Song Hỷ nghĩ một lúc, gật đầu: "Còn. Vài năm trước cô ấy tìm được một gã đàn ông, định rửa tay gác kiếm, nhưng không biết sao cuối cùng vẫn không đi được. Các cô gái trong tiệm bảo là cô ấy bị bệnh, gã đàn ông đó thấy vậy liền bỏ cô ấy luôn."
Anh ta bĩu môi nói tiếp: "Tôi thấy nếu có ai bằng lòng cưới cô ấy về làm vợ, sống một cuộc đời ổn định thì cũng tốt mà. Nhìn cũng xinh xắn, thế mà cứ phải chịu khổ trong cái tiệm đó. Ban ngày thì làm nhân viên gội đầu, ban đêm thì…"
Nói đến đây, Song Hỷ chợt dừng lại, rồi đột nhiên nhếch miệng cười: "Cậu hỏi làm gì? Thèm phụ nữ rồi à?"
Anh ta cười gian xảo, vỗ vai Giang Dịch: "Cần thì cứ bảo tôi, tôi giới thiệu cho! Yến Tử thì không ổn lắm, người bệnh tật yếu ớt, không vui đâu. Nhưng mà Tiểu Phượng thì khác, nóng bỏng lại cực kỳ sung sức!"
Giang Dịch chẳng buồn ngẩng đầu, lạnh nhạt đáp: "Giữ lại mà dùng, tôi không tranh với cậu."
Sau khi ăn sáng xong, Song Hỷ đứng dậy, chỉnh lại nếp nhăn trên vest. Anh ta tự biết mình mặc vest thì chưa chắc được coi trọng, nhưng Giang Dịch mặc như thế này thì chắc chắn sẽ bị coi thường.
Áo thun cũ, giày thể thao bẩn, nhìn y như một kẻ ăn xin. Song Hỷ lại nhớ ra điều gì đó, nhếch miệng cười: "Cửu gia nói Hách Chương lần này về nước có dẫn theo một tình nhân. Nghe bảo là một hoa khôi, là sinh viên vừa tốt nghiệp đấy."
“Sinh viên đại học à.” Song Hỷ tặc lưỡi đầy ngưỡng mộ, “Tươi mới như hoa, lại có học vấn, bao giờ tao cũng tìm được một em tình nhân là sinh viên đại học chơi thử xem sao.”
Lúc Giang Dịch đi ngang qua cửa, nghe được câu nói đó, bước chân khựng lại một chút. Anh giơ tay, từ trong áo lôi ra một sợi dây bạc có xâu dây đen.
Mặt dây là hình trái tim dạng dẹt, khá xấu xí. Mấy năm trước, lúc Song Hỷ còn lăn lộn ngoài đường phố thu tiền bảo kê của học sinh cấp hai, từng thấy người ta đeo loại này. Ở tiệm tạp hóa bán hai mươi tệ một cái, đủ kiểu đủ dạng. Mấy đôi trẻ con yêu nhau thường nhịn ăn vài ngày để dành tiền mua một cặp, bên trong nhét ảnh dán đầu to của nhau, đeo lên cổ khoe mẽ, cứ như thể tình yêu có thể kéo dài mãi mãi vậy.
Mặt dây của Giang Dịch tuy chất lượng tốt hơn loại ở tiệm tạp hóa, ít nhất đã đeo bốn năm mà chưa phai màu, nhưng gu thẩm mỹ thì cũng tục chẳng kém.
Dây đeo lâu ngày, bị ma sát với da và thấm mồ hôi, bề mặt đã bị oxy hóa trở nên thô ráp. Giang Dịch dùng đầu ngón tay xoa lên hoa văn trên đó, ánh mắt dần trở nên sâu lắng. Anh ngắm một lúc rồi tháo ra bỏ vào ngăn kéo.
Song Hỷ vừa nhiều chuyện vừa tay chân không yên, lại chẳng coi mình là người ngoài: “Cái dây chuyền này tao thấy mày đeo nhiều năm rồi đó, bên trong dán ảnh đầu to của ai thế, cho tao xem với!”
Vừa nói vừa với tay kéo ngăn kéo ra. Giang Dịch không nói gì, chỉ liếc qua một cái. Không dữ, không ác, thậm chí không có vẻ gì là không vui, chỉ là một ánh mắt bình thản, nhưng Song Hỷ lập tức rụt tay lại như bị dao cứa.
“Không xem thì thôi.” Song Hỷ gãi đầu. Nó vốn đã sợ Giang Dịch từ nhỏ.
Người lớn ở Tây Hà thường hay dặn dò đám trẻ rằng, Tây Hà đẹp, mỗi nơi đều có phong cảnh riêng, tình ý riêng, nhưng có ba chỗ tuyệt đối không được tới, ai tới là bị mắng. Buổi chiều tối ở Hương Khê, mùa đông ở Trản Sơn, và ban đêm ở phố Đèn Dầu.
Hương Khê và Trản Sơn là địa danh nổi tiếng của Tây Hà, luôn gắn với mấy câu chuyện ma quái rùng rợn. So với hai nơi đó, phố Đèn Dầu thì chẳng có truyền thuyết gì kỳ bí, lý do không cho tới chỉ đơn giản là… dơ.
Ngày xưa, người lớn hay dọa con nít: “Mày mà còn khóc nữa là tao đem mày tới phố Đèn Dầu cho cáo ăn đấy.”
Vào đầu những năm 90, kinh tế Tây Hà bắt đầu phát triển, một lượng lớn dân lao động đổ về xây dựng thành phố, kéo theo nhiều ngành dịch vụ mọc lên như nấm: hàng ăn sáng, tiệm cắt tóc, sòng bài nhỏ, tiệm mạt chược… và cả ngành mại da^ʍ.
Đúng lúc khu phố cũ bắt đầu xuống dốc, nhà cửa ở đó thuê rẻ, lại toàn là mấy căn lầu thấp có hành lang ngoài trời, tiện ra vào. Vậy nên nhiều cô gái chọn định cư ở đó, phố Đèn Dầu cũng từ đó mà hình thành.
Phố Đèn Dầu thật ra không phải chỉ một con phố, mà là cách gọi chung cho mấy chục con hẻm ở phía tây khu phố cũ. Ban đầu, mỗi đường đều có tên riêng, nhưng dần dần mọi người quen gọi chung là phố Đèn Dầu, rồi quên luôn tên thật.
Hơn mười năm trước, nơi này rất náo nhiệt, hầu như nhà nào cũng kinh doanh. Tối đến, mỗi nhà đều thắp một ngọn đèn dầu trước cửa — đèn sáng là báo có mở cửa, đèn tắt là báo trong nhà có khách. Lại gần mà nhìn kỹ, sẽ thấy trước cửa mỗi nhà đều treo một bức ảnh nghệ thuật của bà chủ, phần lớn là quấn lụa mỏng, nửa kín nửa hở, vô cùng gợi cảm.
Những năm gần đây, chính phủ siết chặt việc dẹp mại da^ʍ, phố Đèn Dầu không còn phồn hoa như xưa. Phụ nữ lần lượt chuyển đi nơi khác kiếm sống, nhà cửa trống trơn được đem cho thuê lại, nhưng vì cái tiếng xấu đã quá nổi, nên ai có chút tiền mà thuê được chỗ khác tử tế hơn thì sẽ không chọn ở đây. Vậy nên người sống ở đây phần lớn chỉ thuộc hai loại: một là quá nghèo, thuê chỗ khác không nổi; hai là thân đã mang tai tiếng, chẳng ngại mang thêm.
Trong hai loại người này, Song Hỷ khăng khăng cho rằng mình thuộc loại đầu tiên.
Nó ngoài việc thu tiền bảo kê của học sinh cấp hai, đánh lộn thuê cho học sinh trường nghề, trộm vặt và thỉnh thoảng đi chơi gái, thì cũng không làm gì thất đức quá. Nó chọn ở đây chủ yếu là để được sống gần Giang Dịch. Dù bây giờ phố Đèn Dầu toàn là dân hỗn tạp trộm cắp, gái điếm, nghiện ngập, làm ăn phi pháp… đủ hạng người nghe thì hỗn loạn, nhưng sống cạnh Giang Dịch, nó vẫn cảm thấy rất yên tâm.
Ít nhất ở khu này, chẳng ai dám đυ.ng đến Giang Dịch. Ví dụ như chuyện chìa khóa nhà anh ta giấu dưới chậu hoa ngoài bệ cửa sổ, ai ai cũng biết, nhưng dù có cho họ mười tám lá gan cũng chẳng dám vào nhà Giang Dịch trộm cắp.
Giang Dịch đang ngồi xổm trên đất lau chiếc mô-tô của mình. Song Hỷ nhìn giờ, sốt ruột gần chết: “Đừng lau cái xe nát đó nữa được không? Mày còn định cưỡi nó đi làm thật à?”
Áo thun rách, giày thể thao bẩn, lại thêm chiếc mô-tô màu mè hoa lá. Song Hỷ đoán chắc sáng nay Giang Dịch hận mình kéo rèm cửa sổ, muốn kéo hắn cùng thành trò cười của cả công ty cho bõ tức.
Chiếc xe này luôn là một trong mười bí ẩn lớn nhất trong lòng Song Hỷ. Giang Dịch xưa nay không thích màu mè, đồ đạc trong nhà anh cơ bản chỉ có ba màu: đen, trắng, xám ngoại trừ chiếc mô-tô này. Lúc mới mua về, xe còn có màu tử tế, không hiểu Giang Dịch sau đó nổi hứng gì lại tự tay sơn lại, đỏ, xanh, vàng… rực rỡ hơn cả bảng màu nước của đám trẻ mẫu giáo.
Nói Giang Dịch thích chiếc xe này thì mấy năm nay không thấy anh cưỡi nó lần nào, suốt ngày khóa cứng dưới nhà xe, đến liếc mắt cũng chẳng buồn liếc. Nói không thích thì cách đây hai năm, có tên trộm dại dột định ăn cắp đem bán, bị Giang Dịch bắt được, bẻ gãy hai ngón tay tại chỗ. Bên chân Giang Dịch là một chậu nước, trong tay cầm giẻ lau.
Song Hỷ gọi: “Anh Dịch…”
Giang Dịch: “Đừng ồn.”
Trên xe phủ đầy bụi, lá khô, cả xác côn trùng. Anh cúi đầu, lau tỉ mỉ từng khe hở, kỹ càng không bỏ sót. Trời cao mây nhạt.