội muội. Sau đó hắn mới biết phụ thân của mình là người tôn qúy nhất Đại Hán. Nhưng như vậy thì sao chứ? Có tôn quý đến đâu thì ông đã ruồng bỏ ba mẹ con hắn. Hắn sợ phải trông thấy nước mắt của mẫu thân nên không chịu tha thứ cho người đàn ông đã khiến mẫu thân phải khóc. Hắn theo mẫu thân đi khắp núi sông Đại Hán trong nửa năm trời mà lòng không nuôi hy vọng có ngày phải quay về Trường An. Điều này chỉ là ước mơ xa vời, vì Tảo Tảo vẫn còn ở đó. Bởi thế, cuối cùng bọn họ vẫn phải trở về cái nơi tù túng này.
Lần đầu tiên đối mặt với phụ thân trong cung Trường Môn, hắn mới thấy giật mình vì thấy bọn họ giống nhau đến như vậy. Giống từ cặp lông mày lưỡi mác hiên ngang, ánh mắt sắc bén, cho đến cặp môi mỏng như giấy. Điều khác biệt chính là sự sắc bén của hắn luôn ẩn dưới nụ cười ôn hòa, còn sự sắc bén của phụ hoàng lúc nào cũng bộc lộ ra ngoài như một thanh kiếm lạnh giá đã tuốt khỏi vỏ. Ông đã là người có quyền lực lớn nhất trên thế gian nên không cần che giấu sự sắc bén của bản thân.
Sau khi gặp phụ hoàng, hắn thừa nhận phụ hoàng là một quân vương tốt. Dưới sự cai trị của ông, Đại Hán quốc thái dân an, dương danh bốn biển. Nhưng ông không phải là phụ thân tốt, lại càng không là một phu quân tốt. Một phu quân tốt không thể làm tổn thương người vợ mà bản thân mình yêu sâu sắc. Hắn cũng đã từng gặp Vệ Tử Phu, không thể hiểu nổi người phụ nữ nhợt nhạt đó có điều gì tốt mà khiến phụ hoàng năm xưa ruồng rẫy mẫu thân để chọn bà ta.
Sau cùng hắn dần trưởng thành, cũng đùa giỡn với quyền mưu đến mức thành thục không hề có chút sơ suất, nhưng trong lòng vẫn nhớ lời dạy trước đây của mẫu thân là hãy luôn tin tưởng trên thế gian vẫn còn tồn tại những điều tốt đẹp. Mẫu thân khi xưa đã dạy hắn như thế nào? Bà thương yêu hắn nhưng vẫn nén đau để cho hắn ra đi bởi vì người chưa từng trông thấy đất trời rộng lớn sẽ không chịu tu tâm xây dựng gia đình, không tự mình trải nghiệm sẽ không thể thật sự trưởng thành.
Hắn mỉm cười, nói: “Nếu thế thì con hãy đi đi.”
Lưu Việt hoan hô ầm lên: “Cám ơn phụ thân!”
“Khoan đã.” Hắn căn dặn, “Bảo Hà công công đứng bên theo dõi. Hãy cẩn thận đấy.”
Năm xưa phụ hoàng đã theo dõi hắn như thế nào? Hắn chưa từng suy nghĩ đến vấn đề này, giờ đột nhiên lại hiểu ra khi quan tâm đến đứa con trai của mình. Đó là đứa con tạo thành từ cốt nhục của mình nên hắn luôn mong nó tốt, mong nó ngày sau có thể kế thừa, phát huy công lao sự nghiệp của mình. Nhưng cũng bởi vì lợi ích mà cha con vĩnh viễn không thể có khả năng gần gũi. Cha con bọn họ cùng bảo vệ hai người phụ nữ hoặc nói cách khác là đều yêu sâu sắc các nàng nhưng bọn họ lại không thể không đề phòng lẫn nhau. Quan hệ kỳ lạ như vậy cứ thế kéo dài mấy chục năm, hai bên đều cho rằng đó là phương thức phù hợp nhất. Lưu Mạch khẽ cúi đầu cười nhạt. Không thể lặp lại những chuyện trước kia nữa, hắn không hy vọng quan hệ cha con lạnh lùng đó lại tiếp tục kéo dài sang cả hắn và con trai của mình.
Chu Ly được dẫn ra khỏi chuồng ngựa thì có chút cảm động. Chủ nhân quá bận rộn nên rất ít có cơ hội cưỡi nó. Dù chuồng ngựa của điện Bác Vọng sang trọng nhưng nó vẫn cảm thấy tù túng. Huống chi, nó cảm nhận được mùi vị quen thuộc của chủ nhân trên bộ y phục cậu bé phía trước đang mặc nên ngoan ngoãn để cậu cưỡi lên.
Cung nhân chăm ngựa tấm tắc cho là lạ, nói: “Hãn huyết bảo mã xưa nay không để cho người lạ chạm vào nhưng lại phục tùng trưởng tôn điện hạ. Điện hạ quả nhiên là phúc dày mạng lớn.”
Lưu Việt cưỡi trên lưng Chu Ly vui mừng hỏi, “Hoàng tỷ của ta đâu?”
“Yêu quận chúa đang chơi với Hoàng hậu nương nương ở điện Trường Môn.” Cung nhân bẩm.
Lưu Việt quen hành động theo ý mình, tưởng tượng ra cảnh bản thân mình có thể khoe tư thế oai hùng trên lưng Chu Ly với người tỷ tỷ lớn hơn sáu tuổi, liền phi ngựa chạy xuyên qua cung đình rộng lớn, vòng qua ngọn giả sơn, rồi phóng một mạch tới điện Trường Môn. Một đám cung nhân kinh hãi chạy theo sau la hét í ới, sợ thuật cưỡi ngựa của Hoàng trưởng tôn chưa thạo, lỡ may không cẩn thận va phải giả sơn đình đài, nếu bị ngã thì chỉ là chuyện nhỏ nhưng chẳng may vị điện hạ tôn quý này bị thương thì bọn họ dù có tới mười cái mạng cũng không đủ chôn cùng.
Cũng may, Chu Ly là Hãn huyết bảo mã cực kỳ có linh tính khéo léo vòng qua tất cả chướng ngại, phóng tới trước điện Trường Môn. Lúc đó là mùa đông nhưng vẫn có ánh mặt trời hiếm hoi. A Kiều sai người kê ghế dài ra ngoài ngồi sưởi nắng. Lưu Yêu lấy một quyển sách đọc chầm chậm cho A Kiều nghe, nhưng giọng đọc cứ nhỏ dần khi liếc thấy vẻ mặt mơ màng của hoàng tổ mẫu. Cô nghe thấy tiếng động phía sau, quay đầu lại thấy là đệ đệ liền vội vàng đưa tay lên miệng làm hiệu im lặng.
Lưu Việt ở trên lưng Chu Ly cúi xuống, dần dần nguôi phấn khích, chăm chú nhìn tổ mẫu đã ngủ thϊếp đi dưới ánh nắng. “Năm nay tổ mẫu bao tuổi rồi nhỉ?” Cậu thầm hỏi đầy nghi hoặc. Hoàng gia gia đã dần già đi nhưng sao thoạt nhìn, hoàng tổ mẫu lại còn trẻ như vậy, không già hơn mẫu thân của mình là bao nhiêu.
Ánh nắng soi rọi khuôn mặt ấm áp, an tĩnh mà mỹ lệ của A Kiều. Lưu Việt là hoàng trưởng tôn nên dĩ nhiên đã quen nhìn người đẹp. Mẫu thân, cô cô, tỷ tỷ của cậu, thậm chí cả các cung nữ đi đi lại lại trong cung Vị Ương và cung Kiến Chương, có ai là không có dung nhan xuất chúng? Ngay cả hoàng tổ mẫu, cậu cũng thường gặp mặt. Nhưng trong ngày mùa đông này, cậu đã chứng kiến một vẻ đẹp khác biệt, không liên quan đến dung nhan.
Sau này, cậu bị phụ thân phạt cấm chế vì sự bồng bột hôm nay. Phụ thân nói vẫn còn may, chứ nếu mà đã là hoàng tử, lại tùy ý phóng ngựa trong cung Kiến Chương như thế này, thì hoàng gia gia chắc chắn sẽ lấy mạng tất cả cung nhân theo hầu chứ không chỉ trách phạt đơn giản như vậy. Vô tình đến mức đó sao, cậu thầm nghi ngờ. Hiện giờ cung Kiến Chương rất tốt. Hoàng gia gia đối với tất cả đám con cháu cũng rất hòa ái. Nhưng cậu chợt nhớ tới chuyện về người thúc thúc bị cấm cố vĩnh viễn ở Bắc cung thì bất chợt rùng mình. Còn hiện giờ, cậu nhẹ nhàng xuống ngựa, cùng tỷ tỷ chờ ở bên cạnh hoàng tổ mẫu cho đến khi người tỉnh lại.
Tuvết Ô đang nằm cuộn tròn dưới chân hoàng tổ mẫu ngẩng đầu, giương cặp mắt linh động lên nhìn cậu vẻ dò xét. Nó vừa trông thấy Chu Ly đứng gần đó, liền quật mạnh đuôi nhảy vọt lên, nghe véo một tiếng, đã hạ xuống trên đầu Chu Ly. Chu Ly hí dài, dựng thẳng hai chân trước, muốn hất Tuyết Ô xuống. Song Tuyết Ô nhẹ bẫng nên nào dễ hất xuống được, ngược lại, làm cho A Kiều tỉnh giấc.
“Hoàng tổ mẫu”, Lưu Việt trừng mắt nhìn Chu Ly và Tuyết Ô rồi lén nhìn A Kiều vẻ biết lỗi: “Là cháu không tốt, để Chu Ly làm kinh động đến người.”
“Không sao.” A Kiều mỉm cười đáp rồi nhìn Chu Ly và Tuyết Ô chơi đùa, rõ ràng một lớn một nhỏ, một đỏ một trắng, một như lửa một như băng nhưng trong lúc này lại dung hợp vói nhau vô cùng hài hòa.
Cuối năm Chinh Hòa thứ ba, quân Hán diệt nước Xa Sư. Sau mấy năm lấy niên hiệu Chinh Hòa, Lưu Triệt đổi sang niên hiệu Hậu Nguyên, đây cũng là niên hiệu cuối cùng của triều Hán Vũ. Năm Hậu Nguyên đầu tiên, Hoàng đế và Hoàng hậu cùng tới cung Cam Tuyền, Trưởng thị vệ Mã Hà La theo hầu có ý đồ phản bội hành thích đế vương nhưng bị hôn phu của Công chúa Duyệt Trữ là Kim Nhật Đan phát hiện, bắt giữ tại trận. Hoàng đế nổi giận, tru di cửu tộc Mã Hà La, phong thưởng Kim Nhật Đan được hưởng thực ấp một ngàn lẻ năm hộ.
Đêm hôm đó, Trần A Kiều nằm trong lòng Lưu Triệt mà vẫn không hết lo sợ. Không phải nàng lo sợ vì Mã Hà La phản bội mà vì nàng hiểu rõ hơn ai hết mái tóc phu quân của mình đã chuyển màu bạc trắng. Bọn họ đã sống quá lâu trên thế gian này và giờ cũng tới lúc ông trời muốn lấy lại ân sủng. Người đàn ông bầu bạn bên cạnh nàng suốt bao năm sắp qua đời, sẽ rời xa nàng mãi mãi không bao giờ trở lại. Nàng không muốn tin vào sự thật tàn khốc đó nhưng lại không thể thuyết phục bản thân mình. Nàng không muốn y rời xa, nhưng chẳng có cách nào ngăn lại được. Y thuật dù cao minh đến đâu cũng bất lực trước quy luật già lão của tự nhiên.
Tháng Hai năm Hậu Nguyên thứ hai, Hoàng đế ban chiếu mời các vương gia chư hầu tới gặp mặt ở cung Cam Tuyền. Đại yến hết sức vui vẻ, Hoàng đế rất sảng khoái nhưng bất ngờ lại trúng phải gió lạnh, không ngừng ho khan. Ngự y cẩn thận điều chế thuốc thang để Trần hoàng hậu đích thân cho y uống. Lưu Triệt ngủ một giấc thật say, sáng hôm sau tỉnh dậy thì trời đã sáng rõ. Y thấy Trần A Kiều đang ngồi trên ghế trước giường, ngây người nhìn mình thì lập tức có linh cảm rằng mình sẽ chẳng còn sống được bao lâu trên cõi đời này nữa.
Ở tuổi thiếu niên bừng bừng tráng chí kiến công lập nghiệp, y đã từng có lúc cực kỳ sợ hãi khi nghĩ về tuổi già và cái chết, không sao tưởng tượng được hình dáng của bản thân khi hai từ này vận vào mình, nhưng bây giờ, giáp mặt với nó thì lại thấy lòng bình thản. Y thầm cảm thấy may mắn vì luôn có nàng ở bên cạnh trong nửa cuộc đời này.
“Kiều Kiều”, y gọi khẽ, “Nàng biết không? Thời trẻ trẫm từng nghĩ đến lúc mình trăm tuổi thì sẽ bắt tất cả phi tần cung nữ trong chốn hậu cung phải chôn cùng, không lưu lại một ai để phòng ngừa lần nữa phát sinh chuyện Lữ hậu[7] ở Lưu gia.”
[7] Lữ hậu người Đan Phụ (nay là huyện Đan tỉnh Sơn Đông) là hoàng hậu đầu tiên đời nhà Hán – vợ Hán Cao Tổ Lưu Bang. Bà là người phụ nữ tàn ác, chuyên quyền. Sau khi Hán Cao Tổ mất, con trai bà là Huệ đế làm vua nhưng toàn bộ quyền lực đều nằm trong tay bà. Huệ đế buồn phiền sinh bệnh chết, Lữ hậu nắm giữ chính quyền, phong tước phong hầu cho con cháu nhà họ Lữ, đàn áp con cháu họ Lưu, đối với những người không nghe lời, Lữ hậu gϊếŧ không tha, số người bị Lữ hậu gϊếŧ nhiều tới nỗi chính bà cũng không nhớ nổi. Năm 180 TCN, Lữ hậu chết, thiên hạ thuộc về tay Lưu Hằng, con trai thứ ba của Lưu Bang.
Y nhìn chằm chằm vào mặt nàng với hy vọng có thể thấy thoáng kinh sợ, vì dù sao thì thủ đoạn này cùng quá tàn khốc, từ cổ chí kim chưa từng có ai làm, thế nhưng A Kiều chỉ òa khóc nức nở, nước mắt chan hòa rơi xuống tay y từng giọt từng giọt nóng hổi, làm lòng y tan nát. Đã nói tới mức như vậy, có phải ngay cả bản thân y thừa nhận sẽ có một điểm cuối của cuộc đời?
“Đừng khóc nữa.” Lưu Triệt bất đắc đĩ than thở “bây giờ thì trẫm sao nỡ động tới Kiều Kiều. Hơn nữa Thái tử sáng suốt, Kiều Kiều lại không hề có dã tâm, chẳng cần nói tới chuyện này nữa.”
“Những người còn lại trong cung Vị Ương”, ánh mắt y lóe lên tia lạnh lẽo. “dù có hợp sức lại với nhau cũng không phải là đối thủ của Kiều Kiều, trẫm cũng không cần động đến bọn họ.”
Tháng Hai, thánh giá lên đường trở về Trường An, nào ngờ đang đi bệnh tình trở nên trầm trọng hơn nên đành phải dừng lại ở cung Ngũ Tộ. Trần hoàng hậu truyền ý chỉ, lệnh cho các hoàng tử hoàng nữ ở khắp nơi tập trung về cung Ngũ Tộ, cũng niệm tình cha con mà đặc cách cho phép cả Lưu Hoành đang bị giam lỏng ở Bắc cung được đi theo Thái tử đến.
Lưu Triệt lướt nhìn bốn đứa con trai, sáu đứa con gái trước mặt, thầm cười lạnh. A Kiều luôn tin tưởng rằng trong lòng mọi người ít nhiều đều có tính chân thiện mỹ, nhưng theo như y thấy thì mấy đứa con gái cùng có bộ dạng bi thương nhưng chỉ có một mình Duyệt Trữ là chân thành.
“Mạch Nhi”, rất hiếm khi y gọi con mình thân thiết như thế, “Con phải nhớ kỹ rằng ngày sau thừa kế giang sơn Đại Hán của trẫm, dù phải trên hiếu kính với mẫu thân, dưới bao bọc đệ, muội, nhưng chuyện cần làm vẫn phải làm, không được quá e dè.” Tề vương Lưu Cứ đang quỳ ở phía sau Lưu Mạch nghe thấy vậy ứa lệ, rét lạnh trong lòng vì biết rằng đây là lời cảnh cáo cuối cùng của phụ hoàng với hắn. Nhưng có một số chuyện dù biết cũng chẳng đặng đừng.
“Phụ hoàng”, Lưu Sơ nắm tay y, nước mắt giàn giụa.
“Được rồi, Sơ Nhi.” Trong suốt cuộc đời này y vẫn luôn kiên quyết không chịu gọi con gái bằng tên mụ như A Kiều thường gọi, “Con đã có mẫu hậu và ca ca chiếu cố rồi, phụ hoàng không còn gì phải lo lắng nữa.” Y nhìn qua tất cả các con trai, con gái một vòng, nhìn đến cả Di An mà y rất ít khi gặp, rồi phất tay, “Các con ra ngoài hết đi.”
Mấy đứa con đều biết, Hoàng đế muốn ở lại với Hoàng hậu một chút nên lặng lẽ thối lui. Y ho khan vài tiếng, quay đầu định gọi A Kiều nhưng đột nhiên ngưng bặt. A Kiều vẫn đứng bên cạnh, hơi cúi đầu, vẻ ưu tư. Y nhớ lại người con gái năm xưa đã gặp.
“Kiều Kiều.” Y gọi rất chậm.
Trần A Kiều giật mình bước tới bên cạnh, nắm lấy tay y. Cánh tay y gầy đét, bàn tay từng rất có lực nhưng giờ ngay cả việc nắm lấy tay nàng cũng khó khăn. Chỉ là dù sao hai người cũng đã làm được như câu “vợ chồng nắm tay nhau đến bạc đầu”. Nàng đã từng cho rằng không thể đạt được như câu nói này, y lại dùng hơn ba mươi năm để thực hiện nó. Nàng nghĩ, nàng không có tư cách để hoài nghi nhưng vẫn muốn hỏi một câu rằng, y có từng hối hận về chuyện năm xưa? Khi y nhướng mày, nhìn nàng sâu thẳm, “Trẫm không hối hận” thì nàng mới phát hiện mình vừa vô tình, buột miệng hỏi thành lời.
“Trẫm biết rằng quyết định năm đó của trẫm khiến nàng đau đớn, oán hận suốt đời, nhưng trẫm không hề hối hận. Bởi vì nếu không phải như thế thì sao trẫm có được nàng như ngày hôm nay. Cho nên, ngay cả khi thời gian có quay trở lại, ngay cả có mỏi mòn đau đớn vì phải làm tổn thương nàng thì trẫm sẽ vẫn một lần nữa lựa chọn cách làm như vậy.” Y khẽ nhíu mày. Y vốn không quen nói chuyện rõ ràng, nhưng đã đến lúc này thì còn điều gì là không thể nói?
Lưu Triệt khẽ thở một hơi thật dài, nhìn Trần A Kiều: “Trẫm thích A Kiều của năm xưa và lấy làm tiếc vì đã phụ lòng tin cậy của nàng. Nhưng người trẫm yêu là Kiều Kiều của bây giờ.”
A Kiều sững sờ, ngước lên nhìn thẳng vào đôi mắt y. Chúng rất sáng, toát lên vẻ thấu hiểu. Nàng chợt hiểu, cắn chặt môi không thể nào tin nổi, nước mắt nhạt nhòa không còn trông rõ ánh mắt của y, chỉ còn nghe tiếng rủ rỉ bên tai, “Sau khi trẫm mất”, y hơi ngừng lại rồi nói tiếp, “Mậu Lăng được xây dựng đã nhiều năm, chẳng bao lâu nữa sẽ hoàn thành nhưng quy chế của tổ tiên tuy cho Hoàng đế và Hoàng hậu cùng lăng nhưng không cùng tẩm, càng không cho cùng bậc. Trẫm lại không muốn tách rời Kiều Kiều nên đành phải tòng quyền[8] thôi. Trẫm đã viết trong di chiếu về chuyện này, Kiều Kiều xem là sẽ hiểu.”
[8] Tòng quyền: ứng phó linh hoạt tùy theo hoàn cảnh, không cố chấp, không câu nệ.
Trên đời này không có điều gì là hoàn toàn bí mật. Hơn nữa người mà y gần gũi ngày đêm là một người thông minh biết nhường nào. Y cứ cho là mình giữ được bí mật nhưng lại không hay rằng người bên cạnh đã biết rõ, chỉ là không nói ra mà thôi. Hai người dù yêu nhau đến đâu cũng vẫn là hai người, vĩnh viễn không thể hợp thành một. Cả hai cùng tự cho là mình hiểu rõ lẫn nhau, thật ra trong nội tâm sâu thẳm vẫn có một khoảng không thể nhìn tới, hoặc là nhìn thấy nhưng chẳng thể làm được gì. Dù có gần gũi đến đâu thì tâm hồn cũng không chạm tới được.
Nàng chẳng còn để ý đến việc nàng yêu y thì y có yêu mình hay không nữa, mà chỉ thấy tình yêu dần khiến nàng bớt đi sự hờ hững lạnh đạm. Vào năm sau khi từ lễ Phong Thiện trở về, nàng sẽ bỏ qua những chuyện năm xưa, chỉ cần y không nhắc đến thì nàng cũng sẽ im lặng.
Nàng có thể không nghĩ tới những tổn thương, coi như không nhìn thấy vết sẹo trong lòng nên không đau đớn. Nhưng nàng không thể không nghĩ xem rốt cuộc y yêu là yêu bản thân nàng hay yêu vì cảm thấy có lỗi với A Kiều năm xưa. Trần A Kiều, ngươi đừng vô vị như vậy, quá khứ hay hiện tại đều chẳng phải là một mình ngươi sao? Nhưng sự thật có phải là thế? Suy nghĩ này dù không nặng nề nhưng chất chứa trong lòng lâu ngày cũng thành một nỗi ám ảnh. Hôm nay y đã nói là yêu bản thân nàng. Bọn họ ở bên nhau suốt bao năm, ăn cùng mâm, ngủ cùng giường, quấn quýt không rời nhưng chưa hề nói một chữ yêu. Nàng cho là mình giữ một bí mật động trời nhưng nào ngờ y đã biết từ lâu. Y cho là nàng hiểu được tình yêu của mình nhưng đâu hay rằng nếu không nói ra thì nàng vẫn luôn ám ảnh nghi ngờ. Bọn họ đều là những người quá kín đáo, có cảm thụ về nhau nhưng lại không chịu nói thành lời.
“Kiều Kiều, đừng thương tâm nữa.” Lưu Triệt dịu dàng, “Trẫm đăng cơ năm mười bảy tuổi, năm nay đã bảy mươi, tại vị hơn năm mươi năm cũng đủ rồi, chẳng còn gì tiếc nuối nữa. Trẫm ở Mậu Lăng chờ nàng, tới giờ cũng chẳng biết là nên cầu mong cho Kiều Kiều sống lâu thêm một chút hay mong Kiều Kiều đến với trẫm sớm hơn một chút.”
Ngày Đinh mão, Lưu Triệt băng hà ở cung Ngũ Tộ, thọ bảy mươi tuổi. Ngày Giáp thân tháng Ba, y được chôn cất ở Mậu Lăng, lấy thụy hiệu là Vũ, chính là Hiếu Vũ Đế. Hoàng tử để tang chưa đầy một tháng thì Tề vương Lưu Cứ làm phản, viện lý do rằng Thái tử Lưu Mạch là con của Trần A Kiều sinh khi lưu lạc ở ngoài cung, chưa chắc là con của Vũ Đế. Lúc hịch văn dấy loạn truyền tới tay Lưu Mạch, hắn chỉ cười lạnh. Lưu Cứ quả thật đã nóng lòng đến loạn trí rồi, suốt bao nhiêu năm qua, không có ai dám hoài nghi về việc này chẳng phải vì tướng mạo của hắn và Vũ hoàng đế giống nhau như đúc sao? Nhưng nếu Lưu Cứ không phản lúc này mà đợi đến khi Lưu Mạch dùng ngôi vị thái tử ổn định thiên hạ thì chắc chắn Lưu Cứ sẽ hết cách.
Tháng Tư, sau khi hết ba mươi sáu ngày mãn tang, Lưu Mạch đăng cơ hoàng đế; hiệu lệnh toàn bộ Đại Hán, chính là Chiêu hoàng đế sau này. Hắn tôn mẫu thân Trần A Kiều làm Hoàng thái hậu, theo như tổ chế chuyển tới cung Trường Nhạc. Lập chính thê Thượng Quan Linh làm hoàng hậu, hiệu là Hiếu Chiêu Thượng Quan hoàng hậu, muội muội Lưu Sơ làm Duyệt Trữ trưởng công chúa, trưởng nữ Lưu Yêu được phong làm Dương Hà công chúa. Ngoại trừ đất Tề, chúng thần đều thần phục, kinh sư Trường An vẫn duy trì ổn định.
Tháng Tám, Lưu Cứ bị đánh bại. Đại tướng Tiết Thực chém Ninh Triệt, tuân theo thánh ý, giải Lưu Cứ về Trường An. Tội mưu phản vốn không thể tha nhưng Lưu Mạch mới mãn tang phụ hoàng chưa lâu, không đành lòng để phụ hoàng khó an giấc dưới suối vàng bởi cảnh huynh đệ tương tàn nên tha mạng cho Lưu Cứ, phế làm thứ dân, giam lỏng cả đời ở cung Ngũ Tộ.
Trần A Kiều ở trong cung Trường Nhạc ôm Tuyết Ô cũng biết được hết thảy. Nàng biết con trai mình đủ khôn khéo và từng trải nên không lo nó không xử lý được những chuyện nhỏ này. Bản thân nàng đã kiệt sức trước những bi thương liên tiếp kéo đến, chẳng thể để ý. Sau khi Lưu Triệt mất, nàng chuyển ra ngoài Trường Môn, không muốn ở lại nơi mà nhìn đâu cũng vấn vương hình bóng của y. Nhưng nàng lại quên rằng cung Trường Nhạc cũng không phải chỗ yên vui gì. Đó là nơi nàng lớn lên từ nhỏ, lưu giữ bao nhiêu ký ức vui vẻ với y thuở còn niên thiếu. Có thể nói, thành Trường An, Đại Hán, thậm chí cả thiên hạ này đều có bóng dáng của y, dù nhắm mắt che tai vẫn còn hiển hiện. Cuối cùng nàng bất lực, cứ để mặc cho nỗi nhớ nhung giày vò.
Nàng tưởng nhớ về ánh mắt của y, gương mặt của y, nét đáng yêu của y khi còn nhỏ, vẻ âm trầm khi trẻ trung, sau cùng lại tràn ngập yêu thương. Từ trước đến giờ nàng vẫn không thể đoán được đến lúc cuối cùng, hồi tưởng về chuyện thời niên thiếu thì mình sẽ có cảm giác thế nào. Giờ nàng rốt cuộc đã biết. Nàng nhớ về căn phòng ngoài của điện Tiêu Phòng hun hút gió năm xưa, y tỏ vẻ lạnh lẽo, thái độ vô tình, cứ thế bỏ đi. Vào lúc đó nàng cảm thấy buốt giá đến tận xương tủy, cả đời này chắc không thể có giây phút nào lạnh giá hơn. Hôm nay nàng nhớ lại vẫn còn cảm thấy cái lạnh ấy, chỉ là lần này không chỉ có cảm giác đó mà còn có cả niềm đau xót. Đau xót vì y đã vô tình làm tổn thương mình, đau xót vì y đã không còn bên cạnh nữa, nàng có tìm khắp trên trời dưới đất cũng không thể thấy một người tên Lưu Triệt gọi nàng một tiếng Kiều Kiều. Điều trớ trêu là, nếu y không rời khỏi thế gian này thì nàng lại không thể yêu thương y hết mình.
Sau khi Vũ hoàng đế mất được một năm, hoàng đế mới lên ngôi đổi niên hiệu là Hiển Thủy. Trong gia yến mừng năm mới, Lưu Mạch kinh hãi phát hiện thấy một lọn tóc bạc trắng trên mái tóc đen của mẫu thân mình. Chẳng lẽ tương tư lại khiến cho mẫu thân chỉ trong một năm ngắn ngủi đã bạc đầu? Chiêu Đế và Công chúa trưởng Duyệt Trữ lo mẫu thân cô đơn nên không chỉ thường xuyên tự mình tới Trường Nhạc thăm hỏi mà còn bảo con cái tới cùng vui vầy. Nhưng mấy đứa cháu trai phải học tập vất vả, Công chúa Dương Hà lại vừa xuất giá, cuối cùng chỉ có một mình Thuận Hoa là hay tới chơi với A Kiều.
Năm Hiển Thủy đầu tiên, Thuận Hoa đã được mười một tuổi mụ, bắt đầu biết mộng mơ. Dù vẫn nhớ cha mẹ nhưng cô lại thích ở trong Trường Nhạc vắng lặng với ngoại tổ mẫu luôn điềm tĩnh. Rất nhiều năm sau, cô vẫn nhớ tới ngoại tổ mẫu trong những năm Hiển Thủy có mái tóc đen dài đã pha sương nhưng không thể che lấp được vẻ mỹ lệ. Người thường đốt một lò hương rồi ngồi viết chữ hoặc đánh đàn, lúc thời tiết tốt thì bế Tuyết Ô ngồi sưởi nắng mặt trời. Tuyết Ô được người vuốt ve bộ lông cổ dày, nằm duỗi dài biếng nhác. Thỉnh thoảng, ngoại tổ mẫu lại khe khẽ hát mấy khúc ca rất êm đềm mà cô chưa bao giờ nghe thấy. Có một lần, người từng hát rõ cho cô nghe một bài rất thanh thoát mà nhiều năm sau cô có quên đi giai điệu nhưng vẫn còn nhớ rõ ca từ.
“Lúc còn thơ bé rất nghịch ngợm, bà ngoại thường hát để dỗ dành. Mùa hè sau giờ Ngọ, bà ngoại lại hát ru, lời ca như vậy: Trời tối đen muốn mưa rơi, khắp nơi một màu đen.
Ta yêu một người đến quên bản thân, coi người đó là cả thế giới. Nhưng khi ta lẫn lộn với cuộc đời đầy dối trá và lừa lọc, mới tự hỏi phải chăng thế giới khi ta trưởng thành luôn không trọn vẹn. Mỗi ngày ta đều phải đối diện với muôn vạn nẻo đường, ta hoài niệm quá khứ đơn thuần chính là một niềm hạnh phúc nhỏ. Yêu luôn làm cho người ta khóc, làm cho người ta cảm thấy không vừa lòng, bầu trời rất lớn nhưng mịt mờ, ta cô độc một mình. Khi trời tối, ta lại nghĩ tới bài hát, đột nhiên mong đợi cơn mưa bình yên. Hóa ra bà ngoại đã sớm hát cho ta nghe chân ỉý, dù mưa có rơi xuống cũng phải dũng cảm bước tới…”
Lúc đó, cô cho là ngoại tổ mẫu cố ý hát để mình nghe. Rất nhiều năm sau hồi tưởng lại, mới chợt giật mình nhận ra, biết đâu đó chính là ngoại tổ mẫu cảm thương cho cuộc đời mình, bởi vì khi còn bé ngoại tổ mẫu lớn lên ở cung Trường Nhạc. Khi đó chủ nhân của cung Trường Nhạc là Đậu thái hậu, ngoại tổ mẫu của ngoại tổ mẫu.
Người trong cung Trường Nhạc dần lén nghĩ, chẳng lẽ Thuận Hoa quận chúa sẽ trở thành một Hiếu Vũ Trần hoàng hậu khác? Cả hai cùng lớn lên ở cung Trường Nhạc, đều có một hoàng đế là ông ngoại, một hoàng đế là cữu cữu. Thuận Hoa quận chúa cũng có giao tình tốt với hai vị hoàng tử, có thể nói là thanh mai trúc mã. Thanh mai trúc mã là một từ ngữ mỹ lệ trong đoạn thơ “Thϊếp phát sơ phúc ngạch, môn tiền chiết họa kịch. Lang kỵ trúc mã lai, nhiễu sàng lộng thanh mai.”[9]
[9] Câu thơ “Thϊếp tóc xòa trên trán, trước cửa hái hoa chơi, Chàng cưỡi ngựa trúc đến, vòng quanh ghẹo đẹp đôi” trong bài Trường can hành của Lý Bạch.
Chẳng lẽ chỉ có Vũ hoàng đế và Trần thái hậu mới thật sự là thanh mai trúc mã? Có một vị hoàng đế nào đó sẽ làm phu quân của Thuận Hoa? Người đó có yêu nàng cả đời, đến chết vẫn không thôi? Trần A Kiều nghe được lời bàn tán, liền nhíu mày trách mắng: “Nói lung tung gì đó?” Nàng xưa nay vốn ôn hòa, hiếm khi nghiêm mặt nên cung nhân lập tức đều câm như hến. Thuận Hoa thế này đã rất tốt rồi không cần làm một hoàng hậu như vậy để dệt hoa trên gấm nữa. Hoa khoe sắc trên gấm tuy đẹp nhưng Vị Ương lại không phải là một chỗ thích hợp cho hoa khoe sắc, không vào chốn này ngược lại còn là hạnh phúc. Huống chi, huyết thống của nàng và Lưu Triệt đã rất gần nhau, nàng không muốn lại thêm một lần như vậy.
Thuận Hoa không để ý lắm, chỉ thỉnh thoảng thấy Ánh Chu và Phiếu Tử phía sau ngoại tổ mẫu tỏ vẻ thương cảm. Bọn họ đều nói “Thái hậu nhất định là nhớ tói Vũ hoàng đế rồi.”
“Vũ hoàng đế?”, Thuận Hoa thầm nghĩ. Nghe nói, danh hiệu Thuận Hoa của cô chính là được ngoại tổ phụ[10] đích thân ban cho. Lúc cô biết chuyện thì Vũ hoàng đế đã bắt đầu già rồi. Nghe nói ngoại tổ mẫu lớn hơn Vũ hoàng đế hai tuổi nhưng sao đến giờ ngoại tổ mẫu vẫn còn xinh đẹp đến thế? Khó trách mà Vũ hoàng đế yêu người nhiều năm như vậy. Tình yêu là gì chứ?
[10] Ngoại tổ phụ: Ông ngoại.
Thoáng cái đã đến tháng Mười bắt đầu vào mùa đông. Khi những cơn gió bắc đầu mùa thổi qua thành Trường An thì Thuận Hoa ngoan ngoãn cũng gần mười hai tuổi, thỉnh thoảng lại bồn chồn đi tới đi lui trong nhà và cung Trường Nhạc tịch mịch, len lén mang theo thị nữ ra phố, tự nghĩ là đã giấu được nhưng lại không biết các bậc trưởng bối ngầm đồng ý. Bọn họ cũng từng có một thời niên thiếu háo hức như vậy.
Thành Trường An vẫn phồn hoa như cũ, cảnh ồn ào tấp nập không hề bị vụ phản loạn năm trước ảnh hưởng, tiếng người huyên náo cho Thuận Hoa những cảm giác mới mẻ, không nhịn được thò đầu ra khỏi xe. Một cậu bé ăn mày quần áo rách rưới chạy ào ào trên đường, đâm sầm vào một thiếu niên ăn mặc sang trọng định trộm túi tiền của thiếu niên kia nhưng lại bị bắt quả tang, chịu một trận đấm đá chửi rủa. Cậu bé ăn mày cũng là một người quật cường, tuy ngã sóng xoài trên đất nhưng không hề cất tiếng van xin, cặp mắt vẫn ánh lên như sao sáng. Thuận Hoa nhìn cặp mắt đó, sinh lòng thương xót, nếu chẳng may đánh chết người thì thật quá mức. Cô đang định lên tiếng ngăn lại thì một thiếu niên mặc đồ xanh đã tiến tới, mỉm cười nói, “Huynh đài đã dạy dỗ rồi, có thể khoan dung được thì xin hãy độ lượng hơn chăng.”
Lúc này người xem đã vây quanh bốn phía nên Trần Đình không thể xuống thang trước mặt đám đông liền cao giọng: “Ngươi muốn ta tha thì ta phải tha sao?” Hắn vừa nói xong đã biến sắc, thiếu niên mặc đồ xanh kia trông rất văn nhã, đôi tay nhìn cũng không có lực nhưng lại khiến hắn không thể giãy giụa mảy may. Lúc này hắn mới chú ý, ở thắt lưng của thiếu niên có quấn ngang một thanh nhuyễn kiếm, tuy lưỡi kiếm còn nằm trong vỏ nhưng vẫn không thể che lấp sự sắc bén.
“Đấu rượu Tân Phong giá chục ngàn,
Thiếu niên du hiệp đất Trường An
Tương đồng chí khí cùng nâng chén
Buộc ngựa lầu cao liễu thẳng hàng.”
Bài thơ nổi tiếng về du hiệp này tương truyền là do Trần thái hậu viết ra năm xưa. Thoạt nhìn thì thiếu niên mặc đồ xanh hẳn là một du hiệp.
Trần Đình đã hơi biến sắc, nhưng vẫn cố làm bộ hùng hổ: “Ngươi biết ta là ai không?” Hắn nghĩ đến việc này thì lại thêm phần tự tin, ưỡn ngực nói: “Nói cho ngươi biết, Trần thái hậu trong cung Trường Nhạc hiện nay là cô nãi nãi của ta đây.”
“Ổ.” Dân chúng bốn phía đồng loạt ồ lên, hóa ra là con cháu Trần gia.
“Thật à?” Thiếu niên mặc đồ xanh cười vang, nói vẻ hài hước “Thật là trùng hợp, tính ra thì Trần thái hậu cũng là sư cô của ta đây. Như vậy chẳng phải vai vế ngươi thấp hơn ta rồi sao? Nào, chào một tiếng thế thúc[11] đi.”
[11] Thế thúc: Cách xưng hô với người bằng hữu nhỏ tuổi hơn cha của mình.
Sắc mặt Trần Đình trở nên xám xịt. Năm xưa Trần thái hậu lưu lạc ngoài cung đúng thật đã từng bái làm đệ tử của môn phái du hiệp đệ nhất thiên hạ. Theo lời đồn, năm xưa bệ hạ từng muốn thanh trừng du hiệp nhưng nể mặt Trần hoàng hậu nên mới chịu bỏ qua. Bản thân các du hiệp sau đó khi tung hoành thiên hạ cũng bớt phóng túng nên hết thảy bình an vô sự. Hắn chẳng biết đáng tin hay không nhưng cũng dần nhụt chí, đành nói mấy câu khách sáo rồi bỏ đi. Cậu bé ăn mày bò dậy, nói: “Đa tạ cứu giúp.” Cậu cúi đầu thật sâu nhưng bị thiếu niên ngăn lại, thở dài, “Ta không mong ngươi tạ ơn, nhưng ngươi cũng không ăn trộm được gì của ta đâu vì trên người ta không có đồng nào.”
Hắn nghe thấy tiếng cười lanh lảnh như chuông bạc từ phía sau truyền đến liền quay đầu lại, thấy một thiếu nữ còn nhỏ tuổi đang nhìn mình. Cô xinh đẹp tuyệt trần, mặc bộ y phục may từ gấm vân sa dù có tiền cũng khó mua được.
“Được rồi.” Thuận Hoa ném ra một xâu tiền Ngũ Thù lớn “Ta không cần ngươi trộm, đưa luôn cho ngươi là được.” Nhìn nụ cười hiền hậu của cô, cậu bé ăn mày bất giác đỏ mặt lùi lại một bước, vòng tay lên bái, nói: “Vốn ta không muốn lấy tiền của tiểu thư nhưng bất đắc dĩ nhà có việc cần dùng gấp, xin ghi nhớ ân huệ của tiểu thư.” Cậu nói xong không hề liếc mắt nhìn bọn họ, xoay người rời đi.
Quách Lãng ra vẻ bất bình, “Ta cứu mạng của hắn mà hắn lại tạ ơn người khác, như vậy chẳng phải là nhất bên trọng nhất bên khinh ư?”
Thuận Hoa hé miệng cười để lộ chiếc lúm đồng tiền, “Ta vừa nghe ngươi nói là sư chất[12] của Trần thái hậu có đúng không?”
[12] Sư chất ở đây có nghĩa là cháu của sư phụ Trần A Kiều.
Quách Lãng liếc thấy miếng ngọc bội có đóng dấu hoàng gia đeo bên thắt lưng liền suy đoán được thân phận của cô, bình thản nói, “Tất nhiên rồi.”
“Như vậy”, Thuận Hoa háo hức hỏi, “ngoại tổ Thái hậu nương nương đã làm những việc gì lúc ở ngoài cung vậy?”
“Lúc ta ra đời thì Hoàng hậu nương nương đã hồi cung lâu rồi.” Quách Lãng nói, “Chỉ nghe cha mẹ có kể rằng năm xưa Trần sư cô bị người ta đuổi gϊếŧ, được sư thúc tổ cứu mạng nên bái làm môn hạ, dẫn theo hai người con trở lại Đường Cổ Lạp Sơn ở mấy năm mãi tới đại chiến Hán Hung sau đó mới xuống núi.”
Thuận Hoa nghe vậy liền ra sức đoán chuyện năm xưa. Nếu ngoại tổ mẫu từng bị truy sát thì hồi đó Vũ hoàng đế có biết hay không? Chắc là người không biết, nếu không thì làm sao có thể để người vợ kết tóc của mình lưu lạc nhiều năm bên ngoài như vậy. Nhiều năm sau gặp lại, Vũ hoàng đế chắc hết sức vui mừng? Cô nhớ bản thân từ khi hiểu chuyện tới nay vẫn luôn chứng kiến tình cảm ân ái mặn nồng đẹp đẽ của Hoàng đế và Hoàng hậu trong điện Trường Môn. Ngày sau liệu cô có được như vậy? Thuận Hoa suy nghĩ vẩn vơ, ngẩng đầu lên bỗng vô tình bắt gặp gương mặt tuấn tú của Quách Lãng thì tự dưng thấy mặt mình nóng bừng.
Đến mùa xuân năm Hiển Thủy thứ hai, Kim Nhật Đan đưa Thuận Hoa về phủ đón năm mới. Lúc cô đi là ban ngày nên cung Trường Nhạc còn náo nhiệt, nhưng đến buổi tối tĩnh mịch thì Trần A Kiều mới cảm thấy trống trải. Chiếc giường trong cung Trường Nhạc rất rộng, rất mềm mại thư thái, nàng xoay nghiêng người và cảm giác thấy bên cạnh hụt hẫng, người bầu bạn bao năm qua với mình đã không còn nữa. Nàng thấy cay cay ở sống mũi, vội vàng mở mắt để xua đi nỗi buồn bã rồi đứng dậy khoác thêm chiếc áo ngoài và đi tới trước cửa sổ. Trên bầu trời đêm đông giá lạnh có ngàn sao đang lấp lánh, ngôi sao nào là ánh mắt của y đang ngắm nhìn nàng? Y xưa nay vẫn luôn khí phách không cho phép nàng cự tuyệt, nếu thật sự mỗi ngôi sao là đại biểu cho một linh hồn thì y nhất định sẽ lấy bóng đém làm cánh tay ôm siết. Nàng đã phải mất tận một năm mới học được cách không để lòng dậy sóng khi nhớ nhung y, nhưng đêm nay, chỉ riêng một đêm nay lại khiến nàng nhớ thương vừa dịu dàng vừa mãnh liệt.
Sáng hôm sau, Trần thái hậu lâm bệnh trầm kha, không thể ngồi dậy. Chiêu Đế lo lắng, tuyên các ngự y vào chữa trị. Bọn họ đều nói Thải hậu nương nương lúc còn trẻ đã mấy lần bị trọng thương động tới căn cốt, giờ tuổi cao mới phát nên không có cách gì cứu vãn. Lưu Mạch tức giận nghiến răng ken két, nhớ tới Triêu Thiên môn ngoài kiếm thuật cũng rất giỏi về y thuật bèn phái người không quản đường xa vạn dặm tới Đường Cổ Lạp Sơn cầu người. Trường An cách Đường Cổ Lạp Sơn cực xa, lúc mời được người về thì đã là tháng Năm.
Tính ra thì Tiêu Phương cũng đã già lắm rồi nhưng khi Lưu Mạch lần đầu tiên trông thấy ông đứng trên hành lang cung Trường Nhạc quay đầu nhìn lại thì trong đầu vẫn như cũ nghĩ đến hai từ ấm áp. Một vẻ ấm áp vượt qua những nét đẹp bên ngoài, thấm sâu vào tâm can người đối diện.
“Sư công.” Hắn gật đầu chào hỏi, liếc nhìn cô gái đứng sau Tiêu Phương, cảm giác khá bất ngờ. Thời gian đã trôi qua hơn hai mươi năm, kiều nữ hồng nhan năm đó đã già đi, khuôn mặt cũng trở nên tròn trịa hơn. Nàng khẽ dập đầu bái lạy: “Dân nữ tham kiến bệ hạ.”
“Năm đó cô ấy được người cứu giúp rồi lưu lạc đến làm môn hạ của ta.” Tiêu Phương biết hắn nghi ngờ nên giải thích.
Người ra tay cứu giúp kia biết khúc mắc cùa nàng với hoàng gia, không muốn dẫn lửa thiêu thân nhưng lại không nỡ bỏ mặc người con gái yếu đuối không cứu giúp, nên mách bảo Thượng Quan Vân ngàn dặm tìm tới. Năm đó, Tiêu Phương gặp người thiếu nữ này dưới chân Đường Cổ Lạp Sơn. Chỉ qua một tháng gió sương đã làm mất đi hoàn toàn sự kiêu ngạo của cô, nhưng ánh mắt vẫn toát lên vẻ quật cường. Vẻ quật cường đó khiến Tiêu Phương bất giác nhớ lại sắc mặt tái nhợt của Nhạn Thanh lúc té ngã ở ngoài thành Trường An năm xưa.
“Triêu Thiên môn được xưng Y kiếm song tuyệt nhưng sau ta thì người học y chỉ có một mình mẫu thân người. Mẫu thân người ở địa vị cao, không cách nào tĩnh tâm học tiếp nên ta đành phải tìm người truyền y bát[13].”
[13] Truyền y bát: Cụm từ xuất phát từ Phật giáo. Y và bát là hai vật được đức Phật coi trọng, truyền lại cho đệ tử, tương trưng cho việc truyền thụ và kế thừa Phật pháp. Cụm từ truyền y bát còn được hiểu rộng là sự truyền thụ và kế thừa sự nghiệp của sư phụ.
Vũ hoàng đế đã mất, Tề vương Lưu Cứ lại bị phế làm thứ dân, Lưu Mạch dĩ nhiên không muốn không nể mặt Tiêu Phương mà cứ thế trị tội chị gái của vợ mình vì những chuyện trước kia, mỉm cười nói, “Sư công đã đến thì mời vào thăm mẫu thân đi.”
Trước đây Tiêu Phương đã từng tới cung Trường Nhạc không ít lần. Khi đó, chủ nhân của cung Trường Nhạc là Vương thái hậu, bây giờ đã đổi tới Nhạn Nhi. Trần A Kiều nghe tiếng bước chân, liền quay đầu lại, nhìn thấy Tiêu Phương thì sững người giây lát rồi dịu dàng mỉm cười cất tiếng chào: “Sư phụ.” Thượng Quan Vân thấy người mà lòng xót xa, bao nhiêu năm đã qua rồi và Trần hoàng hậu xinh đẹp ở Lâm Phần ngày nào bây giờ rốt cục cũng đã già.
Tiêu Phương bắt mạch kê đơn. Sau khi xong chuyện, vì đàn ông bên ngoài không được ở trong cung nên ông đành rời đi, để Thượng Quan Vân ở lại chăm sóc Trần thái hậu. Trần thái hậu uống thuốc xong, chợt bật cười, “Không ngờ vận mệnh thật kỳ lạ, ngươi lại trở thành sư muội của ta.”
“Thái hậu nương nương nói quá rồi, dân nữ không dám nhận.” Thượng Quan Vân thản nhiên đáp, hai người đàn ông quan trọng nhất trong cuộc đời cô đều có liên quan đến người phụ nữ này thật là kỳ lạ!
“Thái hậu nương nương.” Ánh Chu vén rèm bẩm, “Hoàng hậu nương nương tới đây thỉnh an.”
A Kiều gật đầu: “Bảo Hoàng hậu vào đi”, nói xong quay sang bảo Thượng Quan Vân: “Tỷ muội các ngươi đã không gặp nhau nhiều năm rồi, nói chuyện thoải mái một chút.”
Thượng Quan Vân ngước lên nhìn muội muội đang ung dung tiến vào. Đã nhiều năm không gặp, thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần năm xưa đã ra dáng một bậc mẫu nghi thiên hạ, cúi nhìn lại thấy mình thật sự lại giống như một người phụ nữ nông thôn. Nhưng ít ra như vậy còn tốt hơn là năm đó gả cho Tề vương, để sau này lại xảy ra chuyện binh đao. Thượng Quan Linh cũng đánh giá qua người tỷ tỷ xa cách nhiều năm, vẻ kiêu ngạo thời trẻ đã mất đi, hiện rõ vẻ đằm thắm. Tỷ tỷ vốn đẹp hơn cô, giờ lại càng như vậy. Cô mỉm cười, nắm tay Thượng Quan Vân, nước mắt rưng rưng, chân thành nói: “Lần này tỷ tỷ trở về hãy ở lại luôn nhé. Ca ca đã khôi phục chức quan, sau này ba huynh muội chúng ta sẽ đoàn tụ có được không?”
Cô không ngờ Thượng Quan Vân lại chầm chậm rút tay về, nói khẽ nhưng cương quyết: “Duyên tới thì tụ, duyên hết thì tán. Hoàng hậu nương nương đừng cưỡng cầu khi duyên phận tỷ muội giữa chúng ta đã hết.”
A Kiều ở một bên nghe, nhướng mày cười nói, “Vân Nhi nói vậy dường như đã tham khảo Phật pháp rồi.” Thượng Quan Vân cúi đầu, ‘Đúng vậy. Những năm trước đây khi còn là thái tử thì bệ hạ đã từng đi sứ Thân Độc. Từ đó một tôn giáo của Thân Độc đã theo con đường giao thương giữa Đại Hán và Thân Độc mà lưu truyền sang Đại Hán. Sư phụ đã một lần được nghe thuyết giảng và cảm thấy rất hứng thú nên những năm qua vẫn thường đọc kinh Phật. Vân Nhi hầu hạ ở bên cạnh sư phụ, dĩ nhiên mưa mãi cũng thấm.”
Cô ngước lên trông thấy sắc mặt trang nghiêm của A Kiều, liền thôi không nói nữa mà nghe A Kiều niệm đều đều, “Thiện nam tử, tất cả chúng sinh từ trước tới nay vẫn luôn điên đảo, ví như kẻ lạc đường nhận lầm phương nam thành phương bắc, cho tứ đại[14] là thân tướng thật của mình, cho huyễn ảnh lục trần[15] là tâm tướng thật của mình, ví như kẻ bị nhặm mắt, thấy quầng sáng trên không là mặt trăng thứ hai.”
[14] Tứ đại: Trong quan niệm nhà Phật, tứ đại để chỉ vật chất.
[15] Trong giáo lý nhà Phật có ba khái niệm cơ bản là lục căn, lục trần và lục thức. Lục căn là sáu giác quan của con người, lục trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Khi lục căn tiếp xúc với lục trần sẽ sinh ra lục thức. Nếu tâm không tĩnh thì cái thức chúng ta nhận được sẽ là ảo ảnh, hay chính là huyễn ảnh.
“Đây là Viên giác kinh mà sư phụ thường đọc. Thái hậu nương nương cũng học Phật Sao?” Cô hơi kinh ngạc nhưng thoáng cái đã hiểu, chuyện này xảy ra trước khi cô nhập môn và không liên quan gì đến cô cả.
Trần A Kiều nhớ lại năm Nguyên Quang thứ năm từ thời gian đó tới giờ sao thật xa xôi cứ giống như đã qua một kiếp người. Lúc đó Mạch Nhi và Tảo Tảo còn chưa ra đời, nàng vẫn chỉ là Nhạn Thanh. Ngày đó nàng nhìn sư phụ chằm chằm, cười khanh khách “Gặp sư phụ thì mới biết được cái gì là ‘Quân tử khiêm cung, sáng láng như ngọc’.”
“Thật không?” Hắn không tức giận, chỉ đáp vẻ cáu kỉnh, ngay cả cặp mày cũng không nhướng lên.
“Đúng vậy.” Nàng gật đầu như có thật, “Khi còn bé, mẫu thân từng đọc một đoạn kinh văn, con đọc cho sư phụ nghe: Thiện nam tử, tất cả chúng sinh từ trước tới nay vẫn luôn điên đảo, ví như kẻ lạc đường nhận lầm phương nam thành phương bắc, cho tứ đại là thân tướng thật của mình, cho huyễn ảnh lục trần là tâm tướng thật của mình, ví như kẻ bị nhặm thấy quầng sáng trên không là mặt trăng thứ hai….”
Những tháng ngày đó vui vẻ, trong trẻo như dòng suối mùa xuân. Nếu như, nếu như không phải xảy ra những chuyện sau đó mà cứ sống như vậy cũng là một loại hạnh phúc. Nhưng đời người nào có được bao nhiêu chữ “Nếu như” chứ? Nếu nói trong cuộc đời này, người có lỗi với nàng nhất là Lưu Triệt, vậy người mà nàng có lỗi nhất thì không thể nghi ngờ, chính là Tiêu Phương.
Nửa tháng sau đó, Lưu Mạch xử lý xong chính sự ở điện Tuyên Thất liền tới cung Trường Nhạc thỉnh an mẫu thân. Cung nhân nói cho hắn biết Thái hậu nương nương đã ra khỏi điện. Hắn thong thả bước trên hành lang cung Trường Nhạc, bỗng nhiên dừng lại, nhìn thấy mẫu thân và sư công đang ở cùng nhau tại sơn đình phía trước, cách nhau một khoảng không xa cũng không gần. Có một số người trên thế gian này, ngay cả tuổi già cũng không thể lấy đi vẻ đẹp của họ, ngược lại lắng đọng lên men qua năm tháng, ủ ra một vẻ đẹp thuần khiết. Mẫu thân và sư công, không thể nghi ngờ là hai người trong số đó.
Ngoài đình lất phất mấy cánh hoa hạnh, lẻ loi xoáy tròn trong không trung, Trần A Kiều bắt lấy một cánh, chầm chậm vo tròn, thở dài, nói: “Nếu như Nhạn Nhi chỉ đơn thuần là Nhạn Nhi, chắc sẽ lựa chọn ở lại bên cạnh sư phụ.” Chỉ tiếc rằng nàng không phải như vậy.
Tiêu Phương cảm giác một nỗi đau đớn dịu dàng dâng lên trong lòng, nhưng ông ôm mối tình câm nửa cuộc đời, có được một câu này cũng tốt. Ông không muốn nàng khó xử, hỏi, “Vậy kiếp sau con chỉ là Nhạn Nhi được không?
“Kiếp sau?” A Kiều nhìn ra xa, “Con vốn không tin kiếp sau, nhưng nếu thực sự có kiếp sau, con không thể hứa hẹn điều gì. Bởi vì con sợ rằng bản thân con ở kiếp sau sẽ tự oán hận mình. Nhưng”, nàng từ từ quay đầu lại, nhìn Tiêu Phương, chân thành nói, “kiếp sau, sư phụ có thể sớm tới tìm con.”
Nếu ông tới gặp nàng trước Lưu Triệt, biết đâu lại có một kết cục khác. Chẳng qua, nàng rất hoài nghi, một người có tính cách ngang tàng như Lưu Triệt chắc chắn sẽ không để xảy ra chuyện như vậy.
“Được rồi.” Tièu Phương gật đầu.
Lại qua mấy ngày, khí trời mát mẻ. Đám cung nhân đỡ Thái hậu nhẹ nhàng hỏi, “Người có muốn chuẩn bị ghế nằm ở ngoài điện không?”
“Không cần.” Nàng như có điều suy nghĩ lắc đầu, nói: “Ta muốn trở về xem lại điện Trường Môn.”
Cung nhân hơi kinh ngạc. Từ sau khi Vũ hoàng đế mất đi thì Trần thái hậu chưa bao giờ trở lại điện Trường Môn cả, chắc là sợ thấy cảnh nhớ người. Nhưng người các cô hầu hạ là người phụ nữ tôn quý nhất triều Đại Hán, dù cả bệ hạ đến đây cũng không phản đối nên quỳ gối đáp, “Dạ.”
Điện Trường Môn từ lâu không có người ở nhưng vẫn được quét dọn hết sức sạch sẽ. Trần A Kiều nhắm mắt cũng có thể chỉ ra sau chiếc án kia, Lưu Triệt đã từng ôm nàng cùng xem sách, sau tấm bình phong kia, nàng đã từng sửa lại áo mũ cho y, sau tấm màn trướng kia, bọn họ từng vô số lần hoan ái…
Triệt Nhi, thoáng một cái mà người đã rời xa thϊếp hai năm rồi. Nàng cho là mình sẽ rơi lệ nhưng bây giờ lại rất bình tĩnh. Bình tĩnh nhìn chỗ ngồi này tràn ngập ký ức giữa y và nàng, vừa đau nhói vừa ngọt ngào.
Mai Phi thời nhà Đường đời sau có viết: “Trường Môn cứ tựa không người quét”[16]. Y dùng tình yêu của mình biến Trường Môn thành Trung cung vạn người kính ngưỡng không ai sánh bằng. Nếu thật sự còn có một Giang Thải Bình[17] đa tài đa nghệ thì nàng sẽ ra sao?
[16] Bài thơ của Mai Phi trả ngọc châu cho Đường Huyền tông khi không còn được sủng ái:
“Mày liễu không tô lâu lắm rồi
Son thừa nhuốm lệ ở bờ môi
Trường Môn cứ tựa không người quét
Há tặng trân châu để đãi bôi.”
[17] Giang Thải Bình chính là Mai Phi.
A Kiều bước ra khỏi Trường Môn, ngồi xuống tấm bồ đoàn mà cung nhân trải trên chiếc ghế đá bên ngoài điện. Nàng đã cao tuổi nên chỉ lát sau liền ngủ thϊếp đi trong ánh nắng ấm áp. Không biết qua bao lâu, nàng bị nhẹ nhàng lay tỉnh, thấy một khuôn mặt quen thuộc với đôi mày sắc như lưỡi kiếm, đôi môi mỏng đang ở gần trong gang tấc, liền ngơ ngẩn gọi, “Triệt Nhi.”
“Mẫu thân”, Lưu Mạch nghe không rõ, gọi lần nữa. Nàng nhìn kỹ lại, than thở: “Là Mạch Nhi à!” Một cảm giác thất vọng mơ hồ dâng lên trong đầu nàng.
Hơn một tháng sau thì Trần thái hậu mất ở cung Trường Nhạc, thọ bảy mươi tuổi nhưng nhìn dung mạo như chưa đầy bốn mươi bốn. Các cung nữ như lệ thường định vào hầu hạ Thái hậu rửa mặt vẫn thấy Thái hậu có vẻ mặt tươi tắn, bờ môi còn hơi mỉm cười nhưng lay gọi mãi vẫn không tỉnh dậy thì hoảng hốt, vội vàng đến điện Tuyên Thất bẩm báo với bệ hạ. Nhưng không ngờ bệ hạ có thần giao cách cảm với Thái hậu nên từ sớm đã có dự cảm không lành, chưa đợi cung nữ nói đã vội vã chạy tới cung Trường Nhạc, nhìn dung nhan Trần thái hậu, khóc lên thất thanh.
Trong cung tức thì tràn ngập tiếng khóc lóc khiến Tuyết Ô uốn mình nhảy xuống đất, mở to cặp mắt long lanh nhìn mọi người, không rõ hôm nay có chuyện gì mà đám người kia khóc lóc thống thiết như thế. Có lẽ là nó cũng đã hiểu, người phụ nữ quanh năm bế nó đã không còn ở trên cõi đời này nữa. Theo di chỉ của Vũ hoàng đế, Chiêu Đế chôn cất Trần A Kiều ở cùng chung tẩm với Vũ hoàng đế trong Mậu Lăng. Trong cung để tang ba tháng tưởng niệm Trần thái hậu.
Đến thời điểm hoa đào đua nở vào năm sau, Chiêu Đế tách khỏi mọi người, một mình một ngựa cưỡi Chu Ly tới Mậu Lăng, đứng trầm mặc tưởng niệm ở trước mộ cha mẹ. Cả cuộc đời này cha mẹ của hắn sống được ở bên nhau, khi chết cùng chôn chung huyệt là cặp phu thê ân ái hiếm có trong nhà đế vương. Mẫu thân, đây cũng là mong muốn trong lòng của người phải không? Hắn miên man suy nghĩ.
Hoa đào trong gió rơi lất phất xuống bên mộ trông như mưa máu lại tựa như những giọt nước mắt vừa rực rỡ yêu dị vừa long lanh mỹ lệ. Lưu Mạch khẽ mỉm cười, xoay người dắt Chu Ly rời khỏi khu lăng tẩm hoàng đế rồi lên ngựa, thét lớn: “Đi thôi!”
Chu Ly hí một tràng dài, tung vó phi nhanh về hướng cung Vị Ương, để lại phía sau một vùng trời hoa đào rực rỡ.Quyển 4 - Chương 98: Ngoại truyện 1: Lên tận trời xanh hay xuống suối vàngTrong điện Tín Hợp ở Thượng Lâm Uyển, nội thị bưng lên một chén thuốc đã được các ngự y cẩn trọng điều chế rồi cho người thử độc. Lục Y đón lấy, chăm chút đút cho Trần A Kiều. Qua một lúc khá lâu A Kiều vẫn không tỉnh lại khiến Lưu Triệt bắt đầu lo lắng. Dù không hiểu y thuật nhưng y cũng biết rằng chỉ đẻ non mà mê man lâu như vậy thì nhất định là không bình thường. Các ngự y chỉ nói loanh quanh: “Nương nương có thai khi đã lớn tuổi nên vốn đã là nguy hiểm, huống chi… lại bị chấn động mạnh như vậy làm thai nhi bị hỏng.”
Lưu Triệt nghe xong, mi mắt giần giật, cố gắng xua đi ý định tru di cửu tộc đám ngự y luôn vô dụng trong lúc nguy cấp. Ngay cả Tiêu Phương chẩn trị xong cũng nói rằng bệnh tình lần này của A Kiều rất kỳ lạ nên khó trách bọn họ chẳng thể nói được điều gì.
“Bệ hạ”, Dương Đắc Ý đứng bên ngoài điện khẽ bẩm báo, Công chúa trưởng Quán Đào tới.”
Y ừ một tiếng rồi bảo, “Mời cô cô vào.”
Trưởng công chúa Quán Đào vén rèm bước vào, chưa kịp bái chào đã thấy A Kiều sắc mặt tái nhợt nằm trên giường thì lập tức nghẹn ngào chực khóc. Lưu Triệt chỉ im lặng không nói gì, thầm nghĩ dù cô cô của mình có khát vọng quyền lực mãnh liệt nhưng lại rất mực yêu thương A Kiều. Điều này cũng giống như tình yêu thương vô điều kiện của A Kiều đối với Lưu Mạch và Lưu Sơ, kể cả… đứa con trong bụng nàng nữa. Cho dù y xưa nay vốn cứng rắn nhưng nghĩ tới đứa con vừa bị mất đi thì lòng bất giác lại nhói đau.
“Hoàng thượng”, Trưởng công chúa Quán Đào nói: “Người trở về nghỉ đi. Để A Kiều đấy cho ta chăm sóc.”
Y đã mấy ngày không được ngủ tròn giấc nên nghe vậy liền gật đầu. “Được rồi.” Nếu có ai đó trên cõi đời này không muốn để A Kiều xảy ra chuyện, ngoài y ra thì chỉ có một mình cô cô thế nên y có thể an tâm phó thác A Kiều cho bà. Trong một căn phòng ngách trống trải của ngôi điện, lại không có A Kiều lặng lẽ kề bên khiến Lưu Triệt đột nhiên có cảm giác tĩnh mịch. Y sợ là sẽ không thể nào ngủ được nhưng nào ngờ vẫn mặc nguyên y phục nằm xuống giường đã nhanh chóng thϊếp đi. Trong giấc ngủ mê man, y thấy mình đang đi một mình trên hành lang dài có treo những bức vẽ hình chim đại bàng, rõ ràng là quen thuộc nhưng nhất thời lại không nhớ ra đó là cung điện nào. Lưu Triệt khẽ nhíu mày, lẽ ra y đang ở điện Tín Hợp tại Thượng Lâm Uyển chờ A Kiều tỉnh lại nhưng sao chớp mắt một cái đã thấy mình đang ở trong cung điện hoa lệ nhưng trống trải này.
“Dương Đắc Ý”, y lên tiếng gọi nhưng viên Ngự tiền tổng quản vẫn luôn theo sát bên cạnh y lại không lên tiếng trả lời. Có hai người cung nữ tóc tết bím mặc áo ngắn đang từ cuối hành lang đi tới. Người bưng chậu nước than thở, “Trần nương nương lại cáu kỉnh không chịu cho hầu hạ rửa mặt. Nhưng nàng nổi giận với đám nô tỳ chúng ta thì có ích lợi gì chứ?”
Người cung nữ kia trầm ngâm một lát rồi nói: ‘Trần nương nương cũng rất đáng thương, Nàng có thân phận tôn quý như vậy, làm mẫu nghi thiên hạ rồi mà cuối cùng lại bị trục xuất khỏi Trường Môn.”
A Kiều? Lưu Triệt giật mình, thì ra nơi này là Trường Môn, khó trách vừa rồi y không thể nhớ ngay. Trường Môn sau ngày A Kiều trở về thì luôn náo nhiệt vui vẻ, sao lại hoang vắng như vậy? Như thể sầu khổ của thiên hạ đều tập trung vào tòa cung điện nhỏ bé này. Y thấy hai cung nữ vẫn thản nhiên đi ngang qua thì hiểu rằng mọi điều trước mắt chẳng qua chỉ là một giấc mộng. Nhưng giấc mộng này là muốn để cho y nhìn thấy điều gì?
Ánh hoàng hôn phủ xuống Trường Môn đẹp đẽ mà thê lương. Y đã bao nhiêu lần ở Trường Môn ngắm mặt trời lặn nhưng chưa từng chứng kiến cảnh hoàng hôn thê lương như vậy. Một không gian tràn ngập mùi vị buồn bã hòa theo tiếng đàn u hoài đứt quãng, Y lần tới chỗ phát ra tiếng đàn liền trông thấy A Kiều. Là A Kiều ghi khắc trong lòng y.
Lúc đó, A Kiều đã rất gầy gò. Bộ lễ phục màu đỏ mặc trên người nàng không hề toát ra một chút khí sắc mừng vui, phong thái ung dung của bậc mẫu nghi thiên hạ đã hoàn toàn tiêu tán, chỉ thấy một bóng dáng nghiêng nghiêng cô tịch. Nàng đang gảy Bạch đầu ngâm của Trác Văn Quân.
“Trắng như tuyết trên núi,
Sáng tựa nguyệt trong mây.
Nghe chàng sinh lòng khác,
Muốn cự tuyệt tình này.
Hôm nay chung chén rượu,
Mai tiễn biệt đầu sông.
Loạng choạng theo thuyền bước,
Nước cứ chảy tây đông.”
Tiếng đàn rời rạc không thành điệu, qua vài nốt thì giai điệu chợt chuyển sang dồn dập nhưng khúc từ vẫn ai oán.
“Năm xưa kim ốc đổ,
Khiến hai hàng lệ rơi.
Nước mắt làm sao cạn,
Cho hận sầu chơi vơi.”
“Nương nương”, người cung nữ đứng hầu bên cạnh rơi lệ, “Ngươi đừng hát nữa. Người muốn khóc thì cứ khóc đi.”
“Phật” một tiếng, dây đàn đứt tung cắt vào ngón trỏ của Trần A Kiều làm rướm ra một vệt máu nhỏ. Nàng cười lặng lẽ, đứng dậy nặng nhọc quay đầu, đưa cặp mắt trống rỗng nhìn xa xa, chợt trông thấy Lưu Triệt thì khẽ chớp lên nhưng dường như không còn sức níu giữ nữa nên trong giây lát liền nhắm nghiền.
Đây là thời gian nào? Lưu Triệt tự hỏi, chẳng phải y đã quay lại với A Kiều rồi ư? Nhưng sao cặp mắt của A Kiều lại còn sầu, còn khổ, còn cuồng si như thể vừa phải chịu một nỗi uất ức cực độ? Phải rồi, nỗi uất ức y đã gây cho nàng chẳng phải là nỗi uất ức cực độ hay sao? Nàng từng yêu y, từng tin y đến như vậy mà y lại đi tìm niềm vui mới để rồi cuối cùng phế truất nàng, nhẫn tâm gạt bỏ khỏi trí nhớ người con gái từng yêu kiều gọi y là Triệt Nhi, chẳng bao giờ nhìn lại một lần.
Có lẽ, y cũng hiểu rằng nếu ngoảnh đầu lại sẽ không thể nào nhẫn tâm được nữa. Đó là người con gái từ nhỏ đã gọi y là Triệt Nhi, từng có nụ cười xán lạn hơn cả bầu trời thành Trường An vào ngày trong xanh nhất, thế nhưng chỉ vì y mà dần vướng u sầu. Có lấy lý do nào cũng không thể phủ nhận được sự thật là y đã từng rung động trước người con gái này. Nhưng rung động sâu sắc tới đâu cũng không thể ngăn cản y bước về phía trước, để rồi dù có gặp người con gái nào đẹp hơn đi chăng nữa thì cả cuộc đời y cũng sẽ không còn có được những rung động như thuở ban đầu. A Kiều tựa như đang nhìn thấy những điều chưa hề trông thấy nên không hề phát hiện ra tâm trạng biến động của y đang đứng gần trong gang tấc, cứ thế đi thẳng qua. Màn đêm dần buông xuống.
A Kiều bảo tất cả đám người hầu đi hết ra ngoài, một mình ở lại trong điện. Nàng mở cửa sổ ngước nhìn vầng trăng giữa không trung, chắp tay nhắm mắt, khẽ khấn: “Hỡi ông trời.” Y không nghe rõ A Kiều nói những gì, chỉ nhìn thấy vẻ mặt nàng rất thành kính. Ánh trăng biêng biếc soi nghiêng lên hàng mi đen dày rợp trên gương mặt khiến Lưu Triệt chợt dâng lên niềm khao khát muốn đặt môt nụ hôn lên đó. A Kiều, hãy tỉnh lại đi!
“Vũ hoàng đế có thật sự muốn biết Trần hoàng hậu đã nói những gì không?”
Một giọng nói đột ngột vang lên ở phía sau nhưng Lưu Triệt không hề sợ hãi, thản nhiên hỏi, “Cuối cùng thì ngươi cũng xuất hiện?”
“Vậy thì sao?” Một ông lão râu tóc bạc phơ cười ha hả, “Vũ hoàng đế biết rằng lão sẽ tới ư?”
Lưu Triệt quay đầu lại, gằn giọng, “Trẫm nghĩ rằng ngươi có thể làm cho trẫm nằm mộng quay về Trường Môn của nhiều năm trước thì ắt phải có mưu đồ. Rốt cuộc ngươi là ai?”
“Ồ.” Ông lão khẽ mỉm cười, “Vũ hoàng đế nửa đời vẫn cầu thần tiên, sao giờ trông thấy thật thì lại uy hϊếp người như thế?”
“Huống chi”, ông lão trông thấy sắc mặt nửa tin nừa ngờ của Lưu Triệt liền cười nhẹ, “tuy Vũ hoàng đế ở trong mộng nhưng cuộc trao đổi này lại không phải là chuyện hoang đường. Đây là Trường Môn của một thời không khác, nếu như không có tác động bên ngoài thì Hiếu Vũ hoàng hậu sẽ phải sống một mình ở Trường Môn hơn hai mươi năm rồi ngậm hờn ra đi. Thế nên Trần A Kiều gặp nạn ở Thượng Lâm Uyển cũng là số mệnh.”
Lòng y chợt nhói buốt, A Kiều lại có thể cứ thế này mà đi sao? Ông lão không nhìn y, quay sang nhìn A Kiều đang ở trong điện nói: “Dù ngươi không nghe thấy Trần hoàng hậu nói gì nhưng chúng ta lại nghe được. Nàng nói đại ý rằng nàng nguyện giảm hai mươi năm tuổi thọ để mọi chuyện đổi khác. Vì thế cho nên chúng ta đã chấp thuận yêu cầu của nàng.” Cần phải quyết tâm biết nhường nào khi chịu giảm hai mươi năm tuổi thọ?
“Thần, Phật trên trời vốn công bằng, Trần A Kiều gặp cơ duyên may mắn nên đã biết được một số chuyện, bởi vậy tất nhiên ta cũng phải tiết lộ một chút cho ngươi. Huống chi, Hoàng đế vốn chính là con của trời.”
Y thấy thời gian bỗng nhiên trôi cực nhanh qua trước mắt, loang loáng những cảnh huy hoàng tráng lệ lẫn chiến trường khốc liệt hào hùng, rồi dừng lại ở một chỗ rất rộng rãi. Nơi đó có một sản phụ đang vật vã đau đớn rồi sinh ra một bé gái. Một cô gái mặc trang phục trắng trông rất kỳ lạ, tóc búi cao, bế bé gái ra cửa phòng sinh trao cho một người đàn ông dáng nho nhã đeo cặp kính gọng vàng nói, “Chúc mừng Hàn tiên sinh, là một bé gái.”
“Con gái?” Hàn Thành hỏi vẻ ngỡ ngàng nhưng niềm vui làm cha khiến hắn hiền từ ẵm lấy đứa bé, ngắm nhìn khuôn mặt con gái rồi bật thốt lên, “Xinh quá!”
“Đúng vậy.” Cô hộ lý cười phụ họa theo: “Tôi làm ở khoa sản bao nhiêu năm rồi nhưng mới là lần đầu tiên thấy một bé gái xinh xắn thế này đấy.”
“Đây là…” Lưu Triệt vốn có định lực rất mạnh, dù núi sập trước mặt cũng không biến sắc nhưng lúc này lại kinh ngạc há hốc mồm miệng.
“Đây là thế giới của hai ngàn năm sau.” Giọng nói quen thuộc kia lại vừa cười vừa lên tiếng giải thích. Y quay đầu lại nhưng không còn thấy ông lão tóc bạc đâu nữa.
“Như vậy”, y trấn tĩnh lại rất nhanh, thản nhiên hỏi, “Đại Hán truyền được bao nhiêu đời?”
Giọng nói kia chợt chững lại, có vẻ bất đắc dĩ, “Không hổ là Vũ hoàng đế, quả nhiên chỉ muốn hỏi về vấn đề này. Nhưng lần này là để ngươi làm quen với cô bé gái kia một chuyến chứ không phải vì chuyện đó. Ngươi hãy từ từ xem đi.”
Bên kia, Hàn Thành ẵm con gái tới bên giường vợ mình, dịu dàng nói, “Mai Mai, chắc em mệt lắm.”
“Cũng qua rồi.” Tiêu Mai nhìn con gái bọc trong tã lót, vẻ mặt thanh thản, “A Thành, anh nói nên đặt tên con là gì?”
Hàn Thành nghĩ một lát rồi đáp: “Lúc được báo tin, anh chạy tới bệnh viện thì vừa hay trông thấy một đàn chim nhạn bay ngang bầu trời, con đầu đàn còn kêu to một tiếng. Vậy thì đặt tên con là Nhạn Thanh nhé.”
“Nhạn Thanh.” Tiêu Mai mỉm cười thì thầm, “Quy nhạn thanh thanh, hàm ý rất hay, lại dễ nghe, được lắm.”
Nhạn Thanh! Lưu Triệt chấn động, chẳng phải năm xưa lưu lạc ở bên ngoài thì A Kiều đã dùng một cái tên giả có đúng hai từ này sao? Thế giới luôn luôn cân bằng một cách kỳ diệu.
Nhạn Thanh lớn dần lên, khuôn mặt giống A Kiều thuở nhỏ như đúc. Nếu như nói, nét mặt Lưu Sơ giống A Kiều đến bảy phần, Lưu Yêu sau này giống A Kiều đến chín phần thì Nhạn Thanh mà hiện giờ y đang chứng kiến lại như đúc ra từ một khuôn, rõ ràng là A Kiều thuở nhỏ. Hồi đó A Kiều thường chạy nhảy dọc theo hành lang cung Vị Ương, cả hai đều còn trẻ con, nàng thuần nhất như mặt trời vừa mọc còn y cũng chưa nhiễm phải quá nhiều mưu mô quyền biến. Nàng thường rón rén đi tới sau lưng, đưa cánh tay nhỏ nhắn mềm mại lên bịt mắt y rồi cười khanh khách hỏi: “Triệt Nhi, đoán xem ta là ai?”
Khi đó, y sẽ dài giọng vẻ bất đắc dĩ, “A Kiều tỷ.” Trong cung Vị Ương này, ngoài nàng ra thì còn ai có hứng thú lẫn can đảm dám nghĩ tới chuyện bịt mắt y mà hỏi bằng cái chất giọng non nớt “Triệt Nhi đoán xem ta là ai?”
Nhạn Thanh lớn lên từng ngày, nét mặt ngày càng thanh tú khiến cha mẹ cũng phải ngỡ ngàng, vẻ đẹp của nàng đã vượt xa tất cả những nét thừa hưởng từ cha mẹ. Nàng bắt đầu học thơ văn, dĩ nhiên nhập môn từ thơ của Lý Bạch thời Đường, đọc đi đọc lại mấy câu thơ kinh điển như: “Đầu giường trăng sáng tỏ, Ngỡ mặt đất phủ sương”[1]
[1] Trích bài Tĩnh dạ tứ (Nỗi nhớ trong đêm) của Lý Bạch.
Dần dần, nàng cảm thấy vô vị liền hỏi, “Mẹ ơi, bài thơ này tên gì vậy?”
Tiêu Mai nhìn qua, ngẫm nghĩ một lúc. Bài thơ Nhạn Thanh hỏi là bài Trường can hành của Lý Bạch. Bài thơ này khá dài lại không tuân thủ nghiêm ngặt niêm luật nên quả thật hơi khó hiểu đối với Nhạn Thanh bây giờ. Song bà vẫn giảng giải cho con gái, “Đây là bài thơ mà Lý Bạch viết về một đôi thanh mai trúc mã.”
“Thϊếp tóc xòa trên trán, trước cửa hái hoa chơi
Chàng cưỡi ngựa trúc đến, vòng quanh ghẹo đẹp đôi
Trường Can cùng chung xóm, còn bé chẳng quan hoài
Mười bốn nên chồng vợ, ngượng ngùng lắm chàng ơi
Quay tường đầu rúc gối, gọi ngàn lần kệ thôi
Mười lăm thì trổ dáng, nguyện muôn kiếp không rời
Giữ lòng tin son sắt, ngại chi vọng phu đài?’
Nhạn Thanh nghe chỉ hiểu được lõm bõm nhưng vẫn cảm thấy thoáng bi ai không nói nên lời tràn ngập cõi lòng. Nàng im lặng một lúc lâu mới hỏi: “Thanh mai trúc mã là gì ạ? Có phải là như con với mẹ không?”
Tiêu Mai phì cười: “Mấy từ này dùng để chỉ một đôi trai gái còn nhỏ gần bằng tuổi nhau.”
“Vậy à.” Nhạn Thanh gật đầu, “Vậy thì có thể coi con và anh Trầm là thanh mai trúc mã được không?”
Tiêu Mai trầm ngâm một lát rồi đáp: “Chắc là chưa phải đâu. Thanh mai trúc mã là phải sống và lớn lên cùng nhau trong nhiều năm mới được. Nhà chúng ta mới chuyển tới đây chưa đầy nửa năm mà.”
“Hai người cùng lớn lên với nhau thì thật là hạnh phúc.” Nhạn Thanh mím môi vẻ cương quyết, “Được rồi, con sẽ đi tìm thanh mai trúc mã của con.”
Tiêu Mai bật cười, đâu phải ai cũng có thanh mai trúc mã của mình. Mà thanh mai trúc mã cũng không nhất định là sẽ hạnh phúc. Mấy năm sau Nhạn Thanh mới hiểu được điều này.
Khi đó, nàng mặc váy công chúa màu hồng chạy trên đường, vấp phải viên đá nhỏ, ngã trên mặt đất, sây sát từ khuỷu tay đến đầu gối, đau rát chỉ chực òa khóc nức nở. Nàng ngẩng đầu lên thì thấy một người đàn ông mặc bộ đồ kiểu dáng kỳ lạ may từ gấm đen đang nhìn mình, thở dài vẻ quan tâm.
Nàng quên bẵng hết đau đớn, hỏi, “Chú là ai?”
Nguòì đàn ông kia ngạc nhiên, hỏi lại: “Nàng nhìn thấy trẫm… ta?”
“Tại sao lại không chứ? Chú.” Nàng nhìn mặt trời vẻ ngạc nhiên, không chú ý cách dùng từ lạ lẫm của y. Ánh mặt trời chiếu từ phía sau người đàn ông này khiến khuôn mặt bị khuất bóng làm nàng không thấy rõ dung mạo của y.
Y dường như hơi nhếch miệng, muốn cười lại thôi, “Đừng gọi là chú, nghe không được tự nhiên. Nếu cô bé đồng ý,” y chần chừ một lát rồi đề nghị: “thì cứ gọi là ‘anh’ đi.”
Sau khi y mười tuổi liền cảm thấy A Kiều thật sự không hề giống một biểu tỷ mà chỉ là một thiếu nữ đơn giản không hề biết đến những ưu sầu của thế gian. Nàng cần gì phải biết những điều đó? Vốn từ khi sinh ra, nàng đã có thân phận cao quý, có ngoại tổ mẫu che chở, có cữu cữu che chở, có y… che chở. Đúng vậy, khi y lớn lên cũng là lúc bắt đầu học cách che chở cho biểu tỷ. Người thiếu nữ này là vị hôn thê của y. Dù trong cuộc hôn nhân đó có xen vào rất nhiều hàm ý chính trị, thì lúc ban đầu y vẫn muốn che chở cho nàng được bình an. Nhưng sau này… sau khi trở về, nàng trở nên cực kỳ thông minh, vô cùng nhạy cảm nhưng lại không hề giống những người phụ nữ đã từng trải chuyện đời có cùng độ tuổi. Nàng khi thì nhanh nhẹn, khi thì ưu sầu khiến y đôi lúc phải thầm hỏi liệu A Kiều của mình có phải là ba mươi tuổi thật không? Sao nàng có lúc còn duyên dáng giống thiếu nữ hơn?
Nhạn Thanh thì lại không thể nào lý giải được tại sao y lại suy tư nhiều như vậy nên chỉ nhíu mày nghĩ rằng y tuổi tác thế mà đòi làm anh thì quá là già. Tuy nhiên Lưu Triệt lại toát ra một điều gì đó không giải thích nổi khiến nàng cảm thấy an tâm, không muốn trái ý mà ngoan ngoãn gọi: “Anh!”
Ở đằng xa, Tiêu Mai cất tiếng gọi, “Nhạn Nhi.”
“Dạ.” Nàng đáp lời và nhảy dựng lên, phát hiện ra mình không còn đau nữa. Nàng đi được vài bước thì quay đầu lại cười hỏi “Anh ở gần đây à?”
Y cũng mỉm cười, “Không vội, sau này chúng ta sẽ gặp lại nhau” Đúng vậy, chẳng lẽ không phải bánh xe vận mệnh đã bắt đầu chuyển động rồi sao?
Nàng gật đầu, an tâm đi về phía mẹ. Lần gặp mặt tình cờ như chim trời cá nước này dần dà chìm xuống theo thời gian, cuối cùng nàng hoàn toàn không nhớ tới nữa. Nhưng duyên phận đã được định đoạt.
Sau đó, Hàn Thành vứt bỏ vợ con đi theo niềm vui khác, buộc Tiêu Mai phải ký giấy ly hôn. Nhạn Thanh chạy đuổi theo xe của cha thật lâu, khóc hết nước mắt. Từ đó về sau nàng không còn cha nữa.
“Chỉ tổn thọ mà thôi.” Dì nhà bên đi ngang qua nói, “Chỉ mới nghe nói ‘Kim ốc tàng kiều’ chứ chưa bao giờ thấy chuyện đòi lại được danh phận vợ lớn.”
“Kim ốc tàng kiều?” Nhạn Thanh ngơ ngác hỏi.
“Đúng vậy. Có vợ còn nuôi lẽ bên ngoài chính là Kim ốc tàng kiều.” Dì kia trề miệng.
Rõ ràng không phải như vậy. Có một năm, cô cô tới điện tìm A Kiều, hỏi trêu Lưu Triệt: “Trong điện này có rất nhiều con gái, gả cho Triệt Nhi một cô được không? Triệt Nhi thích ai nào?”
Y nhất quyết lắc đầu, những cung nữ này quá mức tầm thường, không lọt vào mắt cho đến khi cô cô chỉ vào A Kiều. Nếu không thật sự thích biểu tỷ thì y chỉ cần đồng ý là đủ rồi chứ nào phải nói ra lời hứa hẹn đó.
“Dạ! Nếu lấy được A Kiều, cháu sẽ xây lầu vàng cho nàng ở.”
Kim ốc tàng kiều.
Kim ốc tàng kiều.
Nào đâu biết lại trầm luân tới bước này?
Nhạn Thanh không thích Kim ốc tàng kiều. Nàng có thể khóc thảm thiết nhưng khóc xong rồi vẫn phải đương đầu với cuộc sống, đối mặt với người thân. Nàng mỉm cười nói “Cha không còn ở đây nữa thì Nhạn Thanh nhất định sẽ ở với mẹ đến già.” Nàng không thấy có lý do gì khiến cho hai người không thể thanh thản sống với nhau đến già cả.
“Kim ốc tàng kiều là gì vậy?”
“Ngày xưa, Vũ Đế nhà Hán hứa hẹn với biểu tỷ của y, ‘Nếu có một ngày ta lấy được Trần A Kiều làm vợ, ta sẽ xây lầu vàng cho nàng ở’. Khi bọn họ lớn lên, Vũ hoàng đế lãng quên lời hứa thời niên thiếu, lập hoàng hậu khác, bỏ mặc A Kiều ở trong cung Trường Môn hơn hai mươi năm trời, đến chết cũng không gặp. Người đời sau hay dùng điển tích này để chỉ người chồng bỏ bê vợ con đi yêu thương tình nhân khác.”
Kim ốc tàng kiều! Lầu vàng giấu người ngọc! Đã thật sự có tình yêu thì sao lại dùng chữ “tàng” đó chứ.
“Nhưng đã hứa ra miệng rồi mà lại có thể lãng quên đi được sao?”
“A Kiều nhất định, nhất định sẽ rất thương tâm!”
Người đời thường nói Vũ hoàng đế lòng dạ sắt đá, nhưng tại sao trong những chuyện liên quan đến A Kiều, chỉ cần y thoáng quay đầu nhìn lại thì đều không thể nén được cảm giác đau đớn. Y hận cái cảm giác bất lực này, vùng vẫy muốn thoát ra. Thoát ra được thì y lại là bậc đế vương có quyền uy bao trùm thiên hạ, có thể bảo vệ cho A Kiều, dù A Kiều còn đang mê man thì y vẫn có thể ôm được nàng. Song giấc mộng như cảnh biển trời mênh mang không biết đâu là bến bờ.
Cuộc sống luôn khắc nghiệt, gia đình mất đi trụ cột nên một mình Tiêu Mai không thể lo đủ học phí cho con gái. Nhạn Thanh bất đắc dĩ phải lựa chọn thi vào trường cảnh sát, chịu đựng sự huấn luyện vất vả để lại vô số vết sẹo trên tấm thân ngọc ngà.
Vì sao phải khổ thế chứ? Vì sao phải khổ thế chứ? A Kiều của y được cưng chiều từ tấm bé, đã bao giờ phải chịu những nỗi khổ cực như vậy đâu. Nhưng nàng vẫn cắn răng không hề kêu than, từng bước gắng sức vượt qua. Lúc trông thấy Quý Đan Tạp và Liễu Duệ thì y mới hiểu vì sao ngày sau không ai có thể chia rẽ quan hệ của bốn người này. Chỉ còn thiếu một mình Tang Hoằng Dương nữa thôi. Đợi đến lúc hắn xuất hiện thì tất cả sẽ trở về quỹ đạo. Nhưng y lại nổi lên một điều nghi vấn, cái gì mới là quỹ đạo, cái gì mới là thiên đạo? Nếu Nhạn Thanh đã sống rất tốt ở cái thế giới kia rồi thì vì sao lại nhất định phải trở về Đại Hán, trở về bên cạnh y. Chỉ là y không thể chịu đựng được cảnh mất nàng, nếu như đã có lại được rồi thì không thể để mất đi một lần nữa.
Lúc Tiêu Mai qua đời, Nhạn Thanh khóc rất thương tâm nhưng y không cách nào an ủi. Cũng may là Quý Đan Tạp vẫn luôn ở bên cạnh nàng. Khoảng thời gian này sẽ trôi qua rất nhanh. Lần này nàng trở về với y thì y nhất định sẽ không làm nàng bị tổn thương lần nữa.
Năm 2007, Nhạn Thanh và Đan Tạp tốt nghiệp trường cảnh sát nhận nhiệm vụ đầu tiên và gặp Mạc Ung Niên. Lưu Triệt rốt cục có thể mỉm cười. Trong chuyến trở lại lần này, y chỉ có thể quan sát, không nói chuyện với bọn họ.
Tại chùa Viên Giác trên núi Ly Sơn, hòa thượng Thiên Mi chắp tay nói với ông lão tóc trắng, “Vận mệnh đã bắt đầu nghịch chuyển chưa?”
“Sai rồi.” Ông lão nói: “Vận mệnh đã không còn ở quỹ đạo ban đầu sau này phát triển như thế nào còn tùy thuộc vào bọn họ.”
Trong thành cổ Tây An, một vụ tai nạn xe hơi đã làm mất đi không khí lễ hội. Tại ngoại thành Trường An vào hai ngàn năm trước, một cô gái tỉnh lại bên bờ sông.
Lôi Bị thu đội, điểm nhân số, phát hiện thấy thiếu một người trong số phái ra truy tìm phế hậu liền bẩm báo với Quận chúa Lưu Lăng, “Có khả năng phế hậu vẫn còn sống, có truy tìm tiếp hay không?”
Lưu Lăng vừa mới tỉnh lại, đã nhụt chí khí nên chỉ thở dài đáp: ‘‘Bỏ đi.” Nếu có thể khoan dung tha thứ cho người khác thì ngày sau gặp nhau sẽ được vui vẻ.
Còn Nhạn Thanh thì ngất xỉu ở trước mộ Sở Phục, đến khi tỉnh lại thì gặp được Tiêu Phương. Lúc đó, Nhạn Thanh và Tiêu Phương đều còn trẻ, nam thanh nữ tú gặp nhau nên dễ nảy sinh tình cảm. Cùng một thời gian, y còn vui vầy với người mới trong cung Vị Ương gần kề gang tấc nhưng nào biết người vợ kết tóc trong bụng mang cốt nhục của mình đã lưu lạc khỏi Trường Môn.
Y vén rèm bước vào phòng trên lầu Văn Nhạc, một cô gái mặc y phục màu hồng phấn quay đầu lại, ngước cặp mắt trong trẻo như sao trời, mỉm cười nói.
“Ta họ Trần.”
Y không để ý, chỉ khẽ chào đáp lễ: “Phu nhân”, rồi cúi đầu không nhìn nàng thêm nữa. Nếu chịu nhìn kỹ thì liệu y có thể nhận ra đó là A Kiều đã từng cùng lớn lên với mình, đã từng yêu, đã từng hận mình hay không? Nếu nhận ra thì liệu y có ôm lấy nàng rồi hôn nàng hay không? Có lẽ y sẽ không làm vậy. Nhiều khả năng là y sẽ giam nàng vào một nơi không ai biết, để nàng sống an ổn cả quãng đời còn lại nhưng không bao giờ gặp mặt. Nếu vậy thì nàng sẽ càng hận y nhiều hơn, vậy cứ để như hoàn cảnh hiện giờ cũng tốt. Cho nên y cũng chỉ có thể nhìn nàng mỉm cười duyên dáng nũng nịu gọi sư phụ, giống như thuở nhỏ dịu dàng gọi y là Triệt Nhi với niềm tin tưởng vô điều kiện. Bản thân đã tự tay vứt đi thì còn có tư cách gì để tiếc nuối. Chỉ là nếu được trông cảnh này sớm hơn thì đáng ra đã phải chém Tiêu Phương ở điện Tín Hợp ngày đó rồi.
“Bỏ đi.” Y thở dài, nếu thật nghĩ gì làm đó thì sẽ rất khó giải thích sau khi A Kiều tỉnh lại. Mọi chuyện cứ để nó qua đi. Dù thế nào, Trần A Kiều cũng là thê tử của y, trên trời dưới đất không một ai có thể phủ nhận được.
Năm Nguyên Quang thứ sáu, nàng gặp Tang Hoằng Dương, mở lầu Thanh Hoan. Lúc đi một mình trên đường thì va phải xa giá của cô cô. Ngày hôm đó cô cô vào cung xin được gặp A Kiều nhưng bị y cự tuyệt nên còn nổi cơn giận dữ. Bọn họ không biết rằng A Kiều thật ra đang ở gần chỉ một tầm tay với. Vận mệnh quả là quá trêu ngươi.
A Kiều bị động thai nên sinh nở cực kỳ nguy hiểm. Dù trước đây y đã nghe kể về chuyện này nhưng khi tận mắt chứng kiến thì vẫn kinh hãi mặt mũi tái nhợt. Cũng may là nàng vượt qua được. Đáng lẽ ra nàng phải trở về bên cạnh y nhưng lại chọn cách rời xa y.
Y đã thoáng có linh cảm khi đi sát qua A Kiều ở lầu Thanh Hoan vì dù sao thì đó cũng là ngưòi con gái thanh mai trúc mã đã cùng lớn lên với y. Nhưng nàng quay đầu lại, nụ cười xa lạ, thản nhiên hỏi, “Công tử có chuyện gì vậy?” Y cho là mình nhận lầm người nên quay mặt sang chỗ khác không nhìn lại nữa. Vận mệnh vẫn luôn trêu ngươi. Một lần cách biệt là mấy năm trường.
Năm Nguyên Sóc thứ hai, Vệ Tử Phu sinh Lưu Cứ, y lập Tử Phu làm hoàng hậu. Năm Nguyên Sóc thứ năm, Hán Hung đại chiến, Liễu Duệ bộc lộ tài năng, Trần A Kiều một xe một ngựa trở về Trường An. Năm Nguyên Sóc thứ sáu, Lưu Cứ nhiễm bệnh, Hoàng đế và Hoàng hậu đều lo lắng. Tang Hoằng Dương tiến cử thần y của Tử Dạ y quán. A Kiều lại một lần nữa tiến vào tầm mắt của y.
A Kiều! Y chưa từng ngờ tới là nàng, lại càng chưa từng ngờ tới nàng sẽ tiếp tục lựa chọn rời đi, chỉ để lại đứa con gái mà y chưa từng gặp mặt và một bài Giai nhân khúc còn vang vọng để y nhớ nhung.
“Phương Bắc có giai nhân,
Thế gian này chỉ một.
Ngoảnh đầu lại nghiêng thành,
Ngoái lần nữa nghiêng nước.
Chẳng cần biết nghiêng thành hay nghiêng nước,
Khó gặp lại giai nhân.”
Thật khó trở lại. Thứ đã mất đi thật khó trở lại.
Trong vòng nửa năm, y đối diện với con gái giống hệt nàng, nhớ lại những điểm tốt của nàng. Chẳng phải A Kiều của y rất thông minh sao? Nếu như khi đó nàng không chọn lựa rời đi mà cứ thế xuất hiện trước mặt y thì y thực sự sẽ không biết phải lựa chọn xử lý như thế nào? Nhưng có nửa năm làm bước đệm khiến cho tâm hồn lạnh lẽo sắt đá của y dần trở nên hòa hoãn hơn. Y nghĩ nếu lần sau gặp lại nàng có thể học được cách giảm bớt sự kiêu ngạo thì chưa hẳn là y sẽ không dung thứ cho nàng. Nhưng một A Kiều có bản tính kiêu ngạo, một sự kiêu ngạo đã ăn sâu vào xương cốt, thì có thể thu lại thế nào đây.
Sau lần bốn nước ở vùng Giao Đông làm loạn, nàng vì Lưu Lăng mà cam tâm tình nguyện trở lại Trường An. Một lần nữa bước vào Trường Môn, thật là… là một mối giao tình vĩ đại.
Y đang nghỉ hè ở cung Cam Tuyền thì nhận được tin này, chợt cảm thấy ngạc nhiên, tự hỏi không biết biểu tỷ của mình được tháng năm rèn giũa sẽ trở nên như thế nào. Nàng đã không ở bên cạnh y bảy năm, mãi đến năm Nguyên Sóc thứ sáu mới trở lại trong vòng tay y. Cuối tháng Bảy năm Nguyên Sóc thứ sáu, Hoàng đế rời ngự giá từ Cam Tuyền trở về Trường An.
Tháng Chín, y lần đầu tiên bước chân vào Trường Môn, đứng bên cửa sổ điện Bát Nhã nhìn hai cô gái quen thuộc trong ký ức đang đánh cờ nơi bàn đá bên ngoài rừng trúc. Gió thu thổi qua, cành trúc xào xạc, A Kiều mỉm cười ngẩng đầu, đôi mắt trong suốt như giọt sương trên mặt hồ. Vận mệnh trong khoảnh khắc này đã ngoặt khỏi lối rẽ để trở về như cũ.
“Bệ hạ, bệ hạ, nương nương tỉnh rồi.” Lục Y đi xuyên qua hành lang đến ngoài điện bẩm báo, giọng nói không giấu được vẻ vui mừng.
“Suỵt”, Dương Đắc Ý nói khẽ, “Bệ hạ mới ngủ chưa được bao lâu, hãy để cho bệ hạ nằm thêm lát nữa,”
Y tỉnh dậy từ trong giấc mộng hỗn loạn, chợt cảm thấy không phân biệt được đâu là mộng là thực, day day thái dương, lên tiếng gọi “Dương Đắc Ý!”
Dương Đắc Ý vén rèm đi vào, cúi đầu nói, “Chúc mừng bệ hạ, Trần nương nương hồng phúc bằng trời, vừa mới tỉnh dậy, đã không còn gì đáng ngại rồi.”
“Vậy à.” Sau khi được nội thị sửa sang lại y phục, y bước nhanh về điện Tín Hợp.
Có thật vậy không? Y nhớ tới đủ loại biểu hiện kỳ lạ sau khi A Kiều trở về. Có một năm, Liễu Duệ đã từng nói khi huấn luyện Hoàng tử Lưu Mạch cưỡi ngựa bắn cung trên thao trường: “Chưa nói chuyện khác, năm xưa mẫu thân và dì Lăng của cháu huấn luyện còn gian khổ hơn rất nhiều.” Lúc ấy y và Duyệt Trữ đều cho là Liễu Duệ nói đùa, bây giờ nghĩ thì quả thật đã thấy trong mộng là A Kiều luyện tập rất gian khổ, ngay cả những gian khổ của y hồi còn nhỏ luyện tập cưỡi ngựa bắn cung cũng không thể sánh bằng.
Trong điện Tín Hợp, A Kiều vừa tỉnh lại, vô cùng yếu ớt, nhợt nhạt như một chiếc bóng sẽ tan biến đi trong nháy mắt. Cung nữ dâng lên cháo nóng đã chuẩn bị sẵn, A Kiều yếu đến nỗi cầm thìa không vững, đánh rơi xuống đất vỡ tan. Tiếng đồ sứ vỡ vang lên giòn tan trong điện Tín Hợp và cũng vọng lên ở một không gian khác. Cô cô vốn rất giỏi ứng biến, mỉm cười lui ra ngoài, nhân tiện cũng vẫy đám cung nữ lui theo.
Lưu Triệt tự mình chăm sóc người con gái yếu ớt trên giường bệnh.
Lúc này, A Kiều lại ngoan ngoãn, uống hết non nửa chén cháo mới thôi.
Y rốt cuộc có thể ôm nàng vào lòng, không cần giống như trong mộng, ngay cả vươn tay cũng không tới. Song A Kiều đang nằm trong lòng y có sắc mặt tái nhợt, vậy thì đây là A Kiều câm lặng trong suốt hơn hai mươi năm cho đến lúc chết ở Trường Môn hay là cô bé thanh mai trúc mã tóc xòa trước trán mà mình đang tìm kiếm? Nhưng điều đó thì có quan hệ gì chứ? Người nằm trong lòng vẫn là A Kiều của y.
“Kiều Kiều”, y dịu dàng hỏi: “Sao nàng thϊếp đi lâu như vậy?”
Nàng ngơ ngác lắc đầu, y không để ý, nói tiếp: “Mới vừa rồi, trẫm mặc nguyên cả quần áo nằm ngủ trong điện Thiên thì gặp một giấc mộng.”
‘‘Thế à?” Nàng hỏi, “Mộng thấy cái gì?”
Y mỉm cười không đáp, chỉ nhìn nàng đằm thắm, nhớ tới hai người phụ nữ trong giấc mộng. Tại sao không thể ở bên nhau cho đến lúc già chứ? Rõ ràng là đã có lời hứa ngay từ buổi ban đầu rồi. Cuối cùng, y đặt một nụ hôn lên trán nàng, thì thầm, “Trẫm sẽ như nàng mong muốn.”
Y nghĩ, có lẽ A Kiều thật sự là một lễ vật trân quý mà trời xanh ban cho y, một cơ duyên ấm áp để cho y mất đi mẫu hậu rồi vẫn có thể vĩnh viễn không cô độc khi ngồi ở ngôi vị cao nhất trong thiên hạ. Chúng ta sẽ nắm tay nhau đến lúc bạc đầu! Hãy thử xem nào. Đây là lần cuối cùng nàng bị thương tổn trong tay trẫm, từ nay về sau trẫm sẽ là người che chở cho nàng, để nàng không còn phải ưu sầu trước những phong ba của cuộc đời.
Rất nhiều năm sau.
“Mẹ ơi, Kim ốc tàng kiều là gì ạ?”
“Kim ốc tàng kiều à”, người mẹ trẻ mỉm cười quay đầu lại, trong mắt lộ ra vẻ xa xăm, “Ngày xưa, nhà Hán có một vị hoàng đế tên gọi là Hán Vũ Đế. Vũ Đế hứa hẹn với biểu tỷ của mình, ‘Nếu có một ngày ta lấy Trần A Kiều làm vợ, ta sẽ xây lầu vàng cho nàng ở’, sau đó Hán Vũ Đế quả thật đã thực hiện lời hứa thuở niên thiếu của mình xây cung Kiến Chương cho biểu tỷ. Bọn họ ở với nhau trong điện Trường Môn cung Kiến Chương đến già. Mọi người tưởng nhớ tới cặp vợ chồng đế vương ân ái mặn nồng hiếm thấy này, từ đó Kim ốc tàng kiều trở thành một lời hứa tình yêu đẹp nhất.”
“Ôi”, cô bé nghe đến say mê, mơ màng nói: “Mẹ ơi, vậy sau này con có thể tìm được người sẽ xây một chiếc lầu vàng cho con hay không?’’
Người mẹ bật cười, xoa chiếc mũi nhỏ nhắn của con gái, “Ngốc nào, chuyện xưa đẹp đẽ là đẹp đẽ ở tấm chân tình. Sau này con gặp ai, chỉ cần người đó có chân tình thì dù tặng con nhà cỏ hay nhà gỗ thì trong tình yêu cũng chính là một lầu vàng rồi.”Quyển 4 - Chương 99: Ngoại truyện 2: Lưu lang đã rời bỏ nơi Bồng Lai[1][1] Núi Bồng Lai hay còn gọi là tiên đảo Bồng Lai, là một vùng đất truyền thuyết tìm thấy trong thần thoại Trung Quốc, và cũng xuất hiện trong cả truyền thuyết của Nhật Bản. Theo Sơn hải kinh, núi Bồng Lai nằm trên một hòn đảo ở phía đông của Bột Hải, cùng với bốn đảo khác: Phương Trượng, Doanh Châu, Đại Dư và Viên Kiều, là nơi các vị thần tiên cư ngụ.
Nàng nghĩ, nếu lúc còn sống mà được nghe bài thơ như vậy thì nhất định sẽ bật khóc. Núi Bồng Lai xa xôi, xa xôi đến chừng nào? Có phải như nàng và Lưu lang, rõ ràng cùng đi ở trong cung Vị Ương, ngước mắt lên sẽ trông thấy nhau nhưng lòng đã hóa thành một vùng hoang vắng, như hai người xa lạ chưa từng có những năm tháng tuổi trẻ hạnh phúc. Vẫn gần trong gang tấc vậy mà đôi khi cũng như xa cách tận chân trời.
Trên đời này, xa nhất không phải tận chân trời, cũng không phải cách trở âm dương mà là yêu rồi dần hóa thành xa lạ, đến cuối cùng trở mặt thành thù hận. Còn hôm nay, nàng ở dưới Địa phủ sâu chín vạn thước nhìn lên chứng kiến chuyện tình của y và người ấy. U minh lạnh lẽo, tịch mịch, tịch mịch đến mức nước mắt chẳng muốn tuôn rơi.
Chuyện mở đầu là y và người ấy, chuyện kết thúc vẫn là y và người ấy. Còn nàng chỉ là một khách qua đường đáng buồn cười xen vào chuyện tình của bọn họ rồi cuối cùng rút lui. Chuyện tình của bọn họ lại bắt đầu, tiếp diễn, cuộn trào, sâu lắng miên man, cho đến kết thúc vẫn không chút liên quan tới nàng.
Năm Nguyên Thú đầu tiên, Vệ Tử Phu tự vẫn tại điện Tiêu Phòng, được chôn cất theo nghi lễ phi tần ở khu lăng mộ. Cho đến lúc chết, Lưu lang vẫn không tới gặp nàng. Những hồn phách chết oan không được đầu thai. Nàng dật dờ lưu lạc ở Uổng tử thành suốt bao năm chỉ để chờ đợi. Chờ đợi một ngày Lưu lang tới đây, nàng sẽ hỏi một câu trước lúc y uống canh Mạnh bà, hỏi rằng y có từng yêu nàng hay không? Chỉ thế mà thôi.
Nàng ra đời trong một căn phòng dành cho nô bộc ở phủ Bình Dương hầu hồi Cảnh hoàng đế còn tại vị. Lúc nàng sinh ra, mẫu thân từng thốt lên: “Xinh quá! Xinh đẹp hơn mẫu thân nhiều.” Đẹp đến mấy thì cũng để làm gì chứ? Chẳng qua vẫn chỉ là một nô bộc. Thời niên thiếu, nàng từng nghe nói rằng có người thiếu niên được lập làm Hoàng thái tử ở đế đô Trường An xa xôi đã từng mỉm cười hứa hẹn với biểu tỷ của cậu ta, “Nếu lấy A Kiều làm vợ thì sẽ xây lầu vàng cho nàng ở.” Truyền thuyết Kim ốc tàng kiều ấy đẹp biết nhường nào! Nàng đã từng cảm khái cho hạnh phúc của người thiếu nữ kia, hoàn toàn không biết rằng, trong tương lai, nàng lại chính là người phá vỡ cái truyền thuyết đẹp đẽ ấy. Vận mệnh đứng trong bóng tối nhìn theo, mỉm cười đầy ý vị.
Vào một năm, Bình Dương công chúa cành vàng lá ngọc được gả cho Bình Dương hầu Tào Thọ. Một thiếu nữ từ trên cỗ xe ngựa sơn son thϊếp vàng tráng lệ bước xuống, xinh đẹp như tiên nữ trên trời. Bình Dương trưởng công chúa Lưu Tịnh chính là người đã thay đổi vận mệnh cuộc đời nàng. Năm đó nàng còn quá nhỏ tuổi. Một hôm, nữ chủ nhân của phủ Bình Dương hầu nhìn thấy nàng, ánh mắt sáng rực, thốt lên: “Thật là một mỹ nhân trong tương lai.” Rất nhanh sau đó, nàng không phải làm công việc hầu hạ nữa. Bình Dương công chúa chuyển nàng vào nội viện để huấn luyện ca múa.
“Tử Phu đừng phụ sự kỳ vọng của ta nhé.” Công chúa mỉm cười nói, ánh mắt khó hiểu. Kỳ vọng gì chứ? Nàng không hiểu. Nàng chỉ là một nô tỳ nhỏ nhoi với ước mơ rất tầm thường, mong sao người nhà mình được bình an, no ấm.
Năm thứ hai, nhị tỷ Vệ Thiếu Nhi của nàng ân ái với viên tiểu lại Hoắc Trọng Nhụ của huyện Bình Dương rồi sinh ra một bé trai. Hoắc Trọng Nhụ không thể cưới nhị tỷ của nàng vì hắn đã có vợ. Vệ Thiếu Nhi bế đứa con trai khóc thầm lặng lẽ, kéo tay nàng nói: “Tam muội, đừng đi theo vết xe đổ của tỷ tỷ và mẫu thân nhé.”
Khi đó, nàng càng lớn càng xinh đẹp, ca múa cũng dần điêu luyện, đẹp đến mức tỷ tỷ ruột của mình cũng phải thán phục. “Nhị tỷ yên tâm.” Nàng vừa mỉm cười vừa nựng đứa cháu trai bé bỏng. Sau một năm tập luyện ca múa, tầm mắt nàng đã ngước lên cao hơn, dứt khoát không chịu làm một tiện tỳ tư thông với người khác để đến nỗi cả đời không thể ngẩng đầu. Nhưng con đường phía trước sẽ như thế nào đây? Tất cả vẫn còn mờ mịt!
Cuối năm đó có đại tang Cảnh hoàng đế, công chúa khuyên bảo hầu gia chuyển nhà lên Trường An. Hoàng đế mới kế vị đặt niên hiệu là Kiến Nguyên, lập thái tử phi trong truyền thuyết Kim ốc tàng kiều làm Trung Cung hoàng hậu. Phẩm cấp của Bình Dương công chúa cũng được nâng lên thành Bình Dương trưởng công chúa. Bệ hạ niệm tình tỷ đệ, ngầm đồng ý cho tỷ tỷ và cả nhà tỷ phu ở lại Trường An. Nàng chứng kiến cảnh phồn hoa của Trường An, hiểu rằng Công chúa nhất định có mưu đồ nên mới huấn luyện ca múa cho các nàng từ rất nhỏ. Biết vậy nhưng nàng cũng không dám nghĩ quá xa. Dù nàng có mặc y phục hoa lệ, dung nhan xinh đẹp thì chẳng qua vẫn là một ca cơ như cũ, thấy người thì phải khẽ cúi đầu gợi lòng trắc ẩn. Người đi bên dòng suối nhỏ trông thấy ngọn núi đằng xa đã cảm thấy rất cao, sao còn dám ôm mộng bay lên tầng mây? Vận mệnh không biết là hào hiệp hay tàn khốc đã mở ra một cánh cửa cho nàng. Nàng cứ thế bước tới, chẳng biết đi đâu về đâu, không thể tự mình quyết định.
Nàng biết rằng bệ hạ và Trưởng công chúa là cùng một mẹ sinh ra, tình cảm rất sâu đậm. Một hôm bệ hạ tới thăm phủ Bình Dương hầu, Trưởng công chúa sai mấy mỹ nhân tới hầu hạ, bệ hạ đều nói cười thản nhiên, nhìn không thuận mắt. Thị nữ thϊếp thân A Lan của Trưởng công chúa bảo, “Tử Phu, cô lên phòng khách ca múa đi.” Vào khoảnh khắc đó, nàng cảm thấy dường như ông trời đã ban xuống cho mình một cơ duyên, nói không động lòng là giả dối. Người theo học nghề ca múa thành tài sẽ được bán vào nhà các vương hầu nhưng nàng còn có cả dung nhan vô song, nếu muốn bán thì cũng phải bán cho đế vương. Lúc bấy giờ, bệ hạ còn rất trẻ, nàng cũng vậy. Người trẻ tuổi tràn đầy ảo tưởng với tình yêu, cứ thế lao vào con đường tình ái không hề sợ hãi.
Đế vương ngồi trên cao, cặp lông mày lưỡi mác, đôi môi rất mỏng, cực kỳ tuấn tú. Chắc y đang ở trong hoàn cảnh bất đắc chí, trên mặt phảng phất nét buồn.
Đó là người ngồi trên ngôi vị thiên hạ chí tôn! Nàng như người ngã trong bùn lầy ngước nhìn mây bay trên trời, còn chưa cất tiếng thì lòng đã tan ra. Nàng quên hết, không còn nhớ mình đã hát, múa như thế nào, chỉ còn nhớ rằng y ngồi ở trên cao hơi nhướng mày, uống cạn chén rượu, ánh mắt nhìn nàng lóe lên một tia thưởng thức. Nàng hầu hạ y thay quần áo. Y gỡ chiếc trâm cài tóc của nàng, khen ngợi, “Mái tóc đẹp quá!” Chuyện xảy ra như một giấc chiêm bao. Nàng theo người đàn ông này về cung Vị Ương. Nàng vẫn biết, tục danh của hoàng đế triều Đại Hán hiện giờ là Lưu Triệt, chỉ là từ đó về sau, cái tên này không chỉ khiến nàng tôn sùng mà còn mang một ý nghĩa sâu sắc hơn rất nhiều.
Rồi cũng đến lúc nàng nhìn thấy người đó. Cung nữ đến trước xe ngự bẩm báo, “Hoàng hậu nương nương chờ bệ hạ trở về đã lâu rồi.”
Trong xe ngự yên lặng một lát rồi truyền ra giọng của bệ hạ, “Vậy à?”
Nàng đứng cuối xe ngự, nghe tiếng nói ở gần trong tấc gang mà lại xa xăm như tận chốn chân trời.
“A Kiều tỷ”, bệ hạ xuống xe, mỉm cười hỏi, “Bên ngoài gió lớn thế mà sao nàng còn ở đây?”
Cô gái kia cười duyên dáng quay lại, khẽ nghiêng đầu nói: “Chàng không ở trong cung, thϊếp nhớ chàng nhiều lắm, cứ tính toán từng canh giờ xem lúc nào chàng trở về để chờ ở đây.”
Đó là người con gái tôn quý nhất mà nàng đã gặp trong cuộc đời này. Người con gái đó dù gặp bệ hạ cũng chưa từng chịu cúi đầu vẫn tươi cười chàng chàng thϊếp thϊếp như thể đó chỉ là phu quân của mình. Đến sau này, nàng vươn lên được địa vị cao giống người đó nhưng không sao có được khí thế như của đối phương. Đến cuối cùng thì nàng mới hiểu rằng, nàng – Vệ Tử Phu chỉ là hoàng hậu của Lưu Triệt, còn Trần A Kiều mới là thê tử của Lưu Triệt.
Vẻ đẹp của Trần A Kiều khác với vẻ đẹp của nàng. Ở Trần A Kiều là vẻ đẹp cao quý, không người nào có thể phủ nhận được. Có một hoàng hậu xinh đẹp như vậy thì đương nhiên nàng phải bị vứt bỏ, vào làm nô tỳ trong cung. Nhưng nàng không cam lòng! Hiến thân cho đế vương không phải để sống lại cuộc sống nô tỳ thuở trước. Nàng nghe người trong cung nói rằng bệ hạ và hoàng hậu ái ân nồng thắm, hiếm thấy trong nhà đế vương. Vậy còn nàng thì sao? Vệ Tử Phu này được xem là cái gì?
Một năm sau, cung Vị Ương loại bỏ những cung nữ lớn tuổi. Nàng tuyệt vọng, mang lòng quyết tâm không thành công cũng thành nhân vượt qua bao khó khăn để đến được trước mặt bệ hạ, quỳ gối cầu xin y cho nàng rời đi. Bệ hạ trông thấy dung nhan vừa quen thuộc vừa xa lạ đang lệ rơi đầm đìa liền sủng ái lại lần nữa. Lần này thì hoàng hậu nương nương không cách nào nhẫn nhịn. Một người con gái cao quý sao có thể chịu được cảnh phải cùng chia sẻ phu quân với một ca cơ có thân phận thấp hèn.
Nhưng rồi nàng đã mang thai. Từ lúc bệ hạ đăng cơ đến nay chỉ sủng ái một mình hoàng hậu nhưng vẫn chưa có người nối dõi. Chuyện kế thừa của hoàng gia cực kỳ trọng yếu. Hoàng hậu nương nương không quản đến mọi việc, chỉ để ý đến phu quân của mình, nào ngờ vừa tỉnh mắt ra thì ngày đã sang, người đã khác. Nàng vẫn cho rằng sở dĩ Trần A Kiều thua là bởi vì bệ hạ ở ngôi cửu ngũ thì không thể nào chỉ có vĩnh viễn một người. Sau này, nàng mới bi thương phát hiện ra, trên đời này chẳng có chuyện gì là tuyệt đối. Như vậy thì ai đúng ai sai chẳng phải đã rõ ràng ngay từ buổi ban đầu ?
Hoài Nam quận chúa Lưu Lăng cũng yêu bệ hạ, liên kết với nàng, lợi dụng người nhà Sở Phục để ép buộc Sở Phục phải đẩy Hoàng hậu nương nương vào chỗ chết không nhắm mắt. Nàng lạnh lùng theo dõi Lưu Lăng, âm thầm suy nghĩ xem vì sao cô ta lại phải khổ đến như vậy? Ngay cả đánh đổ Trần A Kiều thì Lưu Triệt vẫn không thể nào là của cô ta được. Thế thì khổ cực cho ai, vội vàng cho ai? “Cho nên, Tử Phu, ngươi phải nhớ kỹ.” Nàng tự nói với bản thân mình, những cô gái đắm chìm trong tình yêu thật quá ngu ngốc, nếu có ngày đó thì ngươi không được để mình giống như bọn họ. Nào ngờ khi người kia quay trở về, nàng mới thấu hiểu, có một số chuyện không phải cứ tự cảnh cáo mình là có thể không phát sinh.
Những năm đó, nàng ở bên cạnh đế vương với thân phận mẫu nghi thiên hạ, bình thản nhìn đế quốc Đại Hán ngày một cường thịnh. Thời gian thấm thoắt, nàng cũng dần dà phó thác cả trái tim mình cho y. Tại sao lại phải yêu chứ? Bởi vì y quá tuyệt tình hay vì thời gian trôi qua quá vô vị? Không một ai ở dưới vòm trời này có thể đưa ra đáp án.
Song một luồng tình ý cuối cùng cũng đã mất đi. Bọn họ ngửa tay làm mây, úp tay làm mưa nhưng lại quên mất rằng bệ hạ đang ở bên cạnh lạnh lùng quan sát. Vào ngày đã quyết định xong ý chỉ phế hậu, bệ hạ tới dùng bữa ở điện của nàng. Sau khi ân ái, y nhìn dung nhan xinh đẹp của nàng, đột nhiên cười lạnh nói, “Trẫm thật không nhìn ra khanh lại là người có lòng dạ hiểm độc.”
Nàng kinh hãi, toát mồ hôi lạnh. Đó là hoàng đế của hoàng triều Đại Hán, thiên hạ đều ở trong tay y. Đến sau này, nàng mới biết, bản thân tự cho là đắc kế nhưng chẳng qua là vì bệ hạ ngầm đồng ý nên chuyện mới phát sinh. Người kia là biểu tỷ cùng lớn lên với y từ nhỏ, là người con gái mà y từng hứa hẹn muôn vàn sủng ái, được người đời ca tụng là đôi đế hậu cầm sắt hòa hợp. Y lại cứ thế nhìn người đó chầm chậm đi đến vực thẳm, sau đó còn đích thân đẩy xuống. Nàng vẫn cho rằng mình biết rõ hơn Trần A Kiều về sự vô tình của người cùng chung chăn gối nào ngờ y không phải là vô tình mà là tuyệt tình. Từ ngày đó, nàng bắt đầu học theo cách nghĩ của y để hành xử thì y lại dần rời xa nàng. Nếu không phải bởi vì nàng đang mang thai Chư Ấp, e là trên thế giới này không có một hoàng hậu tên là Vệ Tử Phu. Trong hậu cung ba ngàn phi tần cung nữ nhưng có sinh có dưỡng thì chỉ một mình nàng. Sau này ấu đệ Vệ Thanh bắt đầu quật khởi. Cuối cùng, nàng sinh hạ con trai trưởng Lưu Cứ, được lập làm hoàng hậu. Vào lúc đó, nàng lại không biết rằng ở Đường Cổ Lạp Sơn xa xôi, Lưu Mạch và Lưu Sơ cũng đã bắt đầu bi bô học nói.
Từ một ca cơ lên đến ngôi vị hoàng hậu, truyền kỳ về kỳ tích như vậy đủ để phủ bóng lên câu chuyện cũ Kim ốc tàng kiều. Nàng dần quên mất rằng thuở bé mình cũng hằng ngưỡng mộ câu chuyện huyền thoại đẹp đẽ này. Cho đến năm Nguyên Sóc thứ sáu, cái tên bị quên từ lâu lại được nhắc tới một lần nữa. Trở về theo cái tên đó còn có một công chúa giống mẫu thân của cô như đúc, tên gọi là Sơ. Cô bé kia nói, chữ “Sơ” này ở trong một câu thơ đẹp đẽ “Nhân sinh nhược chích như sơ kiến.”
“Nhân sinh nhược chích như sơ kiến.”
“Nhân sinh nhược chích như sơ kiến.”
Khi nàng nghe được câu này thì chỉ cảm thấy buồn cười, đời người nếu mãi như khi bọn họ vừa gặp nhau thì Vệ Tử Phu nàng sẽ ở đâu? Hoặc nếu như đời người mãi chỉ như khi nàng vừa gặp bệ hạ thì trên đời này cần gì phải có một Trần A Kiều? Đều là những chuyện mâu thuẫn. Mà có lẽ, đời người vốn là một mâu thuẫn lớn nhất. Trong khoảnh khắc đó, nàng mơ hồ cảm thấy lòng đau đớn.
Vốn nàng vẫn luôn tự nhắc nhở mình đừng yêu nhưng cuối cùng lại vẫn sa vào đó. Thoáng chớp mắt đã từ năm Kiến Nguyên thứ hai đến năm Nguyên Sóc thứ sáu, được hơn mười năm rồi. Năm tháng dài như vậy, yêu thương cứ lớn lên từng chút một khiến khi tỉnh ngộ thì chính bản thân mình cũng không thể xóa bỏ được nữa. Cũng như đời nàng đã được chú định thống khổ, đến chết vẫn không yên.
Bệ hạ ban cho cô bé kia danh hiệu Duyệt Trữ, ở tại điện Chiêu Dương, Duyệt Trữ! Duyệt Trữ! “Du duyệt an trữ”[2]. Trong cung Vị Ương này, ai có thể thực sự vui vẻ an bình? Trong điện có bao nhiêu là người mà cô bé không hề e ngại dám nói rằng mình nhớ mẫu thân, mẫu thân của mình là người phụ nữ tốt nhất thiên hạ.
[2] Vui vẻ bình an.
Người phụ nữ tốt nhất thiên hạ? Nàng nhớ lại người con gái trong ký ức, khuôn mặt như đóa phù dung, cặp mày lá liễu, dĩ nhiên là đẹp tuyệt trần. Nhưng với tính cách kiêu ngạo tùy hứng như vậy thì có muốn làm trái lương tâm để nói ra một chữ tốt cũng thấy khó khăn. Chẳng phải bệ hạ cũng bị tính cách đó của người kia từng bước ép phải rời xa sao?
Tính cách kiêu ngạo đó, sau nhiều năm lưu lạc bên ngoài có được mài giũa? Đã bước chân ra khỏi thành Trường An, nào ai nguyện ý chịu đựng người kia thêm lần nữa. Trần A Kiều mất đi tính cách kiêu ngạo rừng rực như lửa thì có còn là Trần A Kiều như trong ký ức? Nàng cũng chẳng nghĩ được rõ ràng. Trong lòng nàng, cái tên Trần A Kiều đồng nghĩa với một người con gái luôn kiêu ngạo, giống như một con phượng hoàng luôn đứng thẳng, kiêu hãnh bay trong biển lửa không bao giờ chịu cúi đầu, cuối cùng bị đốt thành tro bụi. Ngay cả nàng là kình địch nhưng cũng không thể không thừa nhận rằng hình ảnh hủy diệt huy hoàng đó đẹp đến tột đỉnh. Đẹp đến nỗi không ai có thể trơ mắt lạnh lùng chứng kiến giây phút cuối cùng. Thế nên, Lưu lang của nàng mới thật là vô tình!
Nàng vẫn ôm mối hận. Đều là phận nữ nhi, đều là hoàng hậu, tại sao Trần A Kiều lại có thể sống mạnh mẽ, thẳng thắn như vậy còn nàng thì cứ ngày ngày lặng lẽ, mỏi mòn ở cung Vị Ương phồn hoa để cuối cùng héo hon đi giống như chiếc bóng mỹ lệ trên tấm màn lụa hàng đêm kéo lên trong điện Tiêu Phòng mà không hề có sinh khí.
Sau khi nàng sinh Cứ Nhi thì bệ hạ trở nên lạnh nhạt. Nàng nghĩ, chung quy lại thì y chỉ muốn có một đứa con trai nối dõi mà thôi. Nàng giúp được y thực hiện hy vọng đó, nên y cho nàng ngồi lên ngôi vị hoàng hậu cao quý nhất mà cũng cô quạnh nhất ở cung Vị Ương, rồi để mặc nàng cho số phận giày vò, còn nàng cũng vui vẻ chịu giày vò như thế. Có ai trên cõi đời này không ngưỡng mộ, có ai ở trong cung Vị Ương không tôn sùng ngôi vị trí hoàng hậu? Người đời thường nói nó là đại biểu cho ngôi vị mẫu nghi thiên hạ, nhưng chỉ có người ngồi trên mới biết được cảm giác bi thương trộn lẫn với hân hoan.
Nàng chiếm được ngôi vị hoàng hậu mà mình ước ao thèm khát nhưng lại đánh mất sự sủng ái của phu quân. Nàng cũng không biết phải chăng mỗi người đàn bà đang tranh đoạt ngôi thứ trong cung Vị Ương đều như vậy? Một người đàn bà có được tôn sùng đến đâu thì trước hết vẫn là một nữ nhân, mà đã là nữ nhân thì liệu có người nào không mong mỏi được phu quân thương yêu? Người trong cung Vị Ương thôi không còn nhắc đến Trần hoàng hậu nữa mà bây giờ bọn họ chỉ nói đến Vệ hoàng hậu ở điện Tiêu Phòng.
“Vệ hoàng hậu là người hiền hậu. Hôm qua ta làm việc trong ngự hoa viên. Vệ hoàng hậu đi qua còn hơi mỉm cười với ta.”
“Vệ hoàng hậu thật may mắn. Nghe nói, nàng vốn chỉ là một ca cơ của phủ Bình Dương hầu.”
“Đúng đấy. Nói về thân phận thì Trần hoàng hậu trước kia cao quý biết nhường nào chứ? Thế mà chẳng phải cũng thua bởi một ca cơ? Có thể thấy được…”
…
Cho nên, sinh nam không vui, sinh nữ không giận, ai không thấy Vệ Tử Phu bao trùm thiên hạ?
Lức nàng mới nghe được bài hát đó thì đột nhiên bật cười. Những người đó chỉ thấy được bề ngoài rạng rỡ nhưng lại không thấy được bùn lầy bên dưới. Nàng vẫn luôn nghĩ nếu không có Cứ Nhi, không có Thanh đệ, không có Khứ Bệnh thì rốt cuộc nàng là cái gì ở trong lòng Lưu lang? Cô bé kia nói suốt nửa năm, Lưu lang cũng nghe suốt nửa năm, dần thấy người kia quả thật là một người rất tốt. Người kia trong dĩ vãng luôn kiêu căng tùy hứng làm tổn thương y nhưng đã được thời gian xóa mờ, giờ trong ký ức chỉ còn lại những gì tốt đẹp.
Trong cuộc đời mỗi người đàn ông đều có một bông hoa hồng nhung và một đóa hồng trắng. Hoa hồng trắng là dịu dàng, hoa hồng đỏ là nồng nhiệt. Y rời xa hoa hồng đỏ đã lâu nên coi người đó như một nốt ruồi son trước ngực, giữ tận trong lòng, nếu không có lại được thì sẽ mãi còn day dứt, Lúc đó, nàng cũng đã nhìn thấy trước chuyện của mười năm sau nhưng nàng chỉ không đoán được kết cục, càng không đoán được lòng của Lưu lang. Nếu thật sự là vô tình thì hãy vô tình đến cùng, sao dần lại có tình, rồi khối tình đó lại dành cho người khác, khiến cho nàng đã mộng đến nửa đêm lại tỉnh, sao không khỏi đớn đau?
Nàng vẫn cho rằng Cứ Nhi là chỗ dựa cuối cùng, không thể bị đánh đổ của mình nhưng nào ngờ cuối cùng nàng lại thất bại, phải tự vẫn cũng vì nó. Trong đời người có chuyện nào mỉa mai hơn? Năm Nguyên Sóc thứ hai, nàng sinh Cứ Nhi, đăng cơ làm hoàng hậu. Năm Nguyên Sóc thứ năm, Vương Thấm Hinh sinh Nhị hoàng tử Lưu Hoành, nhất thời giành được ân sủng của Hoàng thượng. Cứ Nhi không còn là con trai nối dòng duy nhất của y. Năm Nguyên Sóc thứ sáu công chúa Duyệt Trữ Lưu Sơ hồi cung. Cuối năm Nguyên Sóc thứ sáu, Trần A Kiều dẫn theo Lưu Mạch hồi cung. Bọn họ nói, hoàng tử trưởng mới thật sự là giống bệ hạ, giống từ cặp mắt đến bờ môi. Cuối cùng thì đứa con giống Lưu lang của nàng nhất vẫn là con trai của người đó. Còn tướng mạo Cứ Nhi một nửa giống Lưu lang, một nửa giống nàng, lúc bình thường cảm thấy không có gì, nhưng bây giờ nghĩ lại mới có chút oán hận.
Bệ hạ để cho Trần A Kiều quay về Trường Môn. Nhị tỷ an ủi nàng rằng như vậy không tốt sao? Điều này nói lên rằng bệ hạ không coi trọng người kia vì Trường Môn chính là lãnh cung. Nàng cười lay lắt, nói nhị tỷ quả thật là quá ngây thơ. Trường Môn cũng là nơi người làm hoàng hậu như nàng không thể quản đến. Từ đó có thể thấy được ý của bệ hạ là muốn bảo vệ cho Trần A Kiều.
Ngẫm nghĩ ra mới thấy thật không công bằng. Nàng ở cung Vị Ương này đã hơn mười năm vẫn cảm thấy có khoảng cách, không sao vừa mắt Thái hậu. Nếu không phải vì Cứ Nhi thì e rằng nàng còn chẳng duy trì được ngay cả cái cục diện không mặn không nhạt như ngày hôm nay. Ấy vậy mà, Trần A Kiều vừa mới trở về, chưa nói đến mẫu thân là Trưởng công chúa Quán Đào mà ngay cả Vương thái hậu cũng đối xử bằng ánh mắt khác. Chẳng phải Lưu lang của nàng cũng coi trọng người kia hơn một chút sao?
Bọn họ cố ý cách ly nàng với người kia, mà ngay bản thân hai người cũng ngầm thỏa thuận là không gặp nhau. Gặp nhau thì cả hai ắt sẽ đều lúng túng. Nàng được nghe kể rằng người kia vốn đã xinh đẹp nay càng xinh đẹp, năm tháng lại ưu ái không để lại bao nhiêu gió sương trên dung nhan, hơn nữa tính cách đổi thành tao nhã, điềm đạm, chẳng chút nào giống cô gái kiêu ngạo nông nổi trong ký ức của nàng. Ngay cả nàng cũng không nhịn được tò mò, người kia trong mấy năm nổi chìm lưu lạc đã xảy ra chuyện gì mà đổi thành dáng vẻ hôm nay?
Sau khi bệ hạ hồi cung, kết quả của lần đầu tiên đi gặp người kia là chia tay trong hờ hững. Người kia lén xuất cung bị biết được, vì cung nữ trong điện Trường Môn nên đành phải tới điện Tuyên Thất cầu tình. Sau đó, bệ hạ ân xá cho bọn họ, còn đồng ý để người kia xuất cung. Trong đại thọ của Trưởng công chúa Quán Đào, người kia xuất cung chúc thọ, bệ hạ cũng tới đó rồi được người kia săn sóc khi bị dị ứng nổi mẩn do uống rượu. Đêm Trừ tịch của năm Nguyên Thú đầu tiên, bệ hạ ở lại Trường Môn, sáng sớm chia tay trong nặng nề.
Nàng biết nàng không thể oán, không nên oán nhưng từng chuyện, từng chuyện đều không khỏi gợn lên trong lòng. Dù không đau nhưng nếu cứ kéo dài mãi thì sẽ khiến nàng trở nên ưu sầu. Nàng muốn nhắm mắt che tai không nhìn tới, không nghe tới nhưng vẫn tự có người đến báo, còn nàng đành phải gượng giữ vẻ mặt tươi cười, lắng nghe.
Nàng biết bệ hạ coi trọng Trần A Kiều, không cho phép nàng động tới người ta. Những năm này, nàng ở trên ngôi vị hoàng hậu nhưng vẫn luôn ghi nhớ lời giáo huấn năm xưa, một mực án theo ý tứ của y mà hành sự, giữ yên hậu cung để y có thể an tâm lo chuyện nước. Cũng vì thế nên bệ hạ mới có thể để nàng ngồi trên ngôi vị hoàng hậu nhiều năm như vậy. Y lại không biết, tuy nàng mỉm cười nhìn y lui tới các tòa điện trong cung Vị Ương, bề ngoài vẫn tỏ ra bình thản nhưng trong lòng lại đau nhói. Nếu có thể, sẽ chẳng người phụ nữ nào nguyện chia sẻ phu quân với người khác, trừ phi người đó không hề có chút tình cảm. Nàng yêu thương y nên nhất định sẽ đau đớn.
Trước khi Trần A Kiều trở về, nàng cho rằng mình có thể cứ cười như vậy đến suốt đời, cao cao tại thượng nhưng tịch mịch, đợi chờ Lưu lang thỉnh thoảng lui đến. Trần A Kiều trở về đã phá vỡ hạnh phúc nhỏ nhoi đó của nàng.
Giờ nàng mới biết, hóa ra nàng có thể chịu đựng được chuyện Lưu lang ở chung với những người con gái khác nhưng không thể dễ dàng tha thứ chuyện Lưu lang quay lại với Trần A Kiều. Điều này không khác một cái tát giáng thẳng vào nàng, nói cho nàng biết rằng, thắng lợi mà nhiều năm qua ngươi vẫn tự cho là mình giành được chỉ là giả tạo Người kia đã từ vận mệnh trở về, đòi lại hết thảy những gì trước đây nàng cướp đi.
Sau này nàng nghĩ, có lẽ lúc đó, trực giác nhạy cảm đã nói cho nàng biết, Lưu lang đã dần yêu người con gái mà y từng vứt bỏ. Như vậy, khi chính bản thân y cũng ý thức được điểm này thì chẳng phải người đã từng làm tổn thương A Kiều là nàng sẽ phải chết không chỗ chôn thây? Thế nên, cuộc đấu của nàng và người kia còn là cuộc đấu sinh tử,
Nàng cũng không biết sau khi trở về người kia sẽ thế nào nên mới bố trí một cái bẫy hết sức tinh vi, kết cục mới biết chính bản thân mình lại là người sập bẫy. Người kia thì sao? Sau khi thắng rồi cũng không thèm đếm xỉa gì tới nàng mà lại xin bệ hạ một đạo ý chỉ để về phủ Đường Ấp hầu ở tạm. Lần ở tạm này dài tới một năm.
Trong một năm đó, nàng bị giam lỏng ở điện Tiêu Phòng, đối diện với cung điện hoa lệ nhưng trống rỗng, bơ vơ không biết bấu víu vào đâu. Mọi người nói rằng bệ hạ thường tới phủ Đường Ấp hầu thăm người kia, giảm bớt số lần lưu lại cung Vị Ương.
Nàng chỉ cười dịu dàng, lặng lẽ nghe bọn họ bàn tán, ra vẻ cảm thông lẫn bất bình thay cho mình, lòng cứ thế nhạt dần, Nàng đã yêu phải một người chưa bao giờ yêu nàng, vậy thì tình yêu của nàng cứ thế, cứ thế tan biến. Nếu tình yêu đó chỉ có thể làm cho nàng khổ, làm cho nàng đau thì nàng cũng không cần nhưng e rằng, nếu vứt bỏ nó thì nàng sẽ đau đớn không chịu nổi, đau đớn muốn chết đi. Nàng còn có người nhà phải bảo vệ, Cứ Nhi phải che chở, cho nên nàng không có thời gian để mềm yếu, không có thời gian để héo sầu xuân thu, không có thời gian để mà khóc cho mối tình đang tàn tạ.
Năm Nguyên Thú thứ hai, trưởng nữ Vệ Trường xuất giá. Đến con gái cũng đã đến tuổi gả chồng thì nàng coi như đã già rồi. Vệ Trường thật sự rất giống nàng, giấu kín những bi thương ở trong lòng. Nàng thật sự mến một thiếu niên, nhưng người thiếu niên đó lại ngại là biểu ca của nó. Cảm mến thì làm sao? Với tình cảnh của Vệ gia ngày đó thì chuyện hôn nhân của Vệ Trường là cực kỳ quan trọng với nàng. Nàng không thể để cho tình cảm riêng tư của con gái gây ảnh hưởng đến mưu đồ toàn cục. Nhưng nàng làm con gái bi thương thì lòng nàng còn bi thương hơn. Bi thương vì nàng biết rõ Vệ Trường không tình nguyện nhưng vẫn lựa chọn gả vào Lý gia. Dường như những gì trong đời nàng lại một lần nữa tái diễn, những gì làm ra hoàn toàn khác với suy nghĩ trong lòng.
Từ phương bắc truyền tin về báo rằng Khứ Bệnh đại thắng. Quả nhiên Khứ Bệnh là một đứa trẻ xuất sắc, tài hoa rực rỡ, không uổng công Vệ Trường thương yêu. Vệ Trường thật sự có cặp mắt tốt hơn nàng, nó chỉ là yêu mà không đến được, còn nàng lại vì yêu mà thành tổn thương.
Trường Tín hầu Liễu Duệ toàn thắng Hung Nô, đem về bào tỷ[3] của bệ hạ, Nam Cung trưởng công chúa Lưu Đàm, kết hôn cầu hòa với Hung Nô đã nhiều năm. Đồng thời ở thành Trường An, sinh mạng của Vương thái hậu cũng bước tới giờ phút cuối cùng. Người phụ nữ dù tôn quý đến đâu thì khi tiến gần đến giờ phút tử vong cũng đều giống nhau. Vương thái hậu vẫn luôn mong ngóng Nam Cung trưởng công chúa trở về. Nhiều năm trước, bà đã đưa nàng đi Hung Nô kết hôn cầu hòa trong khi bản thân mình thì an nhàn ngồi trên ngôi vị tôn quý cũng cảm thấy xót xa. Xót xa cũng chỉ là xót xa, nếu mọi chuyện tái diễn, bà vẫn dứt khoát lựa chọn đưa đứa con gái yêu của mình ra đi để giúp cho chính bà và đứa con trai. Cũng giống như nếu được sống lại một lần nữa, nàng vẫn sẽ chọn cách dùng chuyện Vu cổ hãm hại Trần hoàng hậu. Xét về bản chất thì nàng và Vương thái hậu là cùng một loại người. Cả hai không phải không có tình yêu, nhưng vì những thứ quan trọng hơn tình yêu mà đành chôn vùi nó. Chỉ là Vương thái hậu thành công, còn nàng từ trước tới nay vẫn cho là mình thành công nhưng bây giờ nhìn lại mới biết nguy cấp như rơi xuống vực thẳm, thế nên hai người luôn không thể gần gũi nhau.
[3] Bào tỷ: Chị ruột.
Vào ngày Vương thái hậu qua đời, nàng đứng ở ngoài cung Trường Nhạc với tâm trạng cực kỳ hờ hững, không vui không buồn. Người phụ nữ đang hấp hối trong cung Trường Nhạc phồn hoa tôn quý là mẫu thân của phu quân nàng. Bà và nàng sống ở trong hai cung điện suốt bao nhiêu năm qua nhưng tới giờ vẫn như hai người xa lạ. Bản thân nàng tràn ngập bi thương, chẳng thể nào chia sẻ với người phụ nữ nửa đời huy hoàng nhưng sắp ra đi kia.
Song, bà lại là mẫu thân của Lưu lang. Vào thời khắc đó, Lưu lang thật sự bi thương. Dù Lưu lang có tàn nhẫn đến đâu nhưng trong lúc mẫu thân qua đời thì trái tim y vẫn thoáng có chút mềm yếu. Nàng đi theo y tới ngoài điện Linh Tâm. Mọi người nói rằng Lưu lang ở tại tòa cung điện này từ nhỏ đến lớn. Lưu lang của nàng ngồi trong điện Linh Tâm thương tiếc mẫu thân, còn nàng đứng ở ngoài, chần chừ không dám vào. Thời gian đã mài mòn dũng khí của nàng. Nàng không còn được như hồi còn trẻ, không hề sợ hãi về tiền đồ phía trước.
Người đời nói rằng, hiểu rõ tâm Hoàng đế nhất trên đời này chính là Ngự tiền tổng quản Dương Đắc Ý hầu hạ bên cạnh y nhiều năm. Ngày hôm đó, Dương Đắc Ý đã đi khắp cung điện tìm Trần A Kiều. Nàng đứng tại đình Viễn Sơn ở rất xa, nhìn Doãn Giai La tiến vào rồi bị bệ hạ nổi trận lôi đình truyền giải tới Dịch đình. Cuối cùng là Trần A Kiều bước vào.
Nàng cứ đứng chờ mãi ở trong đình, đợi đến khi sắc trời sẩm tối, đợi đến khi những cơn gió Nam tháng Năm thổi tới, tâm hồn lạnh giá vẫn chưa thấy người kia đi ra ngoài. “Hoàng hậu nương nương”, Thải Thanh khẽ nhắc, “Chúng ta trở về thôi.” Nàng quay đầu lại, tựa hồ nghe ra vẻ bất nhẫn trong lời của Thải Thanh, cười không thành tiếng.
Nam Cung trưởng công chúa Lưu Đàm từ nhỏ đã có tình cảm rất tốt với Trần A Kiều, trước mặt mọi người gây khó xử cho nàng, đối đãi lạnh nhạt. Sau khi Thái hậu qua đời, nàng chính là người phụ nữ tôn quý nhất Đại Hán nhưng sao lại phải cẩn trọng hơn so với trước kia? Bệ hạ dẫn Nam Cung trưởng công chúa và Trần A Kiều tới cung Cam Tuyền nghỉ hè. Sau khi trở về, ân ái càng thêm nồng thắm. Còn nàng thì trông coi ngôi vị hoàng hậu lạnh lẽo mà dần trở nên mòn mỏi, gầy yếu đến nỗi chỉ cần một cơn gió nhẹ thổi qua cũng ngã.
“Mẫu hậu”, các con gái gọi nàng vẻ lo lắng.
“Không có chuyện gì”, nàng bình thản đáp, vẫn cười dịu dàng. “Ta đã quen rồi.” Đúng vậy, nàng đã quen. Không phải là nàng nguyện ý quen mà hiện thực buộc nàng phải như vậy, không chấp nhận thì làm thế nào?
Dương Thạch đã xuất giá, Khứ Bệnh cũng đã mất đi. Không khí tịch mịch tràn ngập cung Tiêu Phòng. Ngay cả mái hiên thoạt nhìn tráng lệ huy hoàng trong những năm đầu giờ cũng ảm đạm qua năm tháng bào mòn. Còn nàng càng ngày càng trở nên thận trọng. Cho tới bây giờ, chỉ cần con gái mạnh khỏe, gia tộc bình an, nàng sẽ có thể cứ thận trọng như vậy đi hết cuộc đời.
Cuối cùng nàng vẫn không thể chống lại con bão táp bộc phát trong Thượng Lâm Uyển. Lúc vừa nghe chuyện, nàng rất ngạc nhiên, ngoài nỗi lo lắng cho gia tộc còn là một thoáng sung sướиɠ. Trần A Kiều kiếp này ngươi luôn thuận buồm xuôi gió mà cũng có ngày hôm nay sao? Mất đi đứa con kia, nhất định ngươi sẽ rất đau, rất đau, có đau như ta không?
Nàng gắng sức làm giảm cơn sóng lớn đổ ập vào Vệ gia nhưng không thể ngăn được nỗi sợ hãi lúc đêm khuya nằm ngủ một mình ở điện Tiêu Phòng. Chẳng lẽ lần này thật sự không qua được? Năm xưa nàng đối xử với Trần A Kiều như thế nào thì tới giờ vận mệnh như muốn báo ứng trở lại gấp bội. Người đầu tiên ra đi là ngoại trưởng tôn.
Sau đó là Dương Thạch, cuối cùng là Cứ Nhi. Vận mệnh nếu muốn nàng bại lui từng bước, nàng cũng chẳng thể cưỡng nổi. Nàng chỉ có thể ngồi trên chiếc ghế hoàng hậu giá lạnh, xung quanh chỉ còn mấy đứa con và người thân. Chỉ sợ sau cơn phong ba này thì chiếc ghế hoàng hậu cũng sẽ mất đi. Sao nàng có thể cam tâm? Nếu phía sau đã là vực sâu vạn trượng, không thể lui được nữa thì sao nàng có thể tiếp tục lui cho được? Tiếp đó, chuyện mưu phản, Vu cổ dồn dập ập đến. Tất cả đều đã sắp đến hồi kết thúc, nàng ngồi gảy đàn trong điện Tiêu Phòng. Đó là khúc Thượng Tà trong Nhạc phủ.
“Nguyện làm đôi lứa tương tri, trọn đời chẳng phân ly.
Núi sẽ mòn, nước sông rồi cạn,
Đông sấm rền, hè giăng mưa tuyết,
Trời đất sập, mới cùng chàng ly biệt!”
Cuộc đời của nàng, chẳng qua chỉ là một lần đánh cuộc lớn. Nửa đời trước, nàng thắng nên tới được điện Tiêu Phòng. Nửa đời sau, nàng lại thua nên tự vẫn, trả giá bằng tính mạng. Cuối cùng cũng đã xa cách với người. Lưu lang là quân vương, nhưng nàng chỉ mong mỏi y là lang quân của mình. Lúc còn trẻ, nàng lạnh lùng quan sát cô gái kiêu ngạo kia, thầm giễu cợt cô ta không hiểu chuyện. Lưu lang của các nàng là bậc đế vương làm chúa tể thiên hạ mà cô ta lại mong y chỉ sủng ái riêng mình, thế chẳng phải là quá ngây thơ hay sao? Giờ nàng mới biết, bất kỳ người con gái nào cũng đều nuôi vọng tưởng như vậy trong lòng. Chỉ là Trần A Kiều thành thực hơn, lại có tư cách để vọng tưởng nên mới nói ra không hề e ngại. Có thể sống một cuộc đời thẳng thắn như vậy, ai bảo không phải là hạnh phúc?
Đã đến bước này, nhìn lại hết thảy, nàng chỉ thấy bản thân mình luôn bị áp chế, dù ngay cả lúc đắc ý nhất là đăng cơ lên ngôi hoàng hậu thì chung quanh vẫn chỉ là màu xám. Cả đời nàng chỉ duy nhất một lần mang màu sắc ấm áp. Đó là lúc người kia còn là hoàng hậu, còn nàng mới có Vệ Trường, bệ hạ đến điện của nàng thăm nom, hai người cùng bế Vệ Trường êm đềm vui vẻ. Cảnh tượng đó rất giống hồi còn bé, nàng từng thấy một gia đình nông dân ở huyện Bình Dương, vợ chồng quấn quýt bên nhau, cho đến già vẫn còn trao nhau đầu mày cuối mắt tràn ngập yêu thương. Chính nàng đã phá vỡ sự ấm áp đó, sắp đặt chuyện Vu cổ hãm hại Trần A Kiều, đẩy A Kiều khỏi ngôi hoàng hậu. Nếu như mong muốn lớn nhất trong cuộc đời chỉ là được bên nhau đến già thì lúc ban đầu nàng cần gì phải dốc hết tâm cơ để giành giật sự yêu thương của bệ hạ. Trong buổi ban đầu đó, rốt cuộc là vì nàng muốn giành lấy yêu thương của bệ hạ, biến y trở thành Lưu lang của mình nên mới nảy sinh tình yêu hay là vì nàng nảy sinh tình yêu nên mới quyết tâm liều mạng giành giật tình cảm của Lưu lang? Điều đó ngay cả bản thân nàng cũng không biết. Nàng chưa bao giờ nguyện ý đoạn tuyệt, chỉ mong gắn bó cả đời với y.
“Núi sẽ mòn, nước sông rồi cạn,
Đông sấm rền, hè giăng mưa tuyết,
Trời đất sập, mới cùng chàng ly biệt!”
Nhưng Lưu lang đã đoạn tuyệt trước với nàng. Cõi đời này chỉ có một Lưu lang, vậy sao đã có một Vệ Tử Phu lại còn sinh ra một Trần A Kiều? Hoặc là đã có Trần A Kiều rồi thì cần gì phải sinh ra một Vệ Tử Phu? Vận mệnh rất công bình. Nàng đã có gan đánh cuộc thì phải chịu thua nhưng lại không dứt bỏ được vì còn bốn đứa con trai con gái lại trên đời. Nếu có thể, kiếp sau nàng nhất định không quan hệ với nhà đế vương. Nàng đã thoáng suy nghĩ như vậy khi dải lụa trắng siết qua cổ.
Hồn phách chết oan không được đầu thai nên nàng cứ dật dờ suốt bao năm, chờ đợi suốt bao năm ở trong Uổng tử thành này, ngày ngày xem cảnh bọn họ buồn, vui, tan, hợp rồi cuối cùng cũng đến một ngày chờ được Lưu lang của nàng đến. Quỷ sai đi ngang qua, khẽ báo. “Hiếu Vũ hoàng đế đến rồi đấy.”
Nàng nhìn ra đằng xa, Lưu lang của nàng đã già lắm rồi, khuôn mặt tiều tụy. Không biết y còn nhớ rằng trong cuộc đời mình từng có một người con gái tên Vệ Tử Phu hay không. Bao năm rồi, nàng chưa từng rơi lệ, bây giờ đột nhiên bật khóc. Từng giọt, từng giọt nước mắt chầm chậm lăn xuống, chưa qua hết gò má đã kết thành băng lạnh.
Hiếu Vũ hoàng đế Lưu Triệt tại vị sáu mươi năm, chiến công hiển hách. Đám quỷ sai trong chốn U minh cũng nghe danh. Lưu lang cau mày hỏi, “Khi nào thì hoàng hậu của trẫm mới xuống đây?”
Quỷ sai nói: “Sinh tử có số, đã tới U minh rồi thì hãy tuân thủ quy củ của chốn U minh. Nếu Hiếu Vũ hoàng đế cùng Hiếu Vũ Trần hoàng hậu còn có duyên phận thì nhất định có thể gặp được nhau trong cõi âm này.” Y định hỏi bao nhiêu năm nhưng rồi lại thôi. Hai năm sau thì Trần A Kiều cũng đến. Khác với Lưu lang, hai người phụ nữ lại có thể nhìn thấy nhau.
“Ta và ngươi tranh đấu suốt bao nhiêu năm qua, ngươi có hận ta không?” Nàng chẳng biết hỏi gì hơn.
“Nhiều năm như vậy”, Trần A Kiều chỉ cười, đáp ngoài dự tính của nàng: “Ta đã quên mất từ lâu.”
Bao nhiêu năm đã qua… Đúng vậy, đã qua biết bao năm tháng. Trần A Kiều đã quên, nàng cũng chẳng nhớ. Tiếp sau là Vệ Trường, Dương Thạch, Chư Ấp rồi cả Cứ Nhi cũng xuống, tất cả những mối bận tâm của nàng ở trên trần thế đã hoàn toàn chấm dứt.
Quỷ sai tới trước mặt nàng, nói, “Vệ Tử Phu, ngươi đã có thể chuyển thế.” Nàng bình thản gật đầu: “Được rồi.” Chờ đợi đằng đẵng quả thật là một chuyện mỏi mệt, phải nhớ mãi một đoạn ký ức muốn lãng quên lại càng mệt mỏi.
Chầm chậm, chầm chậm, nàng cứ thế uống hết chén canh Mạnh bà vừa được bưng tới, vùi chôn hết thảy ân oán tình thù trong suốt cuộc đời.