Tống Trừng nói:
“Nhưng mà—”
Ôn Hướng Nghi bắt đầu thấy khó chịu, nhưng vì được giáo dục tốt, giọng điệu vẫn giữ sự lịch sự và xa cách:
“Tiết thể dục, cậu giúp tôi chặn bóng, một bát mì không đáng gì.”
Tống Trừng đáng ra phải nhận ra điều này, nhưng lúc này cô đói đến mức chỉ có mỗi ý nghĩ: Ôn Hướng Nghi mời mình ăn mì.
Một cảm giác vui sướиɠ lướt qua trong lòng cô:
“Cái này là phần thưởng cho tôi à?”
Thông thường người ta sẽ gọi là “cảm ơn” chứ nhỉ?
Từ “phần thưởng” mang một ý vị đặc biệt, có chút gì đó khó diễn tả nhưng lại rất gần gũi.
Ôn Hướng Nghi nhạy cảm nhận ra sự khác biệt, nhưng trước mắt, Tống Trừng lại rất tự nhiên coi đây là một “phần thưởng.”
Sau khi nghĩ vậy, Tống Trừng lập tức không từ chối nữa, trộn phần cà chua trứng vào tô mì nóng hổi:
“Được thôi.”
Trước đây cũng thế.
Mỗi khi cô làm tốt, Ôn Hướng Nghi luôn hỏi cô muốn gì, bất cứ điều gì cũng có thể.
Lời hứa của Ôn Hướng Nghi rất có giá trị, bao nhiêu người bên ngoài muốn cũng không được.
Nhưng Tống Trừng không tham lam vật chất, thường chẳng muốn gì, thế là Ôn tổng bận rộn sẽ đích thân vào bếp nấu ăn để tỏ lòng khen ngợi.
Tuy nhiên, tài nấu nướng của Ôn Hướng Nghi…
Thôi, không nhắc đến nữa!
May mà Tống Trừng ăn gì cũng thấy ngon.
Có vài lần, Ôn Hướng Nghi cũng làm mì cho cô.
Ừm, hôm nay cô bảo vệ Ôn Hướng Nghi, biểu hiện rất tốt.
Tô mì này, cô hoàn toàn xứng đáng!
Mùi thơm từ cà chua trứng bay ra, Tống Trừng vui vẻ húp một ngụm nước dùng chua chua ngọt ngọt, gắp thêm một đũa mì ăn, cả người ấm lên.
Bên cạnh, gương mặt của Ôn Hướng Nghi còn non nớt mà thanh tú.
Lúc này, cô cuối cùng cũng cảm nhận rõ ràng mình đã quay trở lại thời cấp ba.
Tô mì cà chua trứng nóng hổi xuống bụng, Tống Trừng cảm thấy cả người sống lại.
Ôn Hướng Nghi và nhóm bạn đã quay về lớp trước. Còn năm phút nữa là giờ tự học bắt đầu, Tống Trừng chạy chậm về lớp, ngồi xuống vừa kịp lúc người ấm lên.
Nhưng không được lâu.
Hai phút sau, khi lật mở bài tập, lòng cô ngay lập tức nguội lạnh.
Cô nhăn mặt bắt đầu làm bài.
9 giờ rưỡi, buổi tự học buổi tối kết thúc, Tống Trừng thở phào nhẹ nhõm.
Cuối cùng cũng có thể trở về ký túc xá.
Cô đã bận rộn cả buổi tối, giờ nhìn lại, trong lớp chỉ còn khoảng hai mươi học sinh.
Hà Niệm Dao đã đi đâu mất, nhìn về phía trước, chỗ ngồi của Ôn Hướng Nghi cũng trống không.
Tống Trừng chợt nhớ ra, học sinh ngoại trú có thể chỉ cần học hai tiết tự học buổi tối, chắc là Ôn Hướng Nghi đã về nhà rồi.
Cô cầm sách tiếng Anh, hòa vào dòng người đi về phía ký túc xá. Dựa vào trí nhớ lẻ tẻ, cô mò mẫm trở về phòng của mình.
Khi đẩy cửa bước vào, những gương mặt trong phòng dần khớp với những ký ức trong trí nhớ của cô. Chỉ có một gương mặt mà cô mới “gặp hôm qua” –
Chu Doanh vừa đóng chặt cửa sổ ban công, vừa quay đầu lại:
“Đóng cửa nhanh lên, lạnh chết đi được!”
Tống Trừng đóng cửa lại, mặt không biểu cảm nhưng trong lòng hơi buồn cười.
Chu Doanh, năm mười mấy tuổi, gương mặt tròn trịa với mái tóc ngang trán, khác xa hình ảnh nữ nhân viên công sở tinh tế trong quán bar ngày nào.
Khi chia phòng ký túc xá, lớp năm dư ra một người, tình cờ chính là cô. Vì thế, ba bạn cùng phòng của cô, bao gồm Chu Doanh, đều là học sinh lớp sáu.
Tống Trừng không chỉ khác lớp, mà còn quen sống khép kín, tính tình lạnh nhạt. Chỉ có Chu Doanh, vì là đồng hương với cô, nên đôi khi mới nói chuyện nhiều hơn một chút.
Mọi người đã quen với sự ít nói của Tống Trừng, nên cứ tiếp tục trò chuyện rôm rả.
Tống Trừng thỉnh thoảng nghe đôi câu, đồng thời đánh giá giường và bàn của mình.
Đồ đạc của cô rất đơn giản, giá sách chỉ có vài cuốn không cần để ở lớp và một chồng giấy chứng nhận thành tích thể thao. Ngoài ra là vài vật dụng sinh hoạt thiết yếu như đèn bàn, cốc nước, phích nước, tất cả đều được đặt ngăn nắp trên kệ.
Trên giá giày có một đôi giày thể thao cũ để cô thay phiên sử dụng. Tống Trừng nhấc nó lên, nhìn kỹ, đúng như trong ký ức, đã mòn rất nhiều. Nhưng đôi giày này đã đồng hành với cô rất lâu, cô trân trọng đặt lại chỗ cũ.
Trên giường, chăn được gấp vuông vức như khối đậu phụ. Tống Trừng đưa tay sờ thử nệm và chăn, hơi mỏng, nhưng không sao. Cô không sợ lạnh, chỉ cần trải áo khoác lên trên chăn khi ngủ là đủ ấm.
Nhìn chiếc giường đơn giản, nghèo nàn của mình, lòng Tống Trừng ngổn ngang cảm xúc. Ánh mắt cô dừng lại thật lâu, cuối cùng dâng lên một niềm vui mừng pha lẫn chút xót xa.
Ai mà hiểu được chứ, cô đã lâu rồi không được ngủ một mình.
Ôn Hướng Nghi, dù chỉ đi công tác một ngày ở thành phố bên, cũng nhất định phải dẫn cô theo, ngủ cũng đòi ôm cô.
Dù chiếc giường này không so được với bất kỳ chiếc giường nào cô từng ngủ khi ở bên Ôn Hướng Nghi, nhưng trong mắt Tống Trừng, chiếc giường đơn này lại tỏa ra ánh sáng rực rỡ của “không có Ôn Hướng Nghi.”
Cảm giác vui vẻ, giống như khi phụ huynh không có nhà, thậm chí ngủ trong lều bên đường cũng thấy thích thú lạ thường.
Thời tiết lạnh, mọi người trong phòng ai nấy đều nhanh chóng làm vệ sinh cá nhân, chưa đến giờ tắt đèn đã vội trèo lên giường.
Tống Trừng nằm thoải mái trên chiếc giường không có Ôn Hướng Nghi, hít sâu một hơi, mở bảng từ vựng trong sách tiếng Anh ra và tập trung học bài.
Chu Doanh và mấy người khác để ý thấy Tống Trừng đang học từ vựng, liền tự giác hạ giọng trong cuộc trò chuyện trước khi ngủ.
Lữ Vi ôm chăn, vẻ mặt đầy bí ẩn:
“Các cậu biết chuyện của Lâm Hàng chưa?”
Lý Tuyết San hỏi ngay:
“Chuyện gì cơ?”
Chu Doanh:
“À, là chuyện cậu ấy định tỏ tình trong hai ngày tới ấy hả? Tôi nghe bạn cùng bàn kể rồi.”
Lý Tuyết San ngạc nhiên:
“Cậu ấy có người thích rồi sao? Tôi còn đang nghĩ xem có nên theo đuổi cậu ấy không nữa.”